Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 127 trang )


đại học quốc gia hà nội
khoa luật




nguyễn văn huy





những vấn đề lý luận và thực tiễn
về giám đốc việc xét xử của tòa án nhân dân





luận văn thạc sĩ luật học







Hà nội - 2008




đại học quốc gia hà nội
khoa luật



nguyễn văn huy




những vấn đề lý luận và thực tiễn
về giám đốc việc xét xử của tòa án nhân dân

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà n-ớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01


luận văn thạc sĩ luật học



Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân



Hà nội - 2008

MỤC LỤC




Trang

MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁM ĐỐC VIỆC XÉT XỬ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
4
1.1.
Khái niệm, ý nghĩa giám đốc việc xét xử của Tòa án
nhân dân
4
1.2.
Giám đốc việc xét xử theo quy định của pháp luật Việt Nam
12
1.2.1.
Quy định của pháp luật về thủ tục phúc thẩm
12
1.2.1.1.
Kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
12
1.2.1.2.
Xét xử phúc thẩm
14
1.2.2.
Quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm
17
1.2.2.1.

Tính chất của giám đốc thẩm
17
1.2.2.2.
Kháng nghị giám đốc thẩm
20
1.2.2.3.
Xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm
24

Chương 2: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG GIÁM ĐỐC VIỆC XÉT XỬ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
32
2.1.
Hoạt động giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân thông
qua xét xử phúc thẩm
32
2.2.
Hoạt động giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân thông
qua xét xử giám đốc thẩm
62
2.2.1.
Thực trạng hoạt động giám đốc thẩm
62
2.2.2.
Về áp dụng căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm
71
2.2.3.
Về quyết định giám đốc thẩm
76
2.2.4.

Về thẩm quyền giám đốc thẩm
81

Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG GIÁM ĐỐC VIỆC XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN
96
3.1.
Yêu cầu đặt ra đối với hoạt động giám đốc việc xét xử của
Tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam
96
3.2.
Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám đốc việc
xét xử của Tòa án nhân dân
108

KẾT LUẬN
118

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
120


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tòa án nhân dân, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài
sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự, nhân

phẩm của nhân dân. Trong hoạt động xét xử, Tòa án các cấp cũng đề ra
phương châm là "xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật". Trong quá
trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm sự bình đẳng
trong xã hội, bảo vệ sự an toàn trong hành lang pháp lý, thì Tòa án đã thực sự
trở thành công cụ có hiệu quả. Ngành Tòa án đã ra sức khắc phục khó khăn,
phát huy những điểm tích cực trong công tác xét xử và uốn nắn, sửa chữa
những thiếu sót. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, một số bản án hoặc quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn còn để lọt người phạm tội, làm
oan người vô tội hoặc do lỗi từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, vi phạm
pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án gây thiệt hại đến lợi
ích của người khác.
Thủ tục giám đốc thẩm ra đời nhằm khắc phục những thiếu sót trong
quá trình xử lý vụ án của Tòa án. Tuy nhiên, những quy định về thủ tục giám
đốc thẩm chưa được quy định rõ ràng, cụ thể và triệt để dẫn đến việc rất khó
áp dụng và gây nhiều tranh cãi. Việc giải thích, hướng dẫn về thủ tục giám
đốc thẩm chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quan tâm, nên trong
hoạt động giám đốc việc xét xử chưa đạt kết quả cao.
Công tác giám đốc việc xét xử ra đời nhằm kiểm tra lại những sai lầm,
thiếu sót trong quá trình xét xử của Tòa án các cấp, đảm bảo xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật; không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Trước thực trạng và yêu cầu như trên, tác giả đã lựa chọn đề tài "Những
vấn đề lý luận và thực tiễn về giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân".

2
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm đánh giá thực trạng xét xử của Tòa án các
cấp, phân tích những mặt được và chưa được trong quá trình xét xử của vụ án,
kiểm tra và uốn nắn những vi phạm để từ đó tổng kết kinh nghiệm, làm cơ sở
để các cơ quan chức năng áp dụng thống nhất pháp luật. Đồng thời, đề tài
cũng đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt
động giám đốc việc xét xử trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động giám đốc việc xét xử đã được các nhà làm luật cũng như
những người làm công tác thực tiễn quan tâm, nhưng tiếc rằng chưa có một
công trình nghiên cứu nào ở góc độ chuyên sâu về vấn đề này. Trong một số
công trình khoa học hoặc bài viết chỉ đề cập đến một khía cạnh nào đó của
giám đốc việc xét xử thông qua việc nghiên cứu thủ tục phúc thẩm, giám đốc
thẩm. Trong những năm qua, chưa có một công trình nghiên cứu về giám đốc
việc xét xử có tính hệ thống và toàn diện.
3. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Tác giả đã xây dựng đề tài này dựa trên cơ sở phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với các phương pháp phân tích, thống kê, so
sánh, tổng hợp, lịch sử, lôgic… Đồng thời, đề tài cũng được xây dựng dựa trên
sự kết hợp giữa việc nghiên cứu lý luận với thực tiễn, từ việc tổng kết những
kinh nghiệm xét xử trong thực tế để đưa ra những kiến nghị và giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động giám đốc việc xét xử.
4. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu: Luận văn sẽ khái quát những vấn đề cơ bản
nhất về lý luận và thực tiễn của công tác giám đốc việc xét xử; những hoạt
động của giám đốc việc xét xử thông qua xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm.
Từ đó, luận văn sẽ nêu lên một số yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả của công tác giám đốc việc xét xử.

