Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của Hải quan Việt Nam hiện nay - qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên - Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 112 trang )

MỤC LỤC



Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5
6. Những điểm mới của luận văn 6
7. Ý nghĩa của luận văn 6
8. Kết cấu của luận văn 6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI
QUAN VIỆT NAM 7
1.1. VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ ĐẶC TRƯNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA HẢI QUAN VIỆT NAM 7
1.1.1. Vị trí, vai trò về tổ chức và hoạt động của ngành Hải quan 7
1.1.2. Những đặc trưng về tổ chức và hoạt động của Hải quan. 8
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG CỦA PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI QUAN 14
1.2.1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa 14
1.2.1. Khái niệm, đặc trưng của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức
và hoạt động của Hải quan 19
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI QUAN
VIỆT NAM, THỰC TIỄN Ở THỪA THIÊN HUẾ 25


2.1. KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI
QUAN HUẾ TỪ 1990 ĐẾN NAY 25
2.1.1. Khái quát về tổ chức hải quan Huế 25
2.1.2. Khái quát về hoạt động hải quan Huế 31
2.2. THỰC TRẠNG CỦA PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG TỔ CHỨC CỦA HẢI QUAN HUẾ NÓI RIÊNG VÀ
HẢI QUAN VIỆT NAM NÓI CHUNG TỪ 1990 ĐẾN NAY 50
2.2.1. Giai đoạn từ 1990 đến 2001 50
2.2.2. Giai đoạn từ 2001 đến nay 57
2.3. THỰC TRẠNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG
HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI QUAN HUẾ TỪ 1990 ĐẾN NAY 60
2.3.1. Giai đoạn từ 1990 đến 2001 61
2.3.2. Giai đoạn từ 2001 đến nay 63
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HẢI QUAN HUẾ HIỆN NAY 71
3.1. YÊU CẦU BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI QUAN HUẾ 71
3.1.1. Bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong tổ chức và hoạt động của
Hải quan Huế 72
3.1.2. Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động hải quan
Huế phải đáp ứng yêu cầu cải cách thể chế về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước 74
3.1.3. Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của hải quan Huế
phải đáp ứng các yêu cầu mục tiêu phát triển, hiện đại hóa hải quan 75
3.1.4. Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động hải quan
Huế phải đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng hải quan chuyên
nghiệp, minh bạch, hiệu quả 76
3.1.5. Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động hải quan Huế
phải đảm bảo yêu cầu phát triển sự hợp tác kinh tế, đầu tư, giao lưu

quốc tế 78
3.1.6. Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động hải quan
Huế phải đảm bảo yêu cầu thu đủ ngân sách nhà nước, tạo thuận
lợi cho thương mại, xuất nhập cảnh, du lịch 79
3.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI QUAN HUẾ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 81
3.2.1. Phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong tổ chức và hoạt động
của hải quan Huế 81
3.2.2. Đổi mới, hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt động của
hải quan Huế 85
3.2.3. Tăng cường sự giám sát, kiểm tra, kiểm soát của các thiết chế quyền
lực công cộng đối với tổ chức và hoạt động của hải quan Huế 89
3.2.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra sự tuân thủ pháp luật về tổ
chức và hoạt động của hải quan Huế 93
3.2.5. Nâng cao năng lực tổ chức và hoạt động của hải quan các cấp 96
3.2.6. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao
trình độ văn hóa, năng lực áp dụng pháp luật cho đội ngũ cán bộ,
công chức hải quan Huế 99
KẾT LUẬN 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) có từ sau Cách mạng Tháng Mười
Nga. V.I.Lê-nin là người đưa ra định nghĩa pháp chế và các nguyên tắc của nó
đã làm giàu thêm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp
luật. Khái niệm pháp chế: “Pháp chế XHCN là một chế độ đặc biệt của đời

sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân viên nhà nước và mọi công
dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật một cách nghiêm
chỉnh, triệt để, chính xác. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của nhà nước,
quyền, lợi ích của tập thể, của công dân đều bị xử lý theo pháp luật”.
Trên cơ sở hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Hải quan
không ngừng được xây dựng, hoàn thiện. Từ Pháp lệnh Hải quan 1990, Luật
Hải quan 2001 đến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan ngày
26/5/2005, tổ chức và hoạt động của Hải quan Huế ngày càng đáp ứng yêu
cầu của công cuộc đổi mới, góp phần thúc đẩy hội nhập nền kinh tế và đảm
bảo an ninh chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo nguồn thu ngân
khố quốc gia; đồng thời, góp phần củng cố, tăng cường pháp chế XHCN trong
tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam nói chung và Hải quan Huế nói
riêng hiện nay.
Thực tiễn cho thấy, thời gian qua, pháp chế XHCN trong tổ chức và
hoạt động của Hải quan không ngừng được tăng cường nhằm bảo đảm cho
pháp luật hải quan đi vào đời sống kinh tế - xã hội và được tuân thủ nghiêm
chỉnh. Hàng loạt vụ buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế xuất nhập khẩu
được phát hiện và xử lý kịp thời; góp phần quan trọng cho việc thu ngân sách
nhà nước và giữ gìn an ninh kinh tế, chính trị, trật tự an toàn xã hội.

