Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực công chứng ( qua thực tế tại thành phố Hải Phòng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.63 KB, 112 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NINH VĂN CHINH





HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC
CÔNG CHỨNG
(QUA THỰC TẾ TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG)




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI - 2009





MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: công chứng và pháp luật về công chứng
6
1.1.
Khái niệm công chứng
6
1.2.
Pháp luật trong lĩnh vực công chứng
15
1.3.

Tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện của pháp luật về công chứng
30
1.3.1.
Tính toàn diện
30
1.3.2.
Tính đồng bộ
33
1.3.3.
Tính phù hợp
35
1.3.4.
Tính minh bạch
37
1.3.5.
Kỹ thuật lập pháp
39


Chương 2: Thực trạng pháp luật về công chứng nước ta và thực hiện
pháp luật công chứng tại thành phố Hải Phòng
42
2.1.
Thực trạng pháp luật về công chứng nước ta
42
2.2.
Thực hiện pháp luật công chứng tại thành phố Hải Phòng
65
2.2.1.
Quá trình hình thành tổ chức và hoạt động của công chứng

tại Hải Phòng
65
2.2.2.
Những vướng mắc và khó khăn trong quá trình thực hiện
hoạt động công chứng ở Hải Phòng
71



Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả của hoạt động công chứng
77
3.1.
Phương hướng hoàn thiện
77
3.2.
Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của
hoạt động công chứng
86
3.2.1.
Hệ thống hóa pháp luật liên quan đến lĩnh vực công chứng
86
3.2.2.
Cần phân biệt rõ hoạt động công chứng và hoạt động chứng
thực
86
3.2.3.
Thành lập trung tâm lưu trữ, thông tin công chứng tại các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
89

3.2.4.
Sự cần thiết phải đưa các giao dịch thông qua công chứng
90
3.2.5.
Xây dựng cơ chế bảo đảm giá trị văn bản công chứng
92
3.2.6.
Xây dựng được các chế định pháp luật liên quan đảm bảo
cho hoạt động công chứng được thực hiện hiệu quả
94
3.2.7.
Xây dựng lộ trình, định hướng phát triển công chứng
97
3.2.8.
Xây dựng đội ngũ Công chứng viên chất lượng cao, phẩm
chất tốt
100

Kết luận
103

Danh mục tài liệu tham khảo
104


1
mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, hoạt động công chứng đã thể hiện vai trò quan

trọng trong đời sống kinh tế, xã hội của đất n-ớc, góp phần thúc đẩy sự phát
triển nền kinh tế thị tr-ờng định h-ớng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm an toàn
pháp lý, tạo ra môi tr-ờng pháp lý ổn định cho các giao dịch dân sự, kinh tế
th-ơng mại của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài n-ớc. Bên cạnh những kết
quả đạt đ-ợc, trong quá trình phát triển lĩnh vực công chứng n-ớc ta cũng đã
bộc lộ những hạn chế, bất cập cả về mặt tổ chức và hoạt động làm ảnh h-ởng
đến các hoạt động giao l-u dân sự, kinh tế, th-ơng mại của xã hội, hạn chế sự
phát triển của nền kinh tế thị tr-ờng cũng nh- sự hội nhập của nền kinh tế
n-ớc ta với khu vực và trên thế giới đồng thời cũng làm giảm đi hiệu quả quản
lý của nhà n-ớc trong lĩnh vực này. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên phần
lớn là do hệ thống pháp luật n-ớc ta nói chung và trong lĩnh vực công chứng
nói riêng ch-a đồng bộ, ch-a hoàn chỉnh còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo,
nhiều quy định không còn phù hợp với sự phát triển. Mặc dù Luật Công chứng
đã ra đời đã giải quyết đ-ợc một số v-ớng mắc nh-ng những hạn chế nêu trên
vẫn ch-a đ-ợc giải quyết một cách triệt để. Mặt khác trong quá trình thực
hiện, Luật Công chứng lại nảy sinh một số v-ớng mắc cần tháo gỡ, một số quy
định mang tính chủ quan của các nhà làm luật làm mất đi tính năng động của
hoạt động này, một số quy định dù mới ra đời nh-ng đã không theo kịp sự
phát triển của xã hội. Vấn đề đặt ra là phải tiếp tục hoàn thiện các quy định
của pháp luật trong lĩnh vực công chứng tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt
động công chứng phát triển.
Là một ng-ời trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực công chứng trong nhiều
năm, chứng kiến sự phát triển của hoạt động công chứng với những thành công
đã đạt đ-ợc và những hạn chế còn tồn tại trong những năm qua trên cả n-ớc

2
cũng nh- tại thành phố Hải Phòng. Cùng với việc muốn làm sáng tỏ một số vấn
đề về lý luận và thực tiễn trong tổ chức và hoạt động công chứng. Đi sâu vào
nghiên cứu các quy định của pháp luật trong lĩnh vực công chứng tìm ra những
hạn chế, bất cập, những v-ớng mắc trong quá trình hoạt động và nguyên nhân

dẫn đến tình trạng đó. Đ-a ra ph-ơng h-ớng và đề xuất các giải pháp hoàn
thiện pháp luật trong lĩnh vực này nhằm thúc đẩy sự phát triển của hoạt động
công chứng, đồng thời đánh giá đ-ợc vai trò quan trọng của công chứng đối với
xã hội, đó là lý do tôi chọn đề tài: "Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực công
chứng (qua thực tế tại thành phố Hải Phòng)" để làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hoàn thiện pháp luật trong
lĩnh vực công chứng nói riêng là một yêu cầu cấp thiết trong mọi giai đoạn. Là
một hoạt động có ảnh h-ởng lớn đến các quan hệ xã hội trong giao l-u kinh
tế, dân sự, th-ơng mại nên đã có nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu
liên quan đến lĩnh vực công chứng của n-ớc ta. Những công trình này nghiên
cứu chế định công chứng d-ới nhiều góc độ khác nhau và đóng góp rất lớn về
mặt lý luận trong việc làm rõ một số vấn đề về công chứng. Tr-ớc hết phải kể
đến công trình nghiên cứu mang tên: "Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và
hoàn thiện tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam", Đề tài cấp Bộ, mã
số 92-98-224, Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, 1993; "Công chứng nhà
n-ớc những vấn đề lý luận và thực tiễn ở n-ớc ta", Luận văn Thạc sĩ Luật học
của tác giả Trần Ngọc Nga; "Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác
định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản
công chứng ở n-ớc ta hiện nay", Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Đặng
Văn Khanh; "Thẩm quyền của ủy ban nhân dân trong lĩnh vực thực hiện các
việc công chứng", Luận văn Thạc sĩ Luật học của Lê Thị Thúy; "Công chứng ở
Cộng hòa Pháp và ở một số n-ớc theo hệ La-tinh" của tác giả Nguyễn Văn
Toàn; "Tổ chức và hoạt động công chứng nhà n-ớc ở n-ớc ta hiện nay", Luận
án Tiến sĩ Luật học của D-ơng Khánh; "Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam

