Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Hoạt động phổ biển, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (996.31 KB, 129 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







LÊ THỊ HỒNG PHÚC




HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH THANH HOÁ







LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC












HÀ NỘI – 2005




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





LÊ THỊ HỒNG PHÚC



HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH THANH HOÁ



Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số : 6.01.01





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






NGƯỜI HƯỚNG DẪN KH: TS.TRẦN NHO THÌN





HÀ NỘI - 2005

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………… 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT… 7
1.1. Bản chất, mục đích và nội dung của phổ biến, giáo dục pháp luật… 7
1.2. Chủ thể, khách thể, đối tƣợng của phổ biến, giáo dục pháp luật …21
1.3. Hình thức, phƣơng tiện, phƣơng pháp và hiệu quả hoạt động phổ
biến, giáo dục pháp luật…………………………………………………26
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1…………………………………………… 35
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HOÁ………….37
2.1. Các yếu tố ảnh hƣởng tới hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật

trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa………………………………… ……… 38
2.2. Thực trạng hiểu biết và ý thức tuân thủ pháp luật của các nhóm
dân cƣ trên địa bàn tỉnh Thanh
Hoá……………………………….… 48
2.3. Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật qua những hình thức
cụ thể…………………………………………………………………….68
KẾT LUẬN CHƢƠNG
2………………………………… ……………………… 81
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY… 82
3.1. Quan điểm của Đảng và Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa về phổ biến,
giáo dục pháp luật…………………………….…………………………83
3.2. Đổi mới, nâng cao chất lƣợng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay…………… 88
KẾT LUẬN CHƢƠNG
3…………………………………………… ……………107
KẾT LUẬN…………………………………… ……………………108
PHỤ LỤC…………………………………………… …… ……… 110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…… ……………… …… ……116



























DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

XHCN : Xã hội chủ nghĩa
CHXHCN : Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
UBND : Uỷ ban nhân dân
HĐND : Hội đồng nhân dân
MTTQ : Mặt trận tổ quốc
QĐ : Quyết định
PBGDPL : Phổ biến giáo dục pháp luật
THPH : Trung học phổ thông
THCS : Trung học cơ sở









1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình đổi mới toàn diện ở nước ta thực chất là một cuộc cải cách
sâu sắc. Trên cơ sở cải cách kinh tế, Nhà nước ta đang tiến hành đổi mới
từng bước hệ thống chính trị, trong đó nhiệm vụ trung tâm là xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một Nhà nước mà ở đó tính tối cao của
pháp luật được tôn trọng và trong đó, quyền lực nhà nước là thống nhất,
nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa ba quyền: Lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
Thực tế gần 20 năm đổi mới đất nước, Nhà nước ta đã ban hành nhiều
văn bản pháp luật, từ Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), các
Bộ luật, Luật đến các văn bản dưới luật, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi
nhằm thúc đẩy các quan hệ xã hội phát triển. Bên cạnh đó, công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật cũng được Đảng và Nhà nước chú trọng. Nhiều nghị
quyết của Đảng và các văn bản của Nhà nước đã đề cập đến công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật, xác định đúng đắn vị trí của nó trong tăng cường
pháp chế XHCN, trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Ngày 7 tháng 01 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số
02/1998/CT-TTg về việc tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
trong giai đoạn hiện nay và Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban
hành kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998
- 2002 và thành lập Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật. Ngày 09 tháng 12 năm 2003, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 32-CT/TW về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp

2
luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân. Những
quyết định có tính chất bước ngoặt nói trên trong công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật đã tạo cơ sở chính trị - pháp lý cần thiết cho hoạt động phổ biến,
giáo dục pháp luật trong thời kỳ mới.
Đối với tỉnh Thanh Hoá, trong những năm qua công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật luôn luôn được Đảng bộ, chính quyền và nhân dân quan tâm,
xác định đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm gắn chặt với công tác
giáo dục chính trị tư tưởng và là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền tỉnh đã có nhiều
cố gắng để tiến hành phổ biến rộng rãi đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh.
Bằng nhiều biện pháp tích cực, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở
Thanh Hoá đã và đang thu được những thành công nhất định. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt được, việc tổ chức thực hiện pháp luật vào cuộc sống
trên địa bàn tỉnh vẫn còn nhiều bất cập. Ở một số nơi công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật vẫn mang tính hình thức, chưa thực sự đi vào chiều sâu; thông
tin pháp luật đến với nhân dân chưa kịp thời, chưa cập nhật và chưa thống
nhất; việc tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được coi trọng
đúng mức, còn chạy theo phong trào mang tính bề nổi, kém hiệu qủa; hệ
thống tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý còn yếu, chưa đủ sức để tư vấn
giúp công dân và doanh nghiệp hiểu biết pháp luật, làm theo pháp luật; nội
dung và hình thức tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật chưa sát với đối
tượng. Vẫn còn một bộ phận khá lớn nhân dân hiểu biết pháp luật còn sơ sài,
hời hợt, nhiều cán bộ, công chức chưa phân biệt được giữa các loại vi phạm
pháp luật như: Vi phạm pháp luật kinh tế, thương mại, hành chính, dân
sự,…; vi phạm pháp luật ở một số nơi còn xảy ra, thậm chí phổ biến. Trong

khi đó một số nơi cán bộ chính quyền còn thờ ơ với công tác này.

