Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Thẩm định và thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước ở địa phương ban hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 93 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







NGÔ LINH NGỌC








THẨM ĐỊNH VÀ THẨM TRA DỰ THẢO
VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO CƠ QUAN
NHÀ NƢỚC Ở ĐỊA PHƢƠNG BAN HÀNH




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










Hà Nội – 2013



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







NGÔ LINH NGỌC





THẨM ĐỊNH VÀ THẨM TRA DỰ THẢO
VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO CƠ QUAN
NHÀ NƢỚC Ở ĐỊA PHƢƠNG BAN HÀNH




Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc & Pháp luật
Mã số : 60 38 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hoàng Anh


Hà nội – 2013

3
MỤC LỤC


MỞ ĐẦU…………………………………………………………………1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM ĐỊNH VÀ THẨM
TRA DỰ THẢO VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO CƠ QUAN
NHÀ NƢỚC Ở ĐỊA PHƢƠNG BAN HÀNH……………7
1.1. Khái niệm thẩm định và thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật………………………………………………………………………….7
1.1.1. Khái niệm thẩm định…………………………………………………7
1.1.2. Khái niệm thẩm tra……………………………………………… 10
1.2. Giá trị pháp lý và ý nghĩa của hoạt động thẩm định và thẩm tra dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nƣớc ở địa phƣơng

ban hành………………………………………………………………… 12
1.2.1.Giá trị pháp lý của hoạt động thẩm định và thẩm tra……………… 12
1.2.2. Ý nghĩa của hoạt động thẩm định và thẩm tra………………………13
1.3. Nguyên tắc thẩm định và thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật……………………………………………… …………………15
1.4. Các chủ thể có thẩm quyền thực hiện hoạt động thẩm định và thẩm
tra đối với văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nƣớc ở địa
phƣơng ban hành……………………………………………………….17
1.4.1. Chủ thể tiến hành hoạt động thẩm định…………………………… 17
1.4.2. Chủ thể tiến hành hoạt động thẩm tra……………………………….19
1.5. Đối tƣợng, phạm vi nội dung thẩm định và thẩm tra của các chủ
thể có thẩm quyền đối với văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan
Nhà nƣớc ở địa phƣơng ban hành ………………………….………….21
1.5.1. Đối tượng thẩm định và thẩm tra……………………………………21

4
1.5.2. Phạm vi nội dung thẩm định và thẩm tra………………………….22
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH VÀ THẨM
TRA DỰ THẢO VBQPPL DO CƠ QUAN NHÀ NƢỚC
Ở ĐỊA PHƢƠNG BAN HÀNH…………………………………………32
2.1. Đánh giá những quy định của pháp luật về hoạt động thẩm định và
thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nƣớc ở
địa phƣơng ban hành………………………… ……………………….32
2.2. Những thành tựu của hoạt động thẩm định và thẩm tra dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nƣớc
ở địa phƣơng ban hành…………………………………………………41
2.3. Những hạn chế , tồn tại của hoạt động thẩm định và thẩm tra dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nƣớc
ở địa phƣơng ban hành………………………………………………….47
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG

TÁC THẨM ĐỊNH VÀ THẨM TRA DỰ THẢO VĂN BẢN QUY
PHẠM PHÁP LUẬT DO CƠ QUAN NHÀ NƢỚC Ở ĐỊA PHƢƠNG
BAN HÀNH…………………………………………………….……….58
3.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động thẩm định và thẩm tra
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nƣớc ở địa
phƣơng ban hành…………………………………………………….….58
3.2. Các giải pháp cải thiện việc tổ chức thực hiện hoạt động thẩm định
và thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nƣớc
ở địa phƣơng ban hành………………………………………………… 64
3.2.1. Nâng cao nhận thức và tăng cường kỷ luật trong công tác thẩm
định, thẩm tra………………………………………………………………64
3.2.2. Đổi mới về phương pháp và cách thức tổ chức thẩm định và
thẩm tra cho phù hợp với thực tiễn hiện nay…………………………… 65

