Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.21 KB, 100 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





PHẠM THỊ MAI





QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO
THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI
DƢƠNG

Chuyên ngành: L lun v lịch s nh nƣớc v php lut
Mã số: 60 38 01 01





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. PHẠM HỒNG THÁI








HÀ NỘI – 2014




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Phạm Hồng Thái.
Các số liệu nêu ra trong luận văn là trung thực, đảm bảo
tính khách quan, khoa học. Các tài liệu tham khảo có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Tác giả luận văn


Phạm Thị Mai




















MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ 9
1.1. KHÁI NIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TRẬT TỰ AN

TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ 9
1.1.1. Khái niệm quản lý 9
1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nƣớc về trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ 12
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TRẬT TỰ AN
TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ 19
1.2.1. Đặc điểm về chủ thể quản lý nhà nƣớc về TTATGTĐB 19
1.2.2. Đặc điểm về nội dung quản lý nhà nƣớc về TTATGTĐB 20
1.2.3. Đặc điểm về khách thể của quản lý nhà nƣớc về TTATGTĐB 23
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ
AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HẢI DƢƠNG 24
2.1. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG, BAN HÀNH PHÁP LUẬT VỀ
TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ 24
2.1.1. Sơ lƣợc về sự phát triển các văn bản pháp luật điều chỉnh Quản
lý nhà nƣớc về trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ 24
2.1.2. Những hạn chế của hệ thống văn bản pháp luật 28


2.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ AN
TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HẢI DƢƠNG 31
2.2.1. Khái quát chung về thực trạng vi phạm pháp luật về an toàn giao
thông đƣờng bộ ở nƣớc ta hiện nay 31
2.2.2. Thực trạng vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông
đƣờng bộ trên địa bàn Thành phố Hải Dƣơng 35
2.2.3. Thực trạng tai nạn giao thông trên địa bàn Thành phố Hải Dƣơng 38
2.2.4. Hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc đảm bảo an toàn giao thông
đƣờng bộ trên địa bàn Thành phố Hải Dƣơng 46
Chương 3: MỤC TIÊU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG

ĐƢỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI DƢƠNG 61
3.1. MỤC TIÊU CỦA QUẢN LÝ GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ 61
3.1.1. Mục tiêu về hiệu quả 61
3.1.2. Mục tiêu chất lƣợng 61
3.1.3. Mục tiêu về tính hợp lý 61
3.1.4. Đảm bảo chính quyền đô thị thực hiện đúng chức năng của mình 62
3.1.5. Mục tiêu cụ thể của năm 2014 62
3.2. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VÀ
BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI DƢƠNG 65
3.2.1. Các giải pháp bảo đảm quản lý về trật tự an toàn giao thông
đƣờng bộ trên địa bàn Thành phố Hải Dƣơng 65
3.2.2. Các giải pháp bảo đảm an toàn giao thông đƣờng bộ trên địa bàn
Thành phố Hải Dƣơng 68
KẾT LUẬN 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ATGTĐB: An toàn giao thông đƣờng bộ
CNH: Công nghiệp hóa
CSGT: Cảnh sát giao thông
GTĐB: Giao thông đƣờng bộ
TTAT: Tai nạn giao thông
TTATGTĐB: Trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ
UBND: Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ


Stt
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
1.
Bảng 2.1:

Thực trạng vi phạm, tai nạn giao thông đƣờng bộ
toàn quốc
32
2.
Bảng 2.2:
Quỹ đất của thành phố dành cho ngành giao thông
vận tải từ năm 2010 đến năm 2014
33
3.
Bảng 2.3:
Tình hình tai nạn giao thông trên địa bàn Thành
phố Hải Dƣơng
38
4.
Bảng 3.1:
Biển báo hạn chế tốc độ với các loại phƣơng tiện
77
5.
Bảng 3.2:
Biển báo tốc độ trên đƣờng ngoài đô thị
77
6.

Bảng 3.3:
Biển báo khoảng cách an toàn giữa các xe
78
Stt
Số hiệu sơ đồ
Tên sơ đồ
Trang
1.
Sơ đồ 3.1:
Mục tiêu và biện pháp quản lý giao thông đô thị
63






1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề ti
Hoạt động giao thông vận tải là huyết mạch kinh tế của mỗi quốc gia,
nó phản ánh trình độ phát triển của xã hội và đáp ứng những nhu cầu kinh tế,
văn hoá, xã hội, đi lại, sinh hoạt của các tầng lớp dân cƣ. Trong đó giao thông
đƣờng bộ luôn là mảng quan trọng bậc nhất trong toàn bộ hệ thống giao
thông, xét trên tất cả các phƣơng tiện kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh quốc
phòng. Giao thông vận tải là nhu cầu không thể thiếu của con ngƣời, cùng với
sự phát triển của khoa học kỹ thuật, phƣơng tiện giao thông ngày càng đa
dạng và phát triển mạnh và có những bƣớc tiến bộ đáng kể. Trong hơn hai bảy
năm qua, thực hiện đƣờng lối đổi mới của Đảng và Nhà nƣớc về phát triển

nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng Xã hội chủ nghĩa, với các thành tựu
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đời sống xã hội đã có những
bƣớc phát triển tích cực, điều kiện sinh sống của nhân dân ngày càng đƣợc
nâng cao, giao lƣu kinh tế, văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao, nhu cầu đi
lại của nhân dân tăng lên.
Tuy nhiên bên cạnh đó sự tác động mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng
lại làm phát sinh những mặt tiêu cực về mặt xã hội, trong đó trên lĩnh vực
quản lý an toàn giao thông đô thị đã bộc lộ nhiều vấn đề bức xúc, tai nạn giao
thông và ùn tắc giao thông tại các đô thị đã gây nhiều thiệt hại về con ngƣời
tài sản của nhà nƣớc và nhân dân đòi hỏi vai trò quản lý nhà nƣớc đối với lĩnh
vực này ngày càng lớn, trong đó việc cần thiết trƣớc mắt phải duy trì giữ
nghiêm việc thực thi các quy định của pháp luật đặc biệt là hiện nay tình trạng
vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông đang diễn ra còn nhiều phức
tạp trên phạm vi cả nƣớc nói chung và Thành phố Hải Dƣơng nói riêng.
Hiện nay hệ thống giao thông đô thị vẫn còn yếu kém về cơ sở vật chất
so với yêu cầu thực tế, trong đó lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn giao thông và


2
chống tắc nghẽn giao thông còn nhiều bất cập. Vai trò quản lý nhà nƣớc ở một
số ngành và của một số cấp chính quyền địa phƣơng chƣa đƣợc coi trọng.
Những yếu tố đó đã ảnh hƣởng nhiều đến việc tăng cƣờng đấu tranh phòng
chống vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông và tắc nghẽn giao thông.
Vì vậy để xây dựng một đất nƣớc văn minh, hiện đại một yêu cầu bức
bách đặt ra là cần phải từng bƣớc phát triển và xây dựng hiện đại các cơ sở hạ
tầng giao thông, đồng thời phải có một hệ thống pháp luật đầy đủ và phát huy
tốt vai trò quản lý của các cơ quan chức năng, trong đó kết hợp tăng cƣờng
các biện pháp mạnh trong giai đoạn hiện nay để phòng chống các vi phạm về
trật tự an toàn giao thông nhằm làm giảm và hạn chế tối đa các tai nạn giao
thông mang lại hạnh phúc cho mỗi gia đình.

Hiện nay tình hình trật tự an toàn giao thông ở nƣớc ta diễn biến rất
phức tạp, tai nạn giao thông không ngừng gia tăng và len lỏi đến hàng vạn gia
đình từ thành thị đến nông thôn, gây thiệt hại đến lớn đến tính mạng và tài sản
của nhân dân. Lòng tin của quần chúng đối với công tác quản lý nhà nƣớc về
trật tự an toàn giao thông ít nhiều bị xói mòn, đặc biệt là an toàn giao thông
đƣờng bộ. Trên cơ sở đó, từ quá trình học tập và trong thực tế, bằng phƣơng
pháp nghiên cứu thống kê, phƣơng pháp phân tích kết hợp phƣơng pháp logic
tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về trật tự an toàn
giao thông đường bộ trên địa bàn Thành phố Hải Dương” làm đề tài luận
văn thạc sĩ Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật. Từ lý luận và thực tiễn,
tác giả mong muốn tìm ra giải pháp có tính khả thi cao góp phần từng bƣớc
hoàn thiện việc giữ gìn trật tự an toàn giao thông ở Thành phố Hải Dƣơng
hiện nay theo hƣớng tích cực.
2. Tình hình nghiên cứu đề ti
Giao thông đƣờng bộ là vấn đề gần gũi với hoạt động đi lại của con
ngƣời. Đồng thời công tác quản lý nhà nƣớc về trật tự an toàn giao thông


3
đƣờng bộ là điều mà ngƣời muốn nghiên cứu giao thông đƣờng bộ quan
tâm hơn hết.
Thành phố Hải Dƣơng đang trong quá trình đô thị hoá nhanh chóng,
lƣu lƣợng ngƣời tham gia giao thông ngày càng tăng, tất yếu an toàn giao
thông đƣờng bộ ở thành phố Hải Dƣơng rất cần đƣợc quan tâm. Trên thực
tế ở Việt Nam có nhiều công trình khoa học, sách báo, tạp chí, của nhiều
tác giả đã công bố xoay quanh vấn đề về trật tự an toàn giao thông đƣờng
bộ. Với nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhƣ:
Thứ nhất, về các đề tài nghiên cứu khoa học:
- “Tai nạn giao thông đường bộ, thực trạng, nguyên nhân và giải
pháp phòng ngừa của lực lượng Cảnh sát giao thông”. Đề tài cấp bộ,

1998, Bộ công an.
- “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong giao thông đường bộ
trên địa bàn thị xã Cẩm Phả”. Đề tài khoa học cấp cơ sở, 2003. Thạc sĩ,
Nguyễn Hữu Lý: Chủ nhiệm đề tài
Thứ hai, về các đề tài luận án, luận văn đã bảo vệ:
- Luận văn thạc sĩ Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật của Trần
Văn Nghĩa (2004) “Công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ và
trật tự an toàn giao thông đô thị của công an tỉnh Bình Thuận - thực trạng và
giải pháp”.
- Luận văn thạc sĩ Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật của Dƣơng
Quốc Hoàng (2005) “Tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực giao thông
đường bộ ở Việt Nam hiện nay”
- Luận án Tiến sĩ Xã hội học của Đinh Quang Hà (2006) “Sự sai lệch
xã hội của người tham gia giao thông đường bộ thành phố Hà Nội”.
- Luận văn thạc sĩ Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật của Đào Văn
Minh (2008)“Quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông đường bộ của
chính quyền cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa”


