Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, liên hệ vào lĩnh vực đảm bảo an toàn, vệ sinh thực phẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 88 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





TRẦN GIA NINH






MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC,
LIÊN HỆ VÀO LĨNH VỰC ĐẢM BẢO AN TOÀN,
VỆ SINH THỰC PHẨM






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










HÀ NỘI - 2011



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN GIA NINH




MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC,
LIÊN HỆ VÀO LĨNH VỰC ĐẢM BẢO AN TOÀN,
VỆ SINH THỰC PHẨM

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế



HÀ NỘI - 2011

MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT
5
1.1.

Nguồn gốc của đạo đức và pháp luật
5
1.1.1.
Nguồn gốc của đạo đức
5
1.1.2.
Nguồn gốc của pháp luật
10
1.2.
Khái niệm đạo đức và pháp luật
11
1.2.1.
Khái niệm đạo đức
11
1.2.2.
Khái niệm pháp luật
15
1.3.
Bản chất của đạo đức và pháp luật
16
1.3.1.
Bản chất của đạo đức
16
1.3.2.
Bản chất của pháp luật
21
1.4.
Vai trò của đạo đức và pháp luật đối với xã hội
23
1.4.1.

Vai trò của đạo đức
23
1.4.2.
Vai trò của pháp luật
26
1.4.2.1.
Pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền
lực nhà nước
26
1.4.2.2.
Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý kinh tế xã hội
27
1.4.2.3.
Pháp luật góp phần tạo dựng những quan hệ mới
28
1.4.2.4.
Pháp luật tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các
mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia
28

Chương 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT
TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
29
2.1.
Khái quát về Nhà nước pháp quyền
29
2.1.1.
Khái niệm Nhà nước pháp quyền
29
2.1.2.

Đặc điểm của nhà nước pháp quyền
31
2.2.
Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong nhà nước pháp quyền
35
2.2.1.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đạo đức và
pháp luật
39
2.2.2.
Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật
41
2.3.
Thực trạng mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong
điều kiện nền kinh tế thị trường
48

Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ XÃ HỘI VÀ ĐẢM
BẢO VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM BẰNG PHÁP
LUẬT, KẾT HỢP VỚI ĐẠO ĐỨC TRONG BỐI CẢNH
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ HỘI NHẬP
54
3.1.
Thực trạng vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm tại
Việt Nam
54
3.2.
Giải pháp tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp
với đạo đức
62

3.2.1.
Giải pháp tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật
62
3.2.1.1.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế
63
3.2.1.2.
Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật xã hội chủ nghĩa
64
3.2.1.3.
Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật
64
3.2.1.4.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh
những hành vi vi phạm pháp luật
65
3.2.2.
Giải pháp ghi nhận đạo đức nhiều hơn vào các văn bản pháp luật
66
3.3.
Giải pháp bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm
71

KẾT LUẬN
81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
82



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cùng với Nhà nước, pháp luật là yếu tố ra đời sớm nhất trong một
hình thái kinh tế xã hội. Điều này phần nào thể hiện được tầm quan trọng của
pháp luật đối với xã hội. Bởi vậy, mỗi nhà nước trong quá trình phát triển
luôn chú trọng xây dựng và sửa đổi để có được hệ thống pháp luật hoàn thiện.
Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật có thể coi là một tiêu chí quan trọng để
đánh giá mức độ phát triển của một quốc gia. Nhà nước quản lý xã hội bằng
hệ thống pháp luật do đó xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện chính là góp
phần trực tiếp nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, nói như
vậy không có nghĩa là pháp luật là công cụ duy nhất giúp Nhà nước quản lý
xã hội. Nhà nước còn có thể quản lý xã hội bằng các công cụ khác như: công
cụ kinh tế, công cụ đạo đức… Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, các
mối quan hệ xã hội phát sinh ngày càng nhiều và đa dạng, điều này đòi hỏi
Nhà nước phải luôn luôn nâng cao hiệu lực quản lý của các công cụ đã có và
sử dụng thêm những công cụ mới.
Một trong những công cụ được sử dụng phổ biến và có ý nghĩa lớn đó
là công cụ đạo đức. Đây là công cụ có bề dày lịch sử, bắt nguồn từ tư tưởng
Đức trị của Nho giáo mà người khởi xướng là Khổng Tử, được phát triển
tương đối hoàn chỉnh và trở thành đường lối nhân chính dưới thời Mạnh Tử.
Tư tưởng này vẫn luôn được kế thừa và phát triển qua các thời đại, song song
tồn tại và cùng phát triển với tư tưởng pháp trị.
Tại Việt Nam, tư tưởng này được thể chế hóa trong các quy định của
pháp luật, thể hiện ở vai trò của đạo đức đối với việc quản lý xã hội. Tuy
nhiên, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sự ảnh hưởng của văn hóa
phương Tây đối với xã hội Việt Nam ngày càng mạnh mẽ, điều này khiến vấn


2
đề đạo đức trở thành vấn đề cần được quan tâm, chú trọng nhiều hơn. Vấn đề
đặt ra là làm thế nào để đạo đức và Pháp luật thực sự gắn kết với nhau và phát
huy được hiệu quả quản lý xã hội một cách tốt nhất. Với trăn trở đó, tác giả đã lựa
chọn vấn đề: "Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, liên hệ vào lĩnh vực
bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật không phải là vấn đề
mới mẻ, tuy nhiên số lượng các công trình nghiên cứu về vấn đề này lại chưa
nhiều, có thể kể đến một số công trình như: "Quyền lực và đạo đức" của
PGS.TS Bùi Đình Phong đăng trên Báo Lao động ngày 19/07/2009; "Quan
điểm mácxít về mối quan hệ Đạo đức - Chính trị - Pháp quyền" của Đỗ Hữu
Nhân, đăng trên Tạp chí Triết học, số ra ngày 07/07/2005; "Các kiểu đạo đức
trong lịch sử, tính kế thừa của sự phát triển đạo đức" của Đoàn Hữu Lượng,
đăng trên Tạp chí Triết học, số ra ngày 14/08/2008; "Quan hệ pháp luật và
đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh" của ThS. Trần Nghị - Viện Khoa học
tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ; … Tuy nhiên, các bài viết này chỉ đơn thuần đề
cập tới những nét cơ bản của vấn đề đạo đức và vấn đề pháp luật mà chưa có
công trình nào tập trung nghiên cứu sâu sắc về mối quan hệ giữa đạo đức và
pháp luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ thêm một số vấn đề lý luận cơ
bản về đạo đức và pháp luật, mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, vai trò
của đạo đức và pháp luật trong đời sống xã hội, thực trạng vấn đề đạo đức và
pháp luật, từ đó thấy được những bất cập của hai vấn đề trên và đưa ra giải
pháp khắc phục những bất cập ấy.
Với mục đích nghiên cứu như vậy, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra
như sau:

3

- Làm rõ một số vấn đề lý luận về đạo đức và pháp luật như: khái
niệm, đặc điểm, vai trò của đạo đức và pháp luật.
- Phân tích, đánh giá thực trạng đạo đức và pháp luật trong xã hội
nước ta, liên hệ với vấn đề đảm bảo an toàn, vệ sinh thực phẩm.
- Đưa ra các giải pháp về mặt đạo đức và pháp luật nhằm đảm bảo vấn
đề an toàn, vệ sinh thực phẩm nói riêng và đảm bảo hiệu quả quản lý xã hội
của đạo đức và pháp luật nói chung.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề cơ bản về đạo
đức và pháp luật, mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội của đạo đức và pháp luật.
Về đề tài "Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, liên hệ vào lĩnh
vực bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm" có nhiều vấn đề cần bàn luận, tuy
nhiên, trong phạm vi khuôn khổ một luận văn thạc sĩ chúng tôi chỉ tập trung
nghiên cứu một số vấn đề như: khái niệm, đặc điểm, vai trò của đạo đức và
pháp luật; mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật; nêu lên và phân tích thực
trạng đạo đức và pháp luật trong xã hội Việt Nam hiện nay thể hiện qua vấn
đề đảm bảo an toàn, vệ sinh thực phẩm, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội của đạo đức và pháp luật.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học
khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải …
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên khảo có tính hệ thống về
mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật. Luận văn có những điểm mới sau:

4
- Phân tích, làm sáng tỏ khái niệm đạo đức và khái niệm pháp luật.
- Phân tích, làm sáng tỏ mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật.

- Nêu lên được thực trạng vấn đề đạo đức và pháp luật của nước ta
trong điều kiện nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đưa ra được dẫn
chứng sinh động nhằm minh họa.
- Đề xuất được một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả điều
chỉnh xã hội của đạo đức và pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về đạo đức và pháp luật.
Chương 2: Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong nhà nước
pháp quyền.
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý xã hội và đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm bằng pháp luật, kết hợp với đạo đức trong bối cảnh xây dựng
nhà nước pháp quyền và hội nhập.

5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT

1.1. Nguồn gốc của đạo đức và pháp luật
Khi tìm hiểu về bất kỳ vấn đề, yếu tố nào trong xã hội, điều trước tiên
cần quan tâm đó là nguồn gốc hình thành, cơ sở của nó. Nhờ đó, ta có được
cái nhìn sơ bộ, tổng quan nhất về sự vật, hiện tượng đồng thời thấy được tiến
trình phát triển của chúng.
1.1.1. Nguồn gốc của đạo đức
* Quan điểm về nguồn gốc đạo đức của các nhà triết học trước Mác:
Trước Mác, Ăngghen, những nhà triết học (kể cả duy tâm và duy vật)
đều rơi vào quan niệm duy tâm khi xem xét vấn đề xã hội và đạo đức. Họ
không thấy được tính quy định của nhân tố kinh tế đối với sự vận động của xã
hội nói chung và đạo đức nói riêng. Do vậy, đạo đức với tính cách là một lĩnh

vực hoạt động đặc thù của con người, của xã hội được nhìn nhận một cách
tách rời cơ sở kinh tế - xã hội sinh ra và quy định nó. Các nhà triết học, đạo
đức trước Mác đã tìm nguồn gốc, bản chất của đạo đức hoặc ở ngay chính bản
tính của con người, hoặc ở một bản thể siêu nhiên bên ngoài con người, bên
ngoài xã hội. Nét chung của các lý thuyết này là không coi đạo đức phản ánh
cơ sở xã hội, hiện thực khách quan.
Các nhà triết học - thần học coi con người và xã hội chẳng qua chỉ là
những hình thái biểu hiện cụ thể khác nhau của một đấng siêu nhiên nào đó.
Những chuẩn mực đạo đức, do vậy là những chuẩn mực do thần thánh tạo ra
để răn dạy con người. Mọi biểu hiện đạo đức của con người do vậy đều là sự
thể hiện cái thiện tối cao từ đấng siêu nhiên; và tiêu chuẩn tối cao để thẩm
định thiện - ác chính là sự phán xét của đấng siêu nhiên đó.

6
Những nhà duy tâm khách quan tiêu biểu như Platon, sau là Hêghen tuy
không mượn tới thần linh, nhưng lại nhờ tới "ý niệm" hoặc "ý niệm tuyệt đối",
về các lý giải nguồn gốc và bản chất đạo đức suy cho cùng, cũng tương tự như
vậy. Những nhà duy tâm chủ quan nhìn nhận đạo đức như là những năng lực
"tiên thiên" của lý trí con người. Ý chí đạo đức hay là "thiện ý" theo cách gọi
của Cantơ, là một năng lực có tính nhất thành bất biến, có trước kinh nghiệm,
nghĩa là có trước và độc lập với những hoạt động mang tính xã hội của con người.
Những nhà duy vật trước Mác, mà tiêu biểu là L.Phoi-ơ-bắc đã nhìn
thấy đạo đức trong quan hệ con người, người với người. Nhưng với ông, con
người chỉ là một thực thể trừu tượng, bất biến, nghĩa là con người ở bên ngoài
lịch sử, đứng trên giai cấp, dân tộc và thời đại.
Những người theo quan điểm Đác Uyn xã hội đã tầm thường hóa chủ
nghĩa duy vật bằng cách cho rằng những phẩm chất đạo đức của con người là
đồng nhất với những bản năng bầy đàn của động vật. Đối với họ, đạo đức về
thực chất cũng chỉ là những năng lực được đem lại từ bên ngoài con người, từ
xã hội.