3
Là cán bộ đang công tác giảng dạy tại trường Chính trị tỉnh Thanh
Hoá tôi nhận thấy, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân tỉnh
nhà là vấn đề cần đặc biệt quan tâm nghiên cứu. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài
“Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá” để
làm luận văn Thạc sỹ Luật học. Đây cũng là một đề tài cần thiết, có ý nghĩa
quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đối với tỉnh Thanh Hoá trong tình hình
hiện nay.
2.Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật không phải là vấn đề mới
trong khoa học pháp lý Việt Nam, song việc tiến hành nghiên cứu có phần
chậm hơn so với yêu cầu “Nhà nước quản lý bằng pháp luật và không ngừng
tăng cường pháp chế XHCN ” đã được ghi nhận từ Hiến pháp 1980. Trước
những năm 1990 mới chỉ có một số ít nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề
này như: “Ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật ở Việt Nam”, Luận án Phó
tiến sỹ Luật học của tác giả Nguyễn Đình Lộc (bảo vệ ở Liên Xô cũ năm
1977); “Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế XHCN”,
Luận án Phó tiến sỹ Luật học của tác giả Trần Ngọc Đường (bảo vệ ở Liên
Xô cũ năm 1988).
Từ năm 1990 tới nay vấn đề phổ biến, giáo dục pháp luật được nhiều
cơ quan, tổ chức và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đến nay đã có
nhiều công trình nghiên cứu, có thể kể tên một số công trình tiêu biểu sau:
+ Công trình đã viết thành sách:
Bàn về giáo dục pháp luật của hai tác giả Trần Ngọc Đường và
Dương Thanh Mai, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.1995; Xây dựng ý thức
và lối sống tuân theo pháp luật do GS.TSKH. Đào Trí Úc chủ biên, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.1995; Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ


4
cán bộ quản lý hành chính của TS. Lê Đình Khiên, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội. 2002.
+ Các đề tài khoa học cấp nhà nước và cấp bộ nghiên cứu về phổ biến,
giáo dục pháp luật:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phổ biến, giáo dục pháp luật
trong công cuộc đổi mới. Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92-98-223. ĐT của
Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp; Tìm kiếm mô hình giáo
dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít người. Đề tài khoa học cấp
Bộ của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, 1995; Đổi mới
giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị ở nước ta hiện nay.
Đề tài khoa học cấp Bộ của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
2000; Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng chương trình quốc gia về
phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn tới, đề tài khoa học cấp Bộ của
Bộ Tư pháp, 2004…
+ Các luận án, luận văn nghiên cứu về công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật:
Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà
nước ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến sỹ Luật học của tác giả Lê Đình
Khiên, 1996; Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam, Luận án
Phó tiến sỹ Luật học của tác giả Dương Thanh Mai, 1996; Giáo dục pháp luật
trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không
chuyên luật) ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến sỹ Luật học của tác giả
Đinh Xuân Thảo, 1996 và một số luận văn thạc sỹ luật học của Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ sở đào tạo khác cũng đề cập đến
chủ đề phổ biến, giáo dục pháp luật.

5
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, giảng dạy
pháp luật hay các cán bộ, công chức làm việc trong các tổ chức, cơ quan nhà

nước… được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết của tập
thể và cá nhân đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
phổ biến, giáo dục pháp luật. Song cho đến nay chưa có một công trình, luận
án, luận văn, đề tài khoa học nào nghiên cứu về hoạt động phổ biến, giáo
dục pháp luật nói riêng ở tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên các công trình, luận
văn, luận án đã tạo điều kiện cho tác giả tham khảo, kế thừa để tiếp tục
nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, phân tích những ưu điểm và hạn chế, từ đó xác
định phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn:
Luận văn có mục đích nghiên cứu cơ sở lý luận của phổ biến, giáo dục
pháp luật, đánh giá thực trạng, xác định phương hướng và đề xuất các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật ở
tỉnh Thanh Hóa trong thời gian hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích đã nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau
đây:
* Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về phổ biến, giáo dục pháp
luật;
* Phân tích những yếu tố tác động đến hoạt động phổ biến, giáo dục
pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa qua những hình thức cụ thể và

6
thực trạng hiểu biết, ý thức tuân thủ pháp luật của các nhóm dân cư
trên địa bàn, từ đó rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm của
thực trạng trên;
* Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu

quả của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa thời gian tới.
3.3. Phạm vi nghiên cứu:
Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật là phạm trù có nội hàm rộng.
Trong phạm vi đề tài đã chọn, tác giả tập trung nghiên cứu, đánh giá hoạt
động phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn một địa phương cụ thể - tỉnh
Thanh Hóa thông qua việc nghiên cứu những hình thức phổ biến, giáo dục
pháp luật cụ thể và thực trạng hiểu biết, ý thức tuân thủ pháp luật của các
nhóm dân cư trên địa bàn tỉnh.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN, về phổ biến, giáo dục pháp luật. Phương pháp luận
trong nghiên cứu là phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác-
Lênin.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiờn cứu cụ thể như: Phương
pháp khảo sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối toàn
diện, có hệ thống về hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật ở một địa bàn cụ
thể – tỉnh Thanh Hóa. Từ đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm chỉ đạo của