3
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp
trên đối với Tòa án cấp dưới là vấn đề đang được nhiều nhà khoa học pháp lý
quan tâm, không chỉ ở nước ta mà rất nhiều nước trên thế giới. Trước đây
cũng đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề trình tự và thủ tục giám
đốc thẩm dân sự, kinh tế… và việc nâng cao hiệu quả của công tác giám đốc
thẩm và tái thẩm các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động nói
chung. Tuy nhiên, trước sự đòi hỏi của thực tiễn về cải cách tư pháp thì việc

cần phải có một đề tài nghiên cứu riêng về công tác giám đốc xét xử là điều
rất cần thiết. Vì đề tài có phạm vi nghiên cứu rất rộng, cho nên tác giả chỉ tập
trung nghiên cứu hoạt động giám đốc xét xử đối với vụ án hình sự.
Luận văn nghiên cứu tổng quát và hệ thống các vấn đề như: quy định
của pháp luật về hoạt động giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp trên đối với
Tòa án cấp dưới; thực tiễn hoạt động giám đốc việc xét xử thông qua xét xử
phúc thẩm, giám đốc thẩm; yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
hoạt động giám đốc việc xét xử.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về giám đốc việc xét xử của Tòa án
nhân dân.
Chương 2: Thực tiễn hoạt động giám đốc việc xét xử của Tòa án
nhân dân.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt
động giám đốc việc xét xử.


4
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁM ĐỐC VIỆC XÉT XỬ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

1.1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA GIÁM ĐỐC VIỆC XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN
Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước, thực hiện một trong các lĩnh
vực quyền lực của Nhà nước đó là quyền tư pháp. Hoạt động xét xử của Tòa
án hiểu theo nghĩa chung nhất là "hoạt động của các cơ quan và cá nhân được
quyền căn cứ vào pháp luật để xem xét những vấn đề pháp lý và đưa ra những

quyết định pháp lý có tính chất bắt buộc". Hoạt động xét xử là nhân danh
quyền lực nhà nước nhằm xem xét, đánh giá và ra phán quyết về tính hợp
pháp và tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay quyết định pháp luật khi có
sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích khác nhau.
Tòa án có vai trò to lớn trong việc đảm bảo ổn định xã hội. Trong hoạt
động áp dụng pháp luật, Tòa án đóng vai trò hết sức quan trọng và có đặc thù
riêng. Khi xét xử, Tòa án là chủ thể có quyền xem xét, đánh giá việc thực hiện
pháp luật của các chủ thể khác, ra bản án hoặc quyết định phán xét hành vi
của các chủ thể đó. Các bản án và quyết định này mang tính quyền lực nhà
nước sâu sắc, được Tòa án tuyên nhân danh Nhà nước, thể hiện trực tiếp thái
độ của Nhà nước đối với vụ án, quyết định những vấn đề có liên quan trực
tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của công dân và những chủ thể khác. Các bản
án và quyết định của Tòa án có ý nghĩa là phán quyết cuối cùng, bản án và
quyết định của Tòa án có hiệu lực bắt buộc chung đối với các bên có liên
quan cũng như đối với mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân khác trong xã hội.
Việc Tòa án áp dụng pháp luật sẽ được sự giám sát trực tiếp không chỉ
của Viện kiểm sát mà còn của nhân dân. Có thể nói, "Tòa án là biểu hiện tập
trung nhất của quyền lực tư pháp - nơi mà kết quả của hoạt động điều tra,

5
công tố, bào chữa được kiểm tra và xem xét một cách công khai thông qua thủ
tục tố tụng theo luật định để đưa ra những phán quyết cuối cùng có tính chất
quyền lực nhà nước, nơi phản ánh đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất của nền
công lý". Vì vậy, việc xét xử công khai của Tòa án có ảnh hưởng lớn về mặt
chính trị, xã hội và tác động mạnh mẽ đến ý thức pháp luật của công dân. Do
tầm quan trọng và đặc thù của hoạt động xét xử, đòi hỏi việc xét xử phải
chính xác, công bằng và đúng pháp luật, thể hiện được ý chí, đáp ứng được
nguyện vọng của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án [20].
Do tầm quan trọng của hoạt động xét xử và đặc điểm của hoạt động
này nên việc đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án đúng pháp luật, đảm

