1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HÀ THỊ HẰNG
MÔ HÌNH TỔ CHỨC
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THEO KHU VỰC
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2013
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HÀ THỊ HẰNG
MÔ HÌNH TỔ CHỨC
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THEO KHU VỰC
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Minh Tuấn
HÀ NỘI - 2013
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
YÊU CẦU ĐỔI MỚI MÔ HÌNH VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN THEO KHU VỰC TRONG BỐI CẢNH CẢI CÁCH
TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
8
1.1. Khái quát về cải cách tư pháp 8
1.1.1.
Bối cảnh cải cách tư pháp 8
1.1.2.
Các quan điểm cải cách tư pháp 12
1.1.3.
Những nội dung của cải cách tư pháp 15
1.2. Đổi mới hệ thống Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp
19
1.2.1.
Lịch sử hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân 19
1.2.2.
Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân theo pháp luật hiện hành 34
1.2.3.
Thực trạng tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân 39
1.3. Cơ sở thiết lập viện kiểm sát nhân dân khu vực trong hệ thống
Viện kiểm sát nhân dân
46
Chương 2:
XÂY DỰNG MÔ HÌNH VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
KHU VỰC
56
2.1. Những thuận lợi của việc xây dựng Viện kiểm sát nhân dân
khu vực
56
2.1.1.
Sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của Đảng 56
2.1.2.
Phù hợp với bối cảnh đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới
đất nước
57
2.1.3.
Phù hợp với chủ trương tăng thẩm quyền cho Tòa án nhân dân 58
4
cấp huyện và Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
2.1.4.
Tiếp thu kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân ở Việt Nam và kinh nghiệm của một số nước trên
thế giới
59
2.2. Khó khăn, thách thức của việc xây dựng mô hình Viện kiểm
sát nhân dân khu vực
63
2.2.1.
Những bất cập trong việc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và sự
giám sát của Hội đồng nhân dân
63
2.2.2.
Sự thiếu đồng bộ trong việc đổi mới hệ thống các cơ quan tư pháp
66
2.2.3.
Sự thiếu thống nhất trong việc xây dựng số lượng và địa hạt tư
pháp của Viện kiểm sát khu vực ở một số địa phương
68
2.2.4.
Chưa đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc thành lập Viện kiểm sát
nhân dân khu vực
71
2.2.5.
Những bất cập về tổ chức cán bộ 72
2.2.6.
Những bất cập về cơ sở vật chất 73
Chương 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG MÔ
HÌNH VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN KHU VỰC ĐÁP
ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
75
3.1. Phương hướng xây dựng Viện kiểm sát nhân dân khu vực 75
3.1.1.
Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng 75
3.1.2.
Đảm bảo sự giám sát của Hội đồng nhân dân 78
3.1.3.
Đảm bảo quyền của người dân trong việc tiếp cận Viện kiểm
sát nhân dân khu vực
80
3.1.4.
Đảm bảo sự đồng bộ của các cơ quan tư pháp 81
3.2. Các giải pháp xây dựng Viện kiểm sát nhân dân khu vực 83
3.2.1.
Về cơ sở pháp lý
83
3.2.2.
Về tổ chức bộ máy
86
3.2.3.
Về đội ngũ cán bộ
86
3.2.4.
Về cơ sở vật chất
88
KẾT LUẬN
91
5
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
94
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách Viện kiểm sát là một trong những nội dung quan trọng của
cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng nhằm mục
tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong những
năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Đảng ta đã có một số
nghị quyết, chỉ thị về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước và pháp luật, trong đó
có nhấn mạnh đến nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
như Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa VII); Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa
VIII), Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa VIII); Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị
"về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới". Đặc biệt,
ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định mục tiêu xây dựng một nền
tư pháp trong sạch, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện
đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong
đó, Bộ Chính trị chỉ rõ phải:
Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không
phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Tòa án nhân dân sơ thẩm
khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp
huyện; Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm
và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Tòa thượng thẩm được tổ chức theo
khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Tòa án nhân dân tối cao có
nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống
nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm…
Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện
nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
7
Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức
Tòa án. Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố,
tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra [16].
Trên cơ sở chỉ đạo của Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, ngày 28/7/2010 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã ban hành Kết luận số 79-KL/TW về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt
động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra. Theo đó, Ban Chấp hành
Trung ương khẳng định:
Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay. Tổ chức hệ thống
Viện kiểm sát nhân dân thành 4 cấp, phù hợp với hệ thống tổ chức
của Tòa án nhân dân, gồm Viện kiểm sát nhân dân khu vực (số
lượng và địa hạt tư pháp tương ứng với số lượng và địa hạt tư pháp
của Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực); Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao; Viện kiểm sát nhân dân tối cao [18].
Sự cần thiết phải thành lập Viện kiểm sát nhân dân 4 cấp đã được làm rõ
thông qua Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 và Kết luận số 79-KL/TW
ngày 28/7/2010 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trong đó, việc thành lập
Viện kiểm sát nhân dân khu vực là nội dung quan trọng nhất trong phương
hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát vì đây là cấp trực tiếp giải
quyết số lượng chủ yếu các vụ việc theo thủ tục tư pháp và đây cũng là vấn đề
phức tạp, có tác động rất lớn đến hiệu quả của cải cách tư pháp trong thời gian tới.