* Quan điểm mácxít về nguồn gốc của đạo đức:
Khác với tất cả các quan niệm trên, Mác - Ăngghen đã quan niệm đạo đức
nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử.
Theo Mác, Ăngghen, con người khi sống phải có "quan hệ song
trùng". Một mặt, con người quan hệ với tự nhiên, tác động vào tự nhiên để
thỏa mãn cuộc sống của mình. Tự nhiên không thỏa mãn con người, điều đó
buộc con người phải xông vào tự nhiên để thỏa mãn mình. Mặt khác, khi tác
động vào tự nhiên, con người không thể đơn độc, con người phải quan hệ với
con người để tác động vào tự nhiên. Sự tác động lẫn nhau giữa người và
người là hệ quả của hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần mà cơ bản là
hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức.

7
Khi bàn về vai trò của lao động đối với sự hình thành, tồn tại và phát
triển của xã hội loài người, Mác, Ăngghen cho rằng "lao động là điều kiện cơ
bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người" [22, tr. 641]. Rằng "người ta
phải ăn, ở, mặc, đi lại trước khi làm chính trị, khoa học, nghệ thuật…" [21, tr. 15].
Xuất phát từ con người thực tiễn, chứ không phải con người thuần túy ý thức
hay con người sinh học, hai ông đi đến quan niệm về phương thức sản xuất
quyết định đối với toàn bộ các hoạt động của con người, xã hội loài người.
Trong "Lời tựa" của tác phẩm "Góp phần phê phán chính trị - kinh tế học",
Mác viết: "Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá trình sinh
hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người
quyết định sự tồn tại của họ; trái lại chính sự tồn tại xã hội của họ quyết định
ý thức của họ" [21, tr. 15]. Luận điểm này chính là chìa khóa để khám phá tất
cả các hiện tượng xã hội trong đó có đạo đức.
Như vậy, đạo đức không là sự biểu hiện của một sức mạnh nào đó ở
bên ngoài xã hội, bên ngoài các quan hệ con người; cũng không phải là sự
biểu hiện của những năng lực "tiên thiên", nhất thành bất biến của con người.
Với tư cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức là sản phẩm của những điều

kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế. "Xét cho cùng, mọi học
thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh
tế của xã hội lúc bấy giờ" [22, tr. 137].
Những phong tục đạo đức của người nguyên thủy, đời sống của xã hội
văn minh là sản phẩm của hoạt động thực tiễn và các hoạt động nhận thức của
xã hội đó. Sự phát triển từ phong tục đạo đức của người nguyên thủy đến ý
thức đạo đức của xã hội văn minh là kết quả của sự phát triển từ thấp đến cao
của hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người.
Xã hội Cộng sản nguyên thủy là bước đầu tiên con người thoát khỏi
trạng thái động vật. Hoạt động thực tiễn của xã hội hết sức thấp kém, chưa tạo
nên sản phẩm thặng dư, và do đó, tư hữu và chế độ tư hữu chưa có tiền đề khách

8
quan để xuất hiện. Trong xã hội chưa có hiện tượng áp bức xã hội, nhưng con
người vẫn bị nô dịch bởi những lực lượng tự phát của tự nhiên. Tuy nhiên, xã hội
nguyên thủy đã đem lại nội dung "ngây thơ" "thuần phác" nhưng "tốt đẹp thơ
mộng" cho đạo đức người nguyên thủy. Đạo đức này chưa biết nói đến thói xấu,
cái ác trong xã hội văn minh. Đây là "ý thức bầy đàn đơn thuần" của "bản
năng được ý thức". Ý thức đạo đức chưa tách ra thành hình thái độc lập.
Đạo đức của con người nguyên thủy là hình thái sinh thành trừu tượng
của đạo đức. Hình thái của nó cũng trừu tượng và không có tính duy lý.
Những hình thái kinh tế - xã hội có đối kháng giai cấp tạo nên những cơ sở
kinh tế, xã hội và tinh thần cho sự phát triển ý thức đạo đức. Những hệ thống
đạo đức của các giai cấp khác nhau và đối nghịch nhau đều lấy "những quan
niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí
giai cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất
và trao đổi" [22, tr. 136]. Những hệ thống đạo đức đó phản ánh và điều chỉnh
những quan hệ xã hội đa dạng, phong phú và phức tạp, trong khi ý thức nói
chung và đạo đức nói riêng của người nguyên thủy chỉ phản ánh hoàn cảnh
gần nhất có thể cảm giác được. Đạo đức đã tự khẳng định mình là một hình

thái ý thức xã hội, là lĩnh vực sản xuất tinh thần của xã hội. Đây là một bước
tiến, làm đạo đức phát triển so với xã hội nguyên thủy. Tuy nhiên, bước phát
triển này cũng làm nảy sinh những cái ác, tham lam, ích kỷ, lừa dối… mà loài
người phải đấu tranh hàng ngàn năm nay để chống lại nó.
Về mặt hình thức, đạo đức của xã hội văn minh đã phát triển vượt bậc.
Do nhận thức của loài người vượt bỏ tư duy cụ thể, chuyển sang xây dựng lý
luận… Nội dung đạo đức được thể hiện dưới hình thức kinh nghiệm, khái
niệm, lý tưởng, chuẩn mực và đánh giá đạo đức, do đó đạo đức ngày càng
phát triển về cấu trúc. Và đến lượt mình, sự hoàn thiện cấu trúc làm cho phản
ánh và điều chỉnh đạo đức trở nên sâu sắc, tự giác. Nội dung của đạo đức
được thể hiện dưới những hình thức cụ thể.

