Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân tại các cơ quan của Quốc hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 116 trang )

đại học quốc gia hà nội
khoa luật





Nguyễn ngọc hùng




Đề tài:
Nâng cao hiệu quả hoạt động xử lý
đơn khiếu nại, tố cáo của công dân
Tại các cơ quan của quốc hội


luận văn thạc sĩ luật học







Hà nội - 2008

đại học quốc gia hà nội
khoa luật
*****





nguyễn ngọc hùng




Nâng cao hiệu quả hoạt động xử lý
đơn khiếu nại, tố cáo của công dân
tại các cơ quan của quốc hội

Chuyên ngành : Lý luận và Lịch sử nhà n-ớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01



luận văn thạc sĩ luật học


Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Ngô Đức Mạnh


Hà nội - 2008



MỤC LỤC



Trang
MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ ĐƠN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
CỦA CÔNG DÂN TẠI CÁC CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI
6
1.1.
Bản chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
6
1.2.
Nhà nước đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, trong đó có
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân
8
1.3
Vị trí, vai trò của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong
việc xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân
11
1.4
Hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân tại các
cơ quan của Quốc hội
19

1.4.1 Hoạt động tiếp công dân, tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố
cáo của công dân
19

1.4.2 Xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân của các cơ quan
của Quốc hội

20
1.5
Khái niệm khiếu nại, tố cáo
21

1.5.1 Khái niệm khiếu nại
23

1.5.2 Khái niệm tố cáo
26

Kết luận Chương 1
29
Chƣơng 2. Thùc tr¹ng vÒ c«ng t¸c xö lý ®¬n khiÕu n¹i,
tè c¸o cña c«ng d©n t¹i c¸c c¬ quan cña Quèc héi
30
2.1.
Quá trình hình thành và phát triển chế định về việc Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của
công dân
30

2.1.1 Giai đoạn 1946 – 1960
30

2.1.2 Giai đoạn 1960 – 1980
31




2.1.3 Giai đoạn 1980 – 1992
34

2.1.4 Giai đoạn 1992 – 2003
37

2.1.5 Giai đoạn 2003 - nay
42
2.2.
Thực trạng hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công
dân tại các cơ quan của Quốc hội trong thời gian gần đây
44

2.2.1 Đối với ủy ban thường vụ Quốc hội
44

2.2.2 Đối với Hội đồng dân tộc, ủy ban của Quốc hội, Ban
của ủy ban thường vụ Quốc hội
48

2.2.3 Một số nguyên nhân
56

Kết luận Chương 2
58
Chƣơng 3. MỘT SỐ MÔ HÌNH VÀ KINH NGHIỆM TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ ĐƠN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN Ở
NGHỊ VIỆN Ở MỘT SỐ NƢỚC
60
3.1.

Mô hình Thanh tra Quốc hội (Ombudsman)
60

3.1.1 Khái quát chung
60

3.1.2 Vài nét về Thanh tra Quốc hội, Cơ quan trung gian hòa
giải một số nước
65

3.1.2.1 Vương quốc Thụy Điển
65

3.1.2.2 Cộng hòa Pháp
66

3.1.2.3 Vương quốc Bỉ
68

3.1.2.4 Vương quốc Thái Lan
69

3.1.2.5 Một số nhận xét về mô hình Thanh tra Quốc hội
71
3.2.
Mô hình Uỷ ban Dân nguyện
72

Kết luận Chương 3
75

Chƣơng 4. gi¶i ph¸p tiÕp tôc n©ng cao hiÖu qu¶ ho¹t
®éng xö lý ®¬n khiÕu n¹i, tè c¸o cña c«ng d©n t¹i c¸c
c¬ quan cña Quèc héi
76
4.1
Yêu cầu khách quan phải nâng cao hiệu quả hoạt động xử lý
đơn khiếu nại, tố cáo của công dân tại các cơ quan của Quốc hội
76



4.1.1 Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
77

4.1.2 Yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật
79

4.1.3 Xuất phát từ bản thân vai trò của hoạt động xử lý đơn
khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan của Quốc hội, góp phần ổn
định chính trị xã hội
80

4.1.4 Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo
của công dân và từ thực trạng khiếu nại, tố cáo của công dân
84
4.2
Một số quan điểm về đổi mới, nâng cao hoạt động xử lý đơn
khiếu nại, tố cáo của công dân
85

4.3
Giải pháp nâng cao hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo
của công dân tại các cơ quan của Quốc hội
90

4.3.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật để tạo cơ sở pháp lý đầy
đủ, thống nhất và đồng bộ cho hoạt động xử lý đơn khiếu
nại, tố cáo của công dân tại các cơ quan của Quốc hội
90