5
3.2.3. Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa cơ quan tư pháp, các ban
của HĐND, cơ quan chủ trì soạn thảo, văn phòng UBND và các cơ quan
khác trong quá trình thẩm định, thẩm tra, tổng hợp, tiếp thu ý kiến thẩm
định, thẩm tra………………….…………………………………………67
3.3. Các giải pháp liên quan đến nguồn nhân lực thực hiện công tác
thẩm định và thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ
quan nhà nƣớc ở địa phƣơng ban hành……………………………….69
3.4. Tăng cƣờng các điều kiện bảo đảm đối với hoạt động thẩm định và
thẩm tra dự thảo VBQPPL do cơ quan nhà nƣớc ở địa phƣơng ban
hành……………………………………….………………………………72
3.4.1. Bảo đảm về kinh phí cho hoạt động thẩm định và thẩm tra…72
3.4.2. Đảm bảo nguồn thông tin tư liệu cho hoạt động thẩm định,
thẩm tra……………………………………………………………………74
KẾT LUẬN…………………….…………………………….………… 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………79















6




DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT



HĐND: Hội đồng nhân dân
UBND: Ủy ban nhân dân
VBQPPL: Văn bản quy phạm pháp luật
QPPL: Quy phạm pháp luật
















7
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và đảm bảo thực hiện
bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, là yếu tố bảo đảm sự ổn định và
trật tự của xã hội. Pháp luật chính là biện pháp quản lý xã hội ưu việt nhất vì
chỉ pháp luật mới có thể thể hiện một cách tập trung, thống nhất và trọn vẹn
ý chí của Nhà nước. Chính vì vậy, xây dựng pháp luật là hoạt động đặc biệt
quan trọng của tất cả các nhà nước trong lịch sử.
Việt Nam đã và đang nỗ lực xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Đó là một nhà nước vừa phải thể hiện
được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền đã được xác định trong lý
luận và thực tiễn của một chế độ dân chủ hiện đại, vừa phải khẳng định được
bản sắc của riêng mình.
Để đạt được mục đích này, một trong những nhiệm vụ cấp thiết là
chúng ta phải sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đồng bộ, hiệu

lực và hiệu quả. Ngày 24/5/2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-
NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, trong đó đã đề ra mục tiêu:
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất,
khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật;
phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội,
giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế…[19]

8
Nhu cầu đổi mới tư duy pháp lý đã được đặt ra và quán triệt trong giai
đoạn đấu tranh loại bỏ cơ chế pháp lý của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
bao cấp. Hiện tại, nhu cầu đó còn vượt ra khỏi khuôn khổ có tính truyền
thống trong việc xây dựng pháp luật. Xây dựng và ban hành văn bản quy
phạm pháp luật phải dựa trên các điều kiện khách quan của đời sống xã hội;
thực hiện một cách khoa học, minh bạch; phục vụ quản lý Nhà nước, đồng
thời đảm bảo và phù hợp với lợi ích của cộng đồng. Nói cách khác, xây dựng
và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động hết sức phức tạp, đòi
hỏi tính sáng tạo và độ chính xác cao…
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, văn bản quy phạm pháp luật do
cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành chiếm số lượng rất lớn. Các văn
bản này là cầu nối quan trọng trong việc triển khai các chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến người dân. Tuy nhiên, không
phải văn bản quy phạm pháp luật nào do cơ quan nhà nước ở địa phương ban
hành cũng đáp ứng được các tiêu chí nêu trên. Thậm chí, có văn bản còn
được xây dựng và ban hành căn cứ chủ yếu vào ý chí của người quản lý,
mang tính giải quyết sự vụ, dẫn đến thiếu tính khả thi, vi phạm pháp chế…
Thẩm định và thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật là một giai đoạn

trong quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, nhằm mục đích nâng
cao chất lượng dự thảo văn bản trước khi trình cơ quan có thẩm quyền ban
hành. Thực hiện tốt công tác thẩm định và thẩm tra sẽ khắc phục những hạn
chế, bất cập của việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Hiện đang công tác trong ngành Tư pháp, đồng thời là học viên cao
học khóa 16, Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, Khoa
Luật . Đại học Quốc gia Hà Nội, khi lựa chọn đề tài luận văn: “Thẩm định
và thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nƣớc
ở địa phƣơng ban hành”, tôi muốn sử dụng kiến thức đã được học và kinh