9
Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp, nội dung và hình thức của đạo đức
phát triển nhưng chưa thật nhân đạo, chưa hoàn thiện. Sự hoàn thiện của nội
dung đạo đức (thật sự nhân đạo) chỉ có thể đạt được khi con người chiến
thắng được tình trạng đối kháng giai cấp và tạo ra những điều kiện để có thể
"quên được tình trạng đối kháng giai cấp". Điều kiện đó chỉ có thể bắt đầu có
được bằng đạo đức cộng sản trong xã hội cộng sản mà giai đoạn đầu là xã hội
xã hội chủ nghĩa. Sự hoàn thiện đạo đức được bắt đầu từ đạo đức của giai cấp
công nhân "có nhiều nhân tố hứa hẹn" để dẫn tới một kiểu đạo đức "thật sự có
tính nhân đạo". Như vậy, xã hội cộng sản nguyên thủy với trình độ bắt đầu
làm nảy sinh đạo đức do hoạt động thực tiễn và nhận thức đã phát triển đạo
đức. Xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tương lai mà hiện thực hôm nay đang
bắt đầu xây dựng sẽ hoàn thiện đạo đức cả về nội dung lẫn hình thức.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đạo đức sinh ra
trước hết là từ nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất,
trong đấu tranh xã hội, trong phân phối sản phẩm để con người tồn tại và phát
triển. Cùng với sự phát triển của sản xuất, các quan hệ xã hội, hệ thống các
quan hệ đạo đức, ý thức đạo đức, hành vi đạo đức cũng theo đó mà ngày càng

phát triển, ngày càng nâng cao, phong phú, đa dạng và phức tạp.
Đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố khách quan và chủ quan,
là sản phẩm của hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Những quan
hệ người - người, cá nhân - xã hội càng có ý thức, tự giác, ý nghĩa và hiệu quả
của chúng càng có tính chất xã hội rộng lớn thì hoạt động của con người càng
có đạo đức. Đạo đức "đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng
nào con người còn tồn tại" [20, tr. 43].
Nhìn chung, về nguồn gốc của đạo đức có nhiều quan điểm khác nhau,
mỗi quan điểm đều đưa ra những lý giải biện minh cho ý kiến của mình. Tuy
nhiên, chúng tôi ủng hộ quan điểm mácxít và cho rằng đây là quan điểm khoa
học nhất về nguồn gốc của đạo đức.

10
1.1.2. Nguồn gốc của pháp luật
Theo học thuyết Mác - Lênin nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng
lịch sử có cùng quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong, do đó những
nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước cũng chính là nguyên nhân làm xuất
hiện pháp luật.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy không có nhà nước bởi vậy không
có pháp luật, nhưng xã hội cộng sản nguyên thủy cần đến quy tắc để điều
chỉnh hành vi con người duy trì trật tự xã hội đó, bởi vậy đã xuất hiện các quy
tắc xã hội bao gồm tập quán, tín điều, tôn giáo. Tập quán này được mọi người
thi hành một cách tự nguyện theo thói quen không cần cưỡng chế, ép buộc.
Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất ra đời, xã hội phân chia thành
những giai cấp đối kháng, nhà nước xuất hiện, cùng với nó pháp luật cũng
được hình thành để điều chỉnh những vấn đề mới phát sinh trong quá trình
quản lý nhà nước. Nhà nước và pháp luật là sản phẩm của xã hội có giai cấp.
Pháp luật đầu tiên của xã hội loài người là pháp luật của nhà nước chủ nô. Có
thể nói pháp luật hình thành từ các con đường:
Nhà nước thừa nhận những quy tắc vốn tồn tại trong xã hội và cải tạo

những quy tắc đó cho phù hợp với lợi ích của nhà nước (tập quán Pháp, án lệ)
Thông qua con đường hoạt động xã hội, nhà nước ban hành các văn
bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới nảy sinh trong thực tế mà
trước đó không có.
Bằng các con đường này, pháp luật được hình thành và thực hiện chức
năng điều chỉnh các quan hệ xã hội theo sự quản lý của nhà nước. Dù được
hình thành bằng con đường nào thì pháp luật cũng thể hiện ý chí của giai cấp
lãnh đạo xã hội, thể hiện bản chất của nhà nước đó và phù hợp với cấu trúc
của nhà nước đó. Cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, pháp luật ngày
càng được chú trọng và hoàn thiện. Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật thể

11
hiện sự phát triển của một đất nước, nó cũng là tiêu chí đánh giá một xã hội
văn minh.
1.2. Khái niệm đạo đức và pháp luật
1.2.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một khái niệm mang tính trừu tượng cao, với mỗi cách
nghĩ, tư tưởng khác nhau sẽ có quan điểm khác nhau về khái niệm đạo đức.
Chỉ riêng trong lĩnh vực triết học đã có nhiều quan điểm khác nhau về khái
niệm đạo đức.
Với Khổng Tử, đạo đức là gốc của con người, nói đến con người trước
hết là nói đến đạo đức. Đúng như thiên "Học Nhi" - sách Luận ngữ đã viết:
"Làm người có nết hiếu, đễ thì ít ai dám xúc phạm bề trên. Không thích xúc phạm
bề trên mà thích làm loạn thì chưa từng có. Người quân tử chăm chú vào việc
gốc, gốc mà vững thì đạo đức sinh ra. Hiếu, đễ là cái gốc của đức nhân " [5, tr. 23].
Trước thời Khổng Tử đã xuất hiện khái niệm quân tử. "Nhưng thời đó nó trỏ
cái địa vị trong xã hội, chứ không trỏ cái phẩm tính con người. Người có phận
cao (tối đại đa số ở trong giai cấp quý tộc) cai trị dân, có đức hay không đều
gọi là quân tử" [6, tr. 12]. Đến thời mình, Khổng Tử đã đề ra những tiêu chuẩn
về tài đức, về tư cách phẩm chất để thành người quân tử đáng được nắm quyền

trị dân, nhờ đó tiếng quân tử không còn thuần túy chỉ người cầm quyền như trước
nữa, mà chủ yếu là có nghĩa chỉ người có đức dù họ cầm quyền hay không.
Như trên ta thấy, với Khổng Tử, hiếu, đễ là gốc của đạo đức. Làm
người trước hết phải có hiếu nghĩa, phải đền ơn sinh thành. Chính vì vậy ông
từng mắng Tể Dư là bất nhân, bất hiếu không nhớ công cha mẹ bồng bế ba
năm, mà muốn rút thời gian để tang từ ba năm xuống một năm: "Dư là đứa
bất nhân? Đứa trẻ sinh ra, sau ba năm cha mẹ mới thôi bồng bế. Dư nó có
được cha mẹ bồng bế trong ba năm hay không?" [7, tr. 42]. Khổng Tử đề cao
đức hiếu bởi vì làm người phải có lòng kính yêu cha mẹ và người thân trong