4.3.2 Thành lập cơ quan của Quốc hội chuyên trách công tác
xử lý đơn khiếu nại, tố cáo và giám sát việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân
92

4.3.3 Đổi mới bộ máy giúp việc cho Quốc hội
98

KẾT LUẬN
100












1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, hoạt
động về công tác Dân nguyện của Quốc hội là nhằm giúp cho công dân thực
hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của công dân như Điều 53 và Điều 74 Hiến
pháp năm 1992. Hoạt động công tác Dân nguyện của Quốc hội thể hiện bản
chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Hoạt động công
tác Dân nguyện nói chung và Dân nguyện của Quốc hội nói riêng luôn được
Đảng, Nhà nước, Quốc hội quan tâm, tạo điều kiện để công dân thực hiện ý
nguyện của mình đối với Nhà nước, xã hội và trên thực tế đã đạt được một số
kết quả nhất định.
Dân nguyện là nguyện vọng của nhân dân, có nội dung rất rộng lớn, thể
hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở nhiều nước, quyền khiếu nại, tố
cáo và kiến nghị của công dân thường được gọi là quyền thỉnh nguyện (hay
dân nguyện) do đó, khiếu nại, tố cáo của công dân là một nội dung quan trọng
của dân nguyện. Với ý nghĩa đó, công tác Dân nguyện nói chung được hiểu là
công tác tiếp nhận và xem xét, giải quyết các ý kiến, các đơn thư bày tỏ
nguyện vọng, kiến nghị hoặc khiếu nại, tố cáo của công dân, tổ chức theo một
trình tự, thủ tục mà luật pháp quy định, nhằm quản lý Nhà nước và xã hội,
khôi phục quyền lợi chính đáng, hợp pháp của công dân, tổ chức và xử lý
những người vi phạm pháp luật. Với khái niệm này thì công tác Dân nguyện
được tiến hành ở tất cả các cơ quan Nhà nước, bao gồm cơ quan lập pháp, cơ
quan hành pháp và cơ quan tư pháp, nhưng trong phạm vi đề tài này chỉ đề


2

cập đến nâng cao hiệu quả công tác xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân
gửi đến Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.
Trong Luật tổ chức Quốc hội và năm 2003 Quốc hội ban hành Luật Hoạt
động giám sát của Quốc hội đã quy định về trách nhiệm quyền hạn của Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội trong việc xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công
dân gửi đến các cơ quan này. Quốc hội cũng đã ban hành Luật khiếu nại, tố
cáo quy định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền của các cơ quan trong việc giải
quyết đơn khiếu nại, tố cáo của công dân. Ngoài ra, năm 2004 Uỷ ban thường
vụ Quốc hội đã có Nghị quyết về việc tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại,
tố cáo và kiến nghị của công dân gửi đến Quốc hội, các cơ quan của Quốc
hội.
Tuy nhiên trên thực tế, hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công
dân ở Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội còn nhiều lúng túng, chưa đạt hiệu
quả cao và còn nhiều vướng mắc trong quá trình thực thi vì nhiều lý do.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có một số đề tài nghiên cứu về đổi mới tổ chức và hoạt động của
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và có đề tài nghiên cứu về hoạt động
giám sát của Quốc hội (một cơ quan nằm trong hệ thống cơ quan dân cử), các
đề tài này phần nào có đề cập tới hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của
công dân và công tác giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ
quan có thẩm quyền. Ngoài ra, đã có những cuộc Hội thảo về việc nâng cao
hiệu quả hoạt động công tác dân nguyện của Quốc hội nhưng đối với nội dung
xử lý đơn khiếu nai, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội thì chưa sâu và chưa cụ thể. Và đặc biệt là trong tình hình khiếu nại,
tố cáo của công dân có chiều hướng ngày càng bức xúc hiện nay, Đảng và


3
Nhà nước ta đã đặt ra các yêu cầu phải nâng cao nhận thức trong công tác giải
quyết đơn khiếu nại, tố cáo của công dân.

3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
- Tổng kết các cơ sở lý luận hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của
công dân gửi đến Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật về hoạt
động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội;
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công
dân gửi đến Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, từ đó rút ra những vấn đề
cần tiếp tục nghiên cứu nhằm từng bước hoàn thiện cơ chế điều chỉnh của
pháp luật đối với công tác này.
- Nghiên cứu một cách có hệ thống các hình thức tổ chức thực hiện hoạt
động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và
những vấn đề có liên quan, qua đó đề xuất các vấn đề nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật về hoạt động này của Quốc hội và các cơ quan của Quốc
hội, đồng thời đề ra giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu lực của hoạt động này.
- Ứng dụng kết quả nghiên cứu đề tài phục vụ cho việc Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội hướng dẫn hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của
công dân gửi đến Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trên cơ sở các quy định
của Luật tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát, Luật khiếu nại, tố cáo,
Nghị quyết 370/2003/NQ-UBTVQH11 thành lập Ban Dân nguyện và Nghị
quyết 715/2004/NQ-UBTVQH11 về việc xử lý đơn của Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội.


