Đặng Quang Tuân – Cao học Lý luận và lịch sử Luận văn tốt nghiệp
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 7
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài. 7
5. Nội dung và kết cấu đề tài 8
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT ATGT 9
1.1.Cơ sở lý luận của phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông 9
1.1.1. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông 9
1.1.2. Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật 12
1.1.3. Vai trò của phổ biến, giáo dục pháp luật 16
1.1.4. Đặc điểm phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông 17
1.1.4.1. Đặc điểm về đối tượng và chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao
thông 17
1.1.4.2. Đặc điểm về nội dung và hình thức 18
1.1.5. Quan niệm về hiệu quả PBGDPL và các tiêu chí đánh giá hiệu quả PBGDPL 25
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 29
1.2.1. Chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật an toàn giao thông. 29
1.2.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông là yêu cầu cấp bách hiện nay 34
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN GIÁO DỤC LUẬT TTATGT, QUA
THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH. 39
2.1. Khái quát tình hình phổ biến giáo dục Luật TTATGT ở nước ta 39
2.2. Thực trạng phổ biến an toàn giao thông tỉnh Quảng Bình 56
Đặng Quang Tuân – Cao học Lý luận và lịch sử Luận văn tốt nghiệp
2.2.1. Thực trạng giao thông trên địa bàn tỉnh Quảng Bình 57
2.2.1.1. Hệ thống giao thông tỉnh Quảng Bình 57
2.2.1.2. Tình hình Tai nạn giao thông đường bộ qua các năm 59
2.2.1.3. Tình hình vi phạm trật tự an toàn giao thông 61
2.2.1.4. Các nguyên nhân gây tai nạn giao thông ở Quảng bình 65
2.2.2. Tình hình phổ biến, giáo dục luật an toàn giao thông tại Quảng Bình 67
2.2.2.1. Các hoạt động phổ biến, giáo dục luật an toàn giao thông tại Quảng Bình. 67
2.2.2.2. Hiệu quả công tác tuyên truyền ở Quảng bình 77
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
LUẬT TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG Ở TỈNH QUẢNG BÌNH 87
3.1. Các nguyên tắc chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến
giáo dục pháp luật về an toàn giao thông 87
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao
thông ở tỉnh Quảng Bình 89
3.2.1. Phát triển các nguồn nhân lực (nhân lực và tài chính) 89
3.2.1.1. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng về pháp luật an toàn giao thông cho
các báo cáo viên- chủ thể của hoạt động phổ biến, giáo dục 89
3.2.1.2. Bảo đảm kinh phí cho các hoạt động phổ biến, giáo dục an toàn giao thông trên
địa bàn tỉnh 92
3.2.2.Tăng cường sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt của các cấp lãnh đạo, chính quyền địa
phương 93
3.2.3. Nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về ATGT 95
3.2.4. Kiện toàn tổ chức của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
và nâng cao vai trò của cơ quan tư pháp 99
3.2.5. Đổi mới hình thức cũng như nội dung phổ biến, giáo dục; tùy từng đối tượng để
có nội dung phù hợp 101
3.2.6. Xây dựng văn hóa giao thông 104
3.2.7. Tăng cường xử phạt, cưỡng chế đối với các hành vi vi phạm trật tự an toàn giao
thông 109
Đặng Quang Tuân – Cao học Lý luận và lịch sử Luận văn tốt nghiệp
3.2.8. Tăng cường phổ biến giáo dục ATGT cho thanh thiếu niên 109
3.2.8.1. Phổ biến giáo dục ATGT đường bộ cho thanh thiếu niên trong trường học 110
3.2.8.2. Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông cho thanh thiếu niên
đang làm nghề tự do ở các địa bàn dân cư 111
3.2.8.3. Kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho thanh thiếu niên 112
3.2.9. Trách nhiệm của người dân khi tham gia giao thông 113
KẾT LUẬN 118
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Đặng Quang Tuân – Cao học Lý luận và lịch sử Luận văn tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ATGT: An toàn giao thông
CBCNVC: Cán bộ công nhân viên chức
CSGT: Cảnh sát giao thông
HĐND Hội đồng nhân dân
GTNT: Giao thông nông thôn
PBGDPL: Phổ biến, giáo dục pháp luật
TNCSHCM: Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
TNGT: Tai nạn giao thông
TTATGT: Trật tự an toàn giao thông
TT&TT: Thông tin và truyền thông
UBND: Ủy ban nhân dân
VHGT: Văn hóa giao thông
Đặng Quang Tuân – Cao học Lý luận và lịch sử Luận văn tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Các đơn vị hành chính cấp huyện thuộc Quảng Bình 57
Bảng 2.2. Tai nạn giao thông đường bộ qua các năm 60
Bảng 2.3. Thống kê nhận thức của người dân về Luật ATGT 80
Bảng 2.4. Thống kê sự quan tâm của người dân về các chương trình tuyên truyền an
toàn giao thông của tỉnh 81
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trung bình, mỗi ngày trên cả nước có 30 người chết do tai nạn giao thông
(TNGT), cộng lại mỗi năm có trên 1 vạn người chết và vài chục ngàn người bị thương
vì lý do không đáng có này.
Tính sơ qua, số người chết do TNGT một năm ở nước ta bằng số người chết trong
120 cơn bão lớn, gấp gần 3 lần hậu quả cuộc chiến kéo dài 7 năm ở I rắc.
Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến TNGT như: cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu
cầu, lưu lượng phương tiện tham gia lớn , thì có một nguyên nhân chủ quan hết sức
quan trọng, đó là ý thức tham gia giao thông, cao hơn có thể nói, văn hoá giao thông
của chúng ta đang có vấn đề! Điều này được chứng minh bởi tình trạng vi phạm Luật
Giao thông đường bộ gia tăng với các hành vi như: chạy quá tốc độ, sử dụng rượu, bia,
vượt đèn đỏ, không đội mũ bảo hiểm Đặc biệt gần đây, các phương tiện truyền thông
liên tục đưa tin nhiều trường hợp người vi phạm bị cảnh sát giao thông xử lý đã có
hành vi xúc phạm, chống đối người thi hành công vụ, như: lái xe húc vào cảnh sát, quát
mắng, thậm chí cả một thiếu nữ tuổi teen đã tát thẳng cánh vào mặt cảnh sát giao
thông phản ánh một thực tế là: chúng ta đã thực sự xây dựng được "văn hóa giao
thông " chưa hay đã có nhưng nó đang bị "xuống cấp"?