3
hiện nay" của tác giả Lê Thị Ph-ơng Hoa. " Nghiên cứu so sánh pháp luật về
công chứng một số n-ớc trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa
học cho việc hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay", Luận

án Tiến sĩ luật học của tác giả Tuấn Đạo Thanh; bài "Công chứng, chứng thực
ở Việt Nam - Thực trạng và định h-ớng phát triển" của tác giả Phạm Văn Lợi,
đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 7/2002; "Một số vấn đề về bổ trợ t-
pháp" của tác giả Lê Đức Tiết do nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát hành
năm 2003; bài "Một số ý kiến về đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan
công chứng" của tác giả Lê Khả đăng trên báo Pháp luật, ngày 18/2/2003;
"Công chứng, chứng thực trong điều kiện cải cách hành chính và cải cách t-
pháp" của tác giả Trần Thất, đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 6/2004;
"Cần phân biệt công chứng và chứng thực" của tác giả Nguyễn Thị Thu
Ph-ơng, đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 8/2006
Ngoài một vài công trình ra đời sau, còn hầu hết đều đ-ợc hoàn thành
tr-ớc khi có Luật Công chứng, do vậy những điểm hạn chế và thiếu sót của
Luật Công chứng ch-a đ-ợc nghiên cứu và chỉ ra. Mặt khác, điều kiện kinh tế
xã hội của n-ớc ta trong giai đoạn này đã có nhiều thay đổi nhất là từ khi tham
gia và trở thành thành viên của Tổ chức Th-ơng mại Thế giới (WTO), làm phát
sinh nhiều quan hệ xã hội liên quan đến các giao l-u kinh tế, dân sự, th-ơng
mại của các cá nhân và tổ chức trong và ngoài n-ớc. Những thay đổi đó tác
động mạnh mẽ đến toàn bộ hệ thống pháp luật n-ớc ta trong đó có chế định
pháp luật công chứng, đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nói
chung và pháp luật trong lĩnh vực này.
3. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn đ-ợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
và t- t-ởng Hồ Chí Minh về Nhà n-ớc và pháp luật; quan điểm, ph-ơng h-ớng của
Đảng, Nhà n-ớc ta về cải cách hành chính, cải cách t- pháp, về xây dựng Nhà
n-ớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

4
Luận văn đ-ợc hoàn thành dựa trên thực tiễn hoạt động công chứng ở
Việt Nam trong những năm qua và trong giai đoạn hiện tại. Lấy các số liệu,
liên hệ thực tế tại địa ph-ơng Hải Phòng làm căn cứ chứng minh, dẫn chứng

cho các kết luận đã phân tích.
4. Mục đích của đề tài
Khái quát đ-ợc quá trình phát triển của pháp luật công chứng ở n-ớc
ta. Phân tích và đánh giá về thực trạng pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở đó phân tích và đánh giá các yếu tố tác động đến hoạt động công
chứng, xu thế phát triển chung của thế giới và liên hệ pháp luật n-ớc ta trong
quá trình hội nhập.
Rà soát lại các quy định của pháp luật tìm ra sự hạn chế v-ớng mắc và
đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực công chứng và nâng cao
hiệu quả của hoạt động công chứng. Góp phần thực hiện mục tiêu cải cách t-
pháp cũng nh- cải cách nền hành chính nhà n-ớc trong công cuộc xây dựng
nhà n-ớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
5. Đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu quá trình và xu h-ớng phát triển của pháp luật công chứng
trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế. Đi sâu phân tích các quy định
của pháp luật trong lĩnh vực công chứng và các chế định pháp luật khác có ảnh
h-ởng tới công chứng. Đồng thời cũng nghiên cứu và phân tích các yếu tố tác
động đến sự phát triển hoặc kìm hãm sự phát triển của hoạt động công chứng.
Luận văn cũng tham khảo một số nội dung của pháp luật các n-ớc trên thế
giới để phân tích đánh giá khi áp dụng trong một số tr-ờng hợp. Trong phạm
vi luận văn này không nghiên cứu các quy định liên quan đến việc công chứng
của cơ quan đại diện Việt Nam ở n-ớc ngoài.
6. Ph-ơng pháp nghiên cứu của đề tài
Sử dụng ph-ơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin làm ph-ơng pháp nghiên cứu chủ đạo. Ngoài ra còn sử

5
dụng một số ph-ơng pháp khác nh-: thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh,
khái quát hóa để đi sâu nghiên cứu những vấn đề cụ thể. Trong một số
tr-ờng hợp chúng tôi sử dụng tổng hợp các ph-ơng pháp trên để nghiên cứu

làm sáng tỏ một số vấn đề phức tạp.
7. Đóng góp của đề tài
Đề tài đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề mang tính lý luận và
thực tiễn trong lĩnh vực công chứng trên một số ph-ơng diện nh-: khái niệm,
bản chất, phạm vi, mục đích, chức năng, chủ thể và quản lý công chứng.
Khẳng định đ-ợc tầm quan trọng của chế định này trong việc bảo đảm an toàn
pháp lý, tạo ra môi tr-ờng pháp lý ổn định cho các giao dịch dân sự, kinh tế
th-ơng mại của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài n-ớc. Đánh giá đ-ợc thực
trạng pháp luật công chứng n-ớc ta. Đ-a ra các tiêu chí để đánh giá mức độ
hoàn thiện và đề ra ph-ơng h-ớng hoàn thiện của pháp luật trong lĩnh vực
công chứng. Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật trong
lĩnh vực công chứng và nâng cao hiệu quả của hoạt động công chứng.
Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho công tác học tập nghiên cứu,
đồng thời là nguồn tài liệu tham khảo giúp cho việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật trong lĩnh vực công chứng của các cơ quan nhà n-ớc.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 ch-ơng:
Ch-ơng 1: Công chứng và pháp luật về công chứng.
Ch-ơng 2: Thực trạng pháp luật về công chứng n-ớc ta và thực hiện
pháp luật công chứng tại thành phố Hải Phòng
Ch-ơng 3: Ph-ơng h-ớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả của hoạt động công chứng.