4
4. Phạm vi nghiên cứu
- Các tài liệu, tư liệu, văn bản pháp lý liên quan đến tổ chức và hoạt động
của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.
- Các văn bản tài liệu hướng dẫn, giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
- Các báo cáo của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và các loại văn
bản khác có liên quan.

5. Đối tƣợng nghiên cứu
- Hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội, các Vụ phục vụ công tác chuyên môn của các cơ quan của Quốc hội.
- Các quy định của Hiến pháp 1946-1959-1980-1992- Hiến pháp sửa đổi
2002, Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát, Luật khiếu nại tố cáo
và các văn bản có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội.
- Kinh nghiệm trong hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân
gửi đến Quốc hội, hay Nghị viện của một số nước trên thế giới.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp biện chứng, lịch sử.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp luận về các vấn đề
có liên quan đến hoạt động Dân nguyện.
- Phương pháp so sánh, thống kê.
- Phương pháp xã hội học, hội thảo và chuyên gia (điều tra, thăm dò ý
kiến của các đại biểu Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội )
- Phương pháp mô hình hoá, hệ thống hoá và lựa chọn, đề xuất các kiến nghị.


5
7. Điểm mới của đề tài
Đề tài sẽ tập trung đưa ra các giải pháp và mô hình tổ chức nhằm hoàn
thiện hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội cho phù hợp với tình hình hiện nay.


6
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm bốn chương và phần kết luận.

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận cho sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt
động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân ở quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội.
Chƣơng 2: Thực trạng về công tác xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công
dân ở Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.
Chƣơng 3: Một số mô hình, kinh nghiệm tổ chức và hoạt động xử lý
đơn khiếu nại, tố cáo của công dân ở Nghị viện ở một số nước.
Chƣơng 4: Giải pháp tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác xử lý đơn
khiếu nại, tố cáo của công dân ở Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.




7
Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ ĐƠN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
CỦA CÔNG DÂN Ở QUỐC HỘI, CÁC CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI

1.1. Bản chất của nhà nƣớc Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhà nƣớc của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 tuyên
bố Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám, nhân dân ta tập hợp xung quanh
Mặt trận Việt Minh tiến hành cuộc đấu tranh giành chính quyền từ tay Pháp-
Nhật, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Hiến pháp năm 1946, 1959 và 1980 của Nhà nước ta chưa dùng thuật
ngữ "Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" nhưng về thực chất

tất cả những điều trong các hiến pháp đó đều ghi nhận quyền lực Nhà nước
thuộc về nhân dân, Nhà nước do nhân dân lập ra và mọi hoạt động của Nhà
nước đều nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân, tăng cường quyền lực của nhân
dân.
Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp. Nhân dân bầu ra cơ quan đại diện của mình, thay mặt mình
thực hiện quyền lực của mình, hay nói cách khác là nhân dân trao quyền cho các
đại diện của mình - đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp.
Nhà nước ta do nhân dân lập ra, thực chất quyền lực Nhà nước là quyền
lực của mọi công dân liên hiệp lại tạo nên, sự tồn tại của Nhà nước này là để
phục vụ nhân dân. Cơ quan Nhà nước tự nó không có quyền mà chỉ thừa hành
quyền lực do công dân uỷ nhiệm. Vì vậy, công dân mới thật sự là chủ thể của


8
quyền lực Nhà nước.
Quyền lực Nhà nước xuất phát từ dân nên nhân dân là chủ thể của quyền
lực Nhà nước. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua Quốc hội và
hội đồng nhân dân các cấp. Do đó xây dựng quyền lực Nhà nước là phải tạo
ra một hệ thống chính trị để làm cho hai mặt trên trở thành điều kiện và
nguyên nhân của nhau. Trong hai mặt đó, mặt công dân là nền tảng, là ngọn
nguồn, là mục đích của mọi quyền lực Nhà nước. Chính vì vậy, Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Khi bàn về tư tưởng Hồ Chí Minh có lẽ trong chúng ta không ai không
nhớ đến tư tưởng vì dân của Bác. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt các tác phẩm mà
Người để lại cho muôn đời con cháu mai sau, là tư tưởng nhân dân, những
người lao động sáng tạo ra lịch sử, thể hiện rõ nét trong tổ chức và hoạt động
của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Các thuật ngữ "nhân dân", "dân", "giới cần lao", "anh em lao
động", "đồng bào ta", "dân nghèo" được Bác dùng thể hiện triết lý Hồ Chí