7
các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội đối với hoạt
động này trong việc nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống
và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của cán bộ, nhân dân tỉnh Thanh
Hóa, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh và thống
nhất;
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác chỉ đạo hoạt

động phổ biến, giáo dục pháp luật cho các địa phương khác có điều kiện
kinh tế - xã hội tương tự như tỉnh Thanh Hóa.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu trớch dẫn, tài liệu
tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật;
Chương 2: Thực trạng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa;
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện
nay.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
Nghiên cứu cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật là phân tích,
làm rõ các khái niệm, phạm trù: Bản chất, mục đích, vai trò của phổ biến,
giáo dục pháp luật; chủ thể, khách thể, đối tượng của phổ biến, giáo dục
pháp luật; nội dung, hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật và
đánh giá hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật, từ đó rút ra các quan điểm

8
hợp lý nhằm định hướng cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trong
thực tiễn.
1.1. Bản chất, mục đích và nội dung của phổ biến, giáo dục pháp luật
Bất cứ ngành khoa học nào cũng cần có hệ thống khái niệm riêng của
nó, đó là một hình thức của tư duy dùng để phản ánh những đặc trưng
chung, chủ yếu của các sự vật, hiện tượng mà ngành khoa học đó nghiên
cứu. Vì vậy, xây dựng khoa học phổ biến, giáo dục pháp luật không thể
không chú ý xây dựng hệ thống khái niệm khoa học của nó, không thể
không luôn luôn bổ sung và điều chỉnh để làm cho các khái niệm đó phản

ánh đúng đắn, đầy đủ và hoàn chỉnh những nhận thức mới của khoa học phổ
biến, giáo dục pháp luật, về thực tiễn hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
hiện nay. Nghiên cứu lý luận phổ biến, giáo dục pháp luật cần làm rõ các
vấn đề cơ bản: Bản chất, nội dung, mục đích của phổ biến, giáo dục pháp
luật vì toàn bộ lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật phụ thuộc vào việc
xác định đúng đắn các vấn đề cơ bản đó.
1.1.1. Bản chất của phổ biến, giáo dục pháp luật
Để làm rõ bản chất của phổ biến, giáo dục pháp luật, cần phải phân biệt
các khái niệm tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật. Trong thực tế
không ít người có quan niệm đồng nhất giữa tuyên truyền, phổ biến và giáo
dục pháp luật. Thực chất, xét về mặt lý luận, đây là những khái niệm khác
nhau về mặt nội dung.
Gắn liền với các khái niệm tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
là khái niệm thông tin pháp luật.Thông tin pháp luật là thông tin về các văn
bản quy phạm pháp luật, các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là một bên ký
kết hoặc tham gia, các tin tức, tri thức, dữ kiện được tạo lập và thu nhận
trong quá trình lập pháp, hành pháp, tư pháp; trong nghiên cứu và giảng dạy
pháp luật.

9
Thông tin pháp luật và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Thông tin pháp luật là nguồn nội dung
cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật là
hoạt động truyền tải các thông tin pháp luật tới mọi thành viên trong xã hội,
đến các đối tượng khác nhau bằng các hình thức, phương tiện thích hợp.
Tuyên truyền pháp luật hoàn toàn không giới hạn về phạm vi thông tin
và đối tượng tiếp nhận thông tin. Thông tin trong tuyên truyền pháp luật là
những thông tin toàn diện và chung nhất về những vấn đề liên quan đến
pháp luật, trước hết là hệ thống pháp luật hiện hành. Đây là điểm khác với
phổ biến pháp luật.

Phổ biến pháp luật là sự truyền tải những thông tin cụ thể của pháp
luật đến một loại đối tượng nhất định nhằm để đạt được mục đích cụ thể.
Nếu đối tượng của tuyên truyền pháp luật là chung nhất và nhu cầu về thông
tin pháp luật đối với người nghe không xác định một cách cụ thể thì ngược
lại, phổ biến pháp luật thường chỉ nhằm vào những đối tượng cụ thể mà
hành động của họ có liên quan trực tiếp đến sự điều chỉnh của một loại văn
bản pháp luật cụ thể, giúp họ nắm vững để điều chỉnh hành vi của mình. Ví
dụ, khi các văn bản pháp luật được thông qua, ngoài tuyên truyền chung, các
văn bản pháp luật cần phải được phổ biến một cách đầy đủ đến mọi tầng lớp
nhân dân để họ nắm vững và tuân thủ sự điều chỉnh của các quy định pháp
luật.
Khác với hai khái niệm trên, giáo dục pháp luật là sự chuyển tải
những thông tin pháp luật theo mục đích chung, nhằm nâng cao ý thức pháp
luật để từ đó hình thành lối sống tuân thủ pháp luật đối với các thành viên
trong xã hội. Giáo dục pháp luật nhằm mục đích trang bị cho công dân
những kiến thức pháp luật, hình thành ở họ phong cách sống và làm việc
theo pháp luật. Giáo dục pháp luật chính là quá trình phát triển nhận thức