2
Tuy nhiên, pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan
Huế còn nhiều tồn tại không ít những yếu kém, khiếm khuyết, như:
- Việc áp dụng hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Hải
quan Việt nam vẫn còn có nhiều bất cập, thiếu tính ổn định, thiếu tính khả
thi, chưa phù hợp, đáp ứng kịp thực tiễn đổi mới, mở cửa, hội nhập kinh tế
quốc tế, chưa phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
gia nhập. Công tác rà soát, góp ý việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật về tổ chức và hoạt động hải quan vẫn còn thiếu chủ động, chưa trở

thành yếu tố góp phần tích cực vào việc hoàn thiện, đổi mới cơ cấu tổ chức,
hoạt động hải quan.
- Sự tuân thủ pháp luật và chấp hành pháp luật hải quan của một bộ
phận cán bộ, công chức hải quan và tổ chức, cá nhân hoạt động xuất nhập
khẩu vẫn còn không nghiêm dẫn đến phát sinh tiêu cực, phiền hà, tham
nhũng, gian lận thương mại, buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo rút "ruột" ngân sách
nhà nước điều này tác động không nhỏ đến đời sống kinh tế - xã hội, kinh tế
đối ngoại, đầu tư, du lịch, gây mất lòng tin của Đảng, Nhà nước, nhân dân đối
với hệ thống tổ chức và hoạt động của Hải quan.
- Cơ chế đảm bảo cho việc tuân thủ và chấp hành nghiêm minh pháp
luật, pháp chế hải quan còn thiếu rõ ràng, minh bạch, chưa hiệu quả, cũng như
chưa đủ tính cưỡng chế đảm bảo duy trì việc tuân thủ và thực hiện pháp luật
một cách thường xuyên, liên tục và đồng bộ
Vì các lý do trên tôi chọn đề tài: "Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
hoạt động của Hải quan Việt Nam hiện nay - qua thực tiễn tỉnh Thừa
Thiên - Huế” để nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp chế XHCN là một trong những phạm trù pháp lý cơ bản có ý
nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn của đời sống chính trị, kinh tế và xã hội.

3
Vì vậy được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu, xem xét trên nhiều bình diện
và nhiều khía cạnh khác nhau.
Các công trình nghiên cứu về pháp chế XHCN tiêu biểu cả trong và
ngoài nước có thể chia thành hai nhóm:
Nhóm một là các công trình nghiên cứu về pháp chế nói chung:
Đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về pháp chế
XHCN đề cập đến những vấn đề lý luận chung về pháp chế như khái niệm các
mối quan hệ, nguyên tắc của pháp chế XHCN. Điều đó được thể hiện ở một
số công trình khoa học như:

- GS.TS Trần Ngọc Đường, Suy nghĩ về một trong những luận điểm
của V.I.Lênin, Dân chủ và pháp luật, số 11, Hà Nội, 1997, tr.2-3.
- Hồ Chủ tịch và pháp chế, TP. Hồ Chí Minh, Nxb Hội Luật gia Việt
Nam, 1985, 266 trang. Sách giới thiệu những nội dung tư tưởng và yêu cầu
của pháp chế của Hồ Chí Minh.
- Triệu Tử Bình (Trung Quốc), Học tập quán triệt văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XVI - "Nghiên cứu sâu sắc Luật học, đẩy mạnh xây
dựng nền pháp chế toàn diện", Tạp chí Luật học Trung Quốc số 1/2006 Bắc
Kinh, Nxb Tạp chí Luật học Trung Quốc.
Võ Khánh Vinh: "Pháp chế xã hội chủ nghĩa - một phương thức thể
hiện và thực hiện quyền lực của nhân dân", Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
số 1/1991; Hoàng Văn Hảo: "Vấn đề giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
dân chủ và pháp chế trong quá trình đổi mới ở nước ta", Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, số 2/1992; Đào Trí Úc: "Tăng cường tính thống nhất của
pháp chế, nghiêm chỉnh tuân theo và chấp hành pháp luật", Tạp chí Cộng
sản, số 3/1995
Nhóm hai là các công trình tiêu biểu nghiên cứu pháp chế XHCN trên
từng lĩnh vực cụ thể gồm có:

4
- "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của lực
lượng công an nhân dân trên lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia ở nước ta hiện
nay", Luận án Phó tiến sĩ luật học của Nguyễn Phùng Hồng, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1994;
- "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa về kinh tế trong quản lý nhà
nước nền kinh tế thị trường định hướng pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay", Luận án Phó tiến sĩ Luật học của Quách Sĩ Hùng, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1996;
- "Tăng cường pháp chế trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta
hiện nay", Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Huy Bằng, Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2001;
- "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân
thành phố Hà Nội", Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Chí Dũng, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003
Các công trình đều đưa ra khái niệm pháp chế XHCN nói chung và
khái niệm, đặc trưng vai trò và giải pháp tăng cường pháp chế XHCN trên
từng lĩnh vực cụ thể.
Từ tình hình nghiên cứu trên cho thấy, đến nay chưa có công trình khoa
học nào trực tiếp nghiên cứu “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động
của Hải quan Việt Nam hiện nay - qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên - Huế”.
Mặc dù vậy, các công trình đã công bố nêu trên là tài liệu tham khảo có giá trị
để nghiên cứu và viết hoàn thiện đề tài luận văn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Về đối tượng nghiên cứu của luận văn: trên cơ sở nghiên cứu
pháp chế XHCN, luận văn nghiên cứu đặc điểm và nội dung vai trò của
pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt nam.

5
Nghiên cứu thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng pháp chế
XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Huế. Luận giải các giải
pháp nhằm bảo đảm vai trò pháp chế trong tổ chức và hoạt động của Hải
quan Huế hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn nghiên cứu pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của
Hải quan Huế.
Thời gian từ năm 1990 đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích nghiên cứu là trên cơ sở nghiên cứu lý luận và

đánh giá thực trạng pháp chế XHCN trong lĩnh vực Hải quan Huế, luận văn
đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm pháp chế trong tổ chức và hoạt động của
Hải quan Huế hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên nhiệm vụ của luận văn là:
- Xây dựng khái niệm, đặc trưng của pháp chế XHCN trong tổ chức
hoạt động của Hải quan.
- Phân tích vai trò của pháp chế XHCN trong tổ chức hoạt động của
Hải quan.
- Phân tích các yêu cầu đảm bảo pháp chế trong tổ chức và hoạt động
của Hải quan Huế hiện nay.
- Đề xuất giải pháp đảm bảo pháp chế trong tổ chức và hoạt động của
Hải quan Huế.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về pháp luật và pháp chế XHCN.