bảo tính hợp pháp trong các bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu
được đặt ra đối với các quốc gia trên thế giới. Yêu cầu này đặc biệt quan trọng
trong Tố tụng hình sự, khi mà Tòa án có quyền ra bản án hình sự, quyết định
những vấn đề về trách nhiệm hình sự, hình phạt và các biện pháp tư pháp đối
với bị cáo, đó có thể là tự do, danh dự, tài sản, nhân thân và thậm chí cả tính
mạng con người. Việc quy định nguyên tắc xét xử vụ án theo hai cấp xét xử và
tổ chức Tòa án theo thứ bậc để Tòa án cấp trên có thể xem xét lại phán quyết của
Tòa án cấp dưới là một trong những giải pháp về mặt pháp luật để giải quyết
vấn đề này. Việc xem xét lại vụ án để đảm bảo tính chính xác, khách quan
trong hoạt động xét xử, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy
nhiên, việc giải quyết vụ án phải nhanh chóng, không thể kéo quá dài. Nếu
trình tự tố tụng quá dài và phức tạp sẽ dẫn đến hậu quả các quan hệ xã hội bị
xâm phạm, không khôi phục kịp thời, trật tự xã hội không ổn định, các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân không được giải quyết nhanh chóng.
Theo nguyên tắc hai cấp xét xử, sau khi xét xử sơ thẩm, bản án và
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật và chưa được đưa ra thi hành
trong một thời gian nhất định; bị cáo và các đương sự có quyền kháng cáo, cơ
quan công tố có quyền kháng nghị để xem xét lại thủ tục phúc thẩm. Khi xét
xử phúc thẩm, Tòa án cấp trên sẽ xem xét cả về tính hợp pháp và tính có căn

6
cứ của bản án hoặc quyết định sơ thẩm, đồng thời xét xử lại vụ án về nội
dung. Như vậy, ngoài chức năng xét xử, phúc thẩm là một hình thức giám đốc
xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới.
Trên thực tế, trong quá trình xét xử của Tòa án các cấp, đã xuất hiện
các bản án và quyết định có nhiều sai phạm, dẫn đến tình trạng oan sai, bỏ lọt
tội phạm. Vì vậy, việc kiểm tra hoạt động xét xử của Tòa án các cấp là điều
rất cần thiết. Thông qua hoạt động này, giúp cho Tòa án các cấp phát hiện
được những sai phạm của mình để kịp thời sửa chữa, khắc phục những vi
phạm; đồng thời tổng kết kinh nghiệm xét xử, làm cơ sở để Tòa án các cấp áp

dụng thống nhất pháp luật.
Giám đốc việc xét xử, đó là sự kiểm tra hoạt động xét xử của Tòa án
cấp trên đối với Tòa án cấp dưới, thông qua đó mà uốn nắn, sửa chữa hoặc
hủy bỏ những sai lầm, nhằm bảo đảm cho Tòa án các cấp áp dụng đúng đắn
và thống nhất pháp luật.
Giám đốc xét xử bao gồm các hoạt động như:
- Kiểm tra, phát hiện những thiếu sót, sai lầm. Trong quá trình xét xử
vụ án, Tòa án không thể tránh khỏi những sai lầm và vi phạm trong việc xử lý
vụ án. Giám đốc việc xét xử sẽ kiểm tra và phát hiện kịp thời những sai phạm
đó, khắc phục được những hậu quả có thể xảy ra do bản án oan sai hoặc
những vi phạm thủ tục tố tụng gây nên.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội
và công dân về các vụ án mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Đối với các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng đã
bị cơ quan, tổ chức và công dân khiếu nại, tố cáo; thì hoạt động giám đốc xét
xử sẽ bao gồm việc giải quyết, xử lý các khiếu nại, tố cáo đó. Việc giải quyết
này cần phải triệt để, đúng đắn và chính xác; làm cho người dân tin tưởng vào
pháp luật và đảm bảo nguyên tắc: không bỏ lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội.

7
- Tổng kết kinh nghiệm xét xử.
Thông qua thực tiễn xét xử, Tòa án các cấp tổng kết lại các kinh
nghiệm xét xử cũng như đúc rút ra các bài học kinh nghiệm sau quá trình thụ
lý và xét xử mỗi vụ án; đồng thời rút ra những mặt tích cực, mặt thuận lợi,
cũng như những hạn chế, tiêu cực trong quá trình xét xử của Tòa án các cấp.
Tổng kết kinh nghiệm xét xử là một hoạt động quan trọng của việc giám đốc
xét xử, giúp cho Tòa án các cấp áp dụng thống nhất pháp luật.
- Hướng dẫn Tòa án các cấp áp dụng thống nhất pháp luật. Hệ thống
pháp luật nước ta vẫn đang tồn tại nhiều điểm bất cập, những quy định pháp

luật không thực tế và không hợp lý, những mâu thuẫn trong các quy định pháp
luật. Vì vậy, chưa tạo ra một hành lang pháp lý để các cơ quan tiến hành tố
tụng có thể áp dụng thống nhất pháp luật, đặc biệt là trong quá trình xét xử
của Tòa án. Thông qua hoạt động giám đốc việc xét xử, Tòa án sẽ đúc rút ra
những kinh nghiệm trong quá trình xét xử, làm cơ sở để Tòa án các ấp áp
dụng thống nhất pháp luật.
- Kháng nghị bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ
tục giám đốc thẩm.
Giám đốc việc xét xử là quyền hạn và nhiệm vụ của Tòa án cấp trên đối
với hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới. Nó được ghi nhận trong Điều 134
Hiến pháp năm 1992 và Điều 19 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002.
Tòa án cấp trên có trách nhiệm phải kiểm tra, giám sát mọi hoạt động trong
quá trình xét xử của Tòa án cấp dưới, phát hiện ra những sai lầm và thiếu sót,
chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế, để từ đó tổng kết kinh nghiệm xét xử và
hướng dẫn Tòa án các cấp áp dụng thống nhất pháp luật.
Giám đốc việc xét xử là một nguyên tắc tố tụng quan trọng được ghi
nhận tại Điều 21 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 như sau: "Tòa án cấp trên
giám đốc việc xét xử của các Tòa án cấp dưới, Tòa án nhân dân tối cao giám
đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp để bảo đảm
việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất".