4
- Luận văn thạc sĩ Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật của Vũ
Văn Giới (2009) “Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
bộ của công an thành phố Hải Phòng hiện nay”
Thứ ba, các bài nghiên cứu đăng trên Báo, Tạp chí, chủ yếu là trên Tạp
chí Giao thông vận tải (GTVT), Tạp chí Quản lý nhà nƣớc, nghiên cứu quản
lý nhà nƣớc lĩnh vực GTVT, giao thông đô thị dƣới góc độ của ngành luật
hành chính, đáng chú ý là các công trình sau:
- Nguyễn Thủy Anh (2003): "Đổi mới quản lý nhà nước về giao thông
công cộng trong đô thị lớn ở nước ta", Tạp chí Quản lý nhà nƣớc, số 5/2003.
- Hoàng Đình Ban (2004) "Luật Giao thông đường bộ sau hai năm nhìn

lại", Tạp chí GTVT, số 3/2004.
- Lê Ngọc Tiến (2004) "Giáo dục pháp luật - biện pháp quan trọng
trong giảm thiểu tai nạn giao thông đường bộ", Tạp chí GTVT, số 7/2004.
- Nguyễn Thu Hằng (2009) “Thực trạng và giải pháp về trật tự an toàn
giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Hải Dương”. Tạp chí Khoa học công
nghệ và Môi trƣờng, số 4/2009
- Sách của nhóm tác giả Trần Văn Luyện, Trần Sơn và Nguyễn Văn
Chính đồng chủ biên (2003), Trật tự an toàn giao thông đường bộ - Thực
trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia. Sách đã phân tích khái niệm trật
tự an toàn giao thông đƣờng bộ (TTATGTĐB), thực trạng và giải pháp bảo
đảm TTATGTĐB. Khái niệm TTATGTĐB mà các tác giả cuốn sách đƣa ra có
giá trị tham khảo đối với việc thực hiện đề tài luận văn.
Nhƣ vậy, tuy đã có nhiều đề tài và công trình nghiên cứu về trật tự an
toàn giao đƣờng bộ, nhƣng đây là một vấn đề có nội hàm rộng nên các công
trình trên về cơ bản đã trình bày đƣợc vai trò, tác động ƣu thế, cũng nhƣ
những mặt hạn chế của giao thông đƣờng bộ và an toàn giao thông đƣờng bộ
của Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời cũng đƣa ra những phƣơng


5
hƣớng và giải pháp trong việc quản lý nhà nƣớc về trật tự an toàn giao thông.
Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay vấn đề trật tự an toàn giao thông lại trở
nên cấp bách hơn bao giờ hết, trật tự an toàn giao thông không chỉ riêng một
cá nhân hay một tổ chức mà là của toàn xã hội. Trật tự an toàn giao thông là
một lĩnh vực quan trọng của trật tự an toàn xã hội, có mối quan hệ nhân quả
và không tách rời trật tự an toàn xã hội, về nhận thức, thói quen và tâm lý của
ngƣời tham gia giao thông cũng chính là của con ngƣời tham gia các hoạt
động kinh tế xã hội ở mỗi thời kỳ cụ thể. Kỷ cƣơng trong quản lý kinh tế xã
hội cũng có ý nghĩa quyết định trật tự kỷ cƣơng trong giao thông, vì con
ngƣời là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Trên cơ sở kết quả của các nghiên

cứu trƣớc đây và các quy định của pháp luật hiện hành, tác giả cho rằng việc
chọn nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần làm phong phú và sâu sắc thêm
những luận cứ khoa học, cũng nhƣ cơ sở thực tiễn cho việc đổi mới quản lý
nhà nƣớc về trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ mà nhu cầu khách quan của
cuộc sống đang đặt ra.
3. Mục đích v nhiệm vụ của lun văn
- Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu với mục đích nhằm làm sáng rõ nội dung quản lý nhà
nƣớc về trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ. Phân tích, đánh giá thực trạng
quản lý nhà nƣớc về trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ trên địa bàn Thành
phố Hải Dƣơng và đƣa ra các giải pháp cho Thành phố Hải Dƣơng thực hiện có
hiệu quả trong công tác quản lý về trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ từ đó
khắc phục tình trạng ùn tắc giao thông, giảm thiểu tai nạn giao thông, bảo vệ
tốt môi trƣờng sống, sinh hoạt, học tập của ngƣời dân và góp phần vào sự phát
triển kinh tế- xã hội ở tỉnh Hải Dƣơng
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Phân tích những cơ sở lý luận về nội dung quản lý nhà nƣớc, thực


6
hiện pháp luật, những đặc điểm và nội dung thực hiện pháp luật của Thành
phố Hải Dƣơng đối với lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ, những
yếu tố bảo đảm cho Thành phố Hải Dƣơng thực hiện việc quản lý có hiệu quả
lĩnh vực an toàn giao thông đƣờng bộ bằng công cụ pháp luật hiện nay.
+ Phân tích thực trạng trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ và thực trạng
thực hiện pháp luật trên lĩnh vực này của Thành phố Hải Dƣơng, thời gian từ
năm 2010 đến nay. Qua phân tích thực trạng, luận văn rút ra ƣu điểm, hạn chế
và chỉ ta những nguyên nhân hạn chế trong việc thực hiện pháp luật của
Thành phố trên lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ.
+ Đề xuất và luận chứng các giải pháp bảo đảm thực hiện tốt việc

