Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Trách nhiệm pháp lý của công chức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 123 trang )


Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật



Trần Thị Tố Thu





Trách nhiệm pháp lý
của công chức trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền việt nam hiện nay




Luận văn thạc sĩ luật học













Hà nội - 2010



Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật



Trần Thị Tố Thu




Trách nhiệm pháp lý
của công chức trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền việt nam hiện nay

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01


Luận văn thạc sĩ luật học



Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế



Hà nội - 2010





Mục lục



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Mở đầu
1

Chương 1: cơ sở lý luận về trách nhiệm pháp lý của công chức
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa việt nam
8
1.1.
Khái niệm công chức và trách nhiệm pháp lý của công

chức
8
1.1.1.
Khái niệm công vụ
8
1.1.2.
Khái niệm công chức
11
1.1.3.
Trách nhiệm pháp lý của công chức trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay
14
1.1.3.1.
Khái niệm trách nhiệm pháp lý của công chức
14
1.1.3.2.
Đặc điểm trách nhiệm pháp lý của công chức
17
1.1.3.3.
Mối quan hệ giữa trách nhiệm pháp lý của công chức với
các dạng trách nhiệm xã hội khác.
22
1.2.
Các hình thức trách nhiệm pháp lý của công chức và quan
hệ giữa chúng
29
1.2.1.
Trách nhiệm kỷ luật của công chức
29
1.2.2.

Trách nhiệm hình sự của công chức
31
1.2.3.
Trách nhiệm hành chính của công chức
35
1.2.4.
Trách nhiệm vật chất của công chức
37
1.3.
Yêu cầu của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đối với trách nhiệm pháp lý của
công chức
28
1.3.1.
Khái niệm nhà nước pháp quyền
39
1.3.2.
Các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội
chủ nghĩa trong việc xác định và áp dụng trách nhiệm pháp
lý đối với công chức
42

Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật và thực hiện pháp luật
về trách nhiệm pháp lý của công chức
46
2.1.
Thực trạng quy định pháp luật về trách nhiệm pháp lý của
công chức
46
2.1.1.

Về trách nhiệm kỷ luật của công chức
46
2.1.2.
Về trách nhiệm hình sự của công chức
51
2.1.3.
Về trách nhiệm hành chính
56
2.1.4.
Về trách nhiệm vật chất của công chức
59
2.2.
Thực trạng thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của
công chức
63
2.2.1.
Thực trạng vi phạm pháp luật của công chức
63
2.2.2.
Thực trạng vi phạm pháp luật của công chức ngành Toà
án
67
2.3.
Những mặt tích cực và hạn chế trong việc thực hiện pháp
luật về trách nhiệm pháp lý của công chức
70

Chương 3: phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực
hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chức
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa việt nam
80
3.1.
Tính tất yếu khách quan của việc hoàn thiện pháp luật về
trách nhiệm pháp lý của công chức
80
3.1.1.
Xuất phát từ yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước của dân, do
dân và vì dân.
82
3.1.2.
Hoàn thiện trách nhiệm pháp lý của công chức phải khắc
83
phục những yếu kém, hạn chế của thực trạng quy định
pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về trách nhiệm
pháp lý của công chức
3.1.3.
Hoàn thiện trách nhiệm pháp lý của công chức đáp ứng
yêu cầu hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng và đánh giá
công chức
86
3.2.
Các quan điểm cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về trách
nhiệm pháp lý của công chức
87
3.3.
Giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật về
trách nhiệm pháp lý của công chức
91

3.3.1.
Nhóm các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật
91
3.3.2.
Nhóm các giải pháp về tổ chức, hoạt động và áp dụng
pháp luật về trách nhiệm pháp lý của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền
99

Kết luận
107

Danh mục tài liệu tham khảo
110



1
Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước trong những năm qua, Việt
Nam đã đạt được những thành tựu to lớn bước đầu rất quan trọng, khủng
hoảng kinh tế bị đẩy lùi, giữ vững sự ổn định về chính trị, mang lại lòng tin
của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo. Công cuộc đổi mới đòi hỏi phải có sự củng cố và
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân mong muốn ngày càng
được hưởng đầy đủ những quyền dân chủ, được sống ổn định, làm ăn trong
môi trường xã hội, an ninh, trật tự không bị phiền hà, sách nhiễu và hoàn toàn
tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng.

Để tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới theo sự nghiệp cách mạng
của Đảng, để có được bộ máy thực thi quyền lực quản lý nhà nước trong sạch,
vững mạnh, thực sự có năng lực phẩm chất, quản lý có hiệu quả và đảm bảo
Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra "Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2001 - 2010". Một trong những giải pháp cơ bản, then chốt để tổ chức
thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nêu trên là "Đổi mới tổ chức
bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, trọng tâm là cải
cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh" [15, tr.
220].
Nội dung cải cách nền hành chính nhà nước đã được khẳng định trong
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, khóa VII, Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VIII,
các Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3, 6 (lần 2), lần thứ 7 khóa VIII, Nghị quyết
Đại hội Đảng khóa IX, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 khóa IX và đã được cụ
thể hóa trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn
2001- 2010, với bốn nội dung cơ bản là: 1) cải cách thể chế; 2) cải cách bộ máy;