9
nghiệm của bản thân để góp phần nghiên cứu một cách toàn diện, thấu đáo,
dưới cả góc độ lý luận cũng như thực tiễn về hoạt động thẩm định và thẩm
tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ở địa phương
ban hành.
Trước tiên, kết quả nghiên cứu sẽ góp phần xác định vị trí, vai trò, ý
nghĩa và thực trạng của công tác thẩm định và thẩm tra văn bản quy phạm
pháp luật của cơ quan nhà nước ở địa phương trong việc xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật;
Thứ hai, kết quả nghiên cứu sẽ góp phần xây dựng phương hướng
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định và thẩm tra văn bản quy
phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành.
2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Vấn đề thẩm định và thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật cũng đã
được nhiều người nghiên cứu dưới hình thức bài viết trên báo, tạp chí đề tài,
luận văn, luận án, bài viết như: Khóa luận tốt nghiệp của Phùng Thị Thu Hà
về “Đảm bảo tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật”; Khóa luận tốt
nghiệp của Trần Thị Tỉnh về “Hoạt động thẩm định của cơ quan tư pháp địa
phương đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật”, Luận văn của Tiến sĩ
Luật học Hoàng Anh Thành về “Hoàn thiện cơ chế giám sát văn bản quy

phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay”, Luận văn
của Thạc sĩ Luật học Đoàn Thị Tố Uyên: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay”.
Và mới đây nhất hoạt động thẩm định và thẩm tra văn bản quy phạm pháp
luật đã được xây dựng thành một chuyên đề giảng dạy tại Trường Đại học
Luật Hà Nội. Tuy nhiên, cho đến nay, nội dung thẩm định và thẩm tra văn
bản quy phạm pháp luật ở địa phương chưa được nghiên cứu sâu sắc và toàn
diện.

10
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là: Xác định những lý luận cơ bản
của thẩm định và thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm. Qua đó, chỉ ra những
bất cập còn tồn tại, đồng thời đề xuất một số giải pháp hoàn thiện việc thẩm
định và thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thực sự có hiệu lực và
hiệu quả.
Với mục đích như vậy, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn là:
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về thẩm định và thẩm
tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ở địa phương
ban hành.
- Phân tích nội dung thẩm định và thẩm tra được pháp luật quy định
với bất cập trong thực tiễn
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể, như sửa đổi, bổ sung, ban hành mới
văn bản pháp luật, xây dựng cơ chế thực hiện, nhằm hoàn thiện việc ban
hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
a. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đi vào tập trung làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn
xung quanh công tác thẩm định và thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật do
cơ quan Nhà nước ở địa phương ban hành, từ đó đề ra phương hướng giải

pháp nhằm hoàn thiện công tác này trên thực tiễn một cách có hiệu quả hơn
nữa.
b. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn bao gồm những quy định của pháp
luật về hoạt động thẩm định và thẩm tra dự thảo VBQPPL của Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân được xác định theo các giới hạn sau đây:

11
- Thứ nhất, đối với vấn đề lý luận thẩm định và thẩm tra trong xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ở địa phương ban
hành, Luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề cơ bản được quy định trong
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 và Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2004.
- Thứ hai, về vấn đề thực thi trong công tác thẩm định và thẩm tra,
Luận văn chỉ nghiên cứu chủ yếu công tác thẩm định của Sở tư pháp, Phòng
tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân các cấp và công tác thẩm tra của các Ban của
Hội đồng nhân dân các cấp.
- Thứ ba, về phương hướng và giải pháp, Luận văn chỉ tập trung đề
xuất một số giải pháp cụ thể, với mục đích tiếp tục hoàn thiện hoạt động
thẩm định và thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà
nước ở địa phương ban hành
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện được những mục tiêu và nhiệm vụ nêu trên, ngoài
phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin là Phép duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử làm cơ sở, Luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích,
diễn giải; phương pháp quy nạp; phương pháp so sánh; phương pháp thống
kê.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài.
Luận văn là công trình đầu tiên đi sâu vào phân tích một cách toàn
diện, đầy đủ và có hệ thống vấn đề thẩm định và thẩm tra văn bản quy phạm

pháp luật do cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành, thực tiễn của những
công tác này trên thực tế cũng như các quy định của pháp luật hiện hành, đưa
ra những biện pháp nhằm góp phần hoàn thiện công tác thẩm định và thẩm
tra văn bản quy phạm pháp luật trên thực tế.
7. Ý nghĩa của luận văn

12
- Hoàn thành luận văn này, tôi hi vọng những kiến thức khoa học trong
luận văn sẽ là tài liệu phục vụ cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu
khoa học tại các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam, đặc biệt đối với chuyên
ngành Xây dựng Văn bản pháp luật.
- Nội dung luận văn sẽ có ý nghĩa thiết thực, bổ ích, cần thiết cho mọi
cá nhân khi tìm hiểu về công tác thẩm định và thẩm tra dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành.
- Tôi mong rằng, những kiến nghị khoa học trong luận văn sẽ được sử
dụng trong công tác thẩm định và thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật ở địa phương, sẽ là đóng góp có ý nghĩa thiết thực cho những cán bộ làm
công tác thẩm định và thẩm tra trên thực tế.
8. Kết cấu của luận văn
Với những yêu cầu nêu trên, luận văn được kết cấu gồm phần mở đầu,
ba chương nội dung và kết luận. Cụ thể:
Phần mở đầu
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về thẩm định và thẩm tra dự thảo văn
bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nƣớc ở địa phƣơng ban hành
Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động thẩm định và thẩm tra dự thảo văn
bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nƣớc ở địa phƣơng ban hành
Chƣơng 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thẩm định
và thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nƣớc
ở địa phƣơng ban hành







13
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM ĐỊNH VÀ THẨM TRA DỰ
THẢO VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO CƠ QUAN NHÀ
NƢỚC Ở ĐỊA PHƢƠNG BAN HÀNH

1.1. Khái niệm thẩm định và thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật.
1.1.1. Khái niệm thẩm định
Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2008, trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật bao gồm các bước từ
lập chương trình, soạn thảo, lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo văn bản, thẩm
tra, thẩm định văn bản, cho đến thông qua, ký công bố VBQPPL (trừ
trường hợp khẩn cấp hoặc cần phải bổ sung ngay cho phù hợp với văn bản
thì VBQPPL thì có thể được ban hành theo trình tự thủ tục rút gọn). Mỗi
bước trong quy trình đó đều có vai trò quan trọng mà không thể bỏ qua hay
chỉ tiến hành mang tính hình thức. Giai đoạn thẩm định dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật cũng là một trong những hoạt động quan trọng trong
quy trình ban hành VBQPPL.
Theo từ điển Luật học do Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp biên
soạn thì: “Thẩm định có nghĩa là việc xem xét, đánh giá và đưa ra kết luận
mang tính pháp lý bằng văn bản về một vấn đề nào đó. Hoạt động này do tổ
chức hoặc cá nhân có chuyên môn nghiệp vụ thực hiện…” [41]. Le petit
larousse – Từ điển Bách khoa toàn thư của Pháp năm 1993 giải thích “
Contrôle (thẩm định) là việc kiểm tra, điều tra một cách kỹ lưỡng tính đúng