Người ta nói rằng, muốn biết chất lượng giáo dục hãy ra ngoài đường. Việc thiếu
ý thức tôn trọng luật lệ giao thông, phóng nhanh, vượt ẩu, lạng lách… suy cho cùng
cũng do giáo dục mà ra. Do vậy, bên cạnh việc xây dựng chiến lược cơ sở hạ tầng giao
thông dài hạn là quan trọng thì việc nâng cao nhận thức của mọi công dân trong việc
chấp hành luật lệ giao thông cũng cần thiết không kém. Để giảm thiểu TNGT, Tháng
an toàn giao thông (ATGT) Quốc gia năm nay lấy chủ đề " Phòng chống uống rượu,
bia đối với chủ phương tiện khi tham gia giao thông". Đối với Yên Bái, cùng với thực
hiện chủ đề của cả nước, tỉnh xác định chủ đề Tháng ATGT 2011 là "Tháng văn hoá
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
2
giao thông". Tất cả hoạt động đó là nhằm đưa giao thông Việt nam đi vào nền nếp, xây
dựng văn hóa giao thông tiên tiến.
Nhắc đến khái niệm “văn hóa giao thông”, chúng ta thực sự lo ngại cho Quốc gia.
Bởi vấn đề văn hóa giao thông ở nước ta đang nằm trong tình trạng suy thoái nghiêm
trọng và là vấn đề đáng quan tâm trong giai đoạn hiện nay.
Văn hóa giao thông , qua góc độ văn hóa ứng xử, hiểu một cách nôm na đơn giản
đó là: : mỗi người khi tham gia trên đường cần có kiến thức về Luật Giao thông đường
bộ, chấp hành đúng pháp luật quy định khi tham gia giao thông. Bởi, xét cho cùng, bản
chất của pháp luật là để tôn vinh những giá trị đạo đức, mà đạo đức là cái đẹp, cái
thiện, vì vậy những quy định của pháp luật hiểu theo một nghĩa nào đó cũng chính là
văn hoá.
Vậy người tham gia giao thông có văn hoá chính là người có sự nhường nhịn,
không phóng nhanh vượt ẩu, không chở người quá quy định; không lạng lách, đánh
võng, không vượt đèn đỏ; không sử dụng bia rượu khi tham gia giao thông; không
buôn bán trên lòng đường, vỉa hè, không đỗ xe đúng nơi quy định gây che khuất tầm
nhìn; có sự phối hợp với cơ quan chức năng khi thi hành nhiệm vụ Trong tình huống
xảy ra tai nạn, va quệt không nên quá về vấn đề đúng, sai mà chú ý tới cái quan trọng
là sức khoẻ và tính mạng của con người.
Để có được văn hoá ứng xử khi tham gia giao thông, tạo sự chuyển biến trong
lĩnh vực trật tự an toàn giao thông không chỉ một thời gian ngắn, trong một tháng phát
động mà đòi hỏi cả một quá trình nỗ lực lâu dài, trong đó, quan trọng nhất là giáo dục
ý thức mỗi người, nhất là đối tượng trẻ đang ngồi trên ghế nhà trường. Cần thiết phải
có các biện pháp mạnh hơn nữa và việc tăng cường kiểm tra, giám sát, xử phạt vi phạm
giao thông không nên làm theo kiểu "chiến dịch". Khi cơ quan chức năng làm theo
"chiến dịch", rất dễ làm nảy sinh tâm lý đối phó ở người chấp hành.
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
3
Trên thực tế , vấn đề văn hóa giao thông ở nước ta còn quá yếu kém, khách quan
mà nhận xét rằng: trình độ văn hóa giao thông nước ta phải xếp vào hạng bét so với các
nước trên thế giới. Tự chúng ta cũng nhận thấy điều đó và nhất là người nước ngoài khi
đến Việt Nam, họ quá choang ngợp và khiếp sợ trước thực tế giao thông nước ta.
Người dân nước ta quá coi thường pháp luật và tính mạng con người dẫn đến thái độ
rất ẩu khi tham gia giao thông. Nhất là bộ phận buôn bán vì lợi nhuận mà lẫn cả lòng
đường vỉa hè để làm nơi kinh doạnh, làm cho đường sá nhở hẹp lại càng nhỏ bẻ hơn.
Còn rất nhiều vấn đề nhức nhối khi nói đến giao thông Việt Nam.
Năm nay, năm 2012. Được ủy ban an toàn quốc gia chọn làm “năm an toàn giao
thông”, với chủ đề: “ Thiết lập kỷ cương trật tự an toàn giao thông trong phạm vi cả
nước và chông ùn tắc giao thông ở các tỉnh thành phố lớn. Đồng thời, phát động mạnh
mẽ phong trào toàn dân tham gia giữ gìn trật tự an toàn giao thông, khắc phục ùn tắc
giao thông và xây dựng văn hóa giao thông đến từng phường xã, khu dân cư”.
Phó thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc, chủ tịch Ủy ban An Toàn giao thông Quốc
Gia yêu cầu các Bộ, Ngành và chính quyền địa phương tập trung tổ chức, triểu khai
thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp về đảm bảo an toàn giao thông.
Một số chỉ tiêu cụ thể như: tiếp tục kiềm chế tai nan giao thông trên cả ba tiêu chí,
hàng năm giám từ 5 tới 10% số vụ tai nan, số người chết và bị thương do tai nạn giao
thông gây ra, từng bước cải thiện tình trạng ùn tắc giao thông… Phó thủ Tướng cũng
nhấn mạnh vai trò của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự an
toàn giao thông, xem đây là một hoạt đông then chốt trong công việc thực hiện mục
tiêu của “năm an toàn giao thông” năm 2012.