6
- Phương pháp nghiên cứu: dựa trên phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: lịch sử - cụ thể, phân tích - tổng hợp, kết
hợp với phương pháp xã hội học, thống kê, so sánh.
6. Những điểm mới của luận văn
Là luận văn nghiên cứu tương đối toàn diện và hệ thống "Pháp chế xã
hội chủ nghĩa trong hoạt động của Hải quan Việt Nam hiện nay - qua thực
tiễn tỉnh Thừa Thiên - Huế”. Vì vậy, có những điểm mới cụ thể sau:
- Xác định khái niệm, nội dung pháp chế trong tổ chức và hoạt động
của Hải quan Huế.
- Chỉ ra được những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của những ưu

điểm, tồn tại về pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan
Huế hiện hành.
- Xác lập hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo pháp chế
XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Huế.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về
pháp chế XHCN trong lĩnh vực cụ thể.
- Về thực tiễn: Kết quả luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các
cơ quan ban ngành, các trường học và những người quan tâm đến lĩnh vực này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được kết cấu thành 3 chương, 8 mục.
Chương 1: Cơ sở lý luận về pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và
hoạt động của Hải quan Việt Nam
Chương 2: Thực trạng pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt
động của Hải quan Huế
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Huế hiện nay

7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI QUAN VIỆT NAM

1.1. VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ ĐẶC TRƯNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA HẢI QUAN VIỆT NAM
1.1.1. Vị trí, vai trò về tổ chức và hoạt động của ngành Hải quan
Khi nền kinh tế thị trường phát triển, bên cạnh chức năng thu tiền cho
ngân sách nhà nước từ các hoạt động trao đổi, buôn bán giữa các quốc gia,
Hải quan được giao nhiều chức năng mới, quan trọng nhất là bảo hộ sản xuất

trong nước, bảo vệ lợi ích quốc gia". Đến khi, nền thương mại toàn cầu và
giao lưu, hợp tác quốc tế ngày càng phát triển, đòi hỏi các quốc gia và lãnh
thổ trên thế giới phải tìm cách hợp tác với nhau, nhằm tiêu chuẩn, đơn giản và
thống nhất hoá các thủ tục, luật lệ hải quan, tạo thuận lợi cho thương mại, và
có hiệu quả hơn trong phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại; phòng,
chống vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Ngày nay hầu hết các quốc gia có chủ
quyền hoặc lãnh thổ tự trị đều thiết lập ra tổ chức hải quan của mình để kiểm
soát hàng hoá. phương tiện xuất- nhập khẩu, xuất- nhập cảnh, quá cảnh qua
biên giới, thu thuế và thu khác cho ngân khố của quốc gia, lãnh thổ tự trị đó.
Hệ thống luật lệ của các nước đều xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, nội dung hoạt động cũng như cơ cấu, tổ chức hải quan của Nhà
nước đó. Trong đời sống chính trị, kinh tế-xã hội quốc gia, vị trí, vai trò của
Hải quan các tỉnh, liên tỉnh, thành phố nói chung và Hải quan Huế nói riêng
được thể hiện chủ yếu ở những phương diện sau đây:
Một là, Tổ chức Hải quan là một công cụ quan trọng trong việc bảo hộ,
thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế sản xuất hàng hoá trong nước. Thông qua
hàng rào phi thuế quan để kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ hàng hoá, phương tiện

8
xuất - nhập khẩu, xuất - nhập cảnh, quá cảnh; đấu tranh, ngăn chặn, đấu tranh
mạnh mẽ với các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền
tệ, qua biên giới. Tổ chức Hải quan đã góp phần đảm bảo cho nền kinh tế ổn
định, bảo hộ sản xuất, tiêu dùng trong nước. Mặt khác, Tổ chức Hải quan đã
trở thành công cụ quan trọng trong việc bảo vệ hàng rào thuế quan góp phần
vào điều tiết các hoạt động kinh tế mỗi quốc gia. cũng như thông qua thu, nộp
thuế đã góp phần không nhỏ vào nguồn tài chính tạo lên quốc khố.
Hai là, tổ chức Hải quan và hoạt động của Hải quan được xác định là
một trong những công cụ góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội của mỗi nước. Vai trò này của Hải quan được thể
hiện ở những hoạt động phát hiện, xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật

lĩnh vực hải quan, đảm bảo các quy tắc quản lý nhà nước về hải quan được
tôn trọng, bảo vệ an ninh tư tưởng, văn hoá, an toàn vệ sinh - dịch tễ môi
trường, sức khoẻ của nhân dân, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, kịp thời
ngăn chặn những hành động đe doạ lợi ích, chủ quyền, an ninh quốc gia và lợi
ích của người kinh doanh.
Ba là, tổ chức Hải quan, hoạt động hải quan góp phần quan trọng đáng
kể vào việc cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, thúc đẩy và thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài của mỗi quốc gia. Bởi vì, thông qua việc xây dựng, ban
hành, thực thi luật lệ, chính sách hải quan có liên quan đến đầu tư nước ngoài,
Tổ chức Hải quan và hoạt động hải quan ảnh hưởng trực tiếp không nhỏ đến
quyền, lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài
1.1.2. Những đặc trưng về tổ chức và hoạt động của Hải quan
Hải quan Việt nam là một thiết chế của Nhà nước. Thiết chế này được
thành lập để trực tiếp quản lý nhà nước các hoạt động hải quan, là cơ quan có
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền thực hiện hoạt động hải quan theo các quy định
của hệ thống pháp luật. Địa vị pháp lý Hải quan được xác định trong nhiều văn