2
3) xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức; và 4) cải cách tài chính
công. Để góp phần thực hiện yêu cầu cấp thiết của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và yêu cầu xây dựng "Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" quy định tại Điều 2 của
Hiến pháp 1992 (sửa đổi ngày 25/12/2001), cần thiết phải đẩy mạnh cải cách
hành chính ở nước ta lên một bước mới, cơ bản, toàn diện và rộng khắp.
Trong các nội dung đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy
nhà nước trong sạch, vững mạnh, thì công tác cán bộ có ý nghĩa quyết định.
Để làm tốt công tác cán bộ, Đảng ta đã chỉ rõ:
Tăng cường kỷ cương nhà nước và chế độ trách nhiệm cá nhân;
coi trọng chính sách cán bộ, trên cả hai mặt bồi dưỡng và rèn luyện,
có biện pháp ngăn chặn hiện tượng tiêu cực, thiếu dân chủ. Xử lý vi

phạm về mặt Đảng và pháp luật của Nhà nước một cách nghiêm minh
và bình đẳng đối với cán bộ, công chức nhà nước [15, tr.337-338].
Việc tăng cường, củng cố chế độ trách nhiệm cá nhân đối với công vụ
được giao đòi hỏi phải hoàn thiện sự điều chỉnh pháp luật đối với các dạng
trách nhiệm pháp lý của công chức, bao gồm: trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm
vật chất, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự và các biện pháp bảo
đảm việc thực hiện chúng trên thực tế. Trách nhiệm pháp lý là biện pháp cơ
bản để phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với tệ cửa quyền, lạm quyền,
quan liêu, tham nhũng, lãng phí của công, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, công
chức trong hệ thống chính trị, đặc biệt là trong bộ máy hành chính nhà nước.
Tuy vậy trên thực tế, pháp luật về trách nhiệm pháp lý ở nước ta hiện
nay nhìn chung chưa hoàn chỉnh, còn tản mạn, thiếu tính hệ thống, chưa phân
định rõ trách nhiệm giữa tập thể với cá nhân phụ trách. Nhiều quy định mang
tính nguyên tắc về trách nhiệm pháp lý của công chức nêu trong Luật phòng
chống tham nhũng năm 2005, Luật cán bộ công chức năm 2008, chậm được
cụ thể hóa dẫn đến khó áp dụng trong thực tiễn xử lý vi phạm, ví dụ như trách

3
nhiệm liên đới của thủ trưởng cơ quan để xảy ra tham nhũng tiêu cực trong cơ
quan, tổ chức mình phụ trách. Nhiều quy định về trách nhiệm của cán bộ,
công chức không còn phù hợp nhưng chậm được điều chỉnh, sửa đổi bổ sung
cho phù hợp với chủ trương cải cách hành chính. Công tác pháp điển hóa về
trách nhiệm pháp lý, nhất là trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm vật chất của
công chức cũng ít được chú trọng. Việc áp dụng trách nhiệm pháp lý của công
chức ở nhiều nơi, nhiều lúc còn chưa nghiêm, thiếu tính thống nhất, kỷ cương,
kỷ luật lỏng lẻo.
Thực tế cho thấy, các quy định về trách nhiệm pháp lý của công chức
thiếu, chưa chặt chẽ, cụ thể là kẽ hở, điều kiện cho hiện tượng tiêu cực trong
bộ máy nhà nước tăng thêm. Tình trạng đau xót hiện nay là một bộ phận
không nhỏ cán bộ, công chức thoái hóa biến chất, tham nhũng, hách dịch, mất

dân chủ, vô kỷ luật, sống bê tha, vô đạo đức, vô trách nhiệm, làm việc tắc
trách, năng lực kém, làm hỏng việc. Về thực trạng này, Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã chỉ rõ:
Điều làm cho nhân dân còn nhiều bất bình, lo lắng, bức xúc
nhất hiện nay là tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, suy
thoái về tư tưởng, chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của một
bộ phận cán bộ đảng viên vẫn còn nghiêm trọng; kỷ cương phép nước
trong nhiều việc, nhiều lúc chưa nghiêm [18, tr. 187-188].
Về phương diện lý luận, vấn đề hoàn thiện, nâng cao hiệu quả chế độ
công vụ phải tiến hành đồng thời với việc hoàn thiện pháp luật về công chức,
công vụ, nhất là về trách nhiệm của công chức nhà nước. Thành tựu khoa học
pháp lý ở nước ta nói chung và lý luận chung về nhà nước và pháp luật nói
riêng đã tạo ra những tiền đề lý luận quan trọng cho việc nghiên cứu về trách
nhiệm pháp lý. Tuy nhiên, phạm trù vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý
mà chủ thể là công chức nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu và cụ thể hóa trong