quản lý nhà nƣớc về trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ của Thành phố
Hải Dƣơng hiện nay.
4. Đối tƣợng v phạm vi nghiên cứu của lun văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn quản
lý nhà nƣớc trên lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Quản lý nhà nƣớc về trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ là vấn đề có
nội dung rộng và phức tạp. Vì vậy trong phạm vi luận văn không thể xem
xét toàn diện tất cả các nội dung của vấn đề. Tác giả tập trung nghiên cứu
hoạt động quản lý của Thành phố Hải Dƣơng, những tồn tại, vƣớng mắc,
nguyên nhân và giải pháp nâng cao hiệu quản quản lý về trật tự an toàn
giao thông đƣờng bộ.
5. Cơ sở l lun v phƣơng php nghiên cứu của lun văn
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà
nƣớc và pháp luật.
Luận văn cũng dựa trên cơ sở lý luận của khoa học luật chuyên ngành,
trực tiếp là cơ sở lý luận của bộ môn lý luận chung về nhà nƣớc và pháp luật.


7
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ: Phƣơng
pháp phân tích, phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp
so sánh, phƣơng pháp điều tra số liệu thực tế và một số phƣơng pháp khác để
làm sáng tỏ bản chất của vấn đề.
6. Những đóng góp mới của lun văn,  nghĩa l lun v thực tiễn
của lun văn
Cái mới của luận văn: Từ kết quả nghiên cứu mà luận văn đạt đƣợc có
thể nêu một số điểm mới sau:
- Xây dựng những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho việc quản lý nhà

nƣớc về trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ, các yếu tố bảo đảm cho thành phố
quản lý về trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ.
- Đánh giá khái quát thực trạng quản lý về an toàn giao thông đƣờng bộ
của thành phố chỉ ra các nguyên nhân hạn chế trong việc quản lý về trật tự an
toàn giao thông đƣờng bộ của Thành phố Hải Dƣơng hiện nay.
- Luận chứng các giải pháp bảo đảm cho việc quản lý về trật tự an toàn
giao thông đƣờng bộ phù hợp với điều kiện hiện nay ở Thành phố Hải Dƣơng.
- Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đóng góp vào việc hoàn thiện những cơ sở lý luận về quản lý
nhà nƣớc đối với cả nƣớc nói chung và Thành phố Hải Dƣơng nói riêng, từ đó
cung cấp những cơ sở khoa học cho việc đề xuất và thực thi có hiệu quả các
giải pháp bảo đảm cho cấp chính quyền thành phố thực hiện quản lý về trật tự
an toàn giao thông đƣờng bộ, đáp ứng yêu cầu của nhà nƣớc pháp quyền,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc về trật tự an toàn giao thông
đƣờng bộ của các cơ quan quản lý nhà nƣớc.
Luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy,
nghiên cứu tại các cơ sở nghiên cứu đào tạo luật, tham khảo trong quản lý nhà
nƣớc về trật tự giao thông đƣờng bộ ở Thành phố Hải Dƣơng.


8
7. Kết cấu của lun văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm 3 chƣơng.
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nƣớc về trật tự an toàn giao
thông đƣờng bộ.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về trật tự an toàn giao thông
đƣờng bộ trên địa bàn Thành phố Hải Dƣơng.
Chương 3: Mục tiêu và giải pháp bảo đảm quản lý nhà nƣớc về trật tự
an toàn giao thông đƣờng bộ trên địa bàn Thành phố Hải Dƣơng.













9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TRẬT TỰ
AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ

1.1. KHÁI NIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN
GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ
1.1.1. Khi niệm quản l
Quản lý là nhu cầu khách quan của xã hội, ngay từ xã hội mông muội,
đến xã hội hiện đại ngày nay. Quản lý xuất hiện thì các học thuyết về quản lý
cũng ra đời, phát triển và không ngừng hoàn thiện. Mỗi học thuyết quản lý
nghiên cứu theo những "lát cắt" khác nhau. Học thuyết quản lý của Khổng Tử
là một trong các thuyết ra đời sớm nhất, cho đến ngày nay vẫn có ảnh hƣởng
lớn đến thực tiễn quản lý ở cả các nƣớc phƣơng Ðông, và cả các nƣớc phƣơng
Tây. Khổng Tử không chỉ là nhà khoa học quản lý lỗi lạc, mà còn là nhà thực
tiễn quản lý tài ba, và là ngƣời đầu tiên trên thế giới mở trƣờng tƣ dạy quản
lý. Những môn sinh của Ông có nhiều ngƣời xuất thân từ thân phận thấp hèn,
song có ngƣời làm tới chức Tể tƣớng, nhƣ Tử Du (Ngôn Yên); làm quan Đại

trƣợng phu, nhƣ Tể Dƣ, Nhiễu Cầu, Trọng Di (Tử Lộ), hoặc trở thành những
nhà giáo - học giả nổi tiếng nhƣ Tử Hạ, Tăng Sâm, Tử Trƣơng
Học thuyết quản lý của Khổng Tử lấy đạo nhân làm triết lý, lấy nhân,
lễ, nghĩa, trí, lợi làm thành các nguyên tắc căn bản để xây dựng các chính
sách cai trị, đào tạo tầng lớp quan cai trị, để dùng ngƣời (quản lý nhân sự).
Thuyết chính danh, một trong những nội dung chính yếu của học thuyết quản
lý của Khổng Tử, đòi hỏi "quản lý chính danh là phải làm việc xứng với danh
hiệu chức vụ mà người đó được giao" [21, tr.65], "vua ra vua, tôi ra tôi, cha
ra cha, con ra con".
Đối ngƣợc với học thuyết của Khổng Tử, học thuyết quản lý của Hàn