Minh, mang tính nhân văn cao cả, vừa giản dị, vừa thân mật của vị lãnh tụ dân
tộc.
Khi độc lập và tự do của dân tộc đã dành được, nhiệm vụ rất to lớn là
làm thế nào để mỗi người dân đều được tự do, sung sướng. Người cho rằng
nhiệm vụ này thuộc về Chính phủ. Chính phủ phải phấn đấu sao cho dân được
sung sướng, bởi vì, nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do
thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.
Cuối năm 1946 Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà được ban
hành. Chính phủ hợp hiến được thành lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.
Người kêu gọi các thành viên Chính phủ và viên chức trong các cơ quan Nhà
nước cần phải xem mình là công bộc của nhân dân. Người nhắc lại tư tưởng
này trong một số bài viết. Trong bài "Chính phủ là công bộc của dân" (Báo


9
Cứu quốc, số 46, ngày 19-9-1945) Người viết: "Người xưa nói quan là công
bộc của dân, ta cũng có thể nói: Chính phủ là công bộc của dân vậy. Các công
việc của Chính phủ làm phải nhằm vào mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh
phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt
quyền lợi dân lên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì phải làm. Việc gì có hại
cho dân thì phải tránh. Uỷ ban nhân dân là Uỷ ban có nhiệm vụ thực hiện tự
do dân chủ cho dân chúng. Nó phải hành động đúng tinh thần tự do dân chủ
đó. Trong bài "Nói chuyện với các đại biểu báo chí về nội trị, ngoại giao nước
nhà trong những ngày vừa qua" (Nói ngày 6-10-1945, báo Cứu quốc, số 61,
ngày 8-10-1945) Người nhắc nhở: "Chính phủ Dân chủ Cộng hoà lâm thời là
công bộc của nhân dân. Anh em trong Chính phủ, ai là người có tài năng, có
đức hạnh giúp đỡ cho dân, cho nước, tất nhiên là được quốc dân hoan nghênh.
Là người này hay người khác cũng thế, ai là dân đều có quyền giúp đỡ. Nước
ta đã là một nước Dân chủ Cộng hoà, chính quyền đã ở trong tay dân, nhân
dân hoan nghênh người có tài, có đức gánh vác cho dân được thì người đó

đảm nhận trách nhiệm”.
Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nên cần phải có cơ chế bảo
vệ quyền lợi của nhân dân một cách hiệu quả nhất, chính vì vậy, Quốc hội với
tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của
nhân dân cần phải nâng cao vai trò của mình trong hoạt động nói chung và
trong hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân nói riêng.
1.2. Nhà nƣớc đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, trong đó có
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân
Khiếu nại, tố cáo không những là quyền tự do, dân chủ của công dân
được Hiến pháp quy định, mà còn là công cụ pháp lý để công dân bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, là phương thức nhân dân tham gia quản
lý nhà nước, là biểu hiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Công dân có


10
quyền khiếu nại với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về quyết định hoặc
việc làm trái pháp luật thuộc phạm vi quản lý hành chính của cơ quan Nhà
nước hoặc nhân viên Nhà nước, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Thực tiễn cho thấy, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân còn bị xâm phạm
ở những mức độ khác nhau trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, việc
tăng cường giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong những
bảo đảm quyền và tự do của công dân.
Trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, không phải lúc
nào người đi kiện cũng là không có căn cứ pháp lý. Công tác tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo của cấp chính quyền cơ sở cũng còn không ít hạn chế,
bất cập. Không ít cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu kiện của dân
nhưng năng lực, trình độ còn hạn chế, thiếu hiểu biết về các quy định của
pháp luật, thậm chí có người còn không nắm vững quy trình, thủ tục của việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo. đó là chưa kể đến những trường hợp cố tình vi

phạm, cố tình hướng dẫn người dân đi khiếu kiện vòng vo, gây lãng phí, tốn
kém và làm cho dân thiếu tin tưởng vào việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
các cơ quan nhà nước.
Trước hết, pháp luật khiếu nại, tố cáo phản ánh bản chất chính trị của
Nhà nước dân chủ. Nhà nước của dân, do dân, vì dân là nguyên tắc cơ bản chỉ
đạo quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách bộ máy nhà
nước. Nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước. Thực hiện quyền khiếu
nại, tố cáo cũng chính là hình thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đó
chính là quyền giám sát, quyền kiểm soát quyền lực Nhà nước mà chính nhân
dân đã ủy quyền, đã trao cho các cơ quan Nhà nước. Đó cũng chính là hình
thức thể hiện quyền tự do, dân chủ của công dân. Chính Nhà nước đã tạo lập
công cụ pháp lý để người dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Một
khi cơ quan Nhà nước, các cán bộ, công chức trong cơ quan Nhà nước vi
phạm quyền và lợi ích chính đáng của công dân, lợi ích của Nhà nước và lợi