10
pháp luật theo các nấc thang tạo lập ý thức, trang bị kiến thức để nâng cao sự
hiểu biết pháp luật, từ đó khẳng định hành vi xử sự của bản thân.
Xung quanh vấn đề giáo dục pháp luật là gì, hiện vẫn tồn tại nhiều
quan điểm khác nhau, chưa có một khái niệm rõ ràng, nhất quán.
Quan niệm đa số cho rằng, giáo dục pháp luật chỉ là một bộ phận của
giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức. Do đó, nếu tiến hành giáo dục chính trị
tư tưởng hay đạo đức tốt thì tự khắc, trên thực tế có thể đạt được sự tôn
trọng pháp luật ở mọi công dân.
Quan niệm khác lại đơn giản hoá, đồng nhất giáo dục pháp luật với
việc tuyên truyền, giải thích, phổ biến pháp luật.
Có quan niệm coi giáo dục pháp luật đồng nghĩa với dạy và học pháp

luật ở các nhà trường, còn việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật ở ngoài xã
hội không phải là giáo dục pháp luật.
Quan niệm cực đoan của một số người lại cho rằng, không tồn tại khái
niệm giáo dục pháp luật vì pháp luật là các quy tắc xử sự có tính bắt buộc
chung và mọi người đều có nghĩa vụ phải tuân thủ, do đó không cần đặt vấn
đề giải thích pháp luật. Điều pháp luật cần làm chỉ là công bố và phổ biến
văn bản pháp luật để mọi người dân biết và thực hiện.
Tất cả các quan niệm trên đều “phiến diện, giản đơn một chiều, chưa
thấy hết đặc thù của sự tác động hoặc giá trị xã hội vốn có pháp luật”. Vì
vậy, “đã vô tình hoặc cố ý hạ thấp vai trò giá trị xã hội của pháp luật” và tất
yếu làm cho hiệu lực và hiệu quả của pháp luật giảm sút do các quan niệm
đó không tạo ra khả năng triển khai hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật.
Giáo dục là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều dạng, nhiều nhánh,
nhiều hình thức, phương pháp và phương tiện khác nhau tác động lên ý thức
con người. Giáo dục pháp luật là một dạng trong hệ thống giáo dục chung

11
đó. Tuy nhiên giáo dục pháp luật là một dạng giáo dục độc lập trong hệ
thống giáo dục, bởi vì bên cạnh những đặc trưng chủ yếu trong một quá trình
giáo dục, giáo dục pháp luật có những nét đặc trưng riêng biệt:
Thứ nhất, giáo dục pháp luật có mục đích riêng của mình. Đó là hoạt
động nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy
định của pháp luật, làm cho công dân tự giác tuân thủ pháp luật, có ý thức
pháp luật cao góp phần tăng cường hiệu quả của pháp luật;
Thứ hai, giáo dục pháp luật có nội dung riêng của mình. Đó là sự tác
động định hướng với nội dung cơ bản là chuyển tải tri thức của nhân loại nói
chung, của một quốc gia nói riêng về hai hiện tượng Nhà nước và pháp luật,
trong đó pháp luật thực định của Nhà nước là bộ phận cơ bản quan trọng
nhất;
Thứ ba, giáo dục pháp luật có những nét đặc thù riêng về chủ thể,

khách thể, đối tượng, hình thức và phương pháp giáo dục.
Từ những đặc thù nói trên của giáo dục pháp luật, cho phép chúng ta
phân biệt phạm trù “giáo dục pháp luật” với phạm trù “hình thành ý thức
pháp luật” của cá nhân, vốn là hai phạm trù quan hệ mật thiết nhưng không
phải là đồng nhất. Hoạt động giáo dục pháp luật chỉ là một yếu tố của quá
trình hình thành ý thức pháp luật ở cá nhân con người và đóng vai trò chủ
đạo trong quá trình ấy. Hoạt động giáo dục pháp luật là sự tác động của nhân
tố chủ quan mang tính định hướng, có tổ chức, có chủ định, có mục tiêu xác
định là hình thành và nâng cao ý thức pháp luật của đối tượng được giáo dục
phù hợp với yêu cầu của nền pháp chế XHCN. “Hình thành ý thức pháp
luật” có nội hàm rộng hơn giáo dục pháp luật. Sự hình thành ý thức pháp
luật là sản phẩm của cả điều kiện khách quan (thực tiễn đời sống kinh tế - xã
hội, mà tác động trực tiếp là đời sống pháp luật của xã hội), lẫn sự tác động
định hướng của nhân tố chủ quan giáo dục pháp luật.