10
Phi Tử lấy chủ trƣơng pháp trị, dùng pháp luật để cai trị. Trên cơ sở của tƣ
tƣởng triết học cơ bản là "bản chất con người có tính ác, mưu lợi cho bản
thân" 19, tr.65, Hàn Phi Tử luận về pháp trị trong quản lý, nhấn mạnh "pháp
phải tùy thời", "thời thay mà pháp luật không đổi thì loạn, đời đã thay đổi mà
cấm lệnh không biến thì nước bị chia cắt" [21, tr.74]; hay "pháp luật phải
soạn thảo cho dân dễ biết, dễ thi hành", "phải có tính phổ biến".
Ở phƣơng Tây, những học thuyết quản lý cũng ra đời từ rất sớm, gắn
liền với những tên tuổi lỗi lạc, nhƣ Aristot, Đề Các, Xô Crat, Sô Lông
Nhƣ trên đã nêu, tùy theo góc độ nghiên cứu, mà các học thuyết quản
lý đã đƣa ra những định nghĩa khác nhau về quản lý:
- Từ góc độ xem con ngƣời là động vật kinh tế, FW. Taylor (1856-1915)
quan niệm: "Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và
sau đó thấy được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất" [21, tr.8].
- Xem con ngƣời là một thực thể xã hội, có đời sống tâm lý, tính cảm,
có tính tổ chức và tính cộng đồng, vừa là đối tƣợng quản lý, đồng thời cũng là
chủ thể quản lý đã là cơ sở của nhiều học thuyết quản lý sống động và đầy đủ
hơn. Những học thuyết này cho rằng "hiệu quả lao động tăng lên không chỉ ở

cách quản lý khoa học mà còn khi tạo ra được trong các tổ chức đó những
mối quan hệ con người tốt đẹp" [21, tr.15]; rằng "phải chú trọng tới những
người lao động với toàn bộ đời sống của họ, cả yếu tố kinh tế lẫn yếu tố tinh
thần và tình cảm" [21, tr.15]. Đó là các học thuyết quản lý của M.Follet (1868
-1933), của E.Mayo (1880-1949);
- P. Drucker xây dựng học thuyết quản lý của mình trong xã hội thông
tin - hậu công nghệ, với triết lý "kiến thức và hiệu quả lao động trí óc trở
thành nhân tố quyết định sự phát triển của các tổ chức".
Trong Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa, học thuyết về quản lý cũng phát triển
hết sức phong phú. V.I. Lênin là ngƣời đầu tiên sau Cách mạng Tháng Mƣời


11
năm 1917 đã đặc biệt chú trọng đến vấn đề quản lý. Ngƣời nhấn mạnh nhiệm
vụ trọng tâm của chính quyền Xô viết "là quản lý và quản lý" đồng thời đòi
hỏi phải phân biệt quản lý với hoạt động chính trị, rằng "mục tiêu cơ bản của
hoạt động quản lý nhà nước là nhằm phát triển kinh tế" [21, tr.12], phải học
tập quản lý "ở những nhà tổ chức lớn nhất của chủ nghĩa tư bản" [21, tr.12].
Nội dung cơ bản của những học thuyết về quản lý xã hội trong các nhà
nƣớc xã hội chủ nghĩa là:
- Quản lý xã hội là quản lý một cách khoa học, "là sự tác động có ý
thức, có mục đích của con người lên toàn bộ hệ thống xã hội hoặc đến từng
khâu của nó" (các phạm vi hoạt động xã hội, các ngành kinh tế, các liên hiệp
sản xuất, các xí nghiệp ), bảo đảm sự hoạt động tối ƣu và sự phát triển của
chúng trên cơ sở vận dụng các quy luật khách quan và những xu hƣớng vốn
có của chủ nghĩa xã hội [50, tr.263].
Quản lý với quan niệm trên là khách quan, vừa là kết quả, vừa là yêu
cầu cần thiết của sự giao tiếp trong quá trình lao động, trao đổi sản phẩm lao
động, yêu cầu về tính tổ chức, trật tự, sự phân công lao động, hay do tính chất
xã hội của lao động quyết định.

- Quản lý xã hội một cách khoa học là việc sử dụng hệ thống tri thức,
công cụ, phƣơng thức và cơ chế đa dạng, phong phú tác động lên ý thức, hành
vi của con ngƣời, "làm cho sự hoạt động chủ quan của con người phù hợp
những đòi hỏi của những quy luật khách quan" [50, tr.263].
- Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, quản lý xã hội một cách khoa học là
quản lý con ngƣời, "là sự tổ chức một cách tốt nhất đời sống kinh tế của họ,
giáo dục họ theo tinh thần, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa" [50, tr.263].
Tóm lại, Tùy theo từng góc độ nghiên cứu, quản lý đƣợc quan niệm
khác nhau, với những định nghĩa khác nhau, song quản lý, về thực chất là quản
lý con ngƣời, là thực hiện những tác động lên ý thức, tâm lý, tình cảm của con