Đối với tỉnh quảng bình, ngày 13 tháng 2 năm 2012,Ban thường vụ Tỉnh ủy đã
ban hành Chỉ thị số 10/CT-TU về lãnh đạo thực hiện Năm an toàn giao thông 2012.
Thời gian qua, cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp đã nêu cao vai trò
trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện quyết liệt nhiều biện pháp bảo đảm
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
4
trật tự an toan giao thông, nên tình hình trật tự an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh có
nhiều chuyển biến tích cực, tai nan giao thông được kiềm chế, giảm cả về số vụ số
người chết và bị thương.
Tuy vậy, so với các tỉnh thành khác thì ở Quảng Bình giao thông vấn đang là một
vấn đề phức tạp, tai nan còn nhiều, các hành vi vi phạm giao thông vấn thường xuyên
diễn ra.
Theo thông báo của Phòng cảnh sát Giao Thông Công An Tỉnh Quảng Bình:
Trong 6 tháng đâu năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh có xảy ra 424 vụ tai nạn giao thông
nghiêm trọng làm chết 114 người, bị thương 411 người, thiệt hại tài sản ước tính 2,9 tỷ
đồng. Riêng trong tháng 10 năm 2011, trên địa bàn đã có 58 vụ tai nạn giao thông làm
chết 16 người, bị thương 57 người. Trong tháng này đã có 3 vụ tai nạn bị khởi tố Hình
sự… Đặc biệt, các cấp ngành và gia đình đang rất lo sợ vì tình trạng tai nạn giao thông
xảy ra mạnh ở lứa tuổi thanh thiếu niên, học sinh trong khu vực tỉnh.
Ông Nguyễn Văn Long _ Phó Ban thường trực Ban ATGT, Giám đốc Sở giao
thông vận tải Tỉnh Quảng Bình cho Biết: “Nguyên nhân chủ yếu khiến số vụ tai nạn
giao thông tăng là do người tham gia giao thông thiếu ý thức trách nhiệm đối với bản
thân và cộng đồng xã hội, điều khiển phương tiện tuỳ tiện, không tuân thủ Luật Giao
thông, tham gia giao thông trong tình trạng uống bia rượu quá nồng độ qui định, không
làm chủ được bản thân, phóng nhanh vượt ẩu, đi sai phần đường, tranh vượt sai qui
định dẫn đến hậu quả gây tai nạn giao thông; số vụ tai nạn giao thông phần lớn nằm
trong độ tuổi thanh thiếu niên và học sinh (chiếm từ 70-80% số vụ). Bên cạnh đó, số
lượng xe máy, xe ô tô đăng ký mới tăng nhanh, khiến lưu lượng người và phương tiên
tham gia giao thông tăng, đây là một trong những bất cập hiện nay khiến số vụ tai nạn
giao thông xảy ra liên tục. Theo báo cáo của Sở Giao thông Vận tải tỉnh Quảng Bình,
chỉ tính trong 6 tháng đầu năm 2007, Quảng Bình có gần 300 xe ô tô, hơn 12.400 xe
máy được đăng ký mới, đưa tổng số phương tiện quản lý tham gia giao thông lên tới
gần 150.000 chiếc.
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
5
Ngoài những nguyên nhân nói trên, công tác chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ đảm
bảo trật tự ATGT vẫn còn những tồn tại nhất định. Trong công tác chỉ đạo, việc kiểm
tra, giám sát, đôn đốc thực hiện kế hoạch còn thiếu sự quan tâm đúng mức của các
ngành, các cấp, các địa phương, do đó nhận thức về trách nhiệm giữ gìn trật tự ATGT
đối với nhân dân chuyển biến còn chậm. Hiệu quả công tác tuyên truyền trật tự ATGT
còn thấp, chưa chuyển biến được hành vi, vi phạm của người tham gia giao thông, chưa
đổi mới được biện pháp và hình thức tuyên truyền. Đặc biệt, việc quản lý giáo dục đối
với lứa tuổi vị thành niên và học sinh còn lỏng lẻo và chưa quyết liệt; chưa phối hợp và
phát huy được tiềm năng về sức mạnh ở các địa phương đó là lực lượng công an xã,
phường, thôn, xóm, đội trật tự Những lực lượng này sẽ được tạo điều kiện về pháp lý
và sự quan tâm để thuận lợi trong việc theo dõi phát hiện các đối tượng ở địa phương
đã từng có tiền sử về vi phạm trật tự ATGT, thường đua xe, phóng nhanh vượt ẩu để
từ đó có các biện pháp phối hợp tích cực cùng với gia đình, chính quyền địa phương
giáo dục răn đe, nhắc nhở, ngăn chặn kịp thời các hành vi sai phạm có thể xảy ra.
Ý thức được sự nóng bỏng của vấn đề TTATGT và vai trò vô cùng quan trọng
của công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông ở nước ta
nói chung cũng như ở Quảng Bình nói riêng. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi
đất nước đang có sự chuyển mình đáng kể về kinh tế xã hội và cùng với nó là đời sống
giao thông vô cùng phức tạp, ngày ngày đang là bài toán nan giải cho nước nhà và
cũng như ở Quảng Bình.
Mặt khác, để góp phần nhỏ vào sự nghiệp xây dựng văn hóa giao thông, đưa đời
sống giao thông nước nhà và khu vực tỉnh nhà đi vào ổn định. Tôi đã lựa chọn nội
dung: “ Phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông, qua thực tiễn ở Tỉnh Quảng
Bình” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp cho mình. Dấu biết một cánh én nhỏ không đủ
kéo mùa xuân về, nhưng mỗi chung ta hãy cùng nhau chung sức, thiết nghĩ chúng ta
hoàn toàn có thể nghĩ tới một nước Việt Nam có nền Văn hóa giao thông sáng rạng
hơn.