6
Ch-ơng 1
Công chứng và pháp luật về công chứng

1.1. Khái niệm công chứng
Công chứng là một thuật ngữ đ-ợc sử dụng nhiều trong những năm

gần đây cả trong các văn bản pháp luật và trong các giao dịch dân sự của các
cá nhân và tổ chức. Nh-ng trên thực tế, đến nay về mặt lý luận, khái niệm
công chứng ch-a đ-ợc làm rõ, mới chỉ đ-ợc thể hiện thông qua các văn bản
pháp lý về công chứng. Để nghiên cứu các quy định của pháp luật trong lĩnh
vực này, tr-ớc hết chúng ta phải làm rõ khái niệm công chứng trên ph-ơng
diện lý luận từ đó nghiên cứu các vấn đề khác liên quan đến công chứng.
Lịch sử phát triển của công chứng Việt Nam đ-ợc đánh dấu bằng sự ra
đời của Thông t- số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ T- pháp (sau đây
gọi là Thông t- số 574/QLTPK), dù các quy định còn ở mức sơ khai và chứa
đựng nhiều hạn chế về mặt lập pháp nh-ng đó là một thông t- có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng, đặt nền móng cho hệ thống công chứng ở Việt Nam. Thông t-
này ra đời trong hoàn cảnh, điều kiện kinh tế của n-ớc ta tuy vừa b-ớc vào
thời kỳ đổi mới song t- t-ởng và các thói quen trong thời bao cấp vẫn còn là
gánh nặng đối với nền kinh tế, thì đây đ-ợc coi là b-ớc đột phá về t- duy pháp
luật. Những năm sau đó, là sự ra đời của các Nghị định: Nghị định số
45/HĐBT ngày 27/2/1991 của Hội đồng Bộ tr-ởng (nay là Chính phủ) về tổ
chức và hoạt động công chứng nhà n-ớc (sau đây gọi tắt là Nghị định
45/HĐBT), Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và
hoạt động công chứng nhà n-ớc (sau đây gọi tắt là Nghị định 31/CP), Nghị
định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng
thực (sau đây gọi tắt là Nghi định 75/CP). Trong tất cả những văn bản pháp lý
này đều đ-a ra khái niệm công chứng và ở một chừng mực nào đó đã phản ánh

7
đ-ợc một phần bản chất của công chứng. Theo các thông t-, nghị định trên
công chứng đ-ợc xác định nh- sau:
Thông t- số 574/QLTPK:
Công chứng nhà n-ớc là một hoạt động của Nhà n-ớc, nhằm
giúp công dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự
kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm

cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng hoạt động
trên, công chứng nhà n-ớc tạo ra những bảo đảm pháp lý để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù
hợp với Hiến pháp và pháp luật của n-ớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết
các tranh chấp đ-ợc thuận lợi, góp phần tăng c-ờng pháp chế xã hội
chủ nghĩa [2, tr. 1].
Theo Nghị định 45/HĐBT:
Công chứng nhà n-ớc là việc chứng nhận tính xác thực của
các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà n-ớc, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức) góp phần
phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng c-ờng pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các hợp đồng và giấy tờ đã đ-ợc công chứng có giá trị chứng
cứ [22, Điều 1].
Theo Nghị định số 31/CP:
Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp
đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà n-ớc, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức) góp phần phòng
ngừa vi phạm pháp luật, tăng c-ờng pháp chế xã hội chủ nghĩa.

8
Các hợp đồng, giấy tờ đã đ-ợc công chứng nhà n-ớc chứng
nhận hoặc ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá
trị chứng cứ, trừ tr-ờng hợp bị tòa án nhân dân tuyên bố là vô
hiệu [7, Điều 1].
Theo Nghị định 75/CP:
Công chứng là việc Phòng Công chứng chứng nhận tính xác
thực của hợp đồng đ-ợc giao kết hoặc giao dịch khác đ-ợc xác lập

trong quan hệ dân sự, kinh tế, th-ơng mại và quan hệ xã hội khác
(sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo
quy định của Nghị định này [8, khoản 1 Điều 2].
Phân tích các quy định trên ta thấy rằng khái niệm công chứng đã từng
b-ớc đ-ợc phát triển và đ-ợc xác định cụ thể, rõ ràng hơn qua từng giai đoạn.
Thông t- số 574/QLTPK và Nghị định 45/HĐBT sử dụng khái niệm công
chứng nhà n-ớc đến Nghị định 31/CP thì cụm từ "công chứng nhà n-ớc" đã
đ-ợc thay bằng "công chứng". Và nếu so sánh Nghị định số 45/HĐBT với
Nghị định số 31/CP thì Nghị định số 31/CP có nhiều thay đổi hơn, b-ớc đầu
có sự phân biệt hành vi công chứng và hành vi chứng thực, nh-ng đây chỉ là sự
phân biệt dựa trên chủ thể thực hiện hoạt động công chứng, chứng thực. Cùng
một loại việc nếu đ-ợc thực hiện bởi Công chứng viên của các Phòng Công
chứng thì gọi là công chứng, nh-ng nếu đ-ợc thực hiện tại ủy ban nhân dân
thì gọi là chứng thực. Đến Nghị định số 75/2000/NĐ-CP b-ớc đầu đã có sự
phân biệt giữa khái niệm công chứng và chứng thực. Tại Nghị định này ngoài
việc nêu ra khái niệm công chứng thì khái niệm chứng thực cũng đ-ợc quy
định: "là việc ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp
đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực
hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này" (khoản 2 Điều 2).
Đi sâu vào phân tích khái niệm này thấy rằng không có sự khác biệt nhiều so
với Nghị định 31/CP, việc phân biệt công chứng và chứng thực vẫn chỉ dựa

9
trên dấu hiệu duy nhất đó là chủ thể của hai hoạt động này. Điểm mới nhất
trong khái niệm này nêu ra đ-ợc chủ thể của hoạt động công chứng, đó là
Phòng Công chứng. Nh-ng ở điểm này cũng chứa đựng bất hợp lý, vì chủ thể
của hoạt động công chứng thực chất không phải là Phòng Công chứng mà là
cá nhân Công chứng viên. Quy định nh- vậy, một mặt làm giảm đi vai trò của
Công chứng viên, đồng thời trách nhiệm cá nhân của Công chứng viên cũng bị
giảm đi, nó phản ánh không đúng bản chất của sự việc. Mặt khác, trong nội

dung của Nghị định này lại quy định ng-ời thực hiện công chứng là Công
chứng viên, nh- vậy dẫn đến sự mâu thuẫn ngay trong cùng một văn bản:
Ng-ời thực hiện công chứng, chứng thực bao gồm:
1. Công chứng viên của Phòng Công chứng;
2. Ng-ời đ-ợc ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã giao thực
hiện việc chứng thực theo quy định của Nghị định này;
3. Viên chức lãnh sự của Cơ quan đại diện Việt Nam ở n-ớc
ngoài [7, Điều 5].
Sự can thiệp quá sâu của nhà n-ớc vào tổ chức và hoạt động công chứng
trong thời gian qua làm cho thể chế công chứng chậm phát triển, làm giảm đi
vai trò quan trọng của công chứng đối với sự phát triển của xã hội. Chế định
công chứng bị bóp méo, tổ chức và hoạt động giống nh- một cơ quan hành
chính nhà n-ớc. Xuất phát từ nhận thức nh- vậy nên các quy định về công
chứng trong các văn bản pháp lý không phán ánh đ-ợc bản chất công chứng.
Chính vì ch-a làm rõ đ-ợc bản chất, khái niệm công chứng lên nội
dung của các văn bản pháp luật quy định về công chứng nêu trên còn chứa
đựng nhiều hạn chế và bất cập. Để hoạt động công chứng phát triển theo đúng
quy luật đáp ứng đòi hỏi của xã hội trong giai đoạn của mới của đất n-ớc, nhất
là khi n-ớc ta trở thành thành viên của Tổ chức Th-ơng mại Thế giới (WTO)
thì yêu cầu cần phải hoàn thiện toàn hệ thống pháp luật nói chung cũng nh- về