4
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện nay.
Những căn cứ lý luận và sự đòi hỏi của thực tế nêu trên là lý do của
việc lựa chọn vấn đề "Trách nhiệm pháp lý của công chức trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận văn
thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề trách nhiệm pháp lý của công chức cũng đã được một số tác
giả quan tâm nghiên cứu, như các tác giả: Đoàn Trọng Truyến về vấn đề trách
nhiệm công vụ trong giáo trình Hành chính học đại cương của Học viện Hành
chính Quốc gia (Hà Nội, 1997), Nguyễn Cửu Việt về trách nhiệm trong quản
lý trong giáo trình Luật hành chính Việt Nam của Đại học Quốc gia Hà Nội
(Hà Nội, năm 1997 và năm 2000), Ngô Tử Liễn về trách nhiệm hành chính

trong cuốn sách Cưỡng chế hành chính nhà nước của Học viện Hành chính
Quốc gia (Hà Nội, 1996), Hoàng Thị Ngân với bài Về trách nhiệm pháp lý
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (số 2, 2001) và bài Trách nhiệm về
việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật sai trái đăng trên Tạp chí Nhà
nước và pháp luật (số 5, 2003), Võ Khánh Vinh trong cuốn sách Tìm hiểu
trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ (Hà Nội, 1996), Nguyễn
Hoàng Anh với bài viết Chế định trách nhiệm vật chất trong luật hành chính
Việt Nam và một số vấn đề cần hoàn thiện trong cuốn sách Nhà nước và pháp
luật Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI (Hà Nội, 2002), Dương Thanh Mai với
bài Bồi thường thiệt hại đối với oan sai trong tố tụng đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp (Hà Nội, 2001), Đinh Thiện Sơn về trách nhiệm pháp lý
của người có chức vụ trong quản lý ở Việt Nam (luận án phó tiến sĩ luật học
năm 1989), Nhìn chung, việc nghiên cứu của các tác giả được quan tâm ở
những góc độ khác nhau của phạm trù pháp lý được xem xét, nhưng chưa
nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề trách nhiệm pháp lý của công chức,

5
nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay. Do đó, việc nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống và sâu sắc
vấn đề trên là việc làm có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách hệ thống các vấn đề lý
luận về trách nhiệm pháp lý của công chức, thực trạng quy định pháp luật và
thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chức, từ đó rút ra những
kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm pháp lý của
công chức, bảo đảm việc thực hiện tốt hơn chế định pháp lý này trong thực
tiễn, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
hiện nay.
Do tính chất của vấn đề nghiên cứu, tác giả không có tham vọng đi
sâu vào tất cả các khía cạnh của trách nhiệm pháp lý của công chức, mà chỉ

tập trung nghiên cứu trách nhiệm pháp lý của công chức - trách nhiệm tiêu
cực đối với chủ thể chịu trách nhiệm là công chức nhà nước, và khảo sát thực
trạng vi phạm pháp luật của công chức trong ngành Tòa án nhân dân.
Phù hợp với mục đích và phạm vi nghiên cứu, luận văn có những
nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, các hình thức trách nhiệm pháp lý của
công chức và mối quan hệ giữa trách nhiệm pháp lý của công chức với các
dạng trách nhiệm xã hội khác.
- Luận giải các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đối với trách nhiệm pháp lý của công chức.
- Phân tích thực trạng quy định pháp luật và thực hiện pháp luật về
trách nhiệm pháp lý của công chức ở nước ta hiện nay, bước đầu xác định
những nguyên nhân mặt tích cực và hạn chế của thực trạng đó.

6
- Luận giải các mục tiêu, phương hướng hoàn thiện trách nhiệm pháp lý
của công chức trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hiện nay và kiến nghị các giải pháp hoàn thiện trách nhiệm pháp lý
của công chức cả về quy định pháp luật lẫn tổ chức thực hiện.
4. Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Về cơ sở khoa học của luận văn, thực hiện đề tài này tác giả dựa trên
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng nhà nước kiểu mới - Nhà
nước xã hội chủ nghĩa trong điều kiện đổi mới ở nước ta, dựa vào tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong quá trình
nghiên cứu, tác giả đã phân tích một số quan điểm khác nhau trong sách báo
pháp lý Việt Nam và nước ngoài về những vấn đề liên quan đến đối tượng
nghiên cứu. Những luận điểm được phát triển trong luận án được dựa trên các
công trình nghiên cứu cơ bản của các nhà khoa học trong và ngoài nước, các
báo cáo tổng hợp của các cơ quan chức năng về tình trạng vi phạm pháp luật

của công chức nước ta trong những năm gần đây.
Về phương pháp nghiên cứu, các phương pháp được tác giả sử dụng
trong quá trình nghiên cứu là: phương pháp luận Mác - Lênin (chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật),
phương pháp so sánh pháp luật, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương
pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê xã hội học.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã lý giải vấn đề trách nhiệm pháp lý
của công chức theo các quan điểm: hệ thống, lịch sử, thực tiễn và trong mối
liên hệ với thực tế đời sống cũng như các hiện tượng pháp lý khác.
5. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình khoa học pháp lý Việt Nam nghiên cứu tương
đối toàn diện và có hệ thống về trách nhiệm pháp lý của công chức trên cả