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
6
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Từ khi nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
nền kinh tế thị trường thì bức tranh về kinh tế của Việt Nam có nhiều điểm sáng, mức
sống của người dân được cải thiện từng bước, được bạn bè các nước trong khu vực và
quốc tế hết lòng ca ngợi về những thành tựu đổi mới trong quá trình xây dựng đất
nước. Tuy mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt được là khá cao nhưng đi liền với
nó là vấn đề về tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông, đặc biệt là giao thông đường
bộ, số vụ giao thông không ngừng tăng cả về quy mô và số lượng. Cho nên nhiều
người thường nói rằng giao thông đường bộ ở Việt Nam giống như một quả bong bóng
dẹp được chỗ này thì chỗ khác lại ùng ra, có không biết bao nhiêu là chiến dịch, chỉ thị
nhưng chỉ được một thời gian ngắn lại đâu vào đấy.
Khi nghiên cứu đề tài, nhất là qua việc phân tích thực trạng công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật về giao thông, từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giao thông trên phạm vi cả nước nói chung
và cụ thể ở Tỉnh Quang Bình nói riêng. Qua đó góp phần xây dựng lối sống văn hóa
giao thông tiên tiến, văn minh, cùng với cả nước phát triển một cách toàn diện và bền
vững.
Ngoài ra, khi nghiên cứu đề tài. Giúp cho chính bản thân Tôi và những người có
quan tâm về vấn đề trật tự an toan giao thông và văn hóa giao thông hiểu thêm về tầm
quan trọng của phổ biến giáo dục pháp luật giao thông. Nó thực sự là một nhân tố thiết
yếu ảnh hướng tới hạnh phúc của mọi người, mọi nhà và góp phần ổn định kinh tế - xã
hội- chính trị quốc gia. Từ đó mối chúng ta sẽ có cách ứng sứ phù hợp, tốt đẹp khi
tham gia giao thông, từng bước xây dựng nền văn hóa giao thông tiến bộ văn minh phù
hợp với xu thế thời đại và văn minh nhân loại.
Đối với địa phương Tỉnh Quảng Bình, một vùng đất ở miền Trung đang từng
ngày đối mới, là một trong những Tỉnh có đường Quốc Lộ 1A chạy qua với chiều dài
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
7
lớn nhất trong nước.Đây cũng là khu vực có đời sống giao thông phức tạp nhất, là điểm
nóng về trật tự an toàn giao thông trong những năm gần đây.
Nguyên nhân của tình trạng nói trên thì có nhiều, nhưng cơ bản nhất là ý thức của
người dân khi tham gia giao thông còn kém, coi thường tính mạng và luật pháp. Bởi
vậy, khi nghiên cứu đề tài không có mục đích gì khác là tìm ra giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông của
Tỉnh nhà, qua đó đúc rút những kinh nghiệm và đưa ra giải pháp nhằm nâng cao ý thức
của người dân khi tham gia giao thông và từng bước đưa giao thông Tỉnh nhà đi vào
nề nếp ổn định, bảo đám hạnh phúc mọi nhà.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu vào đối tượng là hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật giao thông trên địa bàn Tỉnh Quảng Bình và một vài địa phương khác trên cả nước,
từ đó tìm ra những cái làm được và những hạn chế của công tác phố biến, giáo dục
pháp luật về an toàn giao thông. Cuối cùng là rút ra những bài học kinh nghiệm và một
số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyên, phổ biến, giáo dục
pháp luật giao thông của Tỉnh cũng như cả nước.
Về phạm vi nghiên cứu. đề tài chú yếu nghiên cứu vần đề phổ biến, giáo dục pháp
luật về an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn Tỉnh Quảng Bình. Cụ thể là thực trạng
của công tác này ở các Huyện, thành phố Đồng Hới Quảng bình trong những năm gần
đây. Trong quá trình nghiên cứu có tìm hiểu ở một số địa phương khác trong cả nước
từ đó có sự svà một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyên,
phổ biến, giáo dục pháp luật giao thông của Tỉnh cũng như cả nước.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê so sánh.
- Phương pháp định tính: nhận định và giả thuyết về tình hình phổ biến, giáo dục
pháp luật về trật tự an toàn giao thông.
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
8
- Phương pháp thống kê xã hội học: Điều tra, thu thập và xử lí số liệu qua phiếu
thăm dò thông tin.
5. Nội dung và kết cấu đề tài
Đề tài được chia làm 3 chương như sau:
Chương 1. Cơ sở khoa học, vị trí, vai trò, mục đích của phố biến giáo dục Luật trật tự
an toàn giao thông.
Chương 2. Thực trạng phổ biến giáo dục Luật trật tự an toàn giao thông, qua thực tiễn
tĩnh Quảng Bình.
Chương 3. Một số giải pháp cho phố biến, giáo dục Luật trật tự an toàn giao thông.
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
9
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT ATGT
1.1.Cơ sở lý luận của phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông
Phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông được phát triển, mở rộng từ phổ
biến, giáo dục pháp luật nói chung vì vậy khi tìm hiểu, nghiên cứu về phổ biến, giáo
dục pháp luật an toàn giao thông trước tiên phải hiểu được bản chất của phổ biến, giáo
dục pháp luật là gì.
1.1.1. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông
Khái niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật ở nước ta đến nay vẫn chưa được nghiên
cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm phổ
biến, giáo dục pháp luật. Để hiểu đúng bản chất của phổ biến, giáo dục pháp luật, trước
hết phải tìm hiểu và nghiên cứu về khái niệm phổ biến, phổ biến pháp luật, giáo dục,
giáo dục pháp luật.
Theo Từ điển Tiếng Việt hoặc Từ và ngữ Hán Việt (Nxb Từ điển Bách khoa -
2002), “phổ biến” là hoạt động làm cho đông đảo người biết đến bằng cách truyền đạt
trực tiếp hoặc thông qua hình thức nào đó.Như vậy phổ biến pháp luật là hoạt động làm
cho đông đảo người biết đến pháp luật bằng cách truyền đạt trực tiếp hoặc thông qua
hình thức nào đó. Theo “Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật” (Kỷ
yếu Dự án VIE/98/001 về Tăng cường năng lực pháp luật tại Việt Nam – giai đoạn II”,
Hà Nội, 2002), phổ biến pháp luật có hai nghĩa: (i) nghĩa hẹp: là giới thiệu tinh thần
văn bản pháp luật cho đối tượng của nó; (ii) nghĩa rộng: Là truyền bá pháp luật cho
mọi tầng lớp nhân dân trên cả nước.