12
nhà, thì mới biết yêu thương người ngoài, yêu thương đồng loại. Và làm
người theo Khổng Tử trước hết phải có "đức", tu dưỡng "đức" rồi mới học
văn. Đạo hiếu quan trọng như vậy, nhưng như thế nào là hiếu? Hãy xem
Khổng Tử trả lời Tử Du hỏi về đạo hiếu: "Ngày nay người ta cho hiếu là có
thể nuôi cha mẹ, nhưng đến chó ngựa kia người ta cũng nuôi, nếu không kính
cha mẹ thì có khác gì?" [8, tr. 38]. Như vậy, theo Khổng Tử, hiếu đức không
phải chỉ là nuôi dưỡng cha mẹ mà là chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ với sự
thành kính, sự yêu thương thật sự.
Mặc dù coi trọng hiếu đức như vậy nhưng quan niệm của Khổng Tử
không khắt khe, nghiệt ngã, một chiều mà rất đúng mực "Thờ cha mẹ, nên
nhỏ nhẹ khuyên can; nếu thấy cha mẹ không theo ý mình thì vẫn cung kính
mà không xúc phạm cha mẹ; tuy khó nhọc, lo buồn nhưng không được oán
hận" [14, tr. 49]. Sau hiếu, đễ, nói đến "đức" là nói đến tính thiện. Khổng Tử
quan niệm: "Bản tính tốt chẳng phải học tập theo cổ nhân mà cũng tốt, nhưng
không đạt được mức tinh vi của đạo. Người có "đức", có tính thiện thì "thấy
việc thiện thì vội vàng như đuổi theo không kịp, thấy việc bất thiện thì như
nhúng tay vào nước sôi" [16, tr. 56]. Nhưng điều chủ yếu "đức" không phải
chỉ là thiện đức mà là hành động. Khổng Tử nói: "Biết (đạo lý) không bằng
thích nó, thích nó không bằng vui làm theo nó" và "nghe được điều nghĩa mà

không làm theo, có lỗi mà không sửa đổi đó là những mối lo của ta".
Như vậy, đức là lời nói đi đôi với việc làm đúng như Khổng Tử đã nói:
"Người xưa thận trọng lời nói, sợ sẽ xấu hổ nếu nói mà không làm được" và
"Người quân tử chậm chạp (thận trọng) về lời nói, mà mau mắn về việc làm".
Đọc "Luận ngữ", chúng ta thấy Khổng Tử nói rất nhiều đến "đức",
nhất là "đức" của người cầm quyền. Song đáng chú ý là Khổng Tử quan niệm
về "đức" không phải như một cái gì biệt lập mà là trong sự thống nhất chặt
chẽ không tách rời với tri thức, tài năng. Quan niệm này thực sự nhất quán từ
Khổng Tử đến các môn đệ của ông. Với Khổng Tử thì "chất phác thẳng thắn

13
văn nhã thì là người quê mùa; văn nhã thẳng thắn chất phác thì là người chép
sử (giữ việc văn thư); văn và chất đều nhau mới là người quân tử" [15, tr. 37]. Là
người hết sức coi trọng đạo đức như vậy đương nhiên, trong hoạt động của
mình Khổng Tử bao giờ cũng hành xử theo đúng những chuẩn mực đạo đức
mà ông tôn thờ, coi trọng và ra sức tuyên truyền nó trong xã hội, cho dù đời
ông như chúng ta biết hết sức long đong, lận đận. Khổng Tử cho rằng: "Người
có đức thì không cô độc, tất có người đồng đạo kết bạn với mình như ở đâu
thì có láng giềng ở đó" [42, tr. 28].
Với ông "sáng được nghe đạo lý, tối chết cũng được (không hận)".
Bởi vậy, lẽ sống của Khổng Tử là "để tâm chí vào đạo, giữ gìn đức hạnh,
nương theo điều nhân, vui với lục nghệ". Chính vì thế mà khi gặp nguy ở
nước Tống bị quan tư mã là Hoàn Khôi tìm cách hãm hại, Khổng Tử thản
nhiên nói: "Trời cho ta có phẩm đức, Hoàn Khôi làm gì được ta", hoặc khi
ông đau nặng, Tử Lộ xin phép cầu đảo, Khổng Tử nói: "Khâu này cầu đảo từ
lâu rồi" (ý nói ăn ở phải đạo thì chẳng cần phải cầu đảo). Thế mới biết ông tin
và coi trọng đạo đức đến mức nào.
Điều dễ nhận thấy là tuy Khổng Tử nói nhiều về "đức", tin vào "đức"
và đề cao về "đức" như vậy, nhưng ông cũng nhận thấy rằng, xã hội thời ông
đang thiếu "đức" một cách nghiêm trọng. Chính là thực tế xã hội và cuộc sống

đã khiến ông phải buông ra những lời than thở: "Ta chưa thấy ai hiếu đức
bằng hiếu sắc", "Học ba năm mà không có ý cầu bổng lộc, dễ được mấy
người?" và "Trung dung là đức cực đẹp vậy. Từ lâu rồi, người ta ít có đức
đó". Ngay đối với lớp học trò được ông đào tạo theo lý tưởng đạo đức của
mình, Khổng Tử cũng phải thừa nhận: "Anh Hồi (Nhan Uyên) lòng ba tháng
không lìa đạo nhân, còn các anh khác chỉ được một ngày, một tháng là cùng".
Có lần ông nói với Tử Lộ rằng: " người biết đạo đức (nghĩa lý) ít lắm".
Sống trong một xã hội "vô đạo", loạn lạc như vậy, một xã hội mà đầy rẫy
những cảnh phản loạn, tàn bạo, dâm bôn, đạo đức suy vi, phần nhiều giả dối,