10
chế định công chứng nói riêng là một nhiệm vụ cấp thiết cần phải đ-ợc thực
hiện. Việc cần phải có một văn bản pháp lý chuyên ngành cao hơn Nghị định
để điều chỉnh một cách toàn diện và đồng bộ lĩnh vực công chứng là một nhu
cầu cấp thiết. Do vậy, ngày 29 tháng 11 năm 2006, tại kỳ họp thứ 10, Quốc
hội n-ớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI đã thông qua Luật
Công chứng và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007.
Khái niệm công chứng theo Luật Công chứng đ-ợc quy định nh- sau:
"Công chứng là việc Công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp

của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn
bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự
nguyện yêu cầu công chứng" [38, Điều 2].
Điểm nổi bật và tạo ra sự khác biệt lớn so với các văn bản pháp lý
tr-ớc đó trong quy định về khái niệm công chứng tại Luật Công chứng là việc
đã chỉ ra chính xác chủ thể của hoạt động công chứng đó là Công chứng viên.
Có thể nói đây là b-ớc đột phá trong việc nhận thức bản chất của hoạt động
công chứng của các nhà làm luật. Chính vì nhận thức đ-ợc bản chất chế định
này nên trong nội dung của Luật Công chứng chứa đụng nhiều quy định khác
biệt, tiến bộ hơn so với những văn bản tr-ớc đây. Theo khái niệm này, ngoài
việc chứng nhận tính xác thực Công chứng viên còn phải chứng nhận cả tính
hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch. Tính xác thực thể hiện thỏa thuận, nội
dung của các hợp đồng, giao dịch là có thật và đúng với ý chí của các bên
tham gia: Công chứng viên không những phải khẳng định chính xác ng-ời yêu
cầu công chứng, nội dung thỏa thuận là hợp pháp và đ-ợc xác lập dựa trên
giấy tờ, tài liệu đáng tin cậy, mọi thỏa thuận cũng nh- giấy tờ, tài liệu đều phù
hợp với những gì xảy ra trên thực tế mà còn phải xác định xem thỏa thuận
của các bên đ-ơng sự có phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của họ hay không.
Nh-ng không phải mọi hợp đồng, giao dịch có thật đều đ-ợc Công chứng viên
chứng nhận, mà chỉ có những hợp đồng, giao dịch hợp pháp mới đ-ợc chứng

11
nhận. Đồng thời có những giao dịch mặc dù hợp pháp nh-ng không đảm bảo
tính xác thực cũng không đ-ợc chứng nhận. Nh- vậy điều kiện cần và đủ để
một hợp đồng, giao dịch đ-ợc công chứng đó là tính xác thực và tính hợp
pháp. Việc quy định cụ thể về tính hợp pháp của của các hợp đồng, giao dịch
trong khái niệm công chứng là một điểm mới so với các khái niệm tr-ớc đây
về công chứng.
Xác định đ-ợc chính xác bản chất công chứng sẽ đem lại nhiều luận
cứ có tính lý luận và thực tiễn vô cùng quan trọng, có ảnh h-ởng mang tính

quyết định đến mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động của thiết chế công chứng,
thông qua đó xác lập đ-ợc phạm vi, nội dung công chứng, quyền và nghĩa vụ
của cá nhân đ-ợc nhà n-ớc giao cho quyền năng này. Phân tích các khái niệm
về công chứng d-ới góc độ pháp lý qua các thời kỳ khác nhau với những văn
bản pháp lý khác nhau đã có những thay đổi nhất định trong quan niệm về
công chứng. Nó thể hiện sự thay đổi trong nhận thức về công chứng đồng thời
cũng phản ánh kỹ thuật lập pháp trong môi tr-ờng kinh tế, văn hóa, xã hội của
n-ớc ta phát triển qua từng thời kỳ. Các quy định về công chứng tuy đã thể
hiện đ-ợc bản chất công chứng một cách cụ thể nhất, ngắn gọn nhất nh-ng do
nhiều yếu tố mang tính khách quan cũng nh- chủ quan, các khái niệm trên
vẫn ch-a khái quát đ-ợc toàn bộ bản chất công chứng.
Ngoài các quy định trong các văn bản pháp lý thì khái niệm công chứng
cũng là vấn đề đ-ợc thảo luận, nghiên cứu nhiều trong thời gian qua. Tác giả
Đặng Văn Khanh đã nêu ra khái niệm công chứng trong luận án tiến sĩ Luật
học với đề tài Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi,
nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở
n-ớc ta hiện nay nh- sau: "Công chứng là việc Công chứng viên, ng-ời có
thẩm quyền công chứng tạo lập ra những văn bản, hợp đồng mà đ-ơng sự phải
hoặc muốn tạo cho chúng có giá trị pháp lý nh- những văn bản của các cơ
quan nhà n-ớc thông qua việc lập, chứng nhận và l-u giữ các văn bản, hợp
đồng đó" [26, tr. 33].

12
Tác giả D-ơng Khánh thì cho rằng:
Công chứng là việc Công chứng viên chứng nhận tính xác
thực của các hoạt động giao dịch và các sự kiện pháp lý khác theo
quy định của pháp luật hoặc theo yêu cầu, nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân tổ chức, góp phần phòng ngừa vi phạm
pháp luật, tăng c-ờng pháp chế xã hội chủ nghĩa. Văn bản công
chứng có giá trị chứng cứ và giá trị thi hành đối với cá nhân, tổ

chức có liên quan, trừ tr-ờng hợp bị Tòa án nhân dân tuyên bố là
vô hiệu [27, tr. 160].
Còn theo luật gia Lê Đức Tiết thì:
Công chứng là việc Công chứng viên hoặc ng-ời có thẩm
quyền trực tiếp chứng nhận (hoặc xác nhận) tính xác thực, tính hợp
pháp của các văn bản, hợp đồng theo quy định của pháp luật hoặc
theo yêu cầu của ng-ời có nhu cầu nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân và cơ quan nhà n-ớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, góp phần bảo đảm an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, kinh
tế, lao động, th-ơng mại và quan hệ xã hội khác, phòng ngừa vi
phạm pháp luật, tăng c-ờng pháp chế xã hội chủ nghĩa [40, tr. 165].
Một số n-ớc trên thế giới cũng có những quy định khác nhau về công
chứng. Chẳng hạn nh- Cộng hòa Pháp là n-ớc có thể chế công chứng phát
triển lâu đời nh-ng họ lại không trực tiếp đ-a ra khái niệm công chứng, mà lại
quy định thông qua việc xác định chức danh và công việc của Công chứng
viên, tại Điều 1 của Pháp lệnh số 45-2500 ngày 02/11/1945 về Điều lệ Công
chứng của n-ớc Cộng hòa Pháp quy định: "Công chứng viên là viên chức công
đ-ợc bổ nhiệm để lập các hợp đồng và văn bản mà theo đó các bên phải hoặc
muốn đem lại một tính xác thực, giống nh- các văn bản của các cơ quan công
quyền khác và để bảo đảm ngày, tháng chắc chắn, l-u giữ và cấp các bản sao
văn bản công chứng" [67, tr. 7].