Còn “giáo dục” là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát
triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần có được
những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra (Đại Từ điển Tiếng Việt 1998, Nhà
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
10
xuất bản Văn hoá – Thông tin – Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam). Giáo dục
pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục, tác
động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm và hành
vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành. Theo “Sổ tay hướng dẫn
nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật” (Kỷ yếu Dự án VIE/98/001 về Tăng cường
năng lực pháp luật tại Việt Nam – giai đoạn II”, Hà Nội, 2002), giáo dục pháp luật
được hiểu là một khái niệm rộng bao gồm cả quá trình nâng cao tri thức pháp luật cho
đối tượng và bằng mọi cách (thuyết phục, nêu gương, ám thị…) hình thành tình cảm,
niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.
Vậy phổ biến, giáo dục pháp luật là gì? “Phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt
động do tổ chức, cá nhân thực hiện thông qua các hình thức nhất định nhằm nâng cao
hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật cho tổ chức, cá nhân được phổ biến,
giáo dục pháp luật, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Cả cụm từ phổ biến, giáo dục pháp luật có hai nghĩa:
(i) Nghĩa hẹp: Là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức,
tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật,
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.
(ii) Nghĩa rộng: Là công tác, lĩnh vực, ngạch (theo nghĩa thông thường mà không
phải nghĩa trong pháp luật về cán bộ, công chức) phổ biến, giáo dục pháp luật bao gồm
tất cả các công đoạn phục vụ cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật: Định hướng
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; Lập chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục
pháp luật; Áp dụng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật; Triển khai chương trình
kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật; Kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết công tác phổ
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
11
biến, giáo dục pháp luật, rút kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ lý
luận…về phổ biến, giáo dục pháp luật.
Liên quan đến khái niệm này, đã xuất hiện hai luồng quan điểm trái ngược nhau
về việc phân biệt các khái niệm. Một bên là thống nhất không phân tách hai khái niệm;
họ cho rằng phổ biến, giáo dục pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau, trong phổ
biến có giáo dục, trong giáo dục có phổ biến. Quan điểm phân tách hai khái niệm trên
thì cho rằng vì đây là một tập hợp từ ghép giữa hai từ “phổ biến” và “giáo dục” nên xét
về bản chất ngữ nghĩa là khác nhau, đồng thời hai hoạt động này có chủ thể thực hiện,
đối tượng điều chỉnh cũng như cách thức thực hiện khác nhau. Tuy nhiên, các ý kiến
theo quan điểm thứ hai cũng chưa đi sâu phân tích và chỉ ra được những khác biệt cụ
thể nói trên về nội hàm hoạt động liên quan đến hai khái niệm.
Thực tiễn thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và qua các tài liệu
nghiên cứu như báo cáo, đề tài, sách nghiệp vụ về công tác này từ trước đến nay thì
phổ biến, giáo dục pháp luật - một khâu của hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật -
được hiểu theo nghĩa chung nhất là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định
nhằm mục đích hình thành ở đối tượng được tác động tri thức pháp lý, tình cảm và
hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành.
Xét trên mối quan hệ thực tiễn cũng như yêu cầu, mục đích chung của công tác
này, có thể thấy hai khái niệm phổ biến pháp luật và giáo dục pháp luật có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Xét về bản chất của từng hoạt động, thì mục đích của hoạt động phổ
biến là để giáo dục pháp luật. Như vậy, có thể coi đây là các mức độ, công đoạn tiếp
nối nhau, gắn liền với nhau trong quá trình truyền đạt nội dung pháp luật đến các đối
tượng cụ thể nhằm nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật cho họ. Khi phân tách hai khái
niệm này, việc xác định các chủ thể thực hiện, cách thức thực hiện các hoạt động sẽ
khó tách bạch mà có sự trùng lắp, vì hoạt động giáo dục pháp luật không giới hạn chỉ là
việc giáo dục pháp luật trong nhà trường với các chủ thể và đối tượng cụ thể là nhà
giáo và người học.
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
12
Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông về cơ bản cũng giống
với phổ biến giáo dục pháp luật nói chung nhưng khác chăng ở phạm vi hoạt động
được giới hạn ở lĩnh vực giao thông vận tải. Hiện nay chưa có một khái niệm rõ ràng
về an toàn giao thông nhưng hiểu một cách nôm na thì an toàn giao thông chính là
không tai nạn, để có an toàn giao thông thì người tham gia giao thông phải tuân thủ các
quy định khi tham gia giao thông, tuân thủ luật giao thông đường bộ. Có thể hiểu phổ
biến, giáo dục pháp luật trong ngành giao thông vận tải nói chung và phổ biến, giáo
dục pháp luật về an toàn giao thông nói riêng là công tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
góp phần tăng cường công tác quản lý nhà nước về giao thông vận tải, đóng vai trò rất
quan trọng trong việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động trong ngành giao thông vận tải cũng như người tham gia giao
thông nhằm bảo đảm trật tự an toàn giao thông, từng bước kiềm chế, giảm thiểu tai nạn
giao thông.
1.1.2. Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật
Trong phổ biến, giáo dục pháp luật vấn đề quan trọng và cơ bản nhất đó là xác
định được mục đích là gì? Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật là những gì mà
chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật đặt ra khi thực hiện và mục đích chính là một
trong những yếu tố tạo nên cấu trúc bên trong của phổ biến, giáo dục pháp luật.
Hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ thống tri thức pháp luật cho
đối tượng.
Thông qua phổ biến, giáo dục pháp luật, người phổ biến, giáo dục được trang bị
những tri thức cơ bản về pháp luật như giá trị của pháp luật, vai trò điều chỉnh của
pháp luật, các chuẩn mực pháp luật trong từng lĩnh vực đời sống.
Hình thành tri thức pháp luật là nền móng cơ bản để xây dựng tình cảm pháp luật.