8
Hoạt động giám đốc của Tòa án cấp trên đối với hoạt động xét xử của
Tòa án cấp dưới là một bảo đảm pháp lý quan trọng cho việc áp dụng pháp
luật trong công tác xét xử ở các cấp Tòa án được nghiêm chỉnh và thống nhất.
Vì vậy, pháp luật đã xác định rõ việc giám đốc của Tòa án cấp trên đối với
Tòa án cấp dưới và việc giám đốc của Tòa án nhân dân tối cao đối với các
Tòa án trong cả nước.
Hoạt động giám đốc của Tòa án cấp trên đối với việc xét xử của Tòa
án cấp dưới được tiến hành thông qua việc xem xét lại bản án và quyết định

của Tòa án cấp dưới theo các thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Tòa
án nhân dân tối cao có quyền phúc thẩm các vụ án mà bản án, quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới trực tiếp có kháng cáo,
kháng nghị; giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng.
Các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thẩm
quyền phúc thẩm những bản án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật của các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh;
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.
Thông qua việc thực hiện các thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm, Tòa án cấp trên uốn nắn những lệch lạc của Tòa án cấp dưới trong hoạt
động xét xử. Đồng thời việc kiểm tra, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn
các Tòa án cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật và đường lối xét xử cũng là
những biện pháp thực hiện việc giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với
Tòa án cấp dưới.
Giám đốc xét xử được thực hiện thông qua hoạt động phúc thẩm và
giám đốc thẩm. Phúc thẩm và giám đốc thẩm đều là hoạt động của giám đốc
xét xử nhưng khác nhau về nhiều điểm mà chủ yếu là khác nhau về tính chất,
căn cứ, đối tượng, phạm vi, thẩm quyền, thủ tục.

9
Trong khoa học luật tụng hình sự, khái niệm phúc thẩm có thể được
hiểu ở các góc độ khác nhau, ở cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa hẹp
thì khái niệm phúc thẩm có thể được hiểu với một trong các nghĩa sau đây:
phúc thẩm là một giai đoạn của tố tụng hình sự (giai đoạn phúc thẩm). Phúc
thẩm là một chế định (chế định phúc thẩm) của tố tụng hình sự và phúc thẩm
là một thủ tục tố tụng (thủ tục xét xử phúc thẩm). Theo nghĩa rộng, khái niệm
phúc thẩm được hiểu ở cả ba nghĩa nêu trên: phúc thẩm là một giai đoạn, một
chế định của tố tụng hình sự đồng thời là một thủ tục xét xử. Như vậy, xét về

nội hàm thì "phúc thẩm" là khái niệm rộng nhất, trong đó bao hàm các khái
niệm hẹp "giai đoạn phúc thẩm", "chế định phúc thẩm" và "thủ tục xét xử
phúc thẩm".
Phúc thẩm có vai trò vô cùng quan trọng, đó là một trong những hình
thức giám đốc việc xét xử chủ yếu của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp
dưới. Thông qua việc xét xử lại vụ án mà bản án hoặc quyết định chưa có hiệu
lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ kiểm
tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật mà còn phát hiện và khắc phục kịp thời các vi phạm
nghiêm trọng về xét xử của Tòa án cấp dưới. Theo thống kê, số vụ án hình sự
được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm trung bình hàng năm chiếm gần 30%
số vụ án đã xét xử sơ thẩm, trong số đó, các Tòa án cấp phúc thẩm đã sửa,
hủy án sơ thẩm hoặc tuyên bị cáo vô tội đối với 25-30% số bị cáo. Bằng
quyền hạn của mình, Tòa án cấp phúc thẩm ngăn chặn việc đưa ra thi hành
các bản án, quyết định có vi phạm pháp luật, góp phần bảo đảm pháp chế xã
hội chủ nghĩa. Phúc thẩm là một trong những chế định thể hiện rõ nét nhất
bản chất dân chủ và tiến bộ của tố tụng hình sự. Chế định này buộc các Tòa
án cấp sơ thẩm phải thận trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh các yêu cầu về tính
hợp pháp và tính có căn cứ khi ra bản án hoặc quyết định về vụ án. Nó không
cho phép người đã kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã kháng nghị được bổ
sung, thay đổi kháng cáo theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo;
không cho phép Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng làm

10
xấu hơn tình trạng của bị cáo, nếu không có kháng cáo của người bị hại hoặc
kháng nghị theo hướng đó. Phúc thẩm còn là một trong những phương tiện
hữu hiệu để bảo vệ kịp thời và có hiệu quả lợi ích của Nhà nước, của xã hội,
các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là của bị cáo. Thông qua
xét xử các vụ án mà Tòa án cấp phúc thẩm hướng dẫn cho các Tòa án cấp
dưới và các Cơ quan tiến hành tố tụng khác trong việc nhận thức và áp dụng