đắn và giá trị của một văn bản”. Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng năm
1998 thì: “Thẩm định là xem xét để xác định về chất lượng”[46]. Gutachten
(thẩm định), theo Từ điển Luật học của Đức do Gerhard Koebler chủ biên

14
(Nhà xuất bản Muechen, xuất bản lần thứ 6 năm 1994) là “sự đánh giá của
nhà chuyên môn đối với các dữ kiện để từ đó đưa ra kết luận”.
Thẩm định trước hết là hoạt động được các chủ thể có thẩm quyền
nhằm tiến hành nhằm kiểm tra, đánh giá dự thảo văn bản theo những tiêu
chí nhất định. Quy chế thẩm định dự án, dự thảo VBQPPL ban hành kèm
theo Quyết định số 05/2007/QĐ-TTg ngày 10/01/2007 của Thủ tướng
Chính phủ tại Điều 1 quy định: Thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật là hoạt động xem xét, đánh giá về nội dung và hình thức
của dự án, dự thảo nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất,
đồng bộ của dự án, dự thảo trong hệ thống pháp luật.
Như vậy, thẩm định VBQPPL là hoạt động nghiên cứu, xem xét, đánh
giá về nội dung và hình thức, kỹ thuật soạn thảo, tính khả thi đối với các dự
án, dự thảo VBQPPL theo nội dung, trình tự, thủ tục do Luật định nhằm
đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất và đồng bộ của VBQPPL
trong hệ thống pháp luật và những yêu cầu khác về chất lượng dự án, dự
thảo theo quy định của pháp luật. [44]
Thẩm định dự thảo VBQPPL là hoạt động thuộc quy trình soạn thảo,
ban hành VBQPPL do cơ quan có thẩm quyền tiến hành nhằm nhận xét,
đánh giá về đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản, về tính hợp hiến,
hợp pháp, tính thống nhất và đồng bộ của dự thảo văn bản trong hệ thống
pháp luật hiện hành. Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật cũng
đưa ra những nhận xét về chất lượng của dự thảo văn bản thông qua việc
đánh giá về nội dung và kỹ thuật soạn thảo dự thảo văn bản. Đồng thời, cơ
quan tiến hành thẩm định dự thảo VBQPPL đưa ra những ý kiến và đề xuất
biện pháp giải quyết đối với những vấn đề còn có những ý kiến khác nhau

giữa các cơ quan có liên quan trong quá trình soạn thảo văn bản để cơ quan
có thẩm quyền xem xét, quyết định. Hay nói cách khác, thẩm định dự thảo

15
VBQPPL là nhằm đảm bảo cho VBQPPL được ban hành sẽ đúng về thẩm
quyền, trình tự, thủ tục, hình thức và nội dung văn bản không trái với quy
định của cấp trên, phù hợp với thực tế của địa phương và có tính khả thi
cao. Điều 24 và Điều 38 Luật Ban hành VBQPPL của HĐND và UBND
năm 2004 quy định, các dự thảo VBQPPL như nghị quyết HĐND cấp tỉnh
do UBND trình, quyết định và chỉ thị của UBND tỉnh phải được Sở Tư
pháp thẩm định trước khi trình UBND tỉnh. Chậm nhất là 15 ngày trước
ngày UBND họp, cơ quan soạn thảo phải gửi hồ sơ thẩm định gồm: Công
văn yêu cầu thẩm định; tờ trình và dự thảo VBQPPL; bản tổng hợp ý kiến
về dự thảo VBQPPL và các tài liệu liên quan đến Sở Tư pháp để thực hiện
công tác thẩm định. Chậm nhất là 07 ngày trước ngày UBND tỉnh họp, Sở
Tư pháp phải gửi báo cáo thẩm định đến cơ quan soạn thảo. Báo cáo thẩm
định phải thể hiện các nội dung chủ yếu như sự cần thiết của việc ban hành
VBQPPL; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự thảo VBQPPL; tính hợp
hiến, hợp pháp và tính thống nhất của nội dung dự thảo VBQPPL; ngôn
ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản và trong một số trường hợp có thể đề cập
về tính khả thi của VBQPPL khi được áp dụng và thực hiện.
Như vậy, hoạt động thẩm định dự thảo VBQPPL là hoạt động dễ gây
nhầm lẫn với hoạt động kiểm tra VBQPPL. Thẩm định dự thảo VBQPPL có
mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với kiểm tra VBQPPL và điểm chung giữa
chúng là hướng tới việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất
của văn bản trong hệ thống VBQPPL. Tuy nhiên bản chất của hoạt động
thẩm định chính là kiểm tra trước khi ban hành VBQPPL “nhằm phát hiện
những vi phạm, khiếm khuyết, hạn chế và dự báo, phòng ngừa những điểm
sai trái có thể có trong dự thảo”. Thẩm định là hoạt động tiến hành trước
khi VBQPPL được ban hành, khác với kiểm tra văn bản chỉ tiến hành sau