Thành lập Viện kiểm sát nhân dân khu vực thực sự là một chủ trương
lớn của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong
giai đoạn hiện nay, đòi hỏi phải được quan tâm, tập trung chỉ đạo, lãnh đạo
kịp thời. Vấn đề cấp thiết đặt ra là tổ chức Viện kiểm sát nhân dân khu vực
phải đáp ứng mục tiêu chung của việc đổi mới các cơ quan tư pháp, đó là đảm
8
bảo tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp
luật của từng cơ quan và các chức danh tư pháp trong quá trình tiến hành tố
tụng; góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; đồng thời phải đảm bảo nguyên tắc tập trung,
thống nhất lãnh đạo trong ngành, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động đặc thù
của Viện kiểm sát nhân dân.
Với lý do nêu trên, học viên đã chọn đề tài "Mô hình tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân theo khu vực đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt
Nam" làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và
pháp luật. Đây là vấn đề có tính thời sự, cần thiết và cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu
Nhằm góp phần hoàn thiện các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức
và hoạt động của các cơ quan tư pháp, thời gian qua Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp đã có nhiều chương trình trao
đổi và hợp tác với các cơ quan ở các nước Pháp, Đức, Thụy Điển, Nhật Bản,
Trung Quốc, Canada và các tổ chức quốc tế như SIDA, JICA, UNDP về
hoạt động tư pháp. Trong đó có nhiều Hội nghị, Hội thảo, Tọa đàm trong và
ngoài nước đã cho chúng ta một bức tranh nhiều màu sắc về tổ chức và hoạt
động hệ thống cơ quan tư pháp của các nước. Đây là những kinh nghiệm quý
giúp chúng ta có cái nhìn bao quát về hệ thống tư pháp của các nước trên thế
giới để từ đó lựa chọn một mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp
phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Những định hướng lớn về cải cách tư pháp nói riêng và cải cách bộ
máy nhà nước nói chung liên tục được đề cập qua các kỳ Đại hội Đảng VI,
VII, VIII và IX là nền tảng tư tưởng vững chắc cho công cuộc đổi mới tổ chức
và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp nước ta. Trong những năm gần
đây đã có một số công trình khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, Luận văn thạc
9
sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tư pháp Việt Nam có liên quan
đến Viện kiểm sát nhân dân như Đề tài khoa học cấp Bộ "Nghiên cứu những
cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động
của Viện Công tố ở Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp" năm 2006, "Cải
cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao
hiệu quả và hiệu lực xét xử của tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân" năm 2006, "Tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân khu vực ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải
đảo theo yêu cầu cải cách tư pháp" năm 2009; Luận văn Thạc sĩ luật học:
"Viện kiểm sát nhân dân trong điều kiện cải cách tư pháp", của Phạm Thị
Đào, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011; sách chuyên khảo:
"Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam", của GS.TSKH. Đào Trí Úc, Nxb Tư pháp, 2006; "Một số vấn đề
về Hiến pháp và bộ máy nhà nước", của GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, Nxb Giao
thông vận tải, 2002; "Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện
nay", của tập thể các tác giả do GS.TS. Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Khoa học
xã hội, 2002 Bên cạnh đó còn có các bài viết liên quan đến nội dung đổi
mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được đăng trên các tạp
chí như: "Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước
pháp quyền", của TSKH Lê Cảm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4, 2002;
"Yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đối với đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp", của Nguyễn Mạnh Cường, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 10, 2002; "Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp", của Phạm Hồng Hải, Tạp chí Kiểm sát, số 14, 2007; "Một vài ý kiến về
việc tổ chức hệ thống Viện kiểm sát nhân dân theo mô hình khu vực" của Hồ
Đức Anh, website
Các công trình khoa học nêu trên đã góp phần làm rõ hơn các vấn đề
lý luận và thực tiễn về mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư
10
pháp nước ta, phúc đáp những yêu cầu bức xúc của cuộc sống. Tuy nhiên, vì
các lý do khác nhau nên những công trình nghiên cứu trên chưa giải quyết một
cách đầy đủ, toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp nói chung và Viện kiểm sát nhân dân nói riêng trong
điều kiện cải cách tư pháp. Vấn đề tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 4 cấp trong
đó có việc xây dựng Viện kiểm sát nhân dân khu vực mới được đặt ra trong
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị và Kết luận số
79-KL/TW ngày 28/07/2010 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Vì vậy,
mặc dù đã có khá nhiều bài viết về vấn đề này nhưng chưa có công trình khoa
học nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và có hệ thống chính thức được công bố.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu đề tài bao gồm:
- Làm rõ bối cảnh, quan điểm và nội dung cải cách tư pháp.
- Hiểu rõ thực trạng hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ và tổ
chức bộ máy, cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân trong thời gian qua.
- Xác định cơ sở thiết lập Viện kiểm sát nhân dân khu vực trong hệ
thống Viện kiểm sát nhân dân và tính ưu việt của mô hình này so với Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện hiện nay.
- Chỉ ra những thuận lợi cũng như khó khăn, thách thức đối với ngành
kiểm sát trong việc xây dựng mô hình Viện kiểm sát nhân dân khu vực;
- Đưa ra phương hướng và giải pháp xây dựng mô hình Viện kiểm sát
nhân dân khu vực nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam.