13
Tại n-ớc Cộng hòa Ba Lan quy định về công chứng cũng đ-ợc thể hiện
thông qua các quy định về Công chứng viên, tại Khoản 1, Điều 1, Luật ngày
14/2/1991 quy định: "Công chứng viên đ-ợc bổ nhiệm để lập những văn bản
mà trong đó các bên phải hoặc muốn đem lại một tính đích thực" [68].
Quốc gia láng giềng Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có nhiều điểm
t-ơng đồng với Việt Nam về kinh tế, chính trị, xã hội cũng có quy định về
khái niệm công chứng một cách trực tiếp giống nh- n-ớc ta. Tại Điều 2 Luật

Công chứng n-ớc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định:
Công chứng là hành vi đ-ợc thực hiện bởi một Văn phòng công chứng
theo đơn yêu cầu của đ-ơng sự để xác nhận tính xác thực và hợp pháp của
hành vi dân sự có tính pháp lý, một tình tiết có giá trị pháp lý hay một tài liệu
theo thủ tục pháp luật quy định.
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là quốc gia tồn tại nhiều tr-ờng phái công
chứng, nh-ng các quy định về công chứng lại rất đơn giản. Họ không trực
tiếp quy định thế nào là công chứng mà cũng đ-ợc quy định thông qua các
quy định về Công chứng viên: "Công chứng viên là công bộc (public servant)
do chính quyền bang bổ nhiệm để làm chứng (chứng kiến) việc ký kết các tài
liệu, (văn kiện) quan trọng và làm lễ tuyên thệ" (theo khái niệm Công chứng
viên của Hiệp hội Công chứng Quốc gia - National Notary Association -
NNA) [Dẫn theo: 39, tr. 14] hoặc quy định "Công chứng viên là công chức
(public officer) chuyên làm chứng (chứng kiến) việc ký kết các tài liệu (văn
kiện) và xác nhận chữ ký trên các tài liệu (văn kiện) với t- cách là một ng-ời
làm chứng trung thực, vô t- (impartial witness). Công chứng viên cũng có
quyền làm lễ tuyên thệ và xác nhận" (theo khái niệm Công chứng viên của
Bang New Jersey) [Dẫn theo 39, tr. 14]
Qua phân tích các khái niệm của một số luật gia, chuyên gia pháp lý
và các quy định của một số n-ớc trên thế giới nhận thấy nhiều điểm chung
trong quan niệm về công chứng. Khẳng định công chứng là hành vi của Công

14
chứng viên nhằm tạo lập, làm chứng và chứng nhận tính xác thực, tính hợp
pháp của các hợp đồng, giao dịch nhằm xác lập chứng cứ và có giá trị thi hành
cao. Việc đ-a ra khái niệm công chứng phải căn cứ vào bản chất của thể chế
này, hoạt động công chứng phải đ-ợc hiểu nh- là một loại hình dịch vụ công,
nó phải đ-ợc tách khỏi hoạt động hành chính nhà n-ớc; các cá nhân đ-ợc bổ
nhiệm làm Công chứng viên sử dụng quyền lực nhà n-ớc một cách gián tiếp
khác hẳn với những công chức, viên chức nhà n-ớc, họ là những ng-ời nhân

danh nhà n-ớc sử dụng trực tiếp quyền lực công để thực hiện công việc của
mình; hoạt động công chứng là hoạt động làm chứng, t- vấn, chứng nhận của
Công chứng viên đối với các hợp đồng, giao dịch có thật và hợp pháp của các
cá nhân và tổ chức trong xã hội; thông qua hoạt động này, ý chí của các bên
tham gia hợp đồng, giao dịch đ-ợc đảm bảo thực hiện và khi có tranh chấp
phát sinh thì nó cung cấp chứng cứ cho các cơ quan hữu quan, các chứng cứ
này không phải chứng minh. Hoạt động của Công chứng viên không chỉ đơn
thuần là việc chứng nhận các hợp đồng, giao dịch. Để chứng nhận các việc đó
thì Công chứng viên phải thông qua ý chí của các bên thể hiện nó bằng một
văn bản (đối với những việc mà Công chứng viên phải tự soạn văn bản), kiểm
tra ý chí của các bên đã đ-ợc thể hiện đúng hay ch-a, các ý chí, thỏa thuận đó
có hợp pháp hay không ((đối với những việc mà Công chứng viên phải kiểm
tra các văn bản đã soạn sẵn). Khi có bất đồng giữa các bên thì Công chứng
viên phải làm công tác hòa giải thông qua việc t- vấn cho các bên về quyền và
nghĩa vụ của họ để kéo dần ý chí họ về gần với nhau hơn trong các giao dịch.
Đ-ơng nhiên chức năng t- vấn này của Công chứng viên phải mang tính
khách quan, không thiên vị. Qua việc nghiên cứu bản chất công chứng, tham
khảo một số khái niệm trên và qua thực tế hoạt động công chứng ng-ời viết
xin đ-a ra khái niệm công chứng nh- sau:
Công chứng là hành vi của Công chứng viên nhằm tạo lập và chứng
nhận tính xác thực, tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch bằng văn bản.
Văn bản đ-ợc công chứng có giá trị chứng cứ và giá trị thi hành.

15
1.2. Pháp luật trong lĩnh vực công chứng
Vai trò của hoạt động công chứng trong thời kỳ mới hình thành là hoạt
động làm chứng của các cá nhân đối với một hành vi hay một sự kiện nào đó
trong xã hội. Hoạt động này ban đầu mang tính tự phát, nh-ng cùng với sự
phát triển của xã hội, nhu cầu về hoạt động làm chứng ngày càng cao và vai
trò của hoạt động này càng đ-ợc khẳng định trong cuộc sống. Nhà n-ớc với t-