khi văn bản được ban hành; Thẩm định có nội dung rộng hơn kiểm tra, có

16
xem xét, đánh giá tính khả thi, kỹ thuật soạn thảo của dự thảo. Kiểm tra văn
bản không đánh giá tính khả thi, kỹ thuật soạn thảo của văn bản như hoạt
động thẩm định. Nếu như hoạt động kiểm tra nhằm loại bỏ, khắc phục sự
mâu thuẫn, chồng chéo, không hợp pháp của văn bản sau khi ban hành thì
hoạt động thẩm định nhằm hạn chế tối đa sự mâu thuẫn, chồng chéo, không
hợp pháp, thiếu đồng bộ cũng như thiếu tính khả thi của văn bản trước khi
văn bản được ban hành …
Vậy thẩm định dự thảo VBQPPL là một khâu quan trọng không thể
thiếu được trong quy trình soạn thảo và ban hành VBQPPL do cơ quan
chuyên môn về tư pháp có thẩm quyền tiến hành nhằm đánh giá toàn diện,
khách quan và chính xác dự án, dự thảo VBQPPL trước khi trình cơ quan
có thẩm quyền phê chuẩn và ban hành .
1.1.2. Khái niệm thẩm tra
Việc ban hành một VBQPPL phải trải qua một quy trình chặt chẽ,
khép kín gồm nhiều khâu, nhiều bước và đòi hỏi trách nhiệm cao của các cơ
quan có liên quan. Khi tất cả các khâu trong quy trình đó thực hiện tốt thì
VBQPPL ra đời mới phản ánh đúng sự phát triển của xã hội và phát huy
được hiệu quả của nó trên thực tiễn. Thẩm tra dự thảo VBQPPL là một
khâu trong quy trình chặt chẽ đó. Cũng như hoạt động thẩm định, hoạt động
thẩm tra là hoạt động của chủ thể có thẩm quyền trong việc xem xét đánh
giá về nội dung, chính sách pháp luật và hình thức nhằm đảm bảo tính hợp
hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ và khả thi của dự thảo VBQPPL.
Theo cách hiểu thông thường, thẩm tra là việc “điều tra, tìm hiểu để xem xét
lại điều đã kết luận trước đó đúng hay sai, có chính xác không”[46]. Từ điển
Luật học năm 1999 đã cắt nghĩa hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh
như sau: “Thẩm tra là việc xem xét lại kĩ lưỡng dự án luật, pháp lệnh do
Hội đồng dân tộc, Ủy ban pháp luật hoặc một Ủy ban hữu quan của Quốc