đúng đắn, thống nhất pháp luật; góp phần nâng cao chất lượng xét xử các vụ
án hình sự, tăng cường hiệu quả giáo dục pháp luật và củng cố niềm tin vào
công lý cho quần chúng nhân dân, đấu tranh phòng chống tội phạm [21].
Tóm lại, phúc thẩm là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó Tòa án
cấp trên trực tiếp xét xử lại những vụ án mà một phần hoặc toàn bộ bản án
hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng
nghị nhằm khắc phục sai lầm của Tòa án cấp dưới, đảm bảo không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật,
bảo vệ lợi ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, người tham gia tố
tụng và mọi công dân.
Về giám đốc thẩm, trong lĩnh vực khoa học pháp lý, một số tác giả đã
đưa ra những khái niệm khác nhau về giám đốc thẩm. Cụ thể như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, giám đốc thẩm là một giai đoạn tố tụng
hình sự, trong đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại vụ án mà bản án đã có hiệu
lực pháp luật về vụ án đó bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật
trong việc xử lý vụ án nhằm khắc phục sai lầm của Tòa án cấp dưới, bảo đảm
việc áp dụng thống nhất pháp luật, bảo vệ lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân.
Quan điểm thứ hai cho rằng, thủ tục giám đốc thẩm là một trình tự đặc
biệt của tố tụng tư pháp nhằm xét lại những bản án và quyết định đã có hiệu
lực pháp luật bị kháng nghị vì có vi phạm pháp luật ở mức độ nghiêm trọng
trong việc giải quyết vụ án.

11
Quan điểm thứ ba cho rằng, giám đốc thẩm là một giai đoạn tố tụng có
mục đích kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các bản án và quyết
định đã có hiệu lực pháp luật.
Quan điểm thứ tư cho rằng giám đốc thẩm là hình thức đặc thù để
kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp của các quyết định, bản án của Tòa án.
Các khái niệm trên rất khác nhau về góc độ tiếp cận vấn đề, phạm vi

khái niệm rộng hẹp cũng khác nhau, tính khoa học và sự phù hợp với thực
tiễn của các khái niệm này cũng ở mức độ khác nhau. Tuy nhiên, các quan
điểm trên vẫn thống nhất với nhau ở một số điểm cơ bản, xác định giám đốc
thẩm có tính chất đặc biệt, đó là việc xem xét lại bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để kiểm tra tính hợp pháp trong các bản án
và quyết định của Tòa án [20].
Một trong những nhiệm vụ của Bộ luật Tố tụng hình sự là nhằm phát
hiện chính xác, nhanh chóng, và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Trong công tác
xét xử, Tòa án các cấp cũng đề ra phương châm là "xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật". Tuy nhiên, thực tế cho thấy do những nguyên nhân khác
nhau, việc xét xử của Tòa án vẫn còn để lọt tội phạm, làm oan người vô tội,
xử phạt quá nặng hoặc quá nhẹ, không tương xứng với tính chất và mức độ
nguy hiểm do người có hành vi phạm tội gây ra. Mặt khác, trong quá trình
giải quyết vụ án, có trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng đã vi phạm các quy định của pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của bị
cáo và những người tham gia tố tụng. Để khắc phục tình trạng trên, pháp luật
Tố tụng hình sự quy định một thủ tục để xét lại bản án hoặc quyết định hình
sự đã có hiệu lực pháp luật, đó là thủ tục giám đốc thẩm.
Hoạt động phúc thẩm và giám đốc thẩm là hai hoạt động quan trọng
và chủ yếu của hoạt động giám đốc việc xét xử. Những quy định của pháp
luật về thủ tục phúc thẩm và giám đốc thẩm đã được quy định cụ thể trong Bộ
luật Tố tụng hình sự. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định này đã bộc lộ không ít

12
khiếm khuyết, đòi hỏi cần phải được hoàn thiện. Việc hoàn thiện các quy định
của pháp luật về thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm chính là một trong những
giải pháp nhằm nâng cao hoạt động giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân.
1.2. GIÁM ĐỐC VIỆC XÉT XỬ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM

1.2.1. Quy định của pháp luật về thủ tục phúc thẩm
Phúc thẩm vụ án hình sự là một thủ tục tố tụng do luật định nhằm
kiểm tra lại tính hợp pháp của bản án hoặc quyết định sơ thẩm; thông qua việc
xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp trên sửa chữa những sai lầm trong việc áp dụng
pháp luật khi ra bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp dưới. Thông qua đó
hướng dẫn Tòa án cấp sơ thẩm khắc phục những thiếu sót trong việc áp dụng
pháp luật, nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các Thẩm phán của Tòa án
cấp sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử lại những bản án hoặc quyết
định sơ thẩm bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
1.2.1.1. Kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
* Kháng cáo
Theo quy định tại Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự thì những người
sau đây có quyền kháng cáo:
- Bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ;
- Người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ;
- Người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền lợi cho bị cáo là người
chưa thành niên hoặc là người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần;
- Nguyên đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ;
- Bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện
hợp pháp của họ;