7
bình diện lý luận và thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay. Điểm mới của luận
văn thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
- Kiến giải một cách có cơ sở khái niệm trách nhiệm pháp lý của công
chức gồm hai khía cạnh tích cực và tiêu cực. Trong giới hạn nghiên cứu, đã
làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm trách nhiệm pháp lý của công chức, các hình
thức trách nhiệm pháp lý của công chức và tương quan giữa trách nhiệm pháp
lý của công chức với trách nhiệm chính trị, đạo đức và với các biện pháp tác
động xã hội khác.
- Đưa ra được các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đối với trách nhiệm pháp lý của công chức.
- Đánh giá một cách tương đối toàn diện các quy định pháp luật về trách
nhiệm pháp lý của công chức, cũng như thực trạng vi phạm pháp luật của công
chức và thực tiễn áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với công chức vi phạm.
- Đề xuất được những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về
trách nhiệm pháp lý của công chức và những giải pháp bảo đảm việc thực

hiện trách nhiệm pháp lý của công chức trong thực tiễn xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam hiện nay.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Những kết luận và kiến nghị của luận văn có ý nghĩa thực tiễn trong
việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về trách
nhiệm pháp lý của công chức, đồng thời làm tư liệu nghiên cứu phục vụ quá
trình cải cách hành chính ở Việt Nam.
Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
công tác nghiên cứu, giảng dạy chuyên sâu về trách nhiệm pháp lý của công chức.
7. Kết cấu của luận văn

8
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận án gồm 3 chương, 9 mục.

9
Chương 1
Cơ sở lý luận về trách nhiệm pháp lý
của công chức trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam

1.1. Khái niệm công chức và trách nhiệm pháp lý của công chức
1.1.1. Khái niệm công vụ
ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, chế độ nhà nước khác nhau nền công
vụ được quy định khác nhau do có những cách hiểu, quan niệm khác nhau.
Phạm vi công vụ luôn phụ thuộc vào chế độ chính trị, xã hội và bản chất nhà
nước. Có thể khái quát các quan niệm khác nhau trong lịch sử về công vụ như
sau:
- Trong nhà nước phong kiến, công vụ được xem như một sứ mạng
thiêng liêng cao cả và cũng là nơi quy tụ các lợi ích vật chất, quyền thế về

tinh thần đối với nhân dân. Việc tuân thủ mệnh lệnh của nhà vua tức là thực
thi bổn phận công vụ. Do đó, công vụ xét cho cùng là chế độ phục vụ nhà vua.
- Trong nhà nước tư sản, công vụ xét về bản chất là sự phục vụ cho
quyền lực công. Nền công vụ việc làm (chức vụ) không tạo ra sự ổn định cần
thiết cho nền hành chính, đội ngũ công chức không có tính liên tục và kế thừa.
Tuy vậy, nền công vụ này rất năng động và có hiệu suất cao, do tận dụng được
hết mọi khả năng của người công chức.
- Đối với các nước đang phát triển, mới giành được độc lập, nền
công vụ ở các nước này thường mang đặc trưng hỗn hợp, chịu ảnh hưởng từ
nhiều nền công vụ khác, công vụ phong kiến, công vụ chức nghiệp, công vụ
việc làm, cũng như bản sắc riêng của quốc gia đó. Nền công vụ chưa được
định hình, thường nghiêng về mô hình công vụ nước nào nó chịu ảnh hưởng
nhiều nhất, thông thường là nước cai trị trước kia.

10
- Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa trước đây, có ý kiến cho rằng
tồn tại một nền công vụ riêng, với đặc trưng của hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa trong đó Đảng cộng sản giữ vai trò lãnh đạo. Đội ngũ nhân sự trong tổ
chức Đảng cũng như trong Nhà nước đều do Đảng bố trí sắp xếp, quản lý, cùng
hưởng quy chế pháp lý chung với các đối tượng cán bộ Đảng, tổ chức xã hội.
Cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, có thể được điều động theo nhu cầu công tác
từ ngành này sang ngành khác, từ trung ương đến địa phương, từ tổ chức
Đảng, tổ chức xã hội sang cơ quan nhà nước và ngược lại. Do vậy, không tạo ra
sự ổn định và tính chuyên nghiệp của nền công vụ, người công chức không tích
lũy được kinh nghiệm, không thích nghi với công việc.
Chúng tôi cho rằng, mô hình công vụ xã hội chủ nghĩa, chưa phải là
một mô hình công vụ độc lập vì bản thân nó có nhiều yếu tố tiếp thu của mô
hình chức nghiệp và mô hình việc làm. Ví dụ, vừa phân chia công chức theo
ngạch, bậc vừa có hệ thống lương chức vụ.
Pháp luật của một số nước trên thế giới cho rằng, công vụ có nội dung

bao gồm việc thực hiện các hoạt động của nhà nước trong các lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, y tế, giáo dục, an ninh, quốc phòng nhằm thỏa mãn nhu cầu chung
của xã hội trên cơ sở đường lối chính trị đã hoạch định. Tất cả những hoạt động
của nhà nước đều nhằm mục đích phục vụ nhân dân, thi hành pháp luật, đưa
pháp luật vào đời sống để bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội. Mặt khác, các luật
đều được cụ thể hóa bằng quyết định quản lý nhà nước. Việc thi hành các quyết
định quản lý nhà nước và tiến hành những hoạt động về quản lý công chức,
quản lý ngân sách, quản lý tài sản là để thực hiện các công việc nói trên. Vậy,
công vụ là hoạt động phục vụ công việc nhà nước, được bảo đảm bằng quyền
lực nhà nước và nhằm sử dụng quyền lực đó để thực hiện các nhiệm vụ quản lý
của nhà nước.
Theo PGS.TS Nguyễn Cửu Việt, ở nước ta hoạt động do các cán bộ,
công chức, viên chức trong bộ máy của Nhà nước, Đảng, các tổ chức chính trị -
xã hội và nhiều tổ chức xã hội khác thực hiện, thực chất đều là hoạt động phục