17
hội hay một Ủy ban lâm thời được Quốc hội chỉ định tiến hành trước khi
trình Ủy ban thường vụ Quốc hội. Cơ quan thẩm tra xem xét cả về hình
thức và nội dung nhưng tập trung vào xem xét sự phù hợp với chủ trương,
chính sách của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp, đối tượng, nội dung, phạm
vi và tính khả thi của dự án” [41]
Như vậy, thẩm tra VBQPPL là hoạt động nghiên cứu, xem xét, đánh
giá về sự phù hợp của nội dung dự thảo nghị quyết với đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng; tình hình, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương;đối với các dự án, dự thảo VBQPPL theo nội dung, trình
tự, thủ tục do Luật định nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống
nhất của VBQPPL trong hệ thống pháp luật và những yêu cầu khác về chất
lượng dự án, dự thảo theo quy định của pháp luật
Thẩm định và thẩm tra đều là những hoạt động nhằm đánh giá góp
phần hoàn thiện cả về hình thức cũng như nội dung của dự thảo VBQPPL.
Để VBQPPL được ban hành một cách có hiệu quả trên thực tiễn, hoạt động
thẩm định và thẩm tra đòi hỏi phải được đánh giá, kiểm tra, xem xét một
cách khách quan và báo cáo thẩm định, thẩm tra phải được sử dụng như
một văn bản có giá trị pháp lý. Hay nói cách khác, kết quả của hoạt động
thẩm định và thẩm tra dự thảo VBQPPL phải được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xem xét một cách toàn diện và có hiệu lực bắt buộc đối với đối
tượng thẩm định, thẩm tra. Đặc điểm chung lớn nhất của thẩm định và thẩm
tra chính là việc xem xét, đánh giá những quy định mang tính chủ quan do
một cơ quan có thẩm quyền ban hành trên cơ sở những yếu tố khách quan:
quy luật của sự vận động xã hội; cơ chế điều chỉnh pháp luật, tính thống
nhất của hệ thống pháp luật … Nếu các quy định đó là tiến bộ, là phù hợp
với yêu cầu của điều kiện kinh tế - xã hội, quản lý Nhà nước thì sẽ thúc đẩy

18

sự phát triển của xã hội. Ngược lại, nếu các quy định đó không phù hợp
hoặc không dựa trên điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước thì nó sẽ trở
thành lực cản, thậm chí đẩy lùi sự phát triển của xã hội. So với các nước
khác trên thế giới, hệ thống pháp luật của Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều
bất cập, sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật vẫn xảy ra và
dẫn đến hậu quả là hiệu lực của pháp luật thấp, vi Hiến, pháp chế XHCN bị
vi phạm. Trước tình hình đó, cùng với các biện pháp khác, hoạt động thẩm
định và thẩm tra dự thảo văn bản cũng giữ vị trí hết sức quan trọng nhằm
góp phần bảo đảm tính thống nhất của pháp luật.
1.2. Giá trị pháp lý và ý nghĩa của hoạt động thẩm định và thẩm
tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nƣớc ở địa
phƣơng ban hành.
1.2.1. Giá trị pháp lý của hoạt động thẩm định và thẩm tra
Khi đề cập đến giá trị pháp lý của thẩm định và thẩm tra người ta
thường nói đến hệ quả pháp lý của hoạt động này, tức là quyền và nghĩa vụ
pháp lý của chủ thể thẩm định đối với dự thảo và quyền và nghĩa vụ của
chủ thể trình dự thảo sau khi có thẩm định. Trên cơ sở những thông tin và
pháp luật hiện hành (cả luật nội dung và hình thức) chủ thể thẩm định và
thẩm tra có quyền:
Kiến nghị cấp có thẩm quyền ban hành dự thảo; Kiến nghị chủ thể soạn
thảo sữa chữa một phần hoặc toàn bộ nội dung dự thảo; Phân tích đánh giá
ý kiến của các tổ chức liên quan trên cơ sở tổng hợp các ý kiến đó; Bổ sung
các thông tin cần thiết cho các dự thảo; Đồng trình dự thảo về cùng một
vấn đề khi ý kiến của dự thảo khác với ý kiến thẩm định; Bảo lưu ý kiến
thẩm định khi trình dự thảo trước UBND.
Song song với quyền thì chủ thể thẩm định và thẩm tra cũng có nghĩa
vụ: Cung cấp thông tin cần thiết về nội dung thẩm định cho các tổ chức chủ