12
Thực tế cho thấy, người có trình độ hiểu biết rộng, nhận thức đúng
đắn về vai trò quan trọng của pháp luật trong cuộc sống thì họ có đủ khả
năng để lựa chọn cách xử sự sao cho phù hợp với quy định của pháp luật và
thường họ không làm những điều pháp luật cấm. Nếu không xác định được
vai trò, tầm quan trọng của hoạt động giáo dục pháp luật, không chú trọng
đến công tác giáo dục pháp luật thì các hành vi phạm pháp, tiêu cực sẽ tăng
do người có hành vi vi phạm pháp luật hạn chế hiểu biết về pháp luật, về vai
trò của pháp luật trong cuộc sống. Giáo dục pháp luật tác động lên nhận thức
và trình độ hiểu biết, thái độ tình cảm, lòng tin vào pháp luật của công dân,
là cơ sở hình thành ý thức pháp luật tốt, làm hạn chế sự phát triển của các
hành vi vi phạm pháp luật.
Tóm lại, qua những phân tích trên có thể kết luận: Giáo dục pháp luật
là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của sự nghiệp giáo dục
tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên để

cung cấp tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm và hành vi hợp pháp cho
đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ ý thức pháp luật đúng đắn và thói
quen hành động phù hợp với các quy định của pháp luật và đòi hỏi của nền
pháp chế hiện hành.
Với khái niệm nêu trên, giáo dục pháp luật là một trong những mắt xích
quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt của sự tăng cường pháp chế XHCN. Giáo dục
pháp luật nhằm hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi công
dân, phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Hoạt động giáo dục pháp luật là trách
nhiệm của các tổ chức Đảng, của các cơ quan ban, ngành, các tổ chức kinh tế,
xã hội, trong đó trách nhiệm trước hết phụ thuộc vào các cơ quan có chức
năng giáo dục, đào tạo con người. Giáo dục pháp luật liên kết một cách hữu
cơ và tương hỗ với các dạng giáo dục khác trong hệ thống giáo dục, trước hết

13
là các dạng giáo dục có cùng mục đích (giáo dục chính trị tư tưởng, đạo
đức, ) tác động lên hành vi của con người, lên sự hợp lý, hợp pháp của hành
vi trong mối quan hệ với xã hội. Thực tiễn chỉ ra rằng, hình thành được ý
thức, thói quen thực hiện và tuân thủ pháp luật ở công dân là công việc không
đơn giản. Không tiến hành hoạt động giáo dục pháp luật - hoạt động có tính
định hướng, hệ thống thì sẽ không giải quyết được công việc đấy. Các dạng
giáo dục khác - giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức - dù có sức mạnh tác
động rất lớn cũng không thể thay thế được giáo dục pháp luật mà chỉ trong
mối quan hệ biện chứng, gắn bó tác động qua lại, tương hỗ với nhau thì mới
tạo được hiệu lực và hiệu quả của pháp luật.
Như vậy cả cụm từ “phổ biến, giáo dục pháp luật” ở đây được hiểu là
việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức, tình cảm,
niềm tin pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức pháp luật, nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.
1.1.2. Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật

Mục đích xã hội của phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong
những yếu tố tạo nên cấu trúc bên trong của giáo dục pháp luật, là đặc trưng
đầu tiên và quan trọng nhất để phân biệt nó với các dạng giáo dục khác. Mục
đích xã hội cần đạt được trong quá trình giáo dục pháp luật phải đáp ứng các
yêu cầu của xã hội, ở từng giai đoạn trong các điều kiện lịch sử cụ thể. Việc
xác định đúng đắn mục đích phổ biến, giáo dục pháp luật có ý nghĩa quan
trọng trong lý luận và thực tiễn phổ biến, giáo dục pháp luật bởi vì các phạm
trù nội dung, hình thức, phương pháp của phổ biến, giáo dục pháp luật phần
lớn phụ thuộc vào việc xác định các mục đích xã hội đã được đặt ra trước
quá trình giáo dục. Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật còn giúp cho
việc xác định hiệu quả của phổ biến, giáo dục pháp luật. Kết quả đạt được

14
bao giờ cũng được đánh giá so với mục đích đề ra để xác định được chỉ số
hiệu quả của công tác này.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt của mục đích phổ biến, giáo
dục pháp luật, vấn đề đặt ra là không thể coi nhẹ việc xác định mục đích xã
hội của hoạt động này, cần xác định mục đích phù hợp với thực tiễn và đáp
ứng được các nhu cầu của xã hội trong từng thời kỳ để góp phần nâng cao
hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật ở nước ta. Mục đích phổ biến, giáo
dục pháp luật phải nhằm trang bị, cung cấp, bồi dưỡng và nâng cao tri thức
pháp luật, xuất phát từ đòi hỏi của các đối tượng giáo dục khác nhau, phù
hợp với các điều kiện và hoàn cảnh cụ thể; đồng thời phải nhằm hình thành
lòng tin vào pháp luật của công dân xây dựng thói quen suy nghĩ và xử sự
theo những đòi hỏi của pháp luật ở công dân.
Khi tiến hành tìm kiếm, xác định mục đích của phổ biến, giáo dục
pháp luật cần phân biệt giữa mục đích trước mắt và mục đích lâu dài; mục
đích có tính tổng quát, chiến lược và mục đích giáo dục pháp luật cụ thể …
Mục đích tổng quát, chiến lược của phổ biến, giáo dục pháp luật là
nhằm góp phần hình thành và nâng cao văn hoá pháp lý của từng cá nhân