9
bản pháp luật thuộc hệ thống pháp luật Việt Nam. Trước hết được ghi nhận ở
trong các văn bản pháp luật quan trọng, như: Luật Hải quan 2001 và Luật Hải
quan sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan ngày 26/5/2005, Nghị định
số 96/2002/NĐ-CP ngày của Chính phủ và Quyết định số 113/2002/QĐ-TTg
ngày 4-9-2002 của Thủ tướng Chính phủ; đây là những văn bản xác định đặc
trưng chủ yếu địa vị pháp lý của hải quan Việt Nam. Bên cạnh các văn bản này,
địa vị pháp lý của Hải quan còn được khẳng định trong hàng loạt văn bản thuộc
hệ thống văn bản pháp luật quản lý nhà nước lĩnh vực chuyên ngành khác có liên
quan, như các luật thuế về hàng hoá xuất - nhập khẩu, Luật Thương mại và các
văn bản chi tiết thi hành, Bộ luật Tố tụng hình sự Pháp lệnh điều tra hình sự, các
văn bản pháp luật quy định về xử lý, tố tụng hành chính,
- Vị trí, vai trò và hệ thống tổ chức của ngành Hải quan

Hiện nay, theo Luật Hải quan, "Hải quan Việt Nam được tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất. Tổng cục trưởng Tổng cục
Hải quan thống nhất quản lý, điều hành hoạt động của Hải quan các cấp; Hải
quan cấp dưới chịu sự quản lý, chỉ đạo của Hải quan cấp trên". Mặt khác,
Tổng cục Hải quan là cơ quan thuộc Bộ Tài chính; song Bộ Tài chính là thành
viên Chính phủ và Chính phủ lại được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc
tập trung dân chủ.
Mặt khác, cũng cần phải thấy một cách rõ ràng là: vị trí pháp lý đặc biệt
của Hải quan Việt nam mặc dù được hình thành trên cơ sở nguyên tắc tập
trung thống nhất, nhưng không phải là biệt lập, đóng kín, mà chỉ có tính độc
lập tương đối, nó bị giám sát bởi các cơ quan quyền lực nhà nước ở Trung
ương và địa phương trong vai trò là các cơ quan kiểm tra, giám sát các cơ
quan hành pháp, hành chính nhà nước; và có mối quan hệ phối hợp với các cơ
quan quản lý chuyên ngành khác để thực hiện các chức năng quản lý nhà
nước; mối quan hệ phối hợp với Uỷ ban nhân dân trong hoạt động phòng,

10
chống buôn lậu, gian lận thương mại trên địa bàn khu vực thuộc địa giới hành
chính của từng địa phương.
- Chức năng, nhiệm vụ của Hải quan Việt nam.
Thứ nhất, Thực hiện thủ tục Hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan đối
với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, chuyển cửa khẩu, quá cảnh và phương
tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh theo quy định của pháp luật. Đây
là một trong những nhiệm vụ cơ bản, chủ yếu nhất, nói lên bản chất vai trò
của Hải quan trong nền kinh tế (nói chung), kinh tế đối ngoại nói riêng.
Nhiệm vụ này đã được ngành Hải quan chú trọng thực hiện, nói lên ý nghĩa
sâu sắc: Hải quan là công cụ "gác cửa", "mở cửa", ngăn chặn đẩy lùi làn gió
độc" để đến với thế giới, đón thế giới đến với Việt Nam; là tuyến đầu trên
mặt trận an ninh kinh tế, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo hộ sản
xuất trong nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị, định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam.
Thứ hai, Thực hiện các biện pháp nghiệp vụ cần thiết để chủ động
phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới trong
phạm vi địa bàn hoạt động. Phối hợp thực hiện nhiệm vụ phòng, chống buôn
lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới ngoài phạm vi địa bàn hoạt
động của Cục Hải quan theo quy định của pháp luật và Tổng cục Hải quan.
Thực tiễn lịch sử đã chứng tỏ rằng, không chỉ thời đại ngày nay mới có buôn
lậu vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới, mà hoạt động này đã phát
sinh cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá của xã hội loài người.
Thứ ba, Thực hiện Pháp luật về thuế và thu khác đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu; đảm bảo thu đúng, thu đủ và nộp kịp thời vào ngân sách nhà nước.
Nhiệm vụ này đã được ngành Hải quan thực hiện nghiêm túc với phương
châm “thu đúng, thu đủ”, đảm bảo một phần nguồn thu cho quốc khố từ
nguồn thuế và thu khác từ các hoạt động xuất -nhập khẩu quá cảnh hàng hoá,
xuất -nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải.

11
Thứ tư, kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan
đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và
chính sách thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Phải nói rằng, nhiệm
vụ này được phái sinh từ ba nhiệm vụ nêu trên.
Hai là, tổ chức, hoạt động Hải quan Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ
với các cơ quan khác.
- Mối quan hệ của Tổ chức Hải quan với cơ quan quản lý nhà nước cấp trên.
Hiện nay, Tổng cục Hải quan là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, Bộ
Tài chính nằm trong cơ cấu tổ chức Chính phủ, tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, trong khi đó. Hải quan Việt Nam lại tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc "tập trung, thống nhất". Đây là điềm hết sức đặc
thù trong tổ chức bộ máy Chính phủ, cho thấy dù về tổ chức có sự thay đổi,
song vị trí. chức năng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động, nhiệm vụ. quyền hạn

của ngành Hải quan vẫn được khẳng định theo nguyên tắc này.
- Mối quan hệ giữa Tổng cục Hải quan với các cấp, đơn vị hải quan
trực thuộc.
Cơ quan hành chính nhà nước chủ yếu chịu trách nhiệm thực hiện quản
lý nhà nước lĩnh vực hải quan là các cơ quan Hải quan, gọi chung là Hải quan
Việt Nam. Theo Luật Hải quan, "Hải quan Việt Nam được tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất. Tổng cục trưởng Tổng cục Hải
quan thống nhất quản lý, điều hành hoạt động của Hải quan các cấp; Hải quan
cấp dưới chịu sự quản lý, chỉ đạo của Hải quan cấp trên".
Theo quy định trên. Hải quan Việt Nam-cơ quan hành chính được Nhà
nước trao thẩm quyền thực thi các hoạt động quản lý nhà nước lĩnh vực hải
quan được tổ chức thành một hệ thống. ở Trung ương là Tổng cục Hải quan, ở
địa phương (nơi có hoạt động hải quan) có Cục Hải quan tỉnh. liên tỉnh thành
phố trực thuộc Tổng cục Hải quan, các Chi cục Hải quan cửa khẩu và Chi cục