11
vụ lợi ích công; đa phần trong số đó có tính chuyên nghiệp, thường xuyên và
được bảo đảm bằng ngân sách nhà nước. Như vậy, có thể nói rằng, đây là hoạt
động "công vụ" với nghĩa đúng của từ. Tuy nhiên, trên cơ sở ý nghĩa khoa học
và thực tiễn quy định pháp lý về vấn đề này, khái niệm công vụ có thể được
hiểu là hoạt động của các công chức, viên chức trong cơ quan, đơn vị sự
nghiệp của nhà nước và lực lượng vũ trang.
Luật cán bộ, công chức năm 2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010
chưa nêu ra khái niệm công vụ mà chỉ có quy định hoạt động công vụ của cán
bộ, công chức. Điều 2 Luật cán bộ công chức quy định: "Hoạt động công vụ
của cán bộ, công chức là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ công
chức theo quy định của Luật này và các quy định khác có liên quan".
Khái niệm "công vụ" trong pháp luật hiện hành chưa có định nghĩa
chính thức và nội hàm của khái niệm này còn có sự biến động, chúng ta vẫn
có thể nhận thấy (qua nội dung Luật cán bộ, công chức năm 2008), công vụ có

những đặc điểm chính sau đây:
Một là, "công vụ" trước hết là hoạt động có tính chất phục vụ.
Hai là, hoạt động công vụ có tính chuyên nghiệp.
Ba là, nó có thể không trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội
nhưng bảo đảm các điều kiện, hỗ trợ, tổ chức quản lý hoạt động sản xuất của
cải vật chất.
Bốn là, hoạt động công vụ nhà nước được bảo đảm bằng ngân sách
nhà nước.
Những đặc điểm này xác định hoạt động công vụ nhà nước như một
dạng hoạt động riêng biệt, khác những dạng hoạt động sản xuất như hoạt động
của công nhân và nông dân.
Từ những phân tích nêu trên, bước đầu có thể đưa ra định nghĩa công
vụ như sau: Công vụ là một loại lao động mang tính phục vụ, tính quyền lực

12
và pháp lý được thực thi bởi đội ngũ cán bộ, công chức nhằm thực hiện các
chức năng của Nhà nước trong quá trình quản lý toàn diện các mặt hoạt động
của đời sống xã hội.
1.1.2. Khái niệm công chức
ở nước ta, phạm trù công chức không chỉ giới hạn trong phạm vi những
người thuộc nền hành chính nhà nước, mà còn nằm cả trong hệ thống chính trị.
Theo pháp luật hiện hành đồng thời tồn tại ba khái niệm "cán bộ", "viên chức"
và "công chức". Các "cán bộ", "công chức", "viên chức" mà pháp luật nói
chung và các văn bản luật hành chính nói riêng điều chỉnh, không chỉ làm
việc trong bộ máy nhà nước, mà cả trong các cơ quan của các tổ chức xã hội
(bao gồm cả tổ chức chính trị - Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp). Đây là một nét đặc thù xuất phát từ chế độ chính trị của
nước ta.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII và Nghị quyết Hội nghị
đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, từ giữa năm 1993 công việc xây

dựng dự án Pháp lệnh cán bộ công chức được tiến hành khẩn trương. Một trong
những nội dung khó khăn và phức tạp nhất là xác định phạm vi khái niệm
công chức Việt Nam gồm những ai, họ phải hội tụ đủ những tiêu chí nào.
Khi cho ý kiến chỉ đạo về dự án Pháp lệnh Công chức do Ban cán sự
Đảng Chính phủ trình Bộ Chính trị ngày 25 tháng 8 năm 1995, Bộ Chính trị
Trung ương Đảng đã chỉ rõ: ở nước ta, sự hình thành đội ngũ cán bộ, viên
chức có đặc điểm khác các nước. Cán bộ làm việc trong các cơ quan nhà
nước, Đảng và đoàn thể là một khối thống nhất trong hệ thống chính trị do
Đảng lãnh đạo. Bởi vậy, cần có một pháp lệnh có phạm vi điều chỉnh chung
đối với cán bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị bao gồm: các công chức nhà
nước (trong đó có công chức làm việc ở các cơ quan quân đội, cảnh sát, an
ninh, ), cán bộ làm việc chuyên trách trong các cơ quan Đảng, đoàn thể.