11
ích của xã hội thì việc công dân khiếu nại và tố cáo chính là sự kiểm soát
quyền lực Nhà nước từ phía chủ thể quyền lực Nhà nước.
Việc công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo và các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, xử lý tố cáo theo đúng quy định của
pháp luật được coi là sự phản chiếu giá trị công bằng của pháp luật.
Giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo đem lại niềm tin cho người dân, người
dân cảm nhận được sự công bằng xã hội, sự nghiêm minh của pháp luật và giá
trị của quyền con người, quyền công dân được tôn trọng. Giá trị này được thể
hiện trong chính pháp luật về khiếu nại, tố cáo, trong các quy định về tiếp
nhận và phản hồi thông tin trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; về bảo đảm tính
công khai, đối thoại trong suốt quá trình xem xét giải quyết vụ việc "Quốc
hội phục vụ dân đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát, thúc đẩy của dân. Một
Quốc hội thực sự dân chủ thì sẽ có tác dụng rất to lớn trong việc thu hút và

lôi cuốn sự quan tâm của dân chúng, tạo hậu thuẫn xã hội để làm tăng thực
lực, thực quyền của Quốc hội, nhờ đó Quốc hội đem lại những lợi ích và hiệu
quả thiết thực cho dân chúng, cho quyền làm chủ trên thực tế của dân". [15]
Hiện nay, các cơ quan hành chính nhà nước còn lúng túng trong việc giải
quyết mối quan hệ giữa chỉ đạo, điều hành và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Không ít trường hợp việc giải quyết khiếu nại kéo dài nhiều năm không được
giải quyết. Cũng không ít trường hợp các cơ quan Nhà nước dùng quyền của
mình để biện hộ cho việc làm sai trái của mình dẫn tới chỗ người dân bị oan,
không biết kêu ai. Ngay việc thành lập tòa án hành chính là bước tiến quan
trọng trong giải quyết khiếu nại nhưng các vụ kiện hành chính còn rất ít, trong
đó số vụ mà cơ quan hành chính Nhà nước "thắng kiện" nhiều hơn là "thua
kiện".
Điều 74 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 1996 quy định:
“1- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thi hành án hành


12
chính trong phạm vi cả nước.
2- Cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án,
quyết định của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành. Thủ trưởng cơ quan nhà
nước cấp trên trực tiếp có trách nhiệm theo dõi, giám sát việc thi hành án
hành chính; trong trường hợp cần thiết có quyền buộc phải chấp hành quyết
định của Toà án về vụ án hành chính. Người nào thiếu trách nhiệm trong việc
thi hành án hành chính hoặc cố tình không chấp hành bản án, quyết định của
Toà án về vụ án hành chính, thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị
xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Với quy định như trên, có một thực tế là Nhà nước ta chưa có cơ chế thi
hành án hành chính như thi hành án dân sự. Khi dân "thua kiện" thì cơ quan
hành chính Nhà nước thi hành ngay bản án, còn khi dân "thắng kiện" thì dân
không biết thi hành án như thế nào nếu cơ quan Nhà nước không chịu thi

hành những nghĩa vụ theo bản án đã tuyên. Như vậy, việc thi hành Điều 74
này cũng không hề đơn giản và bản án hành chính không được cơ quan Nhà
nước thi hành cũng không thể bị cưỡng chế thi hành.
Đã có lúc các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo theo
kiểu đột phá, chiến dịch. Đó là việc Chính phủ tập trung cử các đoàn về các
địa phương, giải quyết tại chỗ những khiếu nại, tố cáo của dân. Mặc dù có thu
được một số kết quả nhất định nhưng theo chúng tôi, đó không phải là cách
làm thường xuyên trong quản lý Nhà nước, chỉ mang tính nhất thời, không
mang lại hiệu quả lâu dài. Không ít kết luận của các đoàn công tác của Chính
phủ sau nhiều năm vẫn không được thực hiện.
Từ thực tiễn đó, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, với tư cách là cơ
quan đại diện của nhân dân cần phải nâng cao vai trò của mình trong hoạt
động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo và giám sát việc giải quyết của các cơ quan
có thẩm quyền nhằm đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, kịp thời