Trên cơ sở kiến thức pháp luật được trang bị đã hình thành mở rộng và làm sâu sắc tri
thức pháp luật, giúp người học am hiểu hơn về pháp luật và biết cách đánh giá một
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
13
cách đúng đắn các hành vi pháp lý. Tri thức pháp luật góp phần định hướng cho lòng
tin đúng đắn vào các giá trị của pháp luật, tạo cơ sở hình thành hành vi hợp pháp ở mỗi
cá nhân.
Tri thức pháp luật giúp con người điều khiển, kiềm chế hành vi của mình trên cơ
sở các chuẩn mực pháp lý, tri thức pháp luật đã nhận thức được.
Các hành vi phù hợp với pháp luật chỉ được hình thành trên cơ sở nhận thức
đúng, có niềm tin và có tình cảm đúng đắn đối với pháp luật.
Đây là mục đích hàng đầu, bởi vì chính sự am hiểu pháp luật, sự nhận thức đúng
đắn về giá trị xã hội và vai trò điều chỉnh của pháp luật sẽ là điều kiện cần thiết để hình
thành tình cảm và lòng tin vào pháp luật ở mỗi công dân. Hơn nữa tri thức pháp luật
còn giúp cho con người tổ chức một cách có ý thức hoạt động của mình và tự đánh giá
kiểm tra, đối chiếu hành vi với các chuẩn mực pháp luật. Mục đích này đặc biệt quan
trọng trong điều kiện như nước ta hiện nay, khi mà hiểu biết pháp luật của công dân
còn thấp, còn chịu ảnh hưởng tư tưởng và nếp sống của người sản xuất nhỏ, nhận thức
về quyền và nghĩa vụ của công dân chưa đầy đủ. Mặt khác, công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật chưa được coi trọng dẫn đến tình trạng pháp chế bị buông lỏng, làm giảm
hiệu lực của pháp luật; dẫn đến giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Hình thành, bồi dưỡng, phát triển niềm tin pháp luật cho đối tượng
Pháp luật chỉ có thể được mọi người thực hiện nghiêm chỉnh khi họ tin tưởng vào
những quy định của pháp luật.
Tạo lập niềm tin vào pháp luật cho mỗi người và cả cộng đồng đòi hỏi sự kết hợp
của nhiều yếu tố. Một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng là phổ biến, giáo dục
pháp luật để mọi người hiểu biết về pháp luật, hiểu biết về quá trình thực hiện và áp
dụng pháp luật, tuyên truyền về những mặt thuận lợi và khó khăn phức tạp của việc
thực hiện và áp dụng pháp luật, những mặt ưu điểm và hạn chế của quá trình điều
chỉnh pháp luật.
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
14
Pháp luật cũng như mọi hiện tượng khác bao giờ cũng có hai mặt, không phải lúc
nào cũng thỏa mãn hết, phản ánh được đầy đủ nguyện vọng, mong muốn của tất cả mọi
người trong xã hội. Quá trình điều chỉnh pháp luật sẽ lấy lợi ích của đông đảo nhân dân
trong xã hội làm tiêu chí, thước đo, do đó sẽ có một số ít không thỏa mãn được. Chính
các yếu tố hạn chế và mặt trái của các quy định pháp luật càng tạo nên sự cần thiết của
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để mọi người hiểu đúng pháp luật, đồng tình ủng
hộ pháp luật. Có như vậy mới hình thành lòng tin vào pháp luật của đông đảo nhân dân
trong xã hội.
Niềm tin vào pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng hành vi.
Lòng tin vững chắc vào pháp luật là cơ sở để hình thành động cơ của hành vi hợp pháp.
Trong cuộc sống, có nhiều trường hợp những người có kiến thức pháp luật nhưng
không có lòng tin vào pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên pháp luật, lợi dụng kẽ hở của
pháp luật để trục lợi. Khi con người tin vào tính công bằng của những đòi hỏi của quy
phạm pháp luật thì không cần một sự tác động bổ sung nào của Nhà nước để thực hiện
những đòi hỏi đó. Có lòng tin vào tính công bằng của pháp luật, con người sẽ có hành
vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật một cách độc lập, tự nguyện.
Niềm tin pháp luật được xây dụng trên cơ sở :
+ Giáo dục tình cảm công bằng. Nói đến pháp luật là nói đến sự công bằng. Giáo
dục tình cảm công bằng là giáo dục cho con người biết cách đánh giá các quy phạm
pháp luật, biết cách xác định, đánh giá các tiêu chuẩn về tính công bằng của pháp luật
để tự đánh giá hành vi của mình, biết quan hệ với người khác và với chính mình bằng
các quy phạm pháp luật.
+ Giáo dục tình cảm trách nhiệm là giáo dục ý thức về nghĩa vụ pháp lý. Giáo
dục tình cảm trách nhiệm nhằm hình thành ý thức tuân thủ pháp luật – một nguyên tắc
xử sự của công dân trong mối quan hệ với nhau và với các cơ quan Nhà nước. Giáo
dục tình cảm trách nhiệm làm cho người được giáo dục nhận thức được rằng mọi việc
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
15
làm, mọi hành vi của mình phải dựa trên cơ sở pháp luật và trong khuôn khổ pháp luật
cho phép.
+ Giáo dục ý thức đấu tranh không khoan nhượng đối với những biểu hiện vi
phạm pháp luật, chống đối pháp luật, đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật và
tội phạm,
Giáo dục ý thức nhân cách, rèn luyện thói quen, hành vi tuân thủ pháp luậ cho
đối tượng. Phổ biến, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ý thức pháp luật trong mỗi
công dân. Ý thức pháp luật của người dân được hình thành từ hai yếu tố, đó là tri thức
pháp luật và tình cảm pháp luật.
Tri thức pháp luật là sự hiểu biết pháp luật của các chủ thể có được qua việc học
tập, tìm hiểu pháp luật, qua quá trình tích lũy kiến thức của hoạt động thực tiễn và cộng
tác.