Để thực hiện mục tiêu nói trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu cải cách tư pháp ở Việt Nam và yêu cầu cải cách đối với
Viện kiểm sát nhân dân.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ và
tổ chức bộ máy, cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân trong thời gian qua.
11
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc thiết lập Viện
kiểm sát nhân dân khu vực cũng như tính ưu việt của mô hình này.
- Nghiên cứu những thuận lợi và khó khăn, thách thức đối với ngành
kiểm sát trong việc xây dựng Viện kiểm sát nhân dân khu vực. Trên cơ sở đó
đưa ra một số phương hướng, giải pháp để xây dựng mô hình này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài mang tính chất lý luận và thực tiễn cao, có phạm vi
nghiên cứu tương đối rộng cả về không gian, thời gian cũng như đối tượng
nghiên cứu. Mô hình tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 4 cấp theo yêu cầu cải
cách tư pháp bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và
Viện kiểm sát nhân dân khu vực. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một đề tài
luận văn thạc sĩ, chúng tôi xác định phạm vi của đề tài tập trung nghiên cứu
giải quyết những vấn đề pháp lý liên quan đến Viện kiểm sát nhân dân khu
vực bởi lẽ đây là cấp trực tiếp giải quyết số lượng chủ yếu các vụ việc theo thủ
tục tư pháp và cũng là vấn đề phức tạp, có tác động rất lớn đến hiệu quả của cải
cách tư pháp trong thời gian tới. Trong đó, luận văn sẽ tìm hiểu những vấn đề
chủ yếu của cải cách tư pháp và yêu cầu đặt ra đối với ngành kiểm sát; tổ chức
và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo pháp luật hiện hành; cơ sở thiết
lập Viện kiểm sát nhân dân khu vực; những thuận lợi và khó khăn, thách thức
trong việc xây dựng mô hình Viện kiểm sát nhân dân khu vực, trên cơ sở đó đề
xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng có hiệu quả mô hình này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng về từng
bước hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu
cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân. Luận văn cũng được trình bày trên cơ sở nghiên cứu
12
Hiến pháp, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Pháp lệnh Kiểm sát viên
qua các thời kỳ và các văn bản pháp luật khác quy định về tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng
hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp luật học so sánh và khảo sát thực tế
để làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên cứu của luận văn.
6. Những đóng góp mới
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và luận cứ
khoa học về bối cảnh, quan điểm, nội dung cải cách tư pháp ở nước ta hiện
nay. Trên cơ sở tổng hợp số liệu qua nhiều nguồn xác thực, luận văn đã đánh
giá đúng thực trạng tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong
những năm qua và yêu cầu cải cách Viện kiểm sát nhân dân; xác định cơ sở
thiết lập và tính ưu việt của mô hình Viện kiểm sát nhân dân khu vực; làm rõ
những thuận lợi và khó khăn, thách thức đối với ngành kiểm sát trong việc
xây dựng mô hình này. Trên cơ sở đó, luận văn đã đưa ra một số phương
hướng và giải pháp khoa học, phù hợp với điều kiện thực tiễn để xây dựng mô
hình Viện kiểm sát nhân dân khu vực đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, hi
vọng rằng luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà
khoa học, những người làm thực tiễn và công tác nghiên cứu, giảng dạy.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Yêu cầu đổi mới mô hình Viện kiểm sát nhân dân theo khu
vực trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam.
Chương 2: Xây dựng mô hình Viện kiểm sát nhân dân khu vực.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp xây dựng mô hình Viện kiểm
sát nhân dân khu vực đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
13
Chương 1
YÊU CẦU ĐỔI MỚI MÔ HÌNH
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THEO KHU VỰC
TRONG BỐI CẢNH CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CẢI CÁCH TƯ PHÁP
1.1.1. Bối cảnh cải cách tư pháp
Cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là
quá trình đổi mới toàn diện hệ thống tư pháp với trung tâm là hoạt
động xét xử nhằm mục tiêu làm cho tổ chức và hoạt động của hệ
thống tư pháp ngày càng thể hiện đầy đủ, đúng đắn bản chất dân
chủ, của dân, do dân, vì dân của quyền tư pháp, phù hợp với các
nguyên tắc, yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường, đáp ứng
ngày một tốt hơn, hiệu quả hơn yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và nhà nước Việt Nam
trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
kinh tế quốc tế [24, tr. 182].
Trong hơn 60 năm qua, hệ thống các cơ quan tư pháp ở nước ta đã
hình thành và từng bước kiện toàn, phát triển trên nền tảng của những nguyên
tắc dân chủ, tiến bộ, hiện đại, ngày càng phù hợp và đáp ứng tốt hơn các yêu
cầu của thực tiễn cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử, góp phần quan
trọng vào việc thực hiện các nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam. Bước vào thiên niên kỷ mới, công cuộc đổi mới toàn diện và
sâu sắc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt đến bước phát
triển mới, tạo nên những tiền đề và cũng là thách thức lớn về kinh tế, chính
trị, xã hội đòi hỏi phải có những điều chỉnh lớn mang tính cải cách đối với
14
thiết kế tổng thể của hệ thống tư pháp, từ chức năng, nhiệm vụ đến tổ chức,
con người và hoạt động của từng cơ quan tư pháp cũng như các mối quan hệ
giữa chúng.