13
có biện pháp lấp các “lỗ hổng” trong chính sách pháp luật cũng như trong
hoạt động của cơ quan hành nhà nước.
1.3. Vị trí, vai trò của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong việc
xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân
Trong bộ máy Nhà nước Việt Nam, Quốc hội có vị trí, vai trò đặc biệt
quan trọng. Điều này đã được minh chứng qua lịch sử hơn 60 năm hình thành
và phát triển của Quốc hội nước ta. Vị trí, vai trò của Quốc hội được khẳng
định qua hai đặc điểm, đó là: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân (hay còn gọi là cơ quan đại diện dân cử cao nhất của nhân dân) và là cơ
quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Vị trí của Quốc hội đã được xác định trên cơ sở quy định của Hiến
pháp, Luật Tổ chức Quốc hội và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác.
Kế thừa các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959 và năm 1980; Hiến

pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001) dành vị trí
trang trọng nhất để quy định về Quốc hội; Điều 83 đã quy định rõ:
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại,
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên
tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội
và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của
Nhà nước.” [10, tr.44].
Tính đại diện của Quốc hội thể hiện ở chỗ: Quốc hội là cơ quan Nhà
nước duy nhất bao gồm các đại biểu Quốc hội do cử tri cả nước trực tiếp bầu
ra. Cơ cấu thành phần của Quốc hội bao gồm những đại biểu đại diện cho các


14
dân tộc, tôn giáo và các tầng lớp nhân dân; đại diện cho khối đại đoàn kết
toàn dân tộc và trí tuệ của nhân dân cả nước. Quốc hội có chức năng, nhiệm
vụ là phục vụ cho lợi ích của toàn thể nhân dân, của dân tộc, nói lên tiếng nói
của nhân dân, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân; đồng thời, chịu sự
giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Vai trò của Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước cao
nhất được thể hiện qua chính chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì Quốc hội là cơ quan duy nhất
có quyền lập hiến và lập pháp; có nghĩa là Quốc hội là cơ quan duy nhất có
quyền biến ý chí, nguyện vọng của nhân dân thành ý chí của Nhà nước, thành
các quy định của Hiến pháp và pháp luật; đó là những quy định có tính bắt
buộc chung, được áp dụng trên toàn lãnh thổ. Các văn bản quy phạm pháp
luật của các cơ quan Nhà nước khác khi ban hành đều không được trái với nội

dung của Hiến pháp và pháp luật. Mặt khác, ở nước ta, Quốc hội là cơ quan
Nhà nước cao nhất có đủ thẩm quyền quyết định những vấn đề thuộc chủ
quyền quốc gia, những vấn đề trọng đại của đất nước; đồng thời, thực hiện
quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước. Quốc
hội còn là nơi để xem xét và quyết định các vấn đề về nhân sự cấp cao trong
các cơ quan Nhà nước ở Trung ương như: bầu Chủ tịch và Phó Chủ tịch nước,
Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao. Bên cạnh đó, do tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước ta được thực hiện theo nguyên tắc: tất cả quyền lực nhà nước đều
thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua cơ quan
đại diện của mình, đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, Hội
đồng nhân dân chỉ là cơ quan quyền lực Nhà nước địa phương, do cử tri từng
địa phương bầu ra; nó không giống như Quốc hội là do cử tri toàn quốc bầu
ra. Đây chính là cơ sở cho Quốc hội trở thành cơ quan quyền lực nhà nước


15
cao nhất ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điểm này khẳng định
rõ: Quốc hội Việt Nam có vị trí, vai trò cao hơn so với Quốc hội của nhiều
nước. Ví dụ như ở Vương quốc Anh, thì: "Nguyên thủ quốc gia - Nữ hoàng
đứng trên Quốc hội Anh, thì ở Nhà nước Việt Nam mặc dù là Nguyên thủ
quốc gia nhưng Chủ tịch nước vẫn phải đứng dưới Quốc hội, do Quốc hội
bầu ra và phải chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội" [20, tr. 166 - 167].
Như vậy, Quốc hội nước ta chiếm vị trí cao nhất trong toàn bộ bộ máy
của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có thể khẳng định rằng,
không một cơ quan Nhà nước nào trong hệ thống các cơ quan Nhà nước ở
nước ta lại có được vị trí, vai trò quan trọng như Quốc hội.
Cơ cấu tổ chức của Quốc hội nước ta bao gồm các đại biểu Quốc hội và
các cơ quan của Quốc hội. Do đó, đại biểu Quốc hội có một địa vị pháp lý rất
đặc biệt; được quy định rõ trong Hiến pháp và pháp luật. Điều 43 Luật Tổ