Tình cảm pháp luật chính là trạng thái tâm lý của các chủ thể khi thực hiện và áp
dụng pháp luật, họ có thể đồng tình ủng hộ với những hành vi thực hiện đúng pháp
luật, lên án các hành vi vi phạm pháp luật, ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân
dân được tiến hành thường xuyên, kịp thời và có tính thuyết phuc. Phổ biến, giáo dục
pháp lụật không đơn thuần là tuyên truyền các văn bản pháp luật đang có hiệu quả mà
còn lên án các hành vi vi phạm pháp luật, đồng tình ủng hộ các hành vi thực hiện đúng
pháp luật, hình thành dư luận và tâm lý đồng tình với hành vi hợp pháp, lên án các
hành vi phi pháp
Kết quả cuối cùng của phổ biến, giáo dục pháp luật phải được thể hiện ở hành vi
xử sự phù hợp pháp luật của các công dân. Giáo dục tri thức pháp luật, bồi dưỡng niềm
tin pháp luật là tiền đề để giáo dục ý thức nhân cách rèn luyện thói quen, hành vi tuân
thủ pháp luật hình thành động cơ và hành vi tích cực pháp luật. Những hành vi hợp
pháp của mỗi người thường biểu hiện qua các việc làm như :
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
16
+ Tuân thủ các quy phạm pháp luật. Kiềm chế không thực hiện các điều pháp
luật cấm.
+ Thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân.
+ Biết đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật; biết vận dụng pháp luật để
bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân khi bị xâm phạm.
Mục đích cuối cùng của phổ biến, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ở mỗi
thành viên xã hội ý thức pháp luật bền vững.
1.1.3. Vai trò của phổ biến, giáo dục pháp luật
Phổ biến, giáo dục pháp luật có vị trí, vai trò quan trọng, thể hiện rõ nét trên hai
khía cạnh sau:
Thứ nhất, Phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý Nhà nước, quản lý xã hội. Vai trò này bắt nguồn từ vai trò và giá trị xã hội của pháp
luật. Một trong những vai trò cơ bản của pháp luật trong đời sống nhà nước, đời sống
xã hội là: pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước.
Một nguyên lý đã được khẳng định là nhà nước không thể tồn tại thiếu pháp luật và
pháp luật không thể phát huy hiệu lực của mình nếu không có sức mạnh của bộ máy
nhà nước. Thông qua quyền lực nhà nước, pháp luật mới có thể phát huy tác dụng
trong đời sống xã hội, phát huy vai trò quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Hệ thống
pháp luật là “con đường”, là cái “khung pháp lý” do Nhà nước vạch ra để mọi tổ chức,
mọi công dân dựa vào đó mà tổ chức, hoạt động và phát triển. Phổ biến, giáo dục pháp
luật góp phần đem lại cho mọi người có trí thức pháp luật, xây dựng tình cảm pháp luật
đúng đắn và có hành vi hợp pháp, biết sử dụng pháp luật làm phương tiện để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình quản lý Nhà
nước, quản lý xã hội.
Thứ hai, phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần nâng cao ý thức pháp luật, văn
hoá pháp lý của mọi thành viên trong xã hội trong đó có học sinh, sinh viên. Trong giai
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
17
đoạn hiện nay, vấn đề củng cố, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang là
một vấn đề cấp thiết. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, quản lý xã hội,
thực hiện Nhà nước quản lý bằng pháp luật, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, Đại hội Đảng lần thứ VII đã khẳng định:
“điều kiện quan trọng để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao dân trí, trình độ hiểu biết pháp
luật và ý thức pháp luật của nhân dân”. Để củng cố và tăng cường pháp chế đòi hỏi
phải áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ trong đó có việc nâng cao trình độ văn hoá pháp
lý, xây dựng ý thức pháp luật ở mỗi người dân. Chỉ khi nào trong xã hội mọi công dân
đều có ý thức pháp luật, luôn tuân thủ pháp luật và có hành vi phù hợp với yêu cầu, đòi
hỏi của hệ thống pháp luật, mới có thể thực hiện quản lý Nhà nước, quản lý xã hội
bằng pháp luật và điều này chỉ có thể hình thành và thực hiện được trên cơ sở tiến hành
giáo dục pháp luật.
1.1.4. Đặc điểm phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông
1.1.4.1. Đặc điểm về đối tƣợng và chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn
giao thông
Chủ thể giáo dục pháp luật
Chủ thể giáo dục pháp luật là tất cả những người mà theo chức năng, nhiệm vụ
hay trách nhiệm xã hội phải tham gia vào việc thực hiện các mục đích giáo dục pháp
luật. Các nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã xác định và thừa nhận có hai loại chủ thể
giáo dục pháp luật: chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp với vị trí,
nhiệm vụ, yêu cầu trình độ và kỹ năng giáo dục pháp luật khác nhau:
- Chủ thể chuyên nghiệp giáo dục pháp luật là những người mà chức năng, nhiệm
vụ chủ yếu, trực tiếp của họ là thực hiện các mục đích, nội dung giáo dục pháp luật
(giảng viên luật, các báo cáo viên, tuyên truyền viên về pháp luật ).
- Chủ thể không chuyên nghiệp giáo dục pháp luật là những người mà chức năng
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
18
chính không phải là giáo dục pháp luật, nhưng một trong các nhiệm vụ của họ là thông
qua hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện mục đích giáo dục pháp luật (đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, cán bộ, công chức thuộc các cơ quan hành
pháp, tư pháp ).
Đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông, các cán bộ
làm công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông có thể
kể đến là Cảnh sát giao thông, Thanh tra giao thông, giáo viên giảng dạy pháp luật
trong các nhà trường, phóng viên, biên tập viên chuyên mục an toàn giao thông của các
báo, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, các luật gia đang công tác tại cơ quan Tòa
án, Viện kiểm sát, Tư pháp, các tổ chức nghề nghiệp (Hội luật gia, Đoàn luật sư, Tư
vấn pháp lý ).
Khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật
Khách thể theo quan niệm chung nhất là đối tượng chịu sự tác động, chi phối của
hành động trong quan hệ đối lập với đối tượng gây ra hành động gọi là chủ thể. Từ
quan niệm chung đó có thể đồng nhất khách thể với đối tượng chịu sự tác động. Như
vậy, khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật ở đây có thể là cá nhân, những nhóm
cộng đồng xã hội, đó có thể là cán bộ, công chức, viên chức; công nhân lao động; nông
dân, học sinh sinh viên, thanh niên và thậm chí là cả những người tham gia đảm bảo an
toàn giao thông như lực lượng công an, thanh tra… Xét trong mối quan hệ này thì họ là
đối tượng được giáo dục pháp luật, trong mối quan hệ khác họ có thể trở thành các chủ
thể giáo dục pháp luật.
1.1.4.2. Đặc điểm về nội dung và hình thức
Đặc điểm về nội dung
Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật là một thành tố quan trọng của quá trình
giáo dục pháp luật, nó được xác đinh trên cơ sở mục đích, nhiệm vụ và đồng thời xuất
phát từ nhu cầu, đặc điểm của đối tượng giáo dục pháp luật có hiệu quả cụ thể, thiết
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
19
thực. Phạm vi của nội dung giáo dục pháp luật theo quan điểm chung hiện nay bao
gồm:
- Các thông tin về pháp luật, gồm cả kiến thức cơ bản và văn bản pháp luật thực
định.
- Các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về tình hình vi phạm pháp luật và tội
phạm, về việc điều tra xử lý các vi phạm pháp luật.
- Các thông tin về kết quả nghiên cứu, điều tra xã hội học về thực hiện áp dụng
pháp luật đối với đời sống kinh tế xã hội. đối với từng đối tượng, các tầng lớp dân cư.
Đồng thời phản ánh những nhu cầu, nguyện vọng, ý kiến, đề xuất của nhân dân, của
các chuyên gia pháp luật trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
- Các thông tin hướng dẫn hành vi pháp luật cụ thể của công dân(các quyền, các
nghĩa vụ pháp luật, các quy trình thủ tục để bảo vệ các quyền hợp pháp)
Từ phạm vi nội dung giáo dục pháp luật nêu trên, trong thực tiễn pháp luật ở nước
ta hiện nay cũng cần lưu ý tới những đặc điểm của nội dung giáo dục pháp luật. Đó là
trạng thái động của các thông tin trong nội dung giáo dục pháp luật. Những đặc điểm
này cần được nhận thức đầy đủ đối với những người làm công tác giáo dục pháp luật.
Trên cơ sở đó họ lựa chọn phương pháp tiếp cận tới nội dung giáo dục pháp luật của
từng đối tượng một cách phù hợp, giúp cho đối tượng giáo dục có cách nhìn nhận đúng
đắn, biện chứng về quá trình hoàn thiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống, cũng
như những điểm mâu thuẫn và thống nhất của tiến trình đổi mới, phát triển khoa học
pháp lý và pháp luật thực định ở nước ta.
Những nội dung chủ yếu của giáo dục pháp luật, trên cơ sở lý luận và thực tiễn,
được xác định theo những mức độ, tầng cấp độ khác nhau tùy theo từng loại đối tượng
phù hợp với những nhu cầu, đặc điểm của đối tượng giáo dục pháp luật. Căn cứ vào
nhu cầu và đặc điểm của đối tượng giáo dục pháp luật, người ta phân định nội dung
giáo dục pháp luật thành ba mức, cấp độ khác nhau sau đây:
Đặng Quang Tuân Luận văn tốt nghiệp
20
Một là, mức độ tối thiểu về giáo dục pháp luật phổ cập cho mọi công dân. Sống
trong một xã hội được quản lý bằng pháp luật thì mỗi công dân phải cơ những hiểu biết
tối thiểu về pháp luật và có những kỹ năng tối thiểu để sử dụng pháp luật nhằm thực
hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp và thực hiện nghĩa vụ của mình.
Hai là, mức độ giáo dục pháp luật theo nhu cầu ngành nghề của các công dân hoạt
động trong các lĩnh vực kinh tế kỹ thuật, văn hóa xã hội. Họ cần những hiểu biết và kỹ
năng sử dụng pháp luật ở mức độ cao hơn, mang tính định hướng nghề nghiệp rõ hơn
thì ngoài những khái niệm pháp lý cơ bản thường gặp trong thực tiễn, nội dung giáo
dục pháp luật theo ngành nghề còn bao gồm một số luật thực định, liên quan trực tiếp
đến lĩnh vực hoạt động của đối tượng. Các quyền và nghĩa vụ công dân trong lĩnh vực
hoạt động và các trình tự giải quyết các tranh chấp phổ biến liên quan trong lĩnh vực
nghề nghiệp.
Ba là, mức độ giáo dục chuyên luật, đây là mức độ cao nhất của nội dung giáo
dục pháp luật, nhằm mục đích đào tạo các luật gia cho bộ máy nhà nước và các tổ chức
mang tính nghề nghiệp về pháp luật. Sự hiểu biết của đối tượng này bao gồm cả những
quan điểm, những học thuyết về nhà nước và pháp luật trong lịch sử và hiện tại. Những
hiểu biết tương đối toàn diện về hệ thống pháp luật trong nước và quốc tế trong lĩnh
vực chuyên sâu của từng người (về hình sự, về dân sự, về kinh tế, về hôn nhân gia
đình, vềluật quốc tế, ). Kỹ năng của họ không chỉ dừng lại ở việc tuân thủ pháp luật
mà chủ yếu là vận dụng chính xác, linh hoạt các quan hệ pháp luật vào việc xử lý, giải
quyết các vấn đề liên quan đến pháp luật (hoặc tư vấn cho việc giải quyết các vấn đề về
pháp luật, như các tranh chấp, các vi phạm pháp luật ). Kỹ năng quan trọng và đặc thù
của đối tượng là sáng tạo pháp luật, là khả năng tham gia vào việc hoàn thiện pháp luật.
Từ việc xác định phạm vi, đặc điểm và các mức độ yêu cầu về nội dung giáo dục pháp
luật có thể thấy rằng: Không thể có một hình thức hay một chủ thể giáo dục pháp luật
riêng biệt có thể đáp ứng được tất cả các yêu cầu, nội dung để đạt tới mục tiêu giáo dục
pháp luật đặt ra cho mọi đối tượng. Do đó cần phải có sự phối hợp nhiều hình