13
Trong số những người có quyền kháng cáo, thì phạm vi quyền kháng
cáo của họ tùy thuộc vào đại vị pháp lý của mỗi người khi tham gia tố tụng.
Ví dụ: bị cáo có quyền kháng cáo toàn bộ bản án, nhưng người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan chỉ được kháng cáo những quyết định có liên quan đến
quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
Theo quy định tại Điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự, thời hạn kháng
cáo là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với những bị cáo, đương sự vắng

mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ
hoặc niêm yết.
* Kháng nghị
Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là một văn bản do Viện kiểm sát
ban hành yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm
cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp đã xét xử, nhưng xét thấy không đúng pháp luật.
Quyết định kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là một căn cứ làm phát sinh một
trình tự xét xử-trình tự xét xử phúc thẩm hay còn gọi là thủ tục phúc thẩm.
Chỉ có Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp với Tòa án đã ra bản án sơ thẩm mới có quyền kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm. Hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có 03 Viện kiểm
sát xét xử phúc thẩm đặt tại ba miền (Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Hà
Nội, Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng và Viện kiểm sát xét xử
phúc thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh). 03 Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm
này tương đương với 03 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố
Hà Nội, thành phố Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh nhưng không phải là
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp của Viện kiểm sát cấp tỉnh. Vì vậy, việc
kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát phúc thẩm chỉ có giá trị pháp lý
khi được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ủy quyền.
Phạm vi kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cũng không bị giới hạn, có thể kháng nghị một phần hoặc

14
toàn bộ bản án sơ thẩm; có thể kháng nghị theo hướng có lợi hoặc theo hướng
không có lợi cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
Theo quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự
thì thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm
sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
* Hậu quả của việc kháng cáo, kháng nghị
Theo quy định tại khoản 1 Điều 237 Bộ luật Tố tụng hình sự thì

những phần của bản án bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi
hành, trừ trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết
định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt
cho bị cáo, hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng
án treo hoặc khi thời hạn tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì
bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể
bị kháng nghị, kháng cáo (khoản 2 Điều 255 Bộ luật Tố tụng hình sự). Khi
có kháng cáo, kháng nghị đối với toàn bộ bản án thì toàn bộ bản án chưa
được đưa ra thi hành.
1.2.1.2. Xét xử phúc thẩm
* Phạm vi xét xử phúc thẩm
Điều 241 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: "Tòa án cấp phúc thẩm
xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Tòa phúc
thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản
án". Việc xét xử lại vụ án hình sự theo trình tự phúc thẩm chỉ được tiến hành
đối với phần bản án bị kháng cáo, kháng nghị. Đối với những phần còn lại của
bản án không bị kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét
lại nếu việc xem xét lại những phần đó có điểm cần được giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cho bị cáo. Đối với các khoản bồi thường thiệt hại, nếu không
có kháng cáo, kháng nghị thì Tòa phúc thẩm không xem xét.

15
* Phiên tòa phúc thẩm hình sự
Phiên tòa phúc thẩm hình sự là phiên tòa do Tòa án có thẩm quyền xét
xử phúc thẩm tiến hành để xét xử lại vụ án hình sự mà Tòa án cấp sơ thẩm đã
xét xử, nhưng có kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Về hình
thức phiên tòa phúc thẩm hình sự cũng giống như phiên tòa sơ thẩm, việc bố
trí phòng xử án không có gì khác phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, về Hội đồng
xét xử phúc thẩm, về những người tham gia phiên tòa phúc thẩm và thủ tục
phiên tòa có một số điểm khác phiên tòa sơ thẩm.

* Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm
Theo quy định tại Điều 244 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Hội đồng xét
xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán và trong trường hợp cần thiết có thể có
thêm hai Hội thẩm.
Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử, ít có những trường hợp vướng
mắc về Hội đồng xét xử phúc thẩm, hầu hết các Tòa án đều thực hiện đúng.
Tuy nhiên, về lý luận có vấn đề đặt ra là: trong trường hợp nào thì Hội đồng
xét xử phúc thẩm phải có năm người, trong đó có ba Thẩm phán và hai Hội
thẩm? Từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 có hiệu lực đến nay, chưa có
văn bản hướng dẫn nào của các cơ quan có thẩm quyền xác định trong trường
hợp nào thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có năm người trong đó có hai Hội
thẩm và thực tiễn xét xử cũng chưa có trường hợp nào Hội đồng xét xử phúc
thẩm có năm người. Các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp có đông bị cáo
như vụ án TAMECO, vụ Trần Xuân Hoa và đồng bọn ở Thành phố Hồ Chí
Minh, vụ Nhà hàng 62 Trần Phú, thành phố Nha Trang, các vụ: Phúc Bồ,
Khánh Trắng, Vũ Xuân Trường và đồng bọn ở Hà Nội; gần đây là vụ án
Trương Văn Cam (Năm Cam) có tới 155 bị cáo khi xét xử phúc thẩm cũng
chỉ có ba Thẩm phán. Có nhiều ý kiến cho rằng, những vụ án này mà Hội
đồng xét xử phúc thẩm cũng chỉ có ba Thẩm phán, thì chắc chẳng còn vụ án
nào cần Hội đồng xét xử phúc thẩm năm người nữa và quy định tại Điều 216
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 không còn phù hợp với thực tiễn xét xử.