12
ngƣời bằng một hệ thống công cụ, phƣơng tiện, mô hình và cơ chế khác nhau
nhằm tổ chức, điều chỉnh hành vi của con ngƣời theo những mục tiêu quản lý,
phù hợp với quy luật vận động khách quan của tổ chức, của xã hội.
1.1.2. Khi niệm quản l nh nƣớc về trt tự an ton giao thông
đƣờng bộ
Quản lý nhà nƣớc hay quản lý của nhà nƣớc là những hoạt động quản
lý có những đặc trƣng riêng, đó là:
- Quản lý nhà nƣớc chỉ xuất hiện khi nhà nƣớc xuất hiện. Nhà nƣớc trở
thành ngƣời đại diện xã hội, là chủ thể chủ yếu quản lý xã hội, quản lý một
cách toàn diện cả về dân cƣ, lãnh thổ và quản lý các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội.
- Quản lý nhà nƣớc là quản lý công, đƣợc phân biệt với quản lý tƣ ở
mục tiêu quản lý là những lợi ích công cộng, đƣợc bảo đảm bằng quyền lực
công mà xã hội trao cho nhà nƣớc.
- Quản lý nhà nƣớc là quản lý bằng pháp luật, theo pháp luật. Pháp luật
vừa là chuẩn mực của quản lý, vừa thể hiện và bảo đảm uy quyền trong quản
lý. Có thể khẳng định: Có nhiều học thuyết quản lý khác nhau; có học thuyết

xem nhẹ pháp luật, có học thuyết coi trọng pháp luật, song không có nhà nƣớc
nào không quản lý bằng pháp luật. Không có pháp luật nhà nƣớc không có
công cụ, uy quyền để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý.
Do pháp luật có vị trí quan trọng đặc biệt trong quản lý nhà nƣớc nên
việc định ra pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật đƣợc gắn
với những chức năng quản lý, quy trình quản lý của nhà nƣớc, gắn với việc
thực hiện quyền lực nhà nƣớc.
- Vì vai trò của pháp luật nhƣ trên nên quản lý nhà nƣớc đối với xã hội
(quản lý dân cƣ, quản lý lãnh thổ, quản lý các mặt, các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội) cũng đồng nghĩa với quản lý nhà nƣớc đối với xã hội. Và vì
vậy, nội dung của quản lý, hay hoạt động quản lý nhà nƣớc bao gồm:


13
Một là, hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật:
Đây là hoạt động nhằm đặt ra các chuẩn mực pháp lý để điều chỉnh các hành
vi, hoạt động quản lý cụ thể nhằm tác động lên đối tƣợng quản lý, hƣớng đối
tƣợng quản lý theo những mục tiêu (khách thể quản lý) cụ thể.
Hoạt động xây dựng, ban hành pháp luật là hoạt động đầu tiên của chu
trình quản lý nhà nƣớc, và với nội dung trên, trở thành hoạt động có tính chất
quyết định hiệu lực, hiệu quả quản lý, chi phối các hoạt động khác của quản
lý. Tất nhiên, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nƣớc còn phụ thuộc vào chất
lƣợng các văn bản quy phạm pháp luật - sản phẩm của hoạt động ấy. Đó phải
là một hệ thống pháp luật có đầy đủ các thuộc tính hiện đại, nhƣ tính thống
nhất, đồng bộ, toàn diện, ổn định, minh bạch, phù hợp với trình độ phát triển
kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn khác nhau của xã hội, phù hợp và phản
ánh đƣợc đầy đủ tâm tƣ, nguyện vọng, ý chí của số đông đối tƣợng quản lý,
có tính phổ thông đại chúng, đƣợc trình bày với trình độ kỹ thuật cao, và do
đó có tính khả thi. Trong điều kiện của nhà nƣớc pháp quyền, các đạo luật
ngày càng giữ vị trí trung tâm, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội thì giai

đoạn đầu tiên của chu trình quản lý nhà nƣớc, cũng là nội dung đầu tiên của
hoạt động quản lý nhà nƣớc chính là hoạt động thực hiện chức năng lập pháp
của cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân (Quốc hội).
Hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật - xét dƣới
góc độ quản lý, cũng là hoạt động ra quyết định quản lý quy phạm, thể hiện ý
chí, quyền uy của chủ thể quản lý (nhà nƣớc); ý chí và quyền uy này có tính
chất bắt buộc thi hành một cách phổ biến, đƣợc bảo đảm kể cả bằng các biện
pháp cƣỡng chế. Việc ra các quyết định quản lý quy phạm dƣới các hình thức
của pháp luật trở thành một trong các hình thức của quản lý nhà nƣớc.


14
Hai là, Hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật:
Xét theo chu trình quản lý, hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật là giai
đoạn tiếp nối hoạt động soạn thảo, ban hành pháp luật, thực chất là hoạt động
nhằm hiện thực hóa các quyết định quản lý quy phạm trên những lĩnh vực
quản lý cụ thể, là sự tác động quản lý lên ý thức, hành vi của đối tƣợng quản
lý, tổ chức, định hƣớng những hành vi đó trong những điều kiện, hoàn cảnh
nhất định diễn ra phù hợp với khách thể của quản lý.
Cũng nhƣ hoạt động soạn thảo, ban hành pháp luật, hoạt động tổ chức
thực hiện pháp luật trong quản lý nhà nƣớc phải theo một quy trình chặt chẽ,
và do những cơ quan quản lý nhà nƣớc, công chức nhà nƣớc có thẩm quyền
thực hiện. Hoạt động đó cũng phải đƣợc tiến hành theo các cách thức luật
định, bằng một hệ thống thủ tục (thủ tục hành chính) mang tính pháp lý. Tuy
nhiên, những điều đó không làm mất đi tính chất sáng tạo của quản lý. Về
thực chất, hoạt động thực hiện pháp luật trong quản lý nhà nƣớc là hoạt động
nhằm vận dụng, áp dụng sáng tạo pháp luật trong quá trình quản lý, phù hợp
với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể xuất hiện trong quá trình quản lý.
- Về chủ thể quản lý: Trong giai đoạn tổ chức thực hiện pháp luật, việc