13
Tiếp thu tinh thần chỉ đạo trên của Bộ Chính trị, tại Pháp lệnh cán bộ
công chức đã nêu ra khái niệm cán bộ công chức một cách chung chung, chưa
có sự phân biệt rõ về cán bộ, công chức. Chỉ đến khi Luật cán bộ công chức
năm 2008 ra đời và có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 thì cán bộ, công chức mới
được định nghĩa riêng biệt và có sự phân biệt rõ.
Tại Điều 4 Luật cán bộ, công chức năm đã đưa ra định nghĩa riêng cho
từng khái niệm "cán bộ", "công chức", tại Điều 4 quy định về cán bộ, công chức:
1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân

chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (gọi chung là đơn vị sự nghiệp
công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với
công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì
lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vụ sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật.
3. Cán bộ xã phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là công dân Việt
Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng
nhân dân, ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ
chức chính trị - xã hội; Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển

14
dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp
xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Như vậy, công chức là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước được quy định tại Điều 4 của Luật cán bộ, công
chức, làm việc trong các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội sau đây:
1. Văn phòng Quốc hội;
2. Văn phòng Chủ tịch nước;
3. Các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
4. Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp;
5. Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở
nước ngoài;
6. Đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và Công an nhân dân;
7. Bộ máy giúp việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện.
Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định số 114/2003/NĐ-CP

ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị
trấn, lần đầu tiên trong pháp luật nước ta có quy định về công chức xã, phường,
thị trấn. Sau đó được thể chế hóa vào khoản 3 điều 4 Luật cán bộ, công chức
năm 2008. Công chức xã, phường, thị trấn gồm các chức danh sau đây:
1. Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
2. Chỉ huy trưởng quân sự;
3. Văn phòng - Thống kê;
4. Địa chính - Xây dựng;
5. Tài chính - Kế toán;

15
6. Tư pháp - Hộ tịch;
7. Văn hóa - Xã hội.
Trên cơ sở những vấn đề đã nêu, chúng ta có thể rút ra một định nghĩa
đầy đủ hơn về công chức: Công chức Việt Nam là công dân Việt Nam, được
tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch hoặc được giao giữ một công vụ (được giao
nhiệm vụ thường xuyên), được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên
môn, vị trí công tác trong các cơ quan, tổ chức của Nhà nước, bộ máy giúp việc
của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, mỗi ngạch thể hiện chức và cấp
về chuyên môn nghiệp vụ, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước.
Như vậy, theo luật hiện hành, công chức là những người, sau khi thỏa
mãn những điều kiện theo định nghĩa trên đây, không chỉ tiến hành hoạt động
có tính chất phục vụ việc thực hiện quyền lực nhà nước trong cơ quan hành
chính nhà nước hiểu theo nghĩa hẹp, mà cả trong Văn phòng Chủ tịch nước,
Văn phòng Quốc hội, cơ quan tư pháp, các cơ quan đại diện của Nhà nước ở
nước ngoài, các cơ quan, đơn vị thuộc các lực lượng vũ trang của Nhà nước,
bộ máy giúp việc thuộc các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Quan
niệm trên đây cho thấy phạm vi khái niệm công chức về cơ bản phù hợp với
thực tiễn hiện hành ở nước ta. Nó tương ứng, nhưng chưa phải là đồng nhất

hoàn toàn, với phạm vi hoạt động chấp hành và điều hành của Nhà nước.
Tóm lại, trên con đường hoàn thiện, phạm vi khái niệm công chức của
nước ta trải qua nhiều bước phát triển, mỗi bước đều phải phù hợp với đòi hỏi
khách quan của các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội hay nói cách khác, bị
quy định bởi những điều kiện khách quan đó. Đồng thời cũng bị chi phối bởi
nhận thức chủ quan của cơ quan lãnh đạo, nhà lập pháp trong từng thời kỳ,
trong đó nhân tố chủ quan vẫn là cơ bản, có ý nghĩa quyết định.
1.1.3. Trách nhiệm pháp lý của công chức trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay

16
1.1.3.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý của công chức
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước có trách nhiệm phục vụ nhân
dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về toàn bộ hoạt động của mình. Để
thực hiện được trọng trách nặng nề đó Nhà nước đặt ra chế độ phục vụ nhân
dân của đội ngũ cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước, đồng thời quy định cụ
thể trách nhiệm pháp lý của công chức trong thực hiện nhiệm vụ công vụ. Vấn
đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để tạo ra trong đội ngũ công chức sự nhận
thức thống nhất, đầy đủ trách nhiệm đó, đồng thời có những biện pháp hữu
hiệu thực hiện nghiêm các quy định pháp luật về chế độ trách nhiệm của công
chức, giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của bộ máy nhà nước.
ở nước ta, sự đa dạng của các chức năng hoạt động của công chức đòi
hỏi phải thiết lập trật tự, kỷ luật trong hoạt động quản lý nhà nước. Công chức
được trao những quyền hạn cần thiết để thực hiện nhiệm vụ được giao phó,
nên vi phạm pháp luật của họ có thể gây ra những thiệt hại đáng kể cho Nhà
nước, cho nhân dân. Vì vậy, pháp luật đặt ra nhiều quy định nhằm đảm bảo
trật tự, kỷ luật trong hoạt động công vụ.
Trách nhiệm pháp lý của công chức đồng nghĩa với trách nhiệm pháp
lý mà chủ thể chịu trách nhiệm là công chức khi tham gia hoạt động công vụ.