16
Trong quá trình soạn thảo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cũng có ý kiến
đề nghị sửa đổi Điều 216, nhưng Điều 244 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
vẫn quy định như Điều 216 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988. Trong khi đó
Điều 41 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân thì không quy định Hội thẩm nhân
dân Tòa án nhân dân tối cao và Hội thẩm quân nhân của Tòa án Quân sự
Trung ương. Như vậy, thì chỉ có Tòa án nhân dân cấp tỉnh thì Hội đồng xét xử
phúc thẩm mới có thể có Hội thẩm nhân dân [24].

* Những người tham gia phiên tòa phúc thẩm
Những người tham gia phiên tòa phúc thẩm có thể là người tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc là những người khác mà Tòa án cấp phúc
thẩm triệu tập. Trong đó có những người, nếu họ vắng mặt thì phải hoãn
phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử. Theo quy định tại Điều 245 Bộ luật Tố
tụng hình sự thì những người tham gia phiên tòa phúc thẩm bao gồm: Kiểm
sát viên Viện kiểm sát cùng cấp; người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của
đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc
kháng cáo, kháng nghị và những người khác nếu Hội đồng xét xử phúc thẩm
thấy sự có mặt của họ là cần thiết.
Việc nhà làm luật quy định việc có mặt của những người tham gia
phiên tòa phúc thẩm chung trong cùng một điều luật làm cho việc xác định
trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm vẫn tiến hành xét xử hay phải hoãn phiên
tòa là một vấn đề khó khăn. Trong quá trình soạn thảo Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2003 đã phát hiện sự bất hợp lý này và đề nghị cần quy định riêng đối
với từng trường hợp cụ thể, nhưng không được chấp nhận. Vì vậy, khi hướng
dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 các Cơ quan tiến hành tố tụng
ở Trung ương nên hướng dẫn từng trường hợp đối với từng người tham gia
phiên tòa cụ thể, để việc xét xử phúc thẩm thuận lợi, tránh hiểu và áp dụng
không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
Ngoài những người tham gia phiên tòa nêu trên, Tòa án cấp phúc thẩm
có thể triệu tập những người khác đến tham gia phiên tòa nếu xét thấy cần

17
thiết. Pháp luật không hạn chế và cũng không quy định những người khác là
ai. Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử cũng không thể quy định những
người tham gia tố tụng khác là ai, vì mỗi vụ án hình sự có đặc điểm riêng và
việc Tòa án cấp phúc thẩm thấy cần triệu tập ai là hoàn toàn tùy thuộc vào
tính chất của vụ án yêu cầu và mục đích của việc xét xử Tuy nhiên, qua thực
tiễn xét xử phúc thẩm chúng tôi thấy Tòa án cấp phúc thẩm thường triệu tập

cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội nơi bị cáo công tác trước khi phạm tội để
làm rõ những vấn đề có liên quan đến nhân thân của bị cáo, bố mẹ hoặc người
thân của bị cáo đã thành niên
* Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm
Theo quy định của Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án cấp phúc
thẩm có quyền quyết định:
a) Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm;
b) Sửa bản án sơ thẩm;
c) Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét
xử lại;
d) Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
1.2.2. Quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm
1.2.2.1. Tính chất của giám đốc thẩm
Một trong những nhiệm vụ của Bộ luật Tố tụng hình sự là "nhằm phát
hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội". Trong công tác
xét xử, Tòa án các cấp cũng đề ra phương châm là "xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật". Đây cũng là một trong những nguyên tắc của chế độ dân
chủ và công bằng xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, do những nguyên nhân
khác nhau, việc xét xử của Tòa án vẫn còn để lọt tội phạm, làm oan người vô

18
tội hoặc xử phạt quá nhẹ hoặc quá nặng không tương ứng với tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Mặt khác, trong quá trình
giải quyết vụ án, có trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng đã vi phạm các quy định của pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp
của bị cáo và những người tham gia tố tụng. Để khắc phục tình trạng trên,
pháp luật tố tụng hình sự quy định một thủ tục để xét lại bản án hoặc quyết
định hình sự đã có hiệu lực pháp luật còn gọi là thủ tục giám đốc thẩm.

Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của Nhà nước ta được Quốc hội
thông qua ngày 28-6-1988 là một bước phát triển cả về lượng và chất của
công tác lập pháp ở nước ta. Việc xét lại bản án và quyết định của Tòa án theo
thủ tục giám đốc thẩm được quy định thành một chương (Chương XXIX)
gồm 19 điều (từ Điều 241 đến Điều 259). Với các quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự về giám đốc thẩm, trong hơn 10 năm đã phát hiện, khắc phục sửa
chữa những sai lầm nghiêm trọng hàng nghìn bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thực hiện
công bằng xã hội, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Cũng
trong quá trình thực hiện Bộ luật Tố tụng hình sự, các cơ quan tiến hành tố
tụng đã phát hiện những bất hợp lý và đề nghị Quốc hội sửa đổi bổ sung ba
lần: lần thứ nhất vào ngày 30-6-1990, lần thứ hai vào ngày 22-12-1992 và lần
thứ ba vào ngày 09-6-2000. Cả ba lần sửa đổi bổ sung Bộ luật Tố tụng hình
sự đều có sửa đổi, bổ sung các quy định về giám đốc thẩm cho phù hợp với
thực tiễn công tác giám đốc thẩm và phù hợp với Bộ luật hình sự được sửa
đổi, bổ sung và các quy định khác của pháp luật.
Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 là Bộ luật Tố tụng hình
sự đầu tiên, được soạn thảo và thông qua trong thời kỳ bao cấp nên có nhiều
quy định không còn phù hợp với thời kỳ đổi mới nữa, mặt khác qua thực tiễn
đấu tranh chống tội phạm cho thấy cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở nước ta trong tình hình hiện nay.