cách là một chủ thể quản lý cao nhất và toàn diện mọi vấn đề trong xã hội đã
có những quy định thừa nhận hoạt động này bằng một chế định pháp luật để
nhà n-ớc thực hiện chức năng quản lý của mình. Mỗi khu vực, quốc gia, vùng
lãnh thổ trên thế giới với những điều kiện lịch sử, xã hội và điều kiện tự nhiên
nhất định hình thành lên chế định này một cách khác nhau.
Hiện nay trên thế giới có ba hệ thống công chứng: Hệ thống công chứng
Anglo - Saxon t-ơng ứng với hệ thống pháp luật Anglo - Saxon (Common
Law); hệ thống công chứng Latin t-ơng ứng với hệ thống luật La Mã (còn gọi
là hệ thống pháp luật dân sự - Civil Law hay luật viết); và hệ thống công chứng
Collectiviste (công chứng tập thể) hay còn gọi là hệ thống công chứng nhà
n-ớc bao cấp t-ơng ứng với hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa (Sovietique).
Qua nghiên cứu, phân tích và tham khảo các tài liệu nhận thấy mỗi hệ thống
công chứng có những đặc tr-ng riêng cùng với những -u thế và hạn chế nhất
định nh- sau:
Hệ thống công chứng Anglo-saxcon: ở các n-ớc theo hệ thống này thể
chế công chứng không đ-ợc thiết lập. Điều đó có nghĩa là nhà n-ớc không
thừa nhận một thể chế công chứng, không bổ nhiệm một chức danh hoạt động
công chứng chuyên nghiệp. Thay vào đó, một số việc công chứng ở các n-ớc
theo hệ thống này đ-ợc giao cho luật s-, hộ tịch viên, cố vấn pháp lý của nhà
thờ thực hiện theo ph-ơng thức kiêm nhiệm. Tuy nhiên, pháp luật ở các n-ớc
theo hệ thồng này cũng có những quy định về điều kiện của những ng-ời thực
hiện công việc này. Tr-ớc khi đ-ợc kiêm nhiệm các việc công chứng, họ phải

16
có thâm niên tối thiểu một số năm hành nghề luật s- thuộc Hiệp hội Luật s-
hoặc đã có một thời gian làm hộ tịch viên hay cố vấn pháp lý của Giáo hội.
Các nhân viên ngoại giao cũng đ-ợc giao thẩm quyền thực hiện một số việc
liên quan đến công chứng ở n-ớc ngoài. Đặc điểm nổi bật trong hệ thống công
chứng này đ-ợc thể hiện ở việc chứng nhận trong các văn bản chỉ mang tính
hình thức, nên có thể gọi hệ thống này với một cái tên khác là hệ thống công

chứng hình thức. Vì chỉ mang tính hình thức nên việc chứng nhận trên các văn
bản, hợp đồng th-ờng chú trọng đến việc nhận diện đúng ng-ời, ghi đúng thời
gian, địa điểm giao kết hợp đồng, ghi lại sự kiện pháp lý, nội dung thỏa thuận
của các bên hoặc ghi lại ý chí của họ, không quan tâm đến việc xác minh tình
trạng nhân thân, không buộc phải xác định hiện trạng pháp lý của tài sản,
không cần biết thỏa thuận có vi phạm điều cấm của pháp luật, đạo đức hay
không, ng-ời chứng nhận không phải chịu trách nhiệm về nội dung hợp đồng,
không phải bồi th-ờng nếu có điều khoản nào đó trong văn bản, hợp đồng gây
bất lợi cho một bên hoặc gây thiệt hại cho ng-ời thứ ba.
Chính vì chỉ mang tính hình thức lên hệ thống này có những -u điểm
nhất định: đơn giản, mềm dẻo, dễ thích nghi không bị các khuôn mẫu gò bó,
từ đó dẫn đến việc công chứng đ-ợc tiến hành nhanh tạo điều kiện cho các
Văn bản đ-ợc công chứng có điều kiện đ-ợc thực thi nhanh chóng. Hơn nữa,
do ng-ời chứng nhận chỉ chú trọng đến hình thức thì nội dung của các hợp
đồng, giao dịch cũng sẽ rất đa dạng và ng-ời yêu cầu công chứng cũng có
nhiều tự do cho sự lựa chọn của mình. Do nhà n-ớc không thừa nhận một thể
chế công chứng nên vai trò của nhà n-ớc trong việc quản lý các hoạt động xác
nhận hợp đồng, giao dịch rất mờ nhạt. Nội dung hợp đồng, giao dịch do các bên
tự thỏa thuận với nhau. Với trình độ hiểu biết pháp luật của mỗi bên khác nhau,
lợi thế đem lại cho mỗi bên cũng khác nhau và ng-ời chứng nhận không quan
tâm đến nội dung sẽ không bảo đảm đ-ợc sự công bằng trong các hợp đồng,
giao dịch và dẫn đến nhiều tranh chấp. Giá trị của văn bản đ-ợc chứng nhận
rất thấp và không đ-ợc coi là chứng cứ hiển nhiên tr-ớc Tòa án. Và nh- vậy

17
vai trò của công chứng trong việc tạo ra hành lang an toàn pháp lý cho các hợp
đồng, giao dịch, đảm bảo quyền lợi cho các bên không có cơ chế để đảm bảo.
Các n-ớc có công chứng theo mô hình này gồm: V-ơng quốc Anh, các
n-ớc trong Liên hiệp Anh, Hoa Kỳ (trừ bang Louisane), Đan Mạch, ấn Độ,
Hàn Quốc, Thái Lan

Hệ thống công chứng Collectiviste: các n-ớc theo hệ thống này có một
thể chế công chứng đ-ợc tổ chức khá chặt chẽ, hoạt động chuyên nghiệp bằng
sự bao cấp của nhà n-ớc thông qua việc cấp nhân sách hành chính để đầu t-
cho cơ sở vật chất, trả l-ơng và hoạt động. Tổ chức công chứng là một cơ quan
nhà n-ớc. Công chứng viên và phần lớn nhân viên là công chức nhà n-ớc,
h-ởng l-ơng từ nguồn ngân sách quốc gia và đ-ợc h-ởng mọi chế độ, chính
sách theo quy chế công chức. Nhà n-ớc can thiệp sâu vào mọi tổ chức và hoạt
động của công chứng do vậy hệ thống công chứng này còn đ-ợc gọi với cái
tên là hệ thống công chứng nhà n-ớc bao cấp. Những ng-ời thực hiện hoạt
động công chứng gồm: Công chứng viên, các công chức khác đ-ợc giao
nhiệm vụ kiêm nhiệm và nhân viên ngoại giao Nhiệm vụ của họ là chứng
nhận hợp đồng và văn bản, đem lại tính xác thực và tạo ra sự an toàn pháp lý
cho cá nhân, tổ chức, phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật.
Với thiết chế tổ chức và hoạt động nh- trên, Công chứng viên và những
ng-ời đ-ợc giao nhiệm vụ thực hiện công chứng có cơ sở vật chất và điều kiện
làm việc tốt. Họ yên tâm phấn đấu và công tác không bị chi phối bởi quy luật
cạnh tranh của thị tr-ờng. Tạo ra sự bình đẳng trong mọi giao dịch cho cá
nhân và tổ chức. Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ, giá trị thi hành giữa
các bên và đối với cả bên thứ ba; đem lại an toàn và đảm bảo tính hợp pháp
cho các giao dịch; phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật, làm lành
mạnh hóa các quan hệ dân sự, kinh tế, th-ơng mại, góp phần vào sự phát triển
chung của nền kinh tế. Nh-ng cũng chính thiết chế tổ chức và hoạt động theo
mô hình này làm cho mạng l-ới công chứng phát triển chậm, không đáp ứng