14
nói mà không làm, nhưng Khổng Tử với lòng yêu thương con người thắm
thiết, vẫn tin ở con người, tin ở học thuyết của mình có thể cứu vớt cuộc đời.
Với ông: "Người ta không thể làm bạn với cầm thú; ta không sống chung với
người trong xã hội này thì sống chung với ai? Nếu thiên hạ thịnh trị thì Khâu
này cần gì phải đổi nữa” [16, tr. 63].
Chính là trên cơ sở đó, mà Khổng Tử đã đề xuất đường lối "Đức trị" -
đường lối trị nước bằng đạo đức mang đậm dấu ấn độc đáo của ông. Nguyễn
Hiến Lê rất có lý khi nhận xét rằng: “Khổng Tử là người đầu tiên nói nhiều
nhất đến tư cách người cầm quyền, đến bổn phận họ phải sửa mình, phải làm
gương cho dân, phải giáo hóa dân. Ông không tách rời đạo đức và chính trị,
ông đã đạo đức hóa chính trị. Và tất cả triết lý chính trị của ông gồm trong
danh từ đức trị, mà danh từ này có nghĩa là người trị dân, phải trị dân bằng
đức, chứ không bằng bạo lực ” [16, tr. 76].
Thật vậy, Khổng Tử thật sự tin rằng, "Làm chính trị (trị dân) mà dùng
đức (để cảm hóa dân) thì như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác
hướng về cả (tức thiên hạ về theo)" [16, tr. 89]. Cơ sở tư tưởng "Đức trị" của ông
suy đến cùng là lòng thương yêu con người, lòng tin ở bản tính con người có thể
cảm hóa được. Ông quan niệm phép trị dân "cần gì phải dùng biện pháp giết
người? Đức hạnh của người quân tử (người trị dân) như gió, mà đức hạnh của

dân như cỏ. Gió thổi thì cỏ tất rạp xuống" [16, tr. 89]. Khổng Tử từng bảo với
học trò: "Xử kiện thì ta cũng như người khác thôi; phải làm sao (dạy dân phải
biết nghĩa vụ nhường nhịn) cho dân không kiện nhau (thì mới hơn chứ)".
Đọc "Luận ngữ" chúng ta thấy rõ, trước sau Khổng Tử chỉ tin vào đức
chứ không tin vào "hình" bởi "dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình phạt
để bắt dân vào khuôn phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn.
Dùng đạo đức để dắt dẫn dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân
biết hổ thẹn mà lại theo đường chính". Tin vào "Đức trị" như vậy và cả đời
ôm mộng cứu đời bằng "Đức trị" như Khổng Tử mà không có bậc vua chúa

15
nào dung nạp. Khổng Tử thật sự tin rằng: nếu có ai dùng ông làm quốc chính"
thì một năm kỷ cương đã khá, ba năm sẽ thành công". Tóm lại, với Khổng Tử,
"Đức trị" có sức mạnh vạn năng. Đó là đường lối "dù không ra lệnh dân cũng
theo", như vua Thuấn chỉ kính cẩn đoan trang ngồi trên ngai, chẳng làm gì mà
thiên hạ bình trị.
Trong pháp luật Việt Nam hiện hành, khái niệm đạo đức cũng được đề
cập đến tại Điều 128 Bộ luật Dân sự năm 2005: "Đạo đức xã hội là những
chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được
cộng đồng thừa nhận và tôn trọng" [38].
Như vậy, có thể thấy đạo đức được hình thành qua quá trình phát triển
lâu dài của xã hội và phụ thuộc vào sự phát triển của xã hội. Cùng với thời
gian, quan điểm về đạo đức cũng có những biến đổi nhất định sao cho phù
hợp với hoàn cảnh xã hội. Đạo đức không mang tính cưỡng chế, áp đặt và
không phải do Nhà nước đặt ra giống như pháp luật, đạo đức do chính những
cá thể trong xã hội tạo nên và nó được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ
khác, nó có sức sống mạnh mẽ và được củng cố bởi dư luận xã hội. Trong văn
hóa người Việt nói riêng và văn hóa phương Đông nói chung, dư luận xã hội
và những phong tục, tập quán đôi khi có ảnh hưởng và sức mạnh hơn cả pháp
luật. "Phép vua thua lệ làng" - đây là tư tưởng đã ăn sâu, bám rễ vào tâm trí

người Việt xưa và đến nay nó vẫn còn mang ảnh hưởng không nhỏ.
Nhìn chung, khác với pháp luật, đạo đức được duy trì và bảo tồn nhờ
những công cụ vô hình mang tính chất tinh thần, điều này tạo nên nét đặc
trưng rất riêng của đạo đức mà không bất kỳ hình thái xã hội nào khác có được.
1.2.2. Khái niệm pháp luật
Pháp luật là yếu tố xuất hiện sau khi hình thành nhà nước, là công cụ
do nhà nước tạo ra để quản lý xã hội. Mỗi nhà nước khác nhau sẽ có hệ thống
pháp luật mang bản chất khác nhau.

16
Hệ thống pháp luật của các nhà nước được hình thành dần dần từng
bước phụ thuộc vào những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước.
Nhưng nói chung, giai cấp thống trị đều tìm cách vận dụng các tập quán để
phục vụ lợi ích của giai cấp mình, dần dần thay đổi nội dung của các tập quán
và bằng con đường nhà nước nâng chúng thành các quy phạm pháp luật.
Hệ thống pháp luật của các nước còn được hình thành từ một nguồn
khác, đó là các văn bản do cơ quan nhà nước ban hành. Việc chuyển hóa các
tập quán để nâng chúng thành luật chỉ là một bộ phận trong sự hình thành hệ
thống pháp luật của các nhà nước. Những mối quan hệ phức tạp mới phát sinh
trong xã hội, đòi hỏi phải có các quy phạm pháp luật mới để điều chỉnh. Vì
vậy, hoạt động xây dựng pháp luật của các nhà nước ra đời. Tuy nhiên, hoạt
động này lúc đầu còn đơn giản, phiến diện, nhiều quy định của các cơ quan tư
pháp, tòa án đã có ý nghĩa như những nguyên tắc chung, những quy định
chung. Hệ thống pháp luật được hình thành dần cùng với sự phát triển của nhà
nước và hoạt động xây dựng pháp luật của các cơ quan trung ương.
Như vậy, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban
hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội,
là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
1.3. Bản chất của đạo đức và pháp luật
1.3.1. Bản chất của đạo đức

Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc của đạo đức đã
khẳng định đạo đức không phải từ sự "tiên nghiệm" càng không phải là lực
lượng từ bên ngoài ấn vào xã hội, đạo đức là sản phẩm của xã hội.
Đạo đức là lĩnh vực của quan hệ thật sự con người. Trong khi phát
triển với tính cách là thực thể xã hội, con người lựa chọn và chịu trách nhiệm
với sự lựa chọn, với hậu quả của những sự lựa chọn đối với hành vi ứng xử
người - người. Tự do lựa chọn và sự lựa chọn có trách nhiệm nảy sinh trong

17
quan hệ người - người, trong quan hệ cá nhân và xã hội. Mỗi người chấp nhận
kiểm tra những yêu cầu của xã hội để nhận được sự đánh giá, sự ủng hộ của
xã hội. Còn xã hội thì với những chuẩn mực của nó, yêu cầu các cá nhân điều
chỉnh các hành vi phù hợp với lợi ích của xã hội. Giống như bất kỳ sự vật,
hiện tượng, hình thái nào khác, đạo đức mang bản chất rất riêng giúp phân
biệt nó với các hình thái khác.
* Với tính cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức mang bản chất
xã hội. Bản chất xã hội của đạo đức được hiểu theo nghĩa:
Nội dung của đạo đức là do hoạt động thực tiễn và tồn tại xã hội
quyết định.
Nhận thức xã hội đem lại các hình thức cụ thể của phản ánh đạo đức, làm
cho đạo đức, tồn tại như một lĩnh vực độc lập về sản xuất tinh thần của xã hội.
Sự hình thành, phát triển, hoàn thành bản chất xã hội của đạo đức được
qui định bởi trình độ phát triển và hoàn thiện của thực tiễn và nhận thức xã
hội của con người. Nói cách khác, nội dung khách quan của các quan niệm,
quan điểm, các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức chính là biểu hiện của
trạng thái, một trình độ phát triển nhất định của những điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội, của cơ sở kinh tế.
Việc khẳng định tính qui định của cơ sở kinh tế đối với đạo đức cho
phép nhìn nhận sự biến đổi của đạo đức theo sự biến đổi của cơ sở kinh tế.
Phân tích mối quan hệ giữa cơ sở kinh tế với kiến trúc thượng tầng mà trong

đó đạo đức là một yếu tố của nó, Mác viết: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ
cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng". Tiếp
tục và cụ thể hóa tư tưởng của Mác về tính qui định của cơ sở kinh tế đối với
ý thức xã hội nói chung và đạo đức nói riêng, Ăngghen đã luận chứng cho bản
chất xã hội của đạo đức bằng cách cử chỉ ra tính thời đại, tính dân tộc và tính
giai cấp của đạo đức.

18
* Tính thời đại:
Trong tác phẩm "Chống Đuy-rinh" Ph. Ăngghen đã chỉ ra mối quan hệ
của các thời đại đối với các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức với tính cách
là biểu hiện về mặt đạo đức của các thời đại kinh tế.
Phê phán quan điểm của Đuyrinh về những chân lý đạo đức vĩnh cửu,
Ăngghen đã khẳng định rằng, thực chất và xét đến cùng, các nguyên tắc, các
chuẩn mực, các quan điểm đạo đức chẳng qua là sản phẩm của các chế độ kinh
tế, các thời đại kinh tế mà thôi. Lấy ví dụ về nguyên tắc không được ăn cắp,
Ăngghen cho rằng đó không phải là một nguyên tắc, một chân lý vĩnh cửu gắn
liền với bản chất trừu tượng của con người. Nguyên tắc này có cơ sở kinh tế của
nó và nó sẽ mất ý nghĩa khi cơ sở kinh tế của nó không còn nữa. Ông viết: "Từ
khi sở hữu tư nhân về động sản phát triển thì tất cả các xã hội có chế độ sở hữu
tư nhân ấy, tất phải có một lời răn chung về đạo đức: không được trộm cắp".
Vậy, là chỉ từ khi có sở hữu tư nhân, người ta mới yêu cầu bảo vệ nó. Trước khi
có sở hữu tư nhân, không thể có nguyên tắc đạo đức không được trộm cắp. Cũng
như vậy, "trong một xã hội mà mọi động cơ trộm cắp bị loại trừ" nghĩa là
trong xã hội cộng sản chủ nghĩa, lời răn đạo đức đó sẽ không có ý nghĩa nữa.
Tính qui định của thời đại đối với đạo đức cho ta quan niệm khoa học
về loại hình đạo đức. Mặc dù đạo đức có qui luật vận động nội tại, có sự kế
thừa, có sự lệch pha nào đó đối với cơ sở sản sinh ra nó nhưng về căn bản,
tương ứng với một chế độ kinh tế, mỗi phương thức sản xuất và do đó mỗi hình
thái kinh tế - xã hội là một hình thái đạo đức nhất định. Đạo đức nguyên thủy,

đạo đức chiếm hữu nô lệ, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản và sau đó, đạo đức
Cộng sản chủ nghĩa là những thời đại tiến triển dần dần của đạo đức nhân loại.
* Tính dân tộc:
Cùng với tính thời đại, tính dân tộc là một trong những biểu hiện bản
chất xã hội của đạo đức. Có thể nhìn nhận tính dân tộc như là sự biểu hiện đặc