19
Tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XI ngày 26-11-2003, Quốc hội đã
thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự và có hiệu lực từ 01-7-200. Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 là Bộ luật đã được sửa đổi một cách toàn diện so với
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988.
Thủ tục giám đốc thẩm quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
có nhiều sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân về

thẩm quyền kháng nghị, đồng thời sửa đổi, bổ sung thẩm quyền xét xử, thẩm
quyền quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm và một số thủ tục cần thiết bảo
đảm việc tiến hành xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm theo tinh thần cải cách tư
pháp được thể hiện tại Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị, bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng. Thủ tục giám đốc thẩm cụ
thể sẽ được luận án làm rõ ở chương sau.
Thông qua giám đốc thẩm, Tòa án phát hiện những bất hợp lý của Bộ
luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự, kiến nghị với Quốc hội kịp thời sửa
chữa và bổ sung cho phù hợp với tình hình kinh tế xã hội.
Trong giai đoạn giám đốc thẩm, do tính chất và đặc điểm của giám
đốc thẩm, nên quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng cũng khác hẳn ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hay phúc thẩm. Nói
chung, đối với người tiến hành tố tụng, quyền năng không bị hạn chế như ở
cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm, nhưng đối với những người tham gia tố tụng
như: người bào chữa, người bị kết án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan đến kháng nghị thì quyền năng bị thu hẹp và hạn chế so với giai đoạn sơ
thẩm và phúc thẩm. Mọi hành vi tố tụng ở giai đoạn giám đốc thẩm chủ yếu
do những người tiến hành tố tụng thực hiện, trường hợp cần thiết mới triệu
tập những người tham gia tố tụng.
Nếu Điều 241 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 quy định, bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị là bản án hoặc quyết
định có vi phạm pháp luật, thì Điều 272 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
quy định, bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị phải

20
là bản án hoặc quyết định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, nếu có vi phạm
pháp luật nhưng chưa nghiêm trọng thì không bị kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 chỉ quy định "có vi phạm pháp
luật trong việc xử lý vụ án" mà chưa quy định "vi phạm pháp luật nghiêm
trọng", nhưng không vì thế mà cho rằng, trước đây việc kháng nghị theo thủ

tục giám đốc thẩm tràn lan, chỉ cần có vi phạm trong việc xử lý vụ án là đã
kháng nghị; nay Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định phải vi phạm
pháp luật nghiêm trọng mới bị kháng nghị đã làm cho bản chất của giám đốc
thẩm thẩm thay đổi cơ bản.
Dù Điều 241 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 chưa quy định "có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án" thì khi kháng nghị người
có quyền kháng nghị vẫn phải căn cứ vào các quy định tại 242 Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 1988 để quyết định việc có kháng nghị hay không. Căn cứ
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm quy định tại Điều 242 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 1988 và căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm quy định
tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 vẫn không có gì thay đổi. Các
căn cứ đó đều là những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ
án. Việc nhà làm luật thêm hai từ "nghiêm trọng" chủ yếu để khẳng định rõ
hơn tính chất của giám đốc thẩm, chứ không làm thay đổi tính chất của giám
đốc thẩm.
1.2.2.2. Kháng nghị giám đốc thẩm
Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là quyết định của người có
thẩm quyền đối với một phần hoặc toàn bộ bản án hay quyết định đã có hiệu
lực pháp luật để Tòa án có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm.
* Đối tượng và căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm
Theo Điều 272 Bộ luật Tố tụng hình sự, giám đốc thẩm là xét lại bản
án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện
có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án. Do vậy, đối tượng giám đốc
thẩm chính là các bản án hoặc quyết định của Tòa án các cấp đã có hiệu lực

21
pháp luật. Trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao,
bởi vì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bản án và quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bao gồm:

- Những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng
cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.
- Những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm.
- Những quyết định của Tòa án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm là các quyết định của Tòa án chứ không phải quyết định của Cơ
quan điều tra hay Viện kiểm sát. Các quyết định của Tòa án có thể bị kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bao gồm:
- Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án.
- Quyết định thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.
- Quyết định xử lý vật chứng.
- Quyết định hủy bỏ, thay đổi biện pháp ngăn chặn.
- Quyết định về những biện pháp xử lý đối với người vi phạm trật tự
phiên tòa.
- Quyết định yêu cầu cơ quan hoặc tổ chức hữu quan sửa chữa những
khuyết điểm trong công tác quản lý.
- Quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm đối với các quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
- Quyết định của Tòa án trong giai đoạn thi hành án như: hoãn thi
hành án, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành
hình phạt, quyết định xóa án.
- Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm.

×