18
đ-ợc nhu cầu thực tế. Tạo ra thói quen ỷ lại, thụ động, làm mất đi sự năng
động và sức sáng tạo của ng-ời làm công chứng. Làm gia tăng những căn
bệnh của sự bao cấp đó là: tham nhũng, quan liêu, của quyền, lãng phí, thiếu ý
thức tiết kiệm.
Các n-ớc theo hệ thống này chủ yếu là các n-ớc trong hệ thống xã hội

chủ nghĩa cũ. Hệ thống công chứng này phát triển mạnh nhất vào những năm
từ 1970 đến 1990 bao gồm các n-ớc: Liên Xô (cũ), Ba Lan, Bungari, Hungari,
Cu Ba, Trung Quốc.
Hệ thống công chứng Latin: nhà n-ớc thừa nhận một thể chế công chứng,
Công chứng viên đ-ợc nhà n-ớc trao một phần quyền lực để thực hiện hoạt
động công chứng. Công chứng đ-ợc coi là một nghề và hoạt động này mang
tính dịch vụ công. ở những n-ớc theo hệ thống công chứng này có một hệ
thống pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động công chứng một cách chặt
chẽ, hiệu quả. Khác với các n-ớc theo hệ thống công chứng Anglo-sacxon,
khi chứng nhận Công chứng viên quan tâm nhiều đến nội dung, tính xác thực,
tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch và đ-ợc thể hiện d-ới hình hức văn
bản, do vậy cũng có thể gọi hệ thống này là hệ thống công chứng Luật viết.
Công chứng viên thể hiện tính chuyên nghiệp và trình độ của mình qua việc
hoạt động độc lập, tự chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của mình để
chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch vốn rất
đa dạng và phức tạp. Pháp luật của các n-ớc theo hệ thống này đề cao vai trò
và trách nhiệm của Công chứng viên. Đề cao giá trị của văn bản đ-ợc công
chứng, văn bản công chứng có giá trị chứng cứ hiển nhiên và giá trị thi hành.
Mô hình công chứng này tạo ra cơ chế để phát triển nhanh chóng thể chế
công chứng đồng thời cũng tạo ra an toàn pháp lý và sự bình đẳng cho các bên
tham gia giao dịch. Nh-ng hạn chế của mô hình này là thời gian hoàn thành việc
công chứng quá lâu, làm mất đi cơ hội của ng-ời có yêu cầu công chứng. Hoạt
động công chứng cần nhiều nhân lực và chi phí trong quá trình thực hiện.

19
Hệ thống này tồn tại ở hầu hết các n-ớc thuộc cộng đồng Châu Âu (trừ
Đan Mạch và Anh), Châu Phi (gồm các n-ớc là thuộc địa cũ của Pháp), các
n-ớc Châu Mỹ-Latin, bang Quebec của Canada, bang Luisane của Hoa Kỳ và
một số n-ớc Châu á nh- Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ Hiện nay, những n-ớc theo
hệ thống công chứng này đã hình thành tổ chức quốc tế của mình, đó là Liên

minh Quốc tế Công chứng Latin (UINL), bao gồm nhiều thành viên ở cả bốn
châu lục: Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi và Châu á.
So với thế giới thì công chứng của n-ớc ta còn quá non trẻ, các n-ớc
khác đã có hàng trăm năm phát triển lên họ đã hình thành đ-ợc một hệ thống
pháp luật đồng bộ, điều chỉnh có hiệu quả lĩnh vực công chứng, cùng với sự
đảm bảo về cơ sở vật chất cho sự phát triển của hoạt động này. Lợi thế mà
chúng ta có đ-ợc đó là nhìn nhận đ-ợc các mô hình công chứng đã từng và
đang tồn tại để xây dựng cho mình một mô hình hoạt động có hiệu quả nhất
phù hợp với điều kiện chính trị kinh tế xã hội của đất n-ớc. Phân tích các hệ
thống công chứng trên thế giới chúng ta thấy rằng, mặc dù ban đầu thực dân
Pháp trong quá trình xâm l-ợc và cai trị cũng đã đ-a ảnh h-ởng của pháp luật
n-ớc họ vào Việt Nam, tất nhiên có cả pháp luật liên quan đến lĩnh vực công
chứng, nh-ng công chứng n-ớc ta thời kỳ đầu giai đoạn đổi mới nền kinh tế
lại mang nặng ảnh h-ởng của hệ thống công chứng Collectiviste. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế, xã hội và thay đổi trong nhận thức của các nhà làm
luật thì các quy định của pháp luật về công chứng n-ớc ta ngày nay đang có
xu h-ớng tiến dần đến hệ thống công chứng Latinh. Nguyên nhân của hiện
t-ợng trên là vì tr-ớc đây, nền kinh tế đ-ợc tổ chức theo mô hình tập trung,
bao cấp và trong quan hệ quốc tế n-ớc ta chủ yếu giao l-u, giao th-ơng với
các n-ớc trong khối xã hội chủ nghĩa lên ảnh h-ởng của pháp luật các n-ớc
trong khối là không tránh khỏi. Sự sụp đổ của hàng loạt các n-ớc trong khối
xã hội chủ nghĩa, sự giao l-u quốc tế trong thời kỳ mới khi n-ớc ta b-ớc vào
thời kỳ đổi mới, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, xu thế xích lại gần
nhau giữa các n-ớc đã làm ảnh h-ởng không nhỏ đến pháp luật của n-ớc nhà,

20
nhất là những chế định pháp luật liên quan đến lĩnh vực quản lý kinh tế trong
đó có chế định pháp luật công chứng.
Qua thời gian dài chế định công chứng đ-ợc điều chỉnh bởi các văn
bản d-ới luật, chứa đựng giá trị pháp lý thấp không t-ơng xứng với vai trò