Trên phương diện quốc tế, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính và suy
thoái toàn cầu vẫn còn tiếp tục tác động đến thế giới nói chung và nền kinh tế
nước ta nói riêng, vẫn tiềm ẩn nguy cơ tái khủng hoảng. Quá trình tái cấu trúc
các nền kinh tế và điều chỉnh các thể chế tài chính toàn cầu sẽ diễn ra mạnh
mẽ, gắn với những bước tiến mới về khoa học, công nghệ và sử dụng tiết
kiệm năng lượng, tài nguyên. Chủ trương bảo hộ trỗi dậy trở thành rào cản
lớn cho thương mại quốc tế. Thực tế này đã đặt ra những thách thức gay gắt
đối với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển trong việc chủ
động sử dụng các công cụ pháp lý quốc tế và các nỗ lực tập thể để nêu cao
chủ quyền dân tộc, phát huy vai trò và bảo vệ lợi ích của mình. Trong giai
đoạn tới, các nước ASEAN sẽ hình thành cộng đồng kinh tế chung. Quá trình
này sẽ dẫn đến việc hình thành các nguyên tắc và chuẩn mực chung, trong đó
có các nguyên tắc, quy định pháp luật thể hiện lợi ích của cả cộng đồng.
Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu và rộng vào đời sống kinh tế,
chính trị quốc tế. Điều này không chỉ thể hiện ở sự tham gia trực tiếp của Việt
Nam vào các tổ chức quốc tế và các diễn đàn quốc tế và khu vực có tính
truyền thống như Liên hợp quốc và các tổ chức thành viên của Liên hợp quốc,
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á -
Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á mà còn thể
hiện sự mở rộng đối với các tổ chức và diễn đàn này thông qua các diễn đàn
APEC+, ASEAN+ Quá trình này làm cho hệ thống pháp luật và các thiết
chế lập pháp, hành pháp, tư pháp của Việt Nam có những sửa đổi và điều
chỉnh tích cực như từng bước chuyển hóa các nguyên tắc pháp lý thương mại
quốc tế cơ bản như không phân biệt đối xử, công khai, minh bạch trong hoạt
động ban hành pháp luật, áp dụng pháp luật, trong quy trình ra các quyết định
hành chính, tư pháp Tuy nhiên, những tiền đề đó chưa đủ để vượt qua được
15
những thách thức lớn đối với hệ thống pháp luật và tư pháp nước ta trong
những năm tiếp theo. Như một số nhà nghiên cứu phân tích, những thách thức
đó là sự bất tương thích về mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động và thủ tục tố
tụng tư pháp của Việt Nam so với các quy tắc và chuẩn mực chung của quốc
tế; sự bất cập, lạc hậu trong nhận thức, hiểu biết và đặc biệt là kỹ năng áp dụng
pháp luật của đội ngũ cán bộ tư pháp trong khi xử lý các vấn đề pháp lý liên
quan đến quá trình hội nhập. Trong khi đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng về
kiến thức thương mại quốc tế hiện đại và kỹ năng nghiệp vụ liên quan tới hội
nhập vẫn đang trong tình trạng bị động, chắp vá, hình thức, kém hiệu quả [28].
Để có thể thúc đẩy quá trình hội nhập nhanh và bền vững, việc xây dựng một
nhà nước hiệu quả, có cơ cấu tổ chức phù hợp và một hệ thống pháp luật hoàn
thiện, phù hợp với thông lệ chung là yêu cầu rất lớn đang đặt ra đối với đất
nước ta.
Sau 25 năm đổi mới và 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 2001-2010, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, tạo ra sức
mạnh tổng hợp cho sự phát triển kinh tế đất nước. Sự ổn định về chính trị - xã
hội, dân trí được nâng cao, dân chủ hóa nhiều mặt đời sống xã hội, bảo đảm
nhân quyền, công bằng, tiến bộ xã hội đang đòi hỏi phải phát huy vai trò của
pháp luật và tư pháp. Mặt khác, nhiều vấn đề văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục
đặt ra nhiều thách thức lớn trong đó có vấn đề phát triển bền vững. Quốc
phòng và an ninh, nhất là chủ quyền và an ninh vùng biển đảo vẫn đang là
thách thức lớn trong bối cảnh quốc tế hiện tại. Bên cạnh đó, các thế lực thù
địch tiếp tục đẩy mạnh "diễn biến hòa bình", lợi dụng triệt để vấn đề tự do dân
chủ, tự do tôn giáo, các vấn đề về nhân quyền để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn
dân, kích động bạo loạn, ly khai. Những tội phạm có vấn đề an ninh phi truyền
thống như buôn bán ma túy, cướp biển, tội phạm có tổ chức, khủng bố, nhập
cư và di cư trái phép đang ảnh hưởng đến tình hình trật tự - xã hội của đất nước.
Trong bối cảnh đó, việc xây dựng, củng cố hệ thống pháp luật và tư pháp có
khả năng đối mặt với khó khăn, thách thức này càng cần phải được chú trọng.
16
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (năm 2011) được tổ chức thành
công có ý nghĩa trọng đại khi đất nước đang bước sang một giai đoạn phát
triển mới sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Đại hội Đảng đã thông
qua Cương lĩnh phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ (sửa đổi) và Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020. Đây là những văn kiện
quan trọng định hướng cho sự phát triển đất nước trong những năm tới, đặt ra
yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước như một khâu quan
trọng đảm bảo cho việc thực hiện thắng lợi chiến lược, tiếp tục hoàn thiện tổ
chức bộ máy, tạo bước chuyển mạnh về cải cách hành chính.
Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 12/07/2011 Hội nghị lần thứ hai Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về việc triển khai thực hiện chủ trương
nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 đã đưa ra nhiều đề xuất sửa đổi
quan trọng, đặc biệt là các chương về chế độ kinh tế, về tổ chức bộ máy nhà nước.
Thông qua việc sơ kết 5 năm thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật, Chiến lược cải cách tư pháp và 10 năm thực hiện
Chương trình tổng thể cải cách hành chính cho thấy cải cách lập pháp, hành
chính và tư pháp tuy đạt được những thành tựu bước đầu đáng khích lệ, song
hệ thống pháp luật nói chung, thể chế kinh tế thị trường và thể chế về tổ chức
bộ máy nhà nước nói riêng còn rất nhiều bất cập; nhiều định hướng cải cách
tư pháp không được nhận thức và triển khai thống nhất giữa các cơ quan, cải
cách hành chính chưa thực sự triệt để. Đây cũng chính là khâu phải đột phá để
đáp ứng các mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm tới, để
pháp luật và Nhà nước pháp quyền phải thật sự vừa là môi trường thuận lợi,
vừa là chủ thể thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Có thể nói, công cuộc đổi mới toàn diện đã tạo ra những tiền đề, đồng
thời cũng đặt ra những thách thức lớn cho tiến trình cải cách tư pháp nhằm
đáp ứng mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam.
17
1.1.2. Các quan điểm cải cách tư pháp
Thứ nhất, cải cách tư pháp phải xuất phát từ nhu cầu và điều kiện
kinh tế - xã hội cụ thể trong từng giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Trong từng giai đoạn phát triển của
mình, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi các cơ quan tư
pháp không chỉ phục vụ, tạo thuận lợi cho sự vận hành của nền kinh tế mà
đồng thời phải là người lính gác bảo vệ tinh thông, nhạy bén trước những biến
cố, tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị trường có thể xâm hại đến trật tự công
cộng [24, tr. 187]. Sự phát triển, hoàn thiện của hệ thống tư pháp không tách
rời sự phát triển của kinh tế - xã hội và tác động ngược trở lại đối với kinh tế -
xã hội, tạo nên hệ thống công cụ pháp lý an toàn cho sự phát triển bền vững
của nền kinh tế, bảo vệ trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp, các trình tự, thủ tục và phương thức, lề lối
làm việc của đội ngũ cán bộ, chức danh tư pháp phải được cải cách theo
hướng chuyên nghiệp, hiệu quả, tiêu chuẩn hóa, hiện đại hóa phù hợp với tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đảm bảo ngăn ngừa có hiệu quả
và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội
xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ chức,
giải quyết nhanh chóng, hợp lý, hiệu quả các tranh chấp kinh tế, dân sự trong
nền kinh tế thị trường đang hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và quốc
tế, bảo vệ trật tự kỷ cương xã hội, bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, xã hội và Nhà nước.
Thứ hai, cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa phải đảm bảo giữ vững và phát huy bản chất dân chủ,
vì con người và bảo vệ quyền con người của các cơ quan thực hiện quyền tư
pháp. Nguyên tắc "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân" thể hiện bản
chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của Nhà
nước pháp quyền là bảo đảm và phát triển quyền con người, quyền công dân.
18
Phương thức bảo đảm quyền con người của Nhà nước pháp quyền là công
nhận quyền con người, xác lập quyền công dân bằng hoạt động lập pháp, tổ
chức thực thi quyền con người, quyền công dân bằng hoạt động hành pháp và
bảo vệ các quyền đó bằng hoạt động tư pháp. Nguyên tắc xây dựng các cơ
quan tư pháp của dân, do dân, vì dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền đòi hỏi huy động sự tham gia ngày càng rộng rãi và tích cực của nhân
dân vào công tác tư pháp, bắt đầu từ quá trình xây dựng và ban hành các văn
bản pháp luật về tổ chức và hoạt động tư pháp đến quá trình tổ chức thực thi
pháp luật trong hoạt động tư pháp. Nhiều Nghị quyết của Đảng (Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị) và đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nhấn mạnh
chủ trương nghiên cứu và đẩy mạnh xã hội hóa một số hoạt động tư pháp, bổ trợ
tư pháp như tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, thi hành án, giám định tư pháp,
công chứng, kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề
nghiệp. Thực chất đó là quá trình thu hút sức mạnh, trí tuệ, nguồn lực của
nhân dân để làm thành sức mạnh của nhà nước, phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, tạo cơ sở xã hội rộng rãi cho hoạt động tư pháp có hiệu lực, hiệu quả.
Thứ ba, cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa phải được tiến hành đồng bộ với cải cách lập pháp,
hành pháp theo hướng đảm bảo tính độc lập tương đối và sự kiểm tra, giám
sát lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực trên cơ sở quyền lực nhà nước thống
nhất thuộc về nhân dân, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.