19
thù tính thời đại của đạo đức trong các dân tộc khác nhau. Không phải các học
thuyết đạo đức trước Mác không thấy sự khác biệt trong đời sống đạo đức của
các dân tộc. Có điều, việc giải thích sự khác biệt ấy hoặc là dựa trên cơ sở tôn
giáo hoặc là dựa trên các quan niệm duy tâm triết học nên không đúng đắn…
Coi đạo đức như là một hình thái ý thức xã hội, các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác đã đặt cơ sở khoa học cho việc luận chứng tính dân tộc
của đạo đức. Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức đạo đức vừa chịu chi
phối bởi tồn tại xã hội, vừa chịu ảnh hưởng của các hình thái ý thức xã hội
khác (chính trị, triết học, nghệ thuật, tôn giáo …). Tổng thể những nhân tố
ấy trong mỗi dân tộc là sự khác biệt nhau, tạo thành bản sắc dân tộc. Bản sắc
ấy được phản ảnh vào đạo đức nên tính độc đáo của các quan niệm, các
chuẩn mực, cách ứng xử đạo đức, nghĩa là tạo nên tính độc đáo trong đời
sống đạo đức của mỗi dân tộc. Nhìn nhận tính độc đáo và sự khác biệt ấy về
mặt dân tộc trong cặp khái niệm cơ bản của đạo đức, cặp khái niệm thiện-ác,
Ph. Ăngghen chỉ ra sự biến đổi của chúng qua các thời đại và dân tộc. Ông
viết: "Từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác,
những quan niệm về thiện và ác đã biến đổi nhiều đến mức chúng thường
trái ngược hẳn nhau".
* Tính giai cấp:
Trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, mỗi giai cấp có vai trò,
địa vị khác nhau trong hệ thống kinh tế, xã hội và do đó mà họ có các lợi ích
khác và đối nghịch nhau. Đạo đức với tư cách là hình thái ý thức xã hội đã
phản ảnh và khẳng định lợi ích của mỗi giai cấp. Ý thức đạo đức giúp mỗi

giai cấp hiểu được lợi ích của nó, hiểu được những cách thức, biện pháp bảo
vệ và khẳng định lợi ích giai cấp. Mặt khác, mỗi giai cấp đều sử dụng đạo đức
của mình như là công cụ bảo vệ lợi ích của mình. Như vậy, tính giai cấp của
đạo đức là sự phản ánh và sự thể hiện lợi ích của các giai cấp. Tính giai cấp
của đạo đức là biểu hiện đặc trưng của bản chất xã hội của đạo đức trong xã

20
hội có giai cấp. (vì xã hội là quan hệ người - người, quan hệ người - người
không trừu tượng mà gắn với những quan hệ kinh tế - xã hội).
Mỗi giai cấp có những lợi ích riêng đó nó cũng có những quan niệm
đạo đức, hệ thống đạo đức riêng. Những hệ thống đạo đức này có sự tác động
khác nhau, triệt tiêu nhau (nêu đối kháng), do đó mà tác động hoặc tích cực
hoặc tiêu cực đến sự phát triển và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, hệ thống đạo đức
được áp đặt cho toàn xã hội bao giờ cũng là hệ thống đạo đức của giai cấp
thống trị, mặc dù, trong cuộc sống hàng ngày, mỗi giai cấp vẫn ứng xử theo
những lợi ích trực tiếp của mình.
Do chiếm được địa vị thống trị trong đời sống xã hội, giai cấp thống trị
đã làm cho đạo đức của mình trở thành yếu tố thống trị trong đời sống xã hội.
Giai cấp thống trị nắm khâu tuyên truyền điều khiển toàn bộ quá trình
sản xuất tinh thần, trong đó có sản xuất các giá trị đạo đức phù hợp với lợi ích
giai cấp của nó, và buộc mọi thành viên trong xã hội phải tuân thủ những
chuẩn mực đạo đức này. Từ đó, nó trở thành cái phổ biến trong xã hội và
được củng cố thành thói quen, phong tục, tâm lý. Vì vậy, nó có sức sống dai
dẳng trong tâm lý xã hội và cá nhân.
Còn giai cấp bị trị, do bị tước đoạt mất những điều kiện và tư liệu sản
xuất tinh thần các giai cấp bị thống trị không thể phát triển đạo đức của mình
ngang tầm với đạo đức của giai cấp thống trị. Hệ thống này luôn bị chèn ép và
do đó kém phát triển. Đạo đức của giai cấp bị trị không đủ điều kiện để ảnh
hưởng đến toàn bộ các thành viên của giai cấp mình. Nó tồn tại như cái không
chính thống, không phổ biến bằng đạo đức của giai cấp thống trị. Vì các giai

cấp thống trị không có điều kiện để sản xuất, tuyên truyền và sử dụng đạo đức
của mình trên phạm vi toàn xã hội.
* Tính nhân loại:
Trong xã hội có giai cấp, đạo đức mạng tính giai cấp nhưng không
phải vì vậy mà phủ nhận tính nhân loại chung của đạo đức.

21
Không thể thổi phồng tính nhân loại chung của đạo đức để đi đến
những quan niệm sai lệch về đạo đức trừu tượng, về đạo đức phổ biến phi lịch
sử, chẳng có tác dụng gì trong thực tiễn. Nhưng cũng không được phủ nhận
tính nhân loại của đạo đức. Tính nhân loại của đạo đức tồn tại ở hình thức
thấp là biểu hiện của những quy tắc đơn giản, thông thường nhưng lại cần
thiết để bảo đảm trật tự bình thường cho cuộc sống hàng ngày của con người.
Biểu hiện cao hơn trong tính nhân loại của đạo đức lại ở những giá trị đạo đức
tiến bộ nhất trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử những giá trị đạo đức
này thường thường là những giá trị đạt được ở giai cấp tiến bộ nhất trong từng
giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại. Đi đến tột đỉnh các giá trị đạo đức
của giai cấp tiến bộ của từng thời kỳ lịch sử, nhân loại sẽ bắt gặp đạo đức của
mình tương ứng với các thời kỳ lịch sử đó.
1.3.2. Bản chất của pháp luật
Học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật lần đầu tiên trong
lịch sử, đã giải thích một cách đúng đắn, khoa học về bản chất của pháp luật
và những mối quan hệ của nó và các hiện tượng khác trong xã hội có giai cấp.
Theo học thuyết Mác - Lênin, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển
trong xã hội có giai cấp. Bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của
nó, không có pháp luật tự nhiên hay pháp luật không mang tính giai cấp. Tuy
nhiên, nói như vậy không có nghĩa là pháp luật chỉ có duy nhất tính giai cấp,
pháp luật do Nhà nước, đại diện chính thức của toàn xã hội ban hành nên nó
còn mang tính xã hội.
* Tính giai cấp của pháp luật:

Tính giai cấp của pháp luật thể hiện trước hết ở chỗ, pháp luật phản
ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị. C. Mác và Ph. Ăngghen khi nghiên
cứu về pháp luật tư sản đã đi đến kết luận: "Pháp luật tư sản chẳng qua chỉ là
ý chí giai cấp tư sản được đề lên thành luật, cái ý chí mà nội dung của nó là

×