chức Quốc hội nêu rõ: "Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử
ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước; là người thay mặt nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội" [11, tr. 37].
Hiến pháp 1992 đã quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ”(Điều 83) và “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà
nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện
cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách
nhiệm trước nhân dân” (Điều 6). Do đó, có thể nói trong cơ chế bảo đảm việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân nói chung và quyền
khiếu nại, tố cáo nói riêng, Quốc hội là cơ quan có vị trí cao nhất. Một mặt,
mỗi cá nhân bằng việc bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín
bầu ra các đại biểu Quốc hội để thông qua đó thực hiện quyền lực nhà nước


16
của mình. Mặt khác, Quốc hội là cơ quan có vị trí pháp lý cao nhất trong bộ
máy nhà nước bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân với tư cách
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại diện cao nhất của nhân
dân.
Quốc hội bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân nói chung và việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân nói
riêng thông qua các phương thức như bằng hoạt động lập hiến, lập pháp, bằng
hoạt động giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của
mình, bằng hoạt động quyết định những vấn đề cơ bản quan trọng nhất của
đất nước, trong đó hoạt động giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
là một phương thức thực hiện quyền lực của nhân dân có ý nghĩa quan trọng.
Cụ thể là:

a) Việc khiếu nại, tố cáo của công dân một mặt biểu hiện quyền giám sát
trực tiếp của nhân dân đối với bộ máy nhà nước, mặt khác lại là nguồn thông
tin quan trọng cho hoạt động giám sát. Thông qua công tác này mà Quốc hội
nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng và những yêu cầu bức xúc của người dân
và qua đó có những giải pháp kịp thời, phù hợp góp phần vào việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi bị xâm hại. Vì vậy, nếu việc tổ chức xử
lý đơn khiếu nại, tố cáo ở Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội được hợp lý và
hoạt động giám sát được tiến hành thường xuyên, có hiệu quả sẽ đảm bảo
quyền và lợi ích chính đáng của công dân, làm cho quyền khiếu nại, tố cáo
của công dân được bảo đảm và thực thi thống nhất trong cả nước đồng thời
góp phần xây dựng được một bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
b) Một mặt, qua việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền có nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân và điều kiện
của khiếu nại, tố cáo của công dân, từ đó tự mình hoặc yêu cầu các cơ quan,


17
tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục, phòng ngừa. Mặt khác,
trong mối quan hệ với cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát thì Quốc hội
có thể phát hiện những tồn tại trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân này trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, góp phần giúp các đối
tượng chịu sự giám sát nhận thấy những tồn tại trong quá trình thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình, từ đó có giải pháp khắc phục những khó khăn, bất
cập, chấn chỉnh về mặt tổ chức, hoạt động, góp phần tích cực vào cải cách tư
pháp, cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh
đồng thời làm cho việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn
trật tự xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân được tốt hơn qua đó thúc đẩy quá trình xây dựng, hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở
nước ta. Đồng thời, qua hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo và giám sát

việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội có khả năng thu thập được nhiều thông tin, làm cơ sở để xây dựng
chính sách pháp luật và thực hiện giám sát toàn bộ hoạt động của Nhà nước,
qua đó có những kiến nghị với Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt hơn việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trên phạm vi toàn quốc.
c) Việc tổ chức tốt và hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công
dân tại các cơ quan của Quốc hội được thực hiện chuyên sâu hơn, hoạt động
giám sát trong lĩnh vực này thường xuyên hơn không chỉ tác động tích cực
đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền mà
nó còn có sự liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại với việc thực hiện chức năng
lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Vì vậy, thông
qua hoạt động này, các cơ quan của Quốc hội có thể phát hiện những bất cập
trong hệ thống pháp luật cũng như trong tổ chức và hoạt động của bộ máy