quan trọng của chế định này trong cuộc sống, hơn nữa vì nó có giá trị thấp nên
trong quá trình áp dụng nó th-ờng bị các văn bản luật có giá trị cao hơn phủ
định. Đến kỳ họp thứ 10 của Quốc hội n-ớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
nam khóa XI thì Luật Công chứng mới đ-ợc thông qua ngày 29 tháng 11 năm
2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007. Nh- vậy kể từ khi
Thông t- số 574/QLTPK ra đời năm 1987 sau 20 năm hình thành và phát triển
thì thể chế công chứng của n-ớc ta đã có Luật Công chứng để điều chỉnh, đáp
ứng đ-ợc thực tế khách quan đòi hỏi của xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị
tr-ờng có sự giao l-u với quốc tế làm tăng nhanh cả về số l-ợng cũng nh- tính
chất, quy mô các hợp đồng, giao dịch. Qua đó chúng ta cũng thấy rằng Đảng
và Nhà n-ớc ta đã xác định đ-ợc tầm quan trọng của hoạt động công chứng và
vai trò của nó trong đời sống xã hội. Luật Công chứng ra đời mở ra một thời
kỳ mới cho hoạt động công chứng n-ớc ta. Đ-a thể chế công chứng n-ớc ta
tiến gần tới thông lệ và xu thế hiện nay của quốc tế, phù hợp với điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội của đất n-ớc trong quá trình hội nhập. Luật Công
chứng ra đời đã giải quyết đ-ợc một số v-ớng mắc, khắc phục đ-ợc một số
hạn chế, đồng thời tiếp thu đ-ợc một số tiến bộ trong quá trình lập pháp mà
các văn bản pháp luật tr-ớc đó ch-a giải quyết đ-ợc đó là:
Một là, về phạm vi điều chỉnh. Luật Công chứng chỉ điều chỉnh các
vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động công chứng nh-: thẩm quyền công
chứng, Công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng, thủ tục công chứng
và quản lý nhà n-ớc về công chứng. Còn hoạt động chứng thực đ-ợc quy định
riêng tại Nghị định 79/2007/ NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ và các
văn bản pháp luật khác. Qua đó phần nào đã phân biệt đ-ợc chủ thể, đối t-ợng
và ý nghĩa pháp lý của hai hoạt động này. Thông qua các quy định trên, nhà

21
n-ớc đã thể hiện quan điểm t-ơng đối khác và mang tính tiến bộ về công
chứng. Sau một thời gian dài can thiệp quá sâu vào tổ chức và hoạt động công
chứng, làm cho thể chế này chậm phát triển và cũng là một nguyên nhân góp

phần tạo nên sự cồng kềnh của bộ máy hành chính thì nhà n-ớc đã tách đ-ợc
hoạt động mang tính dịch vụ công ra khỏi hoạt động hành chính nhà n-ớc, chỉ
giữ lại những hoạt động mang tính chất hành chính đó là hoạt động chứng
thực. Với quy định này đã tạo ra một chuyển biến lớn trong hoạt động công
chứng, chứng thực tác động mạnh mẽ tới xã hội. Tr-ớc đây với quy định thẩm
quyền chứng nhận bản sao là do cả công chứng và chứng thực, cộng với tâm lý
"sính" công chứng đã tạo áp lực lớn lên các cơ quan thực hiện công chứng,
gây nên tình trạng quá tải tại các Phòng Công chứng. Làm mất thời gian và
công sức của ng-ời dân và tổ chức khi có yêu cầu công chứng. Để thực hiện
công việc chứng nhận bản sao các Phòng Công chứng phải giành phần lớn
nhân lực và thời gian làm việc để thực hiện nh-ng vẫn không đáp ứng đ-ợc
nhu cầu. Trong khi đó các công việc khác thuộc lĩnh vực chuyên môn của
công chứng lại không đ-ợc đảm bảo vì không đủ thời gian và số l-ợng nhân
viên để thực hiện những công việc đó. Việc chuyển giao công việc chứng nhận
bản sao và một số công việc khác sang chứng thực là việc làm hợp lý không
những tạo điều kiện cho ng-ời dân và tổ chức khi có yêu cầu mà còn giải
phóng đ-ợc một nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động công chứng.
Hai là, quy định chủ thể của hoạt động công chứng là Công chứng viên.
Với thiết chế tổ chức công chứng theo hình thức công chứng nhà n-ớc nh-
tr-ớc đây thì vai trò và trách nhiệm của Công chứng viên ch-a đ-ợc làm rõ.
Công chứng viên là công chức nhà n-ớc làm việc tại Phòng Công chứng
h-ởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ theo các quy định pháp luật về công chức.
Thông t- số 574/QLTPK quy định công chứng là việc của cơ quan nhà n-ớc,
đồng nghĩa với việc quy định ng-ời thực hiện là các nhân viên nhà n-ớc. Nghị
định số 45/CP và Nghị định số 31/CP đều ch-a xác định chủ thể của hoạt
động công chứng, nh-ng thông qua các quy định trong hai nghị định này vẫn

22
xác định đó là công việc do các nhân viên nhà n-ớc thực hiện. Đến Nghị định
số 75/2000/NĐ-CP thì chủ thể của hoạt động công chứng đã đ-ợc xác định là

Phòng Công chứng. Mặc dù đã trực tiếp quy định chủ thể nh-ng quy định này
lại thiếu chính xác và bất hợp lý vì hành vi công chứng là hành vi do cá nhân
Công chứng viên thực hiện và Công chứng viên phải chịu trách nhiệm cá nhân
về hành vi công chứng của mình. Công chứng viên là những ng-ời đáp ứng
một số tiêu chuẩn, đ-ợc nhà n-ớc bổ nhiệm và trao cho một số quyền hạn để
thực hiện công việc của mình. Vai trò của Công chứng viên thể hiện ở việc tạo
lập và chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch.
Công việc này bao gồm hai hoạt động: tạo lập và chứng nhận, nó đ-ợc thể
hiện bằng một chuỗi các công việc nghiệp vụ phức tạp nh-: xác định chủ thể,
đối t-ợng, nội dung, tính chất của hợp đồng giao dịch, xác định các quan hệ
pháp lý phát sinh xung quanh một yêu cầu công chứng, hậu quả pháp lý có thể
xảy ra, giúp các bên thể hiện ý chí, nguyện vọng, thỏa thuận bằng văn bản,
đảm bảo phù hợp với pháp luật, không trái với đạo đức xã hội đối với những
hợp đồng, giao dịch mà Công chứng viên phải tự soạn văn bản hoặc kiểm tra,
t- vấn, góp ý để các bên thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của mình một
cách rõ ràng, chính xác trong các văn bản do họ tự lập. Đây là những công
việc phức tạp đòi hỏi sự tinh thông và kinh nghiệm nghề nghiệp cộng với sự
khách quan, vô t- khi thực hiện công việc của Công chứng viên. Trên cơ sở
các hợp đồng, giấy tờ đã đ-ợc lập, Công chứng viên chứng kiến sự ký kết giữa
các bên và chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của các hợp đồng, giao
dịch và thể hiện bằng việc ghi lời chứng theo hình thức và nội dung do pháp
luật quy định và ký tên, đóng dấu của tổ chức công chứng nơi mình hành nghề
vào văn bản đó. Nh- vậy, chủ thể của hoạt động này chỉ có thể là Công chứng
viên chứ không thể là Phòng Công chứng đ-ợc. Luật Công chứng quy định
chủ thể của hoạt động công chứng là Công chứng viên là hợp lý, khoa học về
cả mặt lý luận lẫn thực tiễn làm cho vai trò của Công chứng viên đ-ợc đánh
giá một cách chính xác, khách quan và đ-ợc nâng cao trong quá trình thực

×