Trên cơ sở của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ 2001-2010 do Đại hội
Đảng IX thông qua, Nhà nước đã chọn khâu trọng tâm, đột phá trong cải cách
bộ máy nhà nước - đó là xây dựng và triển khai Chương trình tổng thể cải
cách hành chính 2001-2010 với mục tiêu xây dựng nền hành chính dân chủ,
trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, từng bước hiện đại hóa. Kết quả bước đầu dù
19
còn rất khiêm tốn của cải cách hành chính đã góp phần tạo ra những tiền đề
và yêu cầu mới đối với cải cách đồng bộ tổ chức và hoạt động lập pháp, tư
pháp. Trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới, Bộ Chính trị
đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược xây dựng và phát triển hệ thống pháp
luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (gọi tắt là Chiến lược pháp
luật) và Nghị quyết về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 làm cơ sở
chính trị quan trọng cho các cải cách đồng bộ của cả bộ máy nhà nước.
Thứ tư, cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền phải đảm bảo tính tối cao của luật trong tổ chức và hoạt động của các
cơ quan tư pháp, đảm bảo cải cách đồng bộ cả hệ thống tư pháp với Tòa án
và hoạt động xét xử là trung tâm. Đây là yêu cầu rất cơ bản của Nhà nước
pháp quyền đối với hoạt động tư pháp. Tòa án - cơ quan duy nhất có quyền
xét xử, quyền sử dụng và nhân danh quyền lực nhà nước để phán xét tính hợp
hiến, hợp pháp của những vi phạm pháp luật, những tranh chấp pháp lý.
Nguyên tắc Hiến định "Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của
Tòa án có hiệu lực pháp luật" [35, Điều 72] khẳng định tính tối cao, quyết
định của hoạt động xét xử và vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư
pháp. Vì vậy, cải cách tư pháp phải đồng bộ ở tất cả các công đoạn của quy
trình tố tụng và với tất cả các cơ quan, tổ chức trong hệ thống tư pháp nhằm
giải quyết triệt để những bất cập hiện nay đang làm cho quy trình tố tụng bị
cắt khúc, các cơ quan tư pháp biệt lập với quyền ra những quyết định tiền xét
xử (bắt tạm giữ, tạm giam ) có nhiều nguy cơ gây oan sai, gây thiệt hại
nghiêm trọng đến quyền và lợi ích cơ bản của công dân, làm cho Tòa án
không thực sự giữ được vị trí là trung tâm của hệ thống tư pháp, là cơ quan
duy nhất có quyền ra các quyết định, phán quyết động chạm đến quyền cơ bản
của công dân trong quá trình tố tụng tư pháp.
Thứ năm, cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp phải dựa trên việc
khai thác, phát huy các giá trị văn hóa pháp luật truyền thống của Việt Nam,
đồng thời tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa pháp luật thế giới trong lĩnh
20
vực tư pháp nói riêng, trong tổ chức lao động quyền lực nói chung theo các
nguyên tắc pháp quyền. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, một nền kinh tế phát
triển, một nền chính trị dân chủ phải đi kèm với một nền văn hóa pháp luật ở
trình độ cao. Phát huy các giá trị văn hóa trong hoạt động xây dựng, thực hiện
pháp luật trở thành đòi hỏi có tính cấp bách, góp phần đảm bảo thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong giai đoạn hiện
nay, khi Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xây dựng Nhà nước pháp quyền, thì việc
nhận diện và phát huy các giá trị văn hóa pháp luật trong việc xây dựng, thực
hiện pháp luật trở nên vô cùng cấp thiết. Mục tiêu của công cuộc cải cách
pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp chỉ có thể đạt được khi
được tiến hành trong môi trường văn hóa dân chủ, trọng dân, trọng pháp
thông qua văn hóa ứng xử của những con người, tổ chức cụ thể [24, tr. 192].
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện để góp phần khẳng định
những giá trị văn hóa pháp luật truyền thống, khai thác và áp dụng những
kinh nghiệm, bài học quý của dân tộc và các giá trị văn hóa pháp luật của
nhân loại - công bằng và nhân đạo, dân chủ và pháp chế [3] phải trở thành
một quan điểm xuyên suốt quá trình cải cách tư pháp theo định hướng xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân trong
điều kiện hội nhập quốc tế.
1.1.3. Những nội dung của cải cách tư pháp
Dựa trên các nguyên tắc và yêu cầu cải cách tư pháp, những nội dung
cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa phải được thiết kế và thực hiện trên cả ba yếu tố hợp thành của hệ thống
tư pháp, đó là các thể chế, các thiết chế và các chức danh tư pháp, bổ trợ tư
pháp, cụ thể như sau:
21
Thứ nhất, hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự
và tố tụng tư pháp. Trong đó, hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự theo
hướng đề cao tính nhân đạo trong xử lý tội phạm như sử dụng biện pháp xử lý
hành chính hay các biện pháp khác đối với một số hành vi kinh doanh trái
phép, vô ý gây thiệt hại đến tài sản ; giảm áp dụng hình phạt tù và tăng áp
dụng hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ đối với các tội phạm về môi
trường, các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính; áp dụng hạn chế hình
phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng Hoàn thiện chính sách, pháp luật dân sự theo hướng phải xác
định rõ, cụ thể quyền và nghĩa vụ về tài sản của Nhà nước, cá nhân, tổ chức;
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chế định sở hữu, quyền tự do kinh doanh, hợp
đồng; xây dựng và hoàn thiện chế định bồi thường và bồi hoàn, nhất là việc
bồi thường của nhà nước cho các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do lỗi của nhân
viên trong các cơ quan nhà nước Hoàn thiện tố tụng tư pháp, trong đó hoàn
thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự theo hướng mở rộng quyền
hạn cho điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán để họ chủ động thực thi nhiệm
vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi
và quyết định tố tụng của mình; hoàn thiện các quy định về pháp luật tố tụng
dân sự theo hướng đề cao trách nhiệm và quyền tự định đoạt, chứng minh của
các đương sự trong việc giải quyết các tranh chấp và yêu cầu của họ trước
Tòa án; các quy định về tố tụng hành chính cần mở rộng thẩm quyền xét xử
của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính tạo thuận lợi cho người dân
tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân với cơ quan nhà nước
trước Tòa án.