12
Hải quan ngoài cửa khẩu trực thuộc Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh thành phố.
Toàn bộ hệ thống tổ chức và hoạt động quản lý của hệ thống hải quan theo
nguyên tắc tập trung, thống nhất chỉ đạo, điều hành quản lý từ Trung ương
xuống địa bàn, cơ sở.
- Mối quan hệ giữa Hải quan với các cơ quan, đơn vị hữu quan.
Luật Hải quan xác định rõ: "Tổng cục Hải quan là cơ quan giúp Chính
phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về hải quan"; các cơ quan khác
của Nhà nước có trách nhiệm phối hợp thực hiện quản lý nhà nước lĩnh vực
hải quan, như: Biên phòng, Cảnh sát biển, Cảnh sát kinh tế, Kiểm dịch động
vật, Kiểm dịch thực vật, Kiểm dịch y tế, Kiểm tra văn hoá, uỷ ban nhân dân
các cấp. Ngân hàng, Kho bạc, Tổ chức, cá nhân thực hiện xuất - nhập khẩu,
quá cảnh hàng hoá, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải là đối
tượng quản lý có nghĩa vụ thực hiện các quyết định, yêu cầu phối hợp thực
hiện pháp luật của cơ quan hải quan.

Cơ quan hải quan trong địa vị, vai trò là cơ quan chủ trì trong các
trường hợp trên đây là nhằm đảm bảo cho các cơ quan quản lý nhà nước
chuyên ngành tại cửa khẩu một mặt, hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của
mình, nhưng không được vi phạm thời hạn "ấn định" thông quan cho một loại
hình hàng hoá xuất-nhập khẩu đã được quy định trong Luật, mặt khác, tránh
được sự "tranh chấp", "chồng chéo" phi lý trong hoạt động quản lý hành chính
nhà nước không cần thiết, dẫn đến có thể tạo sơ hở cho buôn lậu, trốn thuế,
gian lận thương mại hoặc tình trạng lạm dụng quyền hạn để trục lợi, dây dưa
kéo dài xử lý vụ việc, gây thiệt hại cho lợi ích Nhà nước và nhân dân. Điều
này đã được Luật Hải quan khẳng định rõ: trong trường hợp hàng hoá,
phương tiện vận tải chưa đưa ra khỏi phạm vi địa bàn hoạt động hải quan mà
cơ quan tổ chức, cá nhân phát hiện có hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép
hàng hoá qua biên giới thì cơ quan. tổ chức, cá nhân đó báo ngay cho cơ quan

13
hải quan để kiểm tra, xử lý". Song, để quy định này có thể thực hiện được trên
thực tế đòi hỏi sự tự giác hợp tác, tôn trọng nguyên tắc "vì lợi ích quốc gia",
"vì lợi ích của công dân" của các cơ quan chức năng chuyên ngành hữu quan.
Ở ngoài địa bàn hoạt động hải quan, các cơ quan quản lý chuyên ngành khác
của Nhà nước và cơ quan hải quan tổ chức các hoạt động phối hợp phòng,
chống buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép qua biên giới theo
quy định của pháp luật. Trong mối quan hệ này, các cơ quan hải quan đóng
vai trò là cơ quan thực hiện chức năng phối hợp.
- Mối quan hệ giữa Hải quan với một số cơ quan quyền lực nhà nước
và hệ thống chính trị.
Trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan, thực hiện thẩm quyền
giám sát, ngoài các cơ quan, tổ chức, cá nhân, như Quốc hội, Đại biểu Quốc
hội theo Luật tổ chức Quốc hội và Luật giám sát Quốc hội, và thêm vào đó
còn gồm các cơ quan, tổ chức, cá nhân được quy định trong Luật Hải quan,
gồm: i) Hội đồng nhân dân các cấp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ.

quyền hạn của mình giám sát việc thi hành pháp luật hải quan; ii) Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận động viên nhân dân
nghiêm chỉnh thi hành pháp luật hải quan; giám sát việc thi hành pháp luật hải
quan theo quy định của pháp luật; iii) nhân dân, chủ thể thực hiện giám sát
đối với các hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về hải quan. Nhân
dân thực hiện giám sát thông qua các đại biểu của mình ở các cơ quan quyền
lực Trung ương hoặc địa phương, hoặc thực hiện các quyền khiếu nại, tố cáo
các cơ quan, cán bộ. công chức đã vi phạm hoặc cho là đã vi phạm pháp luật
lĩnh vực hải quan.
Hệ thống các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện quyền lực giám sát
đối với các hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan nói
chung, của các cấp hải quan, cán bộ. công chức hải quan nhằm đảm bảo cho