trong toàn xã hội. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, phổ biến, giáo dục
pháp luật có các mục đích cụ thể như sau:
- Thứ nhất, mục đích hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng
hệ thống tri thức pháp luật cho công dân (gọi chung là mục đích nhận thức).
Mục đích nhận thức bao gồm tri thức về các quy phạm pháp luật,
những quan niệm và cách đánh giá về mặt pháp lý các sự kiện xã hội. Đây
được xem là mục đích hàng đầu vì sự am hiểu pháp luật, nhận thức đúng đắn
về vai trò và giá trị xã hội của pháp luật là điều kiện cần thiết đảm bảo sự phát
triển ý thức pháp luật, tư duy pháp lý và hình thành tình cảm, lòng tin, thái độ
tích cực đối với pháp luật ở mọi công dân. Có tri thức pháp luật sẽ giúp cho

15
mỗi công dân có khả năng tự đánh giá, phê phán, đối chiếu hành vi của mình
đối với các chuẩn mực pháp luật để từ đó tổ chức một cách ý thức các hành vi
xử sự. V.I. Lê nin đã cho rằng: Sự am hiểu, trong đó có sự am hiểu pháp luật
là điều kiện cần thiết, mà thiếu nó không nên nói về chính trị, người mù chữ
thì đứng ngoài chính trị. Hồ Chủ tịch, trong “Lời kêu gọi chống nạn thất học”
tháng 10/1945 cũng đã từng nói: Mỗi người Việt Nam phải hiểu biết quyền
lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới có thể tham gia vào
công cuộc xây dựng nước nhà, trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Tuy nhiên, sự am hiểu tri thức pháp luật không phải là sự am hiểu đơn
giản một vài quy phạm pháp luật nào đó mà là sự am hiểu có hệ thống về
pháp luật, nhận thức thấu đáo về nội dung pháp luật, về giá trị xã hội và vai
trò của pháp luật, biết đánh giá các sự kiện pháp luật để hành động một cách
hợp pháp.
Mục đích nhận thức trong mối quan hệ với các mục đích khác của phổ
biến, giáo dục pháp luật là mục đích đầu tiên, là tiền đề và cơ sở cho sự phát
triển các mục đích khác. Thông qua mục đích nhận thức để nhận biết, đánh
giá và nhìn nhận các mục đích khác. Do đó, từ đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IV đến nay Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc tạo điều kiện để

quyền làm chủ của dân phải được thực hiện và không ngừng nâng cao gắn
liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, mở mang dân trí, hiểu biết pháp
luật.
- Thứ hai, mục đích hình thành lòng tin pháp luật (còn gọi là mục đích
cảm xúc).
Đây là mục đích có ý nghĩa rất quan trọng. Mục đích cảm xúc phụ
thuộc vào trình độ tri thức pháp luật, về sự am hiểu các quy phạm, các
nguyên tắc pháp lý, đánh giá các sự kiện pháp lý… Tri thức pháp lý càng
đầy đủ thì tình cảm pháp luật càng mạnh mẽ. Tình cảm pháp luật được nuôi

16
dưỡng trên cơ sở các khái niệm, quan niệm, các phạm trù về pháp luật, thiếu
những điều đó không thể tồn tại cảm xúc pháp luật. Tuy nhiên, có tri thức
pháp luật mà thiếu tình cảm tôn trọng đối với pháp luật thì không dự đoán và
đảm bảo hành vi hợp pháp, con người dễ dàng hành động không phù hợp
chuẩn mực pháp luật vì lợi ích cá nhân. Các nhà tâm lý học đã chỉ ra rằng,
con người nếu thiếu lòng tin thì hành vi của họ thường lệch khỏi các chuẩn
mực xã hội. Thực tiễn thực hiện pháp luật đã cho thấy sự đúng đắn của luận
điểm này.
Trong đa số sách báo nghiên cứu pháp lý phân tích về nội hàm của
giáo dục cảm xúc pháp luật đã kết luận mục đích của giáo dục cảm xúc pháp
luật chỉ đạt được qua việc giáo dục tình cảm công bằng, tình cảm trách
nhiệm, tình cảm không khoan nhượng và tình cảm pháp chế. Tất cả các tình
cảm này quan hệ với nhau và phụ thuộc vào nhau.
+ Giáo dục tình cảm công bằng: Là giáo dục cho công dân biết đánh
giá các quy phạm pháp luật, nhận thức được chuẩn mực pháp luật để đánh
giá về tính công bằng của pháp luật, từ đó tổ chức hành vi xử sự hợp lý, hợp
pháp đối với người khác và với chính mình theo các quy định pháp luật;
+ Giáo dục tình cảm trách nhiệm: Để người được giáo dục ý thức về
nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mình, tận tâm thực hiện các quy định của pháp