Thứ hai, cải cách tổ chức và hoạt động của Tòa án, trong đó mở rộng
thẩm quyền xét xử chung của Tòa án; phân định lại thẩm quyền xét xử giữa
Tòa án các cấp theo hướng đảm bảo Tòa án mỗi cấp chủ yếu thực hiện một
thẩm quyền xét xử - sơ thẩm hoặc phúc thẩm, hạn chế đi đến chấm dứt tình
trạng một Tòa án thực hiện cả thẩm quyền xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám
22
đốc thẩm; tổ chức hệ thống Tòa án theo nguyên tắc hai cấp xét xử, không phụ
thuộc vào địa giới hành chính; nâng cao tính độc lập nghiêm minh của hoạt
động xét xử.
Thứ ba, cải cách tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, theo hướng
Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp như hiện nay; Tổ chức hệ thống Viện kiểm sát nhân dân
thành 4 cấp, phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân, gồm Viện
kiểm sát nhân dân khu vực (số lượng và địa hạt tư pháp tương ứng với số
lượng và địa hạt tư pháp của Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực); Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Viện kiểm sát nhân dân
cấp cao; Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đồng thời, tăng cường năng lực và
trách nhiệm độc lập của Kiểm sát viên trong việc thực hành quyền công tố
theo tinh thần cải cách tư pháp.
Thứ tư, cải cách tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra, trong đó
xác định Cơ quan điều tra là một bộ phận của hệ thống hành pháp, tham gia
thực hiện quyền tư pháp thông qua vai trò hỗ trợ, phục vụ cho chức năng công
tố của Viện kiểm sát; trước mắt cơ quan điều tra vẫn được giữ nguyên như
hiện nay [18]. Cùng với việc xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
các cơ quan điều tra, cần nghiên cứu để sớm xây dựng chế định pháp lý về
các chức danh Điều tra viên, Thủ trưởng Cơ quan điều tra theo hướng nâng
cao quyền hạn và trách nhiệm của Điều tra viên đối với kết quả điều tra. Theo
đó, quy định cụ thể tiêu chuẩn về đạo đức, phẩm chất chính trị, trình độ pháp
luật, chuyên môn nghiệp vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của các chức danh này.
Đồng thời, xác định rõ chế độ đãi ngộ, cách thức tuyển chọn, bổ nhiệm, bãi
nhiệm các chức danh, từ đó xác định mô hình, chương trình đào tạo phù hợp.
Thứ năm, cải cách tổ chức và hoạt động của cơ quan Thi hành án.
Việc xây dựng mô hình thi hành án phải đảm bảo tính kế thừa và phát huy
những ưu điểm cơ bản của mô hình hiện tại, đồng thời khắc phục triệt để
23
những nhược điểm đang cản trở, làm giảm hiệu lực và hiệu quả của toàn bộ
công tác thi hành án. Những đổi mới cơ bản, toàn diện có tính cải cách trong
lĩnh vực thi hành án không chỉ dừng ở mô hình quản lý Nhà nước về thi hành
án mà còn là hình thức tổ chức, quyền và nghĩa vụ tương ứng của từng cơ
quan, từng chức danh được giao nhiệm vụ trực tiếp thi hành án.
Thứ sáu, cải cách tổ chức và hoạt động bổ trợ tư pháp. Trong đó, cần
nhận thức lại một cách đầy đủ và đúng đắn về vị trí của các hoạt động bổ trợ
tư pháp. Đây chính là một thiết chế xã hội - nghề nghiệp đặc biệt mà thông
qua đó, nhân dân có khả năng tự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Do tính chất đặc biệt của bổ trợ tư pháp, tổ chức và hoạt động bổ trợ tư
pháp cần được điều chỉnh bằng các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực
pháp lý cao nhất, đó là các đạo luật. Đồng thời, nâng cao tính chuyên môn
hóa, chuyên nghiệp hóa, độc lập chịu trách nhiệm của đội ngũ chức danh bổ
trợ tư pháp (luật sư, công chứng viên, giám định viên) - yêu cầu có tính quyết
định đối với chất lượng hoạt động của các tổ chức bổ trợ tư pháp. Ngoài ra,
đổi mới nội dung và phương thức quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt
động bổ trợ tư pháp theo hướng kết hợp chặt chẽ quản lý nhà nước với tự
quản của các hiệp hội nghề nghiệp.
Thứ bảy, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh.