14
việc thực thi hệ thống pháp luật hải quan có hiệu quả trên thực tế, ngăn chặn,
hạn chế các trường hợp thực thi nhiệm vụ vượt thẩm quyền, lạm quyền cũng
như các tiêu cực khác.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG CỦA PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI QUAN
1.2.1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp chế XHCN là một khái niệm, một phạm trù pháp lý cơ bản của
khoa học pháp lý XHCN. Đây là vấn đề không phải là mới mẻ. Song, sau
khi các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, các nước trong hệ
thống XHCN đã đều tiến hành cải tổ đổi mới theo những con đường phát
triển riêng của mình, pháp chế được bàn đến trong một điều kiện mới.
Trong điều kiện của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, quá trình
xây dựng phát triển nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập quốc tế và xây
dựng xã hội công dân, pháp chế XHCN (theo quan niệm cũ) không dễ gì có
sự thống nhất về nội hàm của nó. Vì vậy, để đưa ra được một khái niệm về
pháp chế XHCN một cách tương đối hoàn chỉnh, đúng với tên gọi của nó

cần tiếp cận từ nhiều phương diện.
Thứ nhất, tiếp cận từ tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
- Lênin về pháp chế XHCN, "pháp chế là một hiện tượng xã hội độc lập với tư
cách là nhân tố của quyền lực chính trị". Pháp trị (hay pháp chế" là một chế
độ chính trị của một nước dựa vào pháp luật để quản lý nhà nước và điều
hành xã hội" [65, tr.1320]. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật là phương
pháp pháp trị của nhà nước pháp quyền. Trong "Bộ Tư bản" C.Mác đã khái
quát pháp chế là một chế độ thực hiện pháp luật của mọi tổ chức và công dân.
Các nhà kinh điển Mác-Lênin qua các tác phẩm của mình đã quan niệm
pháp chế XHCN, là một hiện tượng xã hội tồn tại vận động theo các nguyên
lý sau đây:

15
- Pháp chế là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị, kinh tế-xã hội
trong đó mọi thành viên quan hệ với nhau theo pháp luật;
- Pháp chế là một nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa;
- Pháp chế là một phương pháp quản lý nhà nước, phương pháp thực
hiện những nhiệm vụ chuyên chính giai cấp, một bộ phận cấu thành của nền
dân chủ chân chính.
- Pháp chế có quan hệ chặt chẽ với dân chủ, như là một bộ phận của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Pháp chế có mối liên hệ chặt chẽ với văn hoá, với ý thức tôn trọng, xử
sự bằng pháp luật, niềm tin vào giá trị, tác dụng của pháp luật đối với người
dân, đối với Nhà nước.
Thứ hai, tiếp cận từ quan điểm của Đảng ta về pháp chế XHCN trong
các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đến lần thứ X, Đảng ta đều
coi pháp chế XHCN là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Muốn
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý Nhà nước và phát huy dân chủ
XHCN phương pháp chủ yếu, tổng thể, toàn diện và thường xuyên là tăng

cường pháp chế XHCN.
Có thể nói rằng các Nghị quyết của Đảng trong nhiệm kỳ khoá IX và X
về xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, về cải cách Tư pháp, về đẩy mạnh
cải cách hành chính là đỉnh cao tư duy pháp lý nói chung và tư tưởng, quan
điểm nội dung về xây dựng nền pháp chế XHCN ở nước ta nói riêng.
Nghị quyết của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Nghị
quyết số 48 ngày 24/5/2005) tạo tiền đề cơ sở và "công cụ" hữu hiệu cho
"quản lý Nhà nước bằng pháp luật. Và đó cũng là cơ sở hình thành của pháp
chế XHCN nói chung và pháp chế XHCN trên các lĩnh vực xã hội, trong đó
có lĩnh vực tổ chức hoạt động của Hải quan Việt Nam.

16
Tiếp theo chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai
đoạn 2001 - 2010 (ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày
17 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ), Nghị quyết Hội nghị lần thứ
V Ban chấp hành TW khoá X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước, ngày 01 tháng 8 năm 2007.
Trong Nghị quyết quan trọng này Đảng ta đã xác định mục tiêu quan điểm
yêu cầu và các chủ trương giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính. Trong đó
vấn đề thể chế, pháp luật thủ tục hành chính, tổ chức hoạt động của bộ máy
hành chính Nhà nước được Đảng ta quan tâm chỉ đạo rất cụ thể.
Nghị quyết của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp, đến năm
2020 số 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005, xác định mục tiêu, quan điểm phương
hướng và nhiệm vụ cải cách tư pháp cả về thể chế, bộ máy và nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan tư pháp: cơ quan điều tra, cơ quan công tố, xét xử
thi hành án và giám sát hoạt động tư pháp.
Các Nghị quyết của Đảng nêu trên hình thành "Bộ Nghị quyết" toàn
diện, đầy đủ nhất trong xây dựng nền pháp chế XHCN ở nước ta từ trước đến
nay. Có thể coi đây là cơ sở lý luận, nội dung và biện pháp bảo đảm cho vai

trò của pháp chế XHCN tiếp tục được tăng cường cũng như việc triển khai
thực hiện Điều 12 của Hiến pháp năm 1992: "Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN.
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu
tranh phòng chống và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp, pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật".
Thứ ba, tiếp cận từ khái niệm pháp chế của khoa học pháp lý.
Có thể thấy rằng khái niệm (hay phạm trù) pháp chế XHCN được sự

17
quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước. Song cho đến nay
định nghĩa về pháp chế XHCN chưa phải là đồng nhất về nội dung của khái
niệm này.
Theo V.N. Kyđriaxép: "pháp chế là chế độ nhất định của đời sống xã
hội, là phương pháp lãnh đạo của Nhà nước trong việc tổ chức các quan hệ xã
hội bằng phương thức ban hành và không giống thực hiện các đạo luật và các
văn bản pháp luật khác" [60, tr.4]. Nội dung của định nghĩa này pháp chế có nội
dung rộng. Pháp chế là chế độ của đời sống xã hội bao hàm cả việc ban hành
pháp luật và thực hiện pháp luật, song nếu có vi phạm pháp luật thì pháp chế có
vai trò như thế nào? Và pháp luật nào để xử lý các vi phạm pháp luật ấy?.
Một ý kiến khác của G.B Ataman Chúc, ông cho rằng "pháp chế là hệ
thống các quy tắc, quy phạm phương tiện và các bảo đảm pháp lý tương ứng
với chúng mà các cơ quan nhà nước thừa nhận đảm bảo thực hiện thực tế các
đạo luật và các văn bản dưới luật [20, tr.310]
Ý kiến trên tác giả cũng cho rằng pháp chế bao gồm cả pháp luật, các
bảo đảm pháp lý và bảo đảm pháp luật được thực hiện trong thực tế.
Ở Việt Nam có các định nghĩa về pháp chế đáng chú ý sau đây:
- GS - TSKH Đào Trí Úc cho rằng: "pháp chế là sự hiện diện của một

hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho
sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật, là sự tuân thủ và thực hiện đầy đủ
pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, của các cơ quan, đơn vị
tổ chức và đối với công dân" [52, tr.680].
- Trong tài liệu học tập nghiên cứu môn lý luận chung về nhà nước
pháp luật, Tập 1, được Bản lý luận chính trị, định nghĩa: "pháp chế XHCN là
chế độ thực hiện pháp luật nghiêm minh thống nhất và tự giác của các cơ
quan nhà nước các tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ
trang, các cán bộ công chức nhà nước và mọi công dân" [26, tr.293].

18
"Pháp chế XHCN là một chế độ của đời sống chính trị xã hội, trong đó
nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ
trang nhân dân, các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ
chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế và mỗi công
dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật.
Mọi vi phạm pháp luật đều bị xử lý theo pháp luật XHCN được quy
định tại Điều 12 Hiến pháp năm 1992. Đồng tình với các khái niệm trên, theo
tôi có thể hiểu pháp chế XHCN theo những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Pháp chế là chế độ của đời sống chính trị xã hội: pháp luật và
pháp chế là hai hiện tượng xã hội khác nhau, độc lập tương đối với nhau,
nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau: pháp luật với tư cách là hệ thống
quy phạm pháp luật là tiền đề, cơ sở của pháp chế. Đây mới là khả năng là
căn cứ tạo ra hiện tượng "sống, lao động, học tập theo Hiến pháp và pháp luật.
Pháp chế là pháp luật hành vi, có đời sống thực của pháp luật. Nhận biết pháp
luật trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Nhận biết pháp chế là ở
trong đời sống chính trị - xã hội. Tức là hoạt động của nhà nước, của các tổ
chức và của mọi công dân.
Thứ hai: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Nội dung này dường
như là "lẽ thường tình" và nó không phải là nội hàm của pháp chế. Thực tế

không phải như vậy. Nhà nước phải quản lý xã hội chủ yếu bằng pháp luật,
phải "pháp trị" mới là hiện tượng pháp chế. Khác với nhà nước đức trị, văn
trị, nhân trị, và các "quốc đạo".
Ở nước ta Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội bằng đường lối chủ
trương. Nhưng đường lối chủ trương ấy phải được thể chế hoá, cụ thể hoá
bằng pháp luật. Pháp luật là công cụ chủ yếu để quản lý nhà nước và xã hội.
Qua pháp luật mà tính công khai, minh bạch được thể hiện - điều kiện bảo
đảm cho pháp luật "ngự trị" trong đời sống xã hội.

19
Thứ ba: các chủ thể của quan hệ pháp luật như các cá nhân, các pháp
nhân, các hộ gia đình, tổ hợp tác được nhấn mạnh theo tính chất của chủ thể
là cơ quan nhà nước, các tổ chức Đảng, các đơn vị vũ trang nhân dân, các tổ
chức chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp và xã hội thuần tuý cũng như các
đơn vị kinh tế ở mọi thành phần kinh tế và công dân đều phải tôn trọng và
thực hiện Hiến pháp và pháp luật. Nội dung này là "trụ cột" "xương sống" là
nội dung cơ bản nhất của pháp chế. Tôn trọng là ý thức pháp luật, trình độ
hiểu biết pháp luật nhất định tạo nên ý thức tự giác của sự thực hiện. Thực
hiện pháp luật phải bao hàm các dạng thực hiện pháp luật phải bao hàm các
dạng thực hiện pháp luật như: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử
dụng đúng pháp luật, và áp dụng pháp luật: Các dạng thực hiện pháp luật này
cấu thành chế độ thực hiện pháp luật. Theo lý thuyết đây sẽ là chế độ pháp
chế thống nhất đầy đủ.
Thứ tư: Nội dung của pháp chế còn là "mọi vi phạm pháp luật đều bị xử
lý theo pháp luật. Vi phạm pháp luật là một hiện tượng xã hội. Nhưng pháp
chế được thể hiện trong việc dùng pháp luật, căn cứ vào pháp luật, đối chiếu
với pháp luật mà xử lý mọi hành vi xâm phạm đến an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội, xâm phạm đến lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể, các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân. Vi phạm pháp luật về dân sự, kỷ luật nhà nước về
trật tự quản lý hành chính nhà nước và pháp luật hình sự bị xử lý nghiêm

minh triệt để kịp thời nhằm loại bỏ chúng ra khỏi đời sống pháp luật.
1.2.1. Khái niệm, đặc trưng của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ
chức và hoạt động của Hải quan
1.2.1.1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt
động của Hải quan
Pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động hải quan là một bộ phận
của pháp chế XHCN ở Việt Nam. Bộ phận pháp chế này đòi hỏi trong quá