luật, các nghĩa vụ pháp lý trong mối quan hệ pháp lý với các công dân khác;
+ Giáo dục tình cảm không khoan nhượng ở mọi công dân đối với
những hành vi vi phạm pháp luật: Giáo dục ý thức không thể khoan dung
đối với những biểu hiện chống đối pháp luật. Giáo dục tình cảm không
khoan nhượng ở công dân đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành
hành vi tích cực trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực;
+ Giáo dục tình cảm pháp chế: Là giáo dục nhằm hình thành ý thức
tuân thủ pháp luật của công dân ở mọi nơi, mọi lúc; phê phán, lên án những

17
biểu hiện coi thường pháp luật, các hành vi phạm pháp; cũng như đồng tình,
ủng hộ và tích cực tham gia bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật. Người
được giáo dục phải hình thành ý thức rằng mọi quyết định của mình phải dựa
vào cơ sở của pháp luật.
Sự hình thành lòng tin vững chắc của công dân vào sự cần thiết tuân
theo những quy phạm pháp luật phụ thuộc vào sự tác động định hướng của
quá trình giáo dục các tình cảm trên, vào sự am hiểu tri thức pháp luật.
- Thứ ba, mục đích hình thành động cơ hành vi và thói quen xử sự hợp
pháp tích cực (gọi là mục đích hành vi).
Kết quả cuối cùng của phổ biến, giáo dục pháp luật thể hiện ở hành vi
xử sự theo pháp luật của con người. Mục đích nhận thức, mục đích cảm xúc
của quá trình phổ biến, giáo dục pháp luật là để phục vụ cho mục đích hình
thành động cơ, hành vi, thói quen xử sự hợp pháp, tích cực của công dân.
Thói quen xử sự của công dân phải là thói quen xử sự hợp pháp, thói quen
tuân thủ các quy phạm pháp luật, thực hiện đúng đắn và đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ pháp lý cũng như việc sử dụng tri thức pháp luật và các quy phạm
pháp luật cụ thể để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của người
khác, của Nhà nước và của xã hội.
Nhờ vào hoạt động giáo dục pháp luật, cung cấp tri thức pháp luật,
lòng tin sâu sắc vào sự cần thiết phải tuân thủ một cách tự nguyện những

quy định của pháp luật, giáo dục tình cảm công bằng, ý thức trách nhiệm và
lòng khoan dung đối với các vi phạm pháp luật, ở con người mới hình thành
được động cơ và hành vi hợp pháp, tự nguyện và tích cực. Giáo dục cho
công dân thói quen xử sự theo những đòi hỏi của pháp luật là nhiệm vụ khó
khăn và phức tạp. Chỉ khi giáo dục được cho công dân lòng tin vào giá trị xã
hội và vai trò của pháp luật khi đấy mới chuyển hoá thành ý thức tự giác
pháp luật, hành vi xử sự hợp pháp sẽ trở thành thói quen lặp đi lặp lại dù

18
trong bất kỳ mối quan hệ pháp lý nào như là thói quen của con người hàng
ngày. Đó là thói quen tuân theo những quy phạm pháp luật, kiềm chế thực
hiện những hành vi bị cấm đoán. (Ví dụ: Không đi vào khu vực có biển báo
cấm); thói quen thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý, như là thói quen tự
nhiên khi thực hiện hành vi tích cực bảo vệ các quyền và nghĩa vụ pháp lý
của mình. (Ví dụ: Thói quen đội mũ bảo hiểm khi đi mô tô, xe máy trên
đường quốc lộ); thói quen sử dụng các quy phạm pháp luật, thói quen áp
dụng pháp luật là thói quen biết vận dụng một cách thành thạo các tri thức
pháp luật trong thực tiễn cuộc sống. Các thói quen này tạo thành mục đích
hành vi của phổ biến, giáo dục pháp luật.
Như vậy, phổ biến, giáo dục pháp luật là quá trình tác động định
hướng của các nhân tố chủ quan nhằm hình thành tri thức pháp luật (mục
đích nhận thức), lòng tin pháp luật (mục đích cảm xúc) và động cơ, hành vi
hợp pháp (mục đích hành vi). Giữa các mục đích có sự đan xen quan hệ qua
lại thống nhất, chặt chẽ. “Từ tri thức pháp luật đến tính tự giác, từ tính tự
giác tới tính tích cực, từ tính tích cực đến thói quen xử sự theo pháp
luật”[35, 39].