thực hiện nội dung quản lý chủ yếu thuộc về chức năng của các cơ quan quản
lý hành chính nhà nƣớc, ở Trung ƣơng là Chính phủ - cơ quan quản lý thẩm
quyền chung cao nhất, thực hiện quản lý toàn diện các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội; các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, là những
cơ quan quản lý thẩm quyền riêng, thực hiện quản lý một, một số lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội. Cơ quan quản lý thẩm quyền chung ở địa phƣơng là
Ủy ban nhân dân (UBND); giúp UBND thực hiện những chức năng quản lý cụ
thể có cơ quan chuyên môn (cơ quan tham mƣu), với cấp tỉnh là các sở, với cấp
huyện là các phòng, và ở cấp cơ sở là các công chức chuyên môn.
Hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật đƣợc triển khai thông qua công


15
vụ của công chức hành chính nhà nƣớc. Vì lẽ đó, hiệu lực, hiệu quả quản lý ở
giai đoạn này phụ thuộc trực tiếp vào chất lƣợng đội ngũ công chức hành
chính, vào chất lƣợng công vụ của công chức. Chất lƣợng đó phụ thuộc phần
quan trọng vào chất lƣợng của pháp luật về công chức, công vụ. Vì lẽ đó,
Luật Công chức và Luật Công vụ luôn là những thể chế quản lý có vị trí quyết
định chất lƣợng thực hiện pháp luật trong quản lý. Ở Việt Nam, theo định
hƣớng xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc
soạn thảo ban hành Luật Công chức và Luật Công vụ đang là đòi hỏi cấp bách
của công cuộc cải cách hành chính, thực thi Chiến lƣợc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật, với quan điểm "xác định rõ cơ quan, công chức nhà nước chỉ
được làm những gì pháp luật cho phép. Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề
nghiệp cho từng loại cán bộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá,
khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức" [30, tr.19].
Mặt khác, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc ở giai đoạn tổ chức thực
hiện pháp luật còn phụ thuộc vào ý thức pháp luật, vào trình độ tri thức về
quản lý và tri thức pháp luật của đội ngũ công chức, và cả của đối tƣợng quản
lý nhà nƣớc. Vì lẽ đó, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho

các tầng lớp nhân dân, với các hình thức, phƣơng tiện, phƣơng pháp, nội dung
phù hợp với từng chủ thể, đối tƣợng quản lý, từng lĩnh vực quản lý là hết sức
quan trọng. Cũng vì thế, ngay khi đề ra đƣờng lối đổi mới, thực hiện quản lý
đất nƣớc bằng pháp luật Đảng ta khẳng định:
Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp
luật; đƣa việc giảng dạy pháp luật vào hệ thống các trƣờng của
Đảng, của Nhà nƣớc (kể cả các trƣờng phổ thông, đại học), của các
đoàn thể nhân dân. Cán bộ quản lý các cấp từ trung ƣơng đến đơn
vị cơ sở phải có kiến thức về quản lý hành chính và hiểu biết về
pháp luật [22, tr.121].


16
Ba là, Xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý:
Có pháp luật mà pháp luật lại không đƣợc thực hiện thì nhƣ V.I. Lênin
từng khẳng định "cùng lắm cũng chỉ làm lay động không khí". Tuy nhiên,
điều đó không có nghĩa việc xử lý vi phạm trong chu trình quản lý bằng pháp
luật là không quan trọng. Xử nghiêm, xử đúng, xử kịp thời, công khai, minh
bạch, công bằng đối với mọi hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà
nƣớc sẽ bảo đảm hiệu lực quản lý, bảo đảm trật tự, kỷ cƣơng trong quản lý, có
hiệu quả răn đe, phòng ngừa cao.
Việc thực hiện nội dung xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý nhà
nƣớc diễn ra ở tất cả các giai đoạn của chu trình quản lý, ngay cả ở giai đoạn
ra quyết định quản lý quy phạm (giai đoạn soạn thảo ban hành pháp luật),
nhất là ở giai đoạn tổ chức thực hiện pháp luật, đƣợc áp dụng cho cả đối
tƣợng quản lý và cả với chủ thể quản lý, với nhiều hình thức, trách nhiệm
pháp lý khác nhau, cả trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm vật chất, trách nhiệm
hành chính. Điều quan trọng của nội dung xử lý vi phạm pháp luật trong quản
lý nhà nƣớc là không đƣợc tuyệt đối hóa quyền lực cƣỡng chế trong việc ra và
thực thi quyết định quản lý, hành chính hóa, hình sự hóa các quan hệ quản lý

kinh tế, dân sự hoặc cấm đoán vô lối, cốt để tạo thuận lợi có tính cục bộ của
chủ thể quản lý.
Tóm lại, từ sự trình bày trên có thể rút ra một số những nhận thức về
quản lý nhà nƣớc nhƣ sau:
- Trong lịch sử các học thuyết chính trị - pháp lý có học thuyết đức trị,
có học thuyết pháp trị. Trong thực tiễn quản lý, có nhà nƣớc lấy học thuyết
đức trị làm chủ thuyết, có nhà nƣớc lấy học thuyết pháp trị làm chủ thuyết,
song không có nhà nƣớc nào không sử dụng pháp luật để cai trị, quản lý, để
làm công cụ cai trị, quản lý. Pháp luật, nhà nƣớc, quản lý nhà nƣớc có quan hệ
hữu cơ, chế định lẫn nhau. Vì thế, một nhà nƣớc mạnh phải có một chế độ