20
trình tổ chức và hoạt động Hải quan phải tuân thủ các nguyên tắc pháp chế
XHCN. Các chủ thể thuộc về tổ chức và hoạt động hải quan phải được thiết
lập đúng nguyên tắc, thẩm quyền, hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn pháp luật trao theo đó: "cơ quan nhà nước chỉ được hoạt động
trong khuôn khổ pháp luật cho phép", "công dân được làm những gì pháp
luật không cấm". Việc thiết lập tổ chức hải quan và thực thi các quyền
năng của hải quan phải đảm bảo tính khoa học, hợp lý, dân chủ, hiệu quả,
tiết kiệm, phục vụ nhân dân.
Từ đây, có thể hiểu pháp chế trong tổ chức và hoạt động hải quan như sau:
"Pháp chế trong tổ chức và hoạt động hải quan là một bộ phận pháp chế
XHCN. Trong đó các cơ quan hải quan được tổ chức và hoạt động trên cơ sở
pháp luật Hải quan và các quy định khác của pháp luật có liên quan đến lĩnh
vực hải quan.
Các cơ quan nhà nước, các cơ quan hải quan, cán bộ, công chức hải
quan, các đơn vị kinh tế, các tổ chức chính trị xã hội và mọi công dân Việt
Nam và nước ngoài đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật trong hoạt động
xuất nhập khẩu hàng hoá qua biên giới, trong thực hiện thuế quan.
Mọi vi phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động hải quan đều bị xử lý
theo pháp luật".
Theo định nghĩa trên pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của
Hải quan có ba nội dung cơ bản sau đây:

Thứ nhất, pháp luật được coi là công cụ chủ yếu để quản lý nhà nước
trong lĩnh vực Hải quan, các cơ quan Hải quan được tổ chức và hoạt động
theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang nhân dân, các cơ
quan hải quan, cán bộ công chức hải quan, các đơn vị kinh tế và mọi công dân
phải tôn trọng và thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước về hải quan, về vận
chuyển xuất nhập khẩu hàng hoá và thuế quan.

21
Thứ ba, mọi vi phạm pháp luật trong tổ chức và hoạt động hải quan đều
bị xử lý theo pháp luật.
1.2.1.2. Đặc trưng cơ bản của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ
chức và hoạt động hải quan
Thứ nhất, pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của hải quan
Huế được quy định bởi Luật Hải quan và các quy phạm pháp luật khác.
Pháp luật là tiền đề cơ sở của pháp chế nói chung. Tổ chức hải quan
Huế được quy định bằng pháp luật hải quan và các văn bản quy phạm pháp
luật khác có liên quan. Nhưng Luật Hải quan là cơ bản, chủ yếu. Cơ quan
hải quan là cơ quan quản lý hành chính nhà nước nhưng là cơ quan quản lý
hành chính đặc biệt. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thể hiện lĩnh vực
hoạt động đặc thù: quản lý kiểm soát xuất nhập khẩu hàng hoá qua biên
giới, thu thuế xuất nhập khẩu, và còn là lực lượng phòng và đấu tranh với
các tội vận chuyển trái phép, buôn lậu hàng hoá, trốn thuế hải quan. Chính
nội dung của pháp luật hải quan và các điều ước quốc tế mà nước ta ký kết
và tham gia quy định đặc điểm của pháp chế XHCN về tổ chức hoạt động
của Hải quan. Đặc trưng này cho thấy tính quy định của pháp luật về pháp
chế và là cơ sở để đối chiếu đánh giá thực trạng pháp chế XHCN trong tổ
chức, hoạt động của ngành hải quan trong đời sống thực tiễn.
Thứ hai, pháp chế XHCN trong tổ chức hoạt động của ngành Hải quan
được thể hiện ở hành vi pháp lý (hành động hay không hành động) phù hợp

với pháp luật của các đơn vị trực thuộc, của các đơn vị kinh tế, các tổ chức và
công dân trong lĩnh vực hải quan trên địa bàn hoạt động Hải quan.
Pháp luật là hiện tượng pháp lý ở trạng thái tĩnh. Còn pháp chế là đời
sống pháp luật ở trạng thái động. Trạng thái động hay còn gọi là pháp luật
hành vi. Pháp chế trong tổ chức hoạt động hải quan là hành vi hoạt động
của các cơ quan, tổ chức, công dân tham gia hoạt động trong lĩnh vực hải

22
quan (vận chuyển xuất nhập khẩu hàng hoá và thực hiện nghĩa vụ thuế
quan). Các chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực hải quan
thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể phù hợp với pháp luật
- đó là pháp chế.
Các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hải quan do pháp luật điều
chỉnh gồm các nhóm quan hệ pháp luật sau đây:
- Nhóm các quan hệ pháp luật trong tổ chức, quản lý, điều hành hoạt
động trong nội bộ hệ thống hải quan.
- Nhóm các quan hệ về lãnh đạo chỉ đạo quản lý hải quan và phối kết
hợp giữa Hải quan với các cơ quan nhà nước khác. Như mối quan hệ pháp
luật giữa Hải quan Huế và Tổng cục Hải quan, các cơ quan nhà nước khác ở
địa phương, với các đơn vị Bộ đội biên phòng, Công an, Bộ y tế, Kiểm lâm
- Nhóm các quan hệ với đơn vị, cá nhân vận chuyển hành lý, hàng hoá
qua biên giới với các chủ hàng hoá thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá.
Thông qua thủ tục thông quan, qua kiểm tra giám sát (tiền kiểm và hậu kiểm).
Áp dụng pháp luật của hải quan trong xử lý hoạt động vận chuyển trái phép,
buôn lậu, áp thuế và chống trốn thuế
Trong các quan hệ pháp luật kể trên các chủ thể là cơ quan nhà nước
nói chung, hệ thống Hải quan Huế nói riêng, các tổ chức và công dân đều phải
tuân thủ chấp hành và áp dụng đúng pháp luật.
Thứ ba, pháp chế XHCN trong tổ chức hoạt động hải quan Huế là
phương thức bảo vệ, bảo đảm lợi ích nhà nước quyền và lợi ích hợp pháp của

các đơn vị kinh tế và mọi công dân trong lĩnh vực hải quan.
Quản lý nhà nước về hải quan và quản lý hải quan bằng pháp luật - từ
đó pháp chế XHCN được hình thành. Nhưng pháp luật và pháp chế không
làm ra của cải vật chất, không trực tiếp tạo ra "dân giầu nước mạnh". Nhưng
pháp chế là phương thức (bao gồm các phương pháp, biện pháp pháp lý) để

×