Do đó, việc tìm hiểu khái niệm trách nhiệm pháp lý của công chức cần thiết
phải đi từ khái niệm trách nhiệm pháp lý.
Trong khoa học pháp lý, trách nhiệm pháp lý cũng được hiểu dưới hai
giác độ: 1) trách nhiệm tích cực thể hiện trong quyền và nghĩa vụ; 2) trách
nhiệm tiêu cực thể hiện trong việc áp dụng các biện pháp xử lý những chủ thể
vi phạm các quyền và nghĩa vụ.
Khái niệm "trách nhiệm" theo nghĩa tích cực là việc thực hiện chức
trách, công việc được giao, nó bao gồm cả quyền và nghĩa vụ được pháp luật

17
quy định. Chủ thể của trách nhiệm có bổn phận, thái độ tích cực thực hiện
những quyền và nghĩa vụ được nhà nước giao phó.
Khái niệm "trách nhiệm" theo nghĩa tiêu cực là hậu quả bất lợi (sự
phản ứng mang tính chất trừng phạt của nhà nước) mà cá nhân hoặc tổ chức
phải gánh chịu khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền và
nghĩa vụ được giao phó, tức là khi vi phạm "trách nhiệm" theo nghĩa tích cực,
khi thực hiện vi phạm pháp luật. Đây là khái niệm trách nhiệm truyền thống
trong khoa học pháp lý - trách nhiệm pháp lý - trách nhiệm chỉ áp dụng đối
với những hành vi đã thực hiện trong quá khứ.
Do trách nhiệm pháp lý của công chức là một khái niệm rất rộng, nên
trong khuôn khổ luận văn này chỉ tập trung xem xét trách nhiệm pháp lý của
công chức theo nghĩa truyền thống, tức là trách nhiệm tiêu cực phát sinh khi
công chức thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động công vụ.
Trách nhiệm pháp lý phát sinh từ yêu cầu khách quan phải phục tùng ý
chí chung duy nhất của chủ thể quản lý xã hội là Nhà nước. Để quản lý xã
hội, Nhà nước định ra pháp luật, đồng thời buộc mọi cá nhân, tổ chức phải
tuân thủ trong mọi hành vi và hoạt động của mình. Như thế, sự tồn tại các quy
phạm pháp luật do Nhà nước quy định nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội,
đáp ứng yêu cầu phục tùng ý chí chung là tiền đề khách quan của trách nhiệm
pháp lý. Mặt khác, sự thực hiện pháp luật còn phụ thuộc vào ý chí của từng cá

nhân. Trong những tình huống cụ thể, sự lựa chọn một phương án xử sự của
cá nhân bị chi phối mạnh mẽ bởi yếu tố tự do ý chí của cá nhân đó. Đây là
tiền đề chủ quan của trách nhiệm pháp lý. Khi cá nhân có thái độ phủ nhận
đối với các quy phạm pháp luật, thực hiện hành vi vi phạm pháp luật tất yếu
xuất hiện trách nhiệm pháp lý tiêu cực. Trong các trường hợp khác, cá nhân
thể hiện rõ quan hệ có trách nhiệm đối với công việc mà Nhà nước và xã hội
giao phó, và mong muốn thực hiện nó với kết quả tốt nhất. Đó là trách nhiệm
pháp lý tích cực.

18
Pháp luật trong Nhà nước ta thể chế hóa đường lối, chủ trương của
Đảng, thể hiện ý chí, lợi ích, nguyện vọng của toàn thể nhân dân, trở thành tài
sản giá trị chung của xã hội. Thực hiện pháp luật trở thành đòi hỏi, động cơ tự
giác bên trong của mỗi cá nhân. Đây chính là yếu tố xã hội cho phép mở rộng
phạm vi khái niệm trách nhiệm pháp lý, theo đó nó bao gồm cả khía cạnh
trách nhiệm pháp lý tiêu cực, và cả khía cạnh trách nhiệm pháp lý tích cực,
với xu hướng trách nhiệm pháp lý tích cực ngày càng trở thành phổ biến, chủ
đạo.
Trách nhiệm pháp lý của công chức (xem xét dưới giác độ tiêu cực) là
trách nhiệm mà chủ thể chịu trách nhiệm là công chức trong hoạt động công
vụ. Trong quản lý nhà nước, trách nhiệm pháp lý của công chức là phương
tiện bảo vệ trật tự pháp luật, bảo đảm trật tự, kỷ luật, kỷ cương trong hoạt
động của bộ máy quản lý. Đây là mục đích chung của trách nhiệm pháp lý của
công chức. Bên cạnh đó, trách nhiệm pháp lý của công chức còn có các mục
đích cụ thể, trực tiếp, như: giáo dục công chức đạo đức công vụ, ý thức tôn
trọng phục vụ nhân dân, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật, phòng ngừa các vi
phạm pháp luật của công chức. Mục đích phòng ngừa bao gồm việc ngăn
chặn sự tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm của công chức, răn đe và giáo dục
để phòng ngừa các vi phạm đó.
Từ những phân tích ở trên cho thấy, trách nhiệm pháp lý của công chức