Phổ biến, giáo dục pháp luật phải được tiến hành một cách có hệ
thống, đồng bộ, nhất quán tới mọi tầng lớp nhân dân, trong các cơ quan,
đoàn thể với những mục tiêu xác định phù hợp với từng đối tượng, từng giai

đoạn, hoàn cảnh cụ thể. Đổi mới hệ thống chính trị nói chung, cải cách bộ
máy nhà nước nói riêng đang tiến hành ở nước ta, trên thực tế không thể tiến
hành và tồn tại bên ngoài quá trình phổ biến, giáo dục pháp luật, không thể
không tính đến kết quả và mức độ phổ biến, giáo dục pháp luật.
1.1.3. Nội dung của phổ biến, giáo dục pháp luật
Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật là yếu tố quan trọng của quá
trình giáo dục pháp luật, nội dung đó được xác định trên cơ sở mục đích,

19
nhiệm vụ của phổ biến, giáo dục pháp luật. Mục đích đó là: Trang bị tri thức
pháp luật; bồi dưỡng tình cảm, tâm lý pháp luật; hướng dẫn hình thành thói
quen xử sự tích cực theo pháp luật. Mỗi hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật đều phải nhằm định hướng cho người được giáo dục cả về tri thức, tình
cảm, hành vi. Do đó, nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật bao gồm việc
cung cấp thường xuyên, có hệ thống thông tin về pháp luật, thực tiễn thi
hành, bảo vệ pháp luật (không chỉ phổ biến nội dung của các văn bản pháp
luật mà còn phải làm rõ tính chấp hành và những hậu quả pháp lý nếu vi
phạm các quy định đó), qua đó bồi dưỡng các đối tượng, giỳp họ nhận thức
được những tình cảm đúng đắn, lòng tin đối với pháp luật, rèn luyện khả
năng nghiên cứu những tri thức đó để phân tích, phê phán, lý giải một cách
có căn cứ về những vấn đề thực tiễn làm cơ sở định hướng và lựa chọn cách
xử sự phù hợp trong những hoàn cảnh cụ thể.
Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật có phạm vi tương đối rộng,
nhưng có đặc thù riêng, không lẫn với các nội dung giáo dục khác, bao gồm:
Các thông tin về pháp luật (gồm cả kiến thức pháp luật cơ bản và văn bản
pháp luật thực định); các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về tình hình
vi phạm pháp luật và tội phạm, về việc điều tra, xử lý các vi phạm pháp luật;
các thông tin về kết quả nghiên cứu, điều tra xã hội học về thực hiện, áp
dụng pháp luật; về vị trí, tác động của từng văn bản pháp luật đối với đời
sống xã hội, đối với từng đối tượng và ý kiến của nhân dân, của các chuyên

gia trong từng lĩnh vực đánh giá hiệu lực pháp lý, hiệu quả kinh tế - xã hội
của các văn bản pháp luật và các biện pháp thi hành pháp luật; các thông tin
hướng dẫn hành vi pháp luật cụ thể (các quy trình, thủ tục đơn giản để người
dân có thể tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình). Việc cung cấp đầy
đủ, kịp thời, chính xác và thường xuyên các loại thông tin trên cho người
được giáo dục để họ có khả năng phân tích, đánh giá một cách khoa học và

20
định hướng hành vi của mình khi gặp những sự kiện pháp luật trong trường
hợp cụ thể.
Có thể phạm vi hoá nội dung cơ bản của phổ biến, giáo dục pháp luật
theo từng nhóm đối tượng, giáo dục như sau:
- Thứ nhất, nội dung tối thiểu của phổ biến, giáo dục pháp luật cho mọi
công dân. Mọi công dân sống trong xã hội được quản lý bằng pháp luật, nhất
thiết phải được trang bị những kiến thức tối thiểu về pháp luật và có khả năng
sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của người
khác, của Nhà nước và toàn xã hội. Đó chính là nội dung tối thiểu của phổ
biến, giáo dục pháp luật phổ cập bao gồm: Hiểu biết những thông tin cơ bản
về tổ chức bộ máy nhà nước, về thực thi pháp luật, đặc biệt là cơ chế bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; hiểu biết về các quyền và nghĩa vụ
pháp lý cơ bản của công dân do Hiến pháp và một số đạo luật quy định; kiến
thức về thủ tục, trình tự pháp lý để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp và thực
hiện nghĩa vụ của công dân.
Ở mức độ này, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật có vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc đặt nền tảng đầu tiên cho sự hình thành ý thức
pháp luật của công dân. Sự nhận thức về vị trí của họ trong mối quan hệ với
Nhà nước, với cá nhân khác để biết mình có quyền và nghĩa vụ pháp lý như
thế nào, mình cần phải làm gì và đến đâu trong từng trường hợp cụ thể để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước và của toàn xã hội.
- Thứ hai, nội dung giáo dục pháp luật theo yêu cầu của từng ngành

nghề. Công dân trong từng lĩnh vực hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội khác
nhau lại có nhu cầu hiểu biết và sử dụng quy định của pháp luật ở mức độ
cao hơn, mang đậm nét của định hướng nghề nghiệp. Do đó, nội dung phổ
biến, giáo dục pháp luật ở nhóm, đối tượng này được mở rộng và chuyên sâu
hơn mức độ tối thiểu cho công dân ở trên và có thể bao gồm: Hệ thống các

×