Theo các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với hệ thống
tư pháp, cần xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp trong sạch,
vững mạnh, tính chuyên nghiệp cao, có bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng và
đạo đức nghề nghiệp chuẩn mực theo hướng tiêu chuẩn hóa cụ thể đối với
từng loại cán bộ về chính trị, đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm
xã hội. Trên cơ sở các tiêu chuẩn mang tính nguyên tắc đó, xây dựng chương
trình đào tạo chung về những kiến thức cơ bản, sau đó đào tạo chuyên sâu về
nghiệp vụ cụ thể của từng lĩnh vực. Chương trình đào tạo phải theo hướng
đào tạo nghề, tăng cường bồi dưỡng ngắn ngày bắt buộc theo định kỳ cho cán
bộ tư pháp trong quá trình làm việc. Xác định chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối
24
với đội ngũ cán bộ tư pháp, tôn vinh cán bộ tư pháp giỏi, lập nhiều thành tích
trong hoạt động tư pháp.
1.2. ĐỔI MỚI HỆ THỐNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐÁP ỨNG YÊU
CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân
Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được Quốc hội thông qua
ngày 31/12/1959 lần đầu tiên trong lịch sử Hiến pháp nước ta quy định chế
định về Viện kiểm sát nhân dân. Kể từ ngày đó, cơ quan Viện kiểm sát nhân
dân chính thức được thành lập trong bộ máy nhà nước.
Tuy nhiên, nói đến Viện kiểm sát nhân dân, không thể không đề cập
đến cơ quan công tố trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ vào những năm
đầu thiết lập chính quyền mới (1945 - 1959) mà những kinh nghiệm của cơ
quan này đã được Viện kiểm sát nhân dân kế thừa cả về phương diện tổ chức
cũng như hoạt động. Chính vì vậy, khi khảo cứu về quá trình phát triển của hệ
thống Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta, sẽ là thiếu sót nếu chúng ta bỏ qua
việc nghiên cứu lịch sử cơ quan công tố từ năm 1945 đến năm 1959.
* Từ năm 1945 đến năm 1959
Ngày 13/09/1945, ngay sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, Nhà nước ta đã ra Sắc lệnh thiết lập các Tòa án quân sự Cách
mạng, trong đó quy định việc đứng buộc tội tại các Tòa án này là các Ủy viên
quân sự. Sau đó, theo các Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946, Sắc lệnh số 51
ngày 17/04/1946, Sắc lệnh số 131 ngày 20/07/1946, hệ thống các viên chức
và cơ quan công tố nằm trong hệ thống Tòa án các cấp. Ở Tòa sơ cấp (cấp quận,
huyện) thẩm phán làm cả việc xét xử và công tố. Ở Tòa án đệ nhị cấp (tỉnh và
thành phố) thẩm phán được chia làm hai loại: thẩm phán xử án và thẩm phán
buộc tội. Ở Tòa án thượng thẩm (Tòa án tổ chức ở ba khu vực Bắc - Trung và
Nam) có Công tố viện do Chưởng lý đứng đầu và các cán bộ làm công tác
25
công tố chuyên trách với các chức danh như Biện lý, Phó biện lý. Họ được
quyền làm các nhiệm vụ tư pháp cảnh sát, thực hiện sự buộc tội của Nhà nước,
thực hiện giám sát công tác điều tra của tư pháp cảnh sát và "có quyền yêu
cầu Tòa án thi hành mọi phương sách cần thiết để làm sáng tỏ sự thật" [6].
Đến năm 1950, Nhà nước ta thực hiện cải cách bộ máy tư pháp với
việc ban hành Sắc lệnh số 85 ngày 22/05/1950; Thông tư số 21-TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 07/06/1950; Thông tư liên bộ số 18 ngày 08/06/1950
của Bộ Kinh tế và Bộ Tư pháp Theo quy định tại các văn bản này thì việc
thực thi hoạt động công tố có 2 điểm đổi mới quan trọng:
Một là, về mặt tổ chức, Ủy ban hành chính kháng chiến các cấp điều
khiển công tố viên trong địa hạt của mình; Ủy ban hành chính kháng chiến có
thể ra mệnh lệnh cho công tố viên về đường lối công tố cũng như những mệnh
lệnh về các vụ việc cụ thể.
Hai là, Nhà nước ta mở rộng thẩm quyền cho công tố viên bằng cách
quy định công tố viên được quyền kháng cáo những vụ án dân sự. Về điểm
này, tờ trình Sắc lệnh số 85 ngày 25/05/1950 khẳng định đây là một sự thay
đổi căn bản so với quan niệm xưa cho rằng những việc hộ (dân sự) chỉ là việc
của tư nhân, xã hội không can thiệp, nay công tố viên thực hiện quyền công tố
có quyền thực hành can thiệp đó.
Năm 1958, cơ quan công tố lại được cải cách và đổi mới trên cơ sở
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa I kỳ họp thứ
8 ngày 29/04/1958 và các Nghị định số 256 ngày 01/07/1959, Nghị định số
321 ngày 27/08/1959. Theo các văn bản này, bộ máy Viện công tố được hình
thành thành một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập, được tổ chức từ trung
ương đến địa phương. Cơ quan cao nhất là Viện công tố trung ương trực
thuộc Thủ tướng Chính phủ; cấp thứ hai là Viện Công tố phúc thẩm được tổ
chức tại các khu vực Hà Nội, Hải Phòng, Việt Bắc, Tây Bắc Cấp tiếp theo là
Viện công tố tỉnh đến các huyện, thị. Hệ thống Viện công tố được mở rộng