(theo khía cạnh tiêu cực) là hậu quả bất lợi mà Nhà nước áp dụng đối với
công chức vi phạm pháp luật trong hoạt động công vụ (trong những trường
hợp nhất định còn bao gồm cả việc vi phạm quy tắc đạo đức làm ảnh hưởng
đến uy tín của cơ quan nhà nước hoặc vi phạm điều lệ của tổ chức chính trị)
thể hiện sự lên án, phản đối của Nhà nước đối với hành vi vi phạm và người
công chức vi phạm. Hay nói cách khác, trách nhiệm pháp lý của công chức là
một loại quan hệ pháp luật đặc thù xuất hiện trong hoạt động công vụ. Trong
quan hệ đó, Nhà nước có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế có tính chất
trừng phạt được quy định ở các chế tài quy phạm pháp luật đối với công chức

19
vi phạm pháp luật (trong những trường hợp nhất định còn bao gồm cả việc vi
phạm quy tắc đạo đức làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan nhà nước hoặc
vi phạm điều lệ của tổ chức chính trị) và người công chức đó phải gánh chịu
hậu quả bất lợi về vật chất, tinh thần tương ứng với tính chất, mức độ nguy
hại cho xã hội của hành vi vi phạm do họ gây ra.
1.1.3.2. Đặc điểm trách nhiệm pháp lý của công chức
Trách nhiệm pháp lý của công chức phụ thuộc vào bản chất của Nhà
nước, vào mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân. Như trên đã trình bày,
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Do đó, Nhà nước có trách nhiệm phục vụ nhân dân, chịu
trách nhiệm trước nhân dân về toàn bộ hoạt động của mình. Công chức nhà
nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh khi sinh thời đã dạy: "Đều là công bộc của
dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như
trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật". Trách nhiệm pháp lý của
công chức có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý chỉ là công chức. Người
công chức làm việc trong bộ máy nhà nước, được Nhà nước trao cho những
quyền năng nhất định để thực hiện nghĩa vụ phục vụ nhân dân. Đó không chỉ là
nghĩa vụ đạo đức, mà trước hết là nghĩa vụ, chức trách, công việc được Nhà

nước giao phó. Việc công chức không thực hiện đúng bổn phận, chức trách, vi
phạm những điều pháp luật cấm trong hoạt động công vụ thì tất yếu phát sinh
trách nhiệm pháp lý.
Đặc trưng quan trọng trên của trách nhiệm pháp lý của công chức đã
được pháp luật của Nhà nước ta ghi nhận từ rất sớm. Quy chế công chức Việt
Nam được ban hành kèm theo Sắc lệnh số 76/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950 đã
xác định: "Công chức Việt Nam phải phục vụ nhân dân, trung thành với Chính
phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh làm những việc có hại
đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động của bộ máy nhà nước" (Điều

20
2); Điều 55 quy định: "Công chức chịu trách nhiệm trước cấp trên về cách thừa
hành chức vụ của mình". Tinh thần và nội dung đó của Quy chế công chức Việt
Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành kèm theo Sắc lệnh trên đã trở thành chế
độ hiến định (Hiến pháp 1959), được phát triển và cụ thể hóa trong Hiến pháp
năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Luật cán bộ, công chức năm 2008 . Điều 6
Hiến pháp năm 1959 quy định: "Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa
vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm
soát của nhân dân. Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung
thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng
phục vụ nhân dân". Luật cán bộ, công chức, tại Điều 9, Điều 79 đều quy định
rõ công chức chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành nhiệm vụ,
công vụ của mình và nếu vi phạm các quy định của pháp luật thì phải chịu
trách nhiệm pháp lý. Đặc biệt Bộ luật hình sự năm 1985 và năm 1999 đều
dành một chương quy định tội phạm về chức vụ, trong đó xác định chỉ người
có chức vụ là chủ thể của tội này, người dân không phải là công chức thì
không là chủ thể của tội phạm có chức vụ.
Thứ hai, cơ sở phát sinh trách nhiệm pháp lý của công chức hiểu theo
nghĩa tiêu cực là hành vi vi phạm pháp luật của công chức trong hoạt động
công vụ. Đó là các vi phạm nghĩa vụ công chức, vi phạm các điều pháp luật

cấm, vi phạm do giải quyết kéo dài, ra những quyết định không có căn cứ dẫn
đến hậu quả gây tổn hại cho Nhà nước và cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, công chức phải chịu trách
nhiệm kỷ luật khi vi phạm các quy định tại các điều 18, 19, 20 Luật cán bộ,
công chức và các điều khác của Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí,
Luật phòng, chống tham nhũng, phải chịu trách nhiệm vật chất khi làm mất
mát, hư hỏng trang bị, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của Nhà
nước, chịu trách nhiệm hành chính khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính
trong hoạt động công vụ hoặc thực hiện hành vi mại dâm, cờ bạc, ma túy,

×