17
pháp luật hoàn bị mạnh; một nhà nƣớc quản lý có hiệu quả phải biết dựa vào
pháp luật, biết sử dụng pháp luật để thực hiện các tác động quản lý lên quá
trình phát triển của xã hội.
- Pháp luật là cơ sở, là công cụ, hình thức của quản lý nhà nƣớc, là
chuẩn mực khách quan để đánh giá hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nƣớc.
Mặc dù vậy, pháp luật không phải là tuyệt đối, cũng không đƣợc tuyệt đối hóa
vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nƣớc. Quản lý nói chung, quản lý nhà
nƣớc nói riêng còn là một nghệ thuật, đòi hỏi nhà nƣớc với tƣ cách là chủ thể
quản lý phải biết sử dụng đồng bộ, linh hoạt, sáng tạo các công cụ, phƣơng
tiện quản lý. Vì lẽ đó, bên cạnh pháp luật, nhà nƣớc phải biết sử dụng kết hợp
các công cụ, chuẩn mực quản lý khác, nhất là đạo đức, truyền thống dân tộc,
vừa tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc, vừa coi trọng tính độc lập, tự chủ của các
cộng đồng, thực hiện xã hội hóa, Qua việc vận dụng các hình thức và
phƣơng pháp đó cũng góp phần để nhà nƣớc hoàn thiện pháp luật, hoàn thiện
quy trình ra và thực hiện các quyết định quản lý cụ thể. Đây cũng là quan
điểm đã đƣợc Đảng ta khẳng định trong nhiều Nghị quyết Đại hội Đảng thời
kỳ đổi mới. Nghị quyết Đại hội VIII khẳng định: "Tăng cường pháp chế xã

hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng
pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức" [23, tr.129].
- Tùy theo bản chất của chế độ nhà nƣớc, theo mô hình và cơ chế quản
lý, quản lý nhà nƣớc phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Trong nhà
nƣớc xã hội chủ nghĩa, quản lý nhà nƣớc đƣợc tiến hành bởi các cơ quan quản
lý hành chính nhà nƣớc, và do đó phải tuân theo các nguyên tắc sau:
+ Các nguyên tắc có tính chính trị - xã hội, gồm: nguyên tắc Đảng lãnh
đạo trong quản lý hành chính nhà nƣớc; nguyên tắc nhân dân lao động tham
gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nƣớc; nguyên tắc tập trung dân chủ;
nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc trong quản lý hành chính nhà nƣớc;
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.


18
+ Các nguyên tắc mang tính tổ chức - kỹ thuật, gồm nguyên tắc quản lý
theo địa phƣơng; nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với nguyên tắc quản
lý theo chức năng và phối hợp quản lý liên ngành.
- Quản lý nhà nƣớc là quản lý do nhà nƣớc tiến hành trên cơ sở pháp
luật và bằng pháp luật. Do chỗ nhà nƣớc là ngƣời đại diện xã hội thực hiện
quản lý toàn diện các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội nên bộ máy nhà
nƣớc đƣợc tổ chức thành nhiều cơ quan khác nhau; mỗi cơ quan đƣợc phân
công những chức năng quản lý riêng, trong đó các cơ quan hành chính nhà
nƣớc, ở trung ƣơng là Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, ở địa phƣơng là UBND các cấp (tỉnh, huyện, xã và cấp tƣơng
đƣơng) là chủ thể quản lý, thực hiện quản lý bằng pháp luật một cách trực
tiếp. Đó cũng là những cơ quan thực hiện pháp luật, thực hiện quyền hành
pháp trong hệ thống quyền lực nhà nƣớc.
- Đối tƣợng của quản lý nhà nƣớc hết sức đa dạng, song nhƣ trên đã
phân tích, về thực chất, đối tƣợng của quản lý là con ngƣời, gắn với những sự
vật, hiện tƣợng xã hội. Trong Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa, quản lý nhà nƣớc là

quản lý dân chủ, theo nguyên tắc lôi cuốn những ngƣời lao động, những
ngƣời nghèo tham gia công việc quản lý nhà nƣớc hàng ngày. Đây cũng là
phƣơng pháp quản lý đặc trƣng của Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa, mà theo V.I.
Lênin, là phƣơng pháp tuyệt diệu để tăng ngay một lúc sức mạnh của bộ máy
nhà nƣớc lên gấp 10 lần, phƣơng pháp mà bất cứ nhà nƣớc tƣ sản nào cũng
không có đƣợc.
- Khách thể của quản lý nhà nƣớc: Theo lý luận về khách thể của quản
lý nhà nƣớc khách thể của quản lý là "cái" mà chủ thể quản lý dự định trƣớc,
và hƣớng toàn bộ quá trình quản lý vào đó. Vì vậy, khách thể của quản lý là
khái niệm có nội hàm khá tƣơng đồng với khái niệm mục đích quản lý. Tuy
nhiên, trong quản lý nhà nƣớc việc đạt tới khách thể đƣợc xem là quá trình đi
tới mục đích quản lý.

×