18
Nhà nước, phát hiện những vấn đề nào, quan hệ nào cần có sự điều chỉnh của
pháp luật, những quy định nào, chế định nào không còn phù hợp với thực tiễn
để từ đó có những kiến nghị sửa đổi, bổ sung kịp thời. Đồng thời, qua đó có
thể hoạch định những chính sách lớn và quyết định những vấn đề quan trọng
được sát với thực tiễn, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội. Như vậy, việc thực hiện tốt
hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo sẽ giúp Quốc hội thực hiện tốt hơn chức năng lập pháp, quyết định những
vấn đề quan trọng của đất nước nhất là việc ban hành những quy định bảo
đảm quyền khiếu nại, tố cáo và xây dựng cơ chế giải quyết hiệu quả những
khiếu nại, tố cáo của công dân.
Quốc hội, với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan
duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng
của đất nước nên Quốc hội có quyền theo dõi, xem xét, kiểm tra việc thực

hiện chúng trong đời sống thực tiễn. Về bản chất, quyền giám sát tối cao của
Quốc hội mang bản chất của quyền lực nhà nước nghĩa là thực hiện ý chí của
nhân dân. Khẳng định tính quyền lực nhà nước của quyền giám sát tối cao của
Quốc hội là khẳng định vị trí pháp lý của Quốc hội giữ vai trò quyết định
trong sự vận hành của cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực ở nước ta.
Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao với mục đích là kiểm
soát hệ thống các cơ quan hành pháp và tư pháp trong việc thực hiện chức
năng, quyền hạn của bộ máy hành chính, bộ máy tư pháp, việc thực thi pháp
luật và các quyết định của Quốc hội. Việc Quốc hội thực hiện quyền giám sát
đối với hoạt động của các cơ quan hành pháp và tư pháp xuất phát từ một vấn
đề có tính nguyên tắc: Cơ quan quyền lực nhà nước cần phải kiểm soát các
hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm duy trì sự vận hành của bộ máy nhà
nước theo hướng đáp ứng tốt nhất ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Với tư
cách là cơ quan đại diện của dân, Quốc hội giám sát hoạt động của bộ máy


19
nhà nước ta là nhằm bảo vệ quyền lợi của nhân dân, đặc biệt là thực hiện dân
chủ xã hội chủ nghĩa [39, tr.376].
Tuy nhiên, do tính chất hoạt động không thường xuyên nên Quốc hội
không thể trực tiếp giám sát đối với mọi đối tượng, mọi khâu trong quá trình
thực hiện Hiến pháp và pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
nên quyền giám sát tối cao của Quốc hội đã được uỷ quyền cho Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu
Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Do đó, các chủ thể này có quyền tiến hành các
hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân trong phạm vi lĩnh vực phụ trách.
Để bảo đảm hiệu quả công tác giám sát của các cơ quan của Quốc hội
đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, Luật khiếu nại, tố cáo,
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Quy chế hoạt động của Uỷ ban thường

vụ Quốc hội, Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của
Quốc hội và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác đã quy định cụ thể các
hình thức giám sát, trong đó có quy định về hình thức giám sát thông qua hoạt
động tiếp nhận, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội. Hội đồng dân tộc và các Uỷ
ban của Quốc hội là những cơ quan của Quốc hội. Hoạt động giám sát việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội
có liên quan mật thiết tới hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của Quốc hội. Xét về giác độ pháp lý thì thẩm quyền
giám sát của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội đã được Hiến pháp
và các đạo luật quy định.
Tùy thuộc vào chức năng đảm trách và lĩnh vực được phân công, Hội
đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội tổ chức việc tiếp nhận, xử lý đơn
thư khiếu nại, tố cáo của công dân và giám sát việc giải quyết của cá cơ quan


20
nhà nước, người có thẩm quyền. Theo quy định của pháp luật, khi nhận được
khiếu nại, tố cáo của công dân, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội
có trách nhiệm tổ chức nghiên cứu và chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền để xem xét, giải quyết. Nếu không đồng ý với kết quả giải
quyết của người đó thì yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực
tiếp xem xét, giải quyết. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải xem xét,
giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định và thông báo kết quả giải quyết
tới Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội. Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của
Quốc hội có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của các cơ quan hữu quan.
Trong khi nghiên cứu đơn khiếu nại, tố cáo của công dân mà phát hiện
có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan, tổ

chức, cá nhân có liên quan hoặc người khiếu nại, tố cáo đến trình bày và cung
cấp thông tin, tài liệu mà Hội đồng dân tộc, Uỷ ban quan tâm. Ngoài ra, Hội
đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có thể tổ chức các cuộc họp có sự tham
gia của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để có thêm thông tin đánh giá
về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
1.4. Hoạt động xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân tại các cơ
quan của Quốc hội
1.4.1. Hoạt động tiếp công dân, tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo
của công dân
Tiếp công dân là một nhiệm vụ của Quốc hội, của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các đại biểu Quốc
hội và đoàn đại biểu Quốc hội. Hoạt động tiếp công dân là nhằm thu thập và
tiếp nhận ý kiến, nguyện vọng của công dân, hướng dẫn giúp đỡ công dân
thực hiện việc khiếu nại, tố cáo và nhận đơn thư của công dân để xử lý.

×