19
trì soạn thảo; Tổ chức giải quyết các vấn đề chưa thống nhất trong quá

trình thẩm định (có sự tham gia của cơ quan chủ trì);Chịu trách nhiệm
trước pháp luật về giá trị của quyền đình chỉ, huỷ bỏ hoặc kiến nghị (ở một
số nước,thường có sắc luật về thẩm định,trong đó quy định trách nhiệm của
cơ quan thẩm định,thậm chí có chế định truy tố trước pháp luật về chủ thể
ra quyết định thẩm định trái pháp luật); Tham gia vào quá trình soạn thảo
các dự thảo; Chấp hành,tuân thủ các dự thảo khi được cấp có thẩm quyền
ký ban hành mà quyết định đó trái với ý kiến thẩm định.
Ở nước ta, giá trị pháp lý của hoạt động thẩm định và thẩm tra do chủ
thể có thẩm quyền thực hiện đối với những dự thảo do cơ quan Nhà nước ở
địa phương ban hành mà cụ thể ở đây là cơ quan tư pháp các địa phương và
các Ban của HĐND thực hiện chưa được quy định một cách cụ thể và hiệu
lực pháp lý của việc thẩm định và thẩm tra còn thấp, dẫn đến vai trò của cơ
quan Tư pháp, các Ban của HĐND và giá trị của văn bản thẩm định, thẩm
tra dự thảo VBQPPL chưa được đặt đúng vị trí của nó trong quá trình xây
dựng pháp luật.
1.2.2. Ý nghĩa của hoạt động thẩm định và thẩm tra
Công tác thẩm định và thẩm tra là một khâu không thể thiếu được của
quy trình soạn thảo và ban hành VBQPPL. Mục đích của thẩm định và thẩm
tra văn bản là “thẩm tra” và “giám định” những vấn đề cơ bản, quan trọng
trực tiếp liên quan đến chất lượng và kỹ thuật của dự thảo văn bản được
thẩm định và thẩm tra. Chính vì vậy, thẩm định, thẩm tra có ý nghĩa là căn
cứ, là cơ sở tạo chuẩn mực cho mối quan hệ giữa chủ thể ban hành
VBQPPL với đối tượng thực hiện văn bản đó. Nếu không có hoạt động
thẩm định và thẩm tra thì chủ thể ban hành VBQPPL sẽ khó tiếp nhận được
những thông tin khách quan về tính hợp hiến, hợp pháp, tính khả thi của dự
thảo. Chẳng hạn cùng một nội dung mà Nghị quyết của HĐND quy định
khác so với Luật hoặc Pháp lệnh hoặc các quy định khác của pháp luật có

20
liên quan thì giá trị pháp lý của Nghị quyết đó là không có khả năng thực

hiện trên thực tế.
Với tư cách là những đánh giá, xem xét và đưa ra nhận xét nên ý
nghĩa của thẩm định và thẩm tra là đưa ra định hướng, chỉ dẫn và cung cấp
các thông tin cần thiết cho chủ thể ban hành dự thảo, tác động đến sự lựa
chọn của các chủ thể ban hành dự thảo VBQPPL. Ngoài ra, thẩm định và
thẩm tra còn có ý nghĩa làm cho mối quan hệ giữa chủ thể soạn thảo (cơ
quan trình) với người ký (cơ quan có thẩm quyền ký, công bố) nắm được
cách thức, trình tự thực hiện các dự thảo đó sau khi được ban hành. Không
những thế, thẩm định và thẩm tra còn có ý nghĩa làm giảm bớt sự “căng
thẳng” trong trường hợp các cơ quan có các các ý kiến khác nhau (khi giải
quyết những vấn đề có tính chất liên ngành) bằng cách cung cấp các thông
tin cần thiết và thiết kế lại một hoặc nhiều những vấn đề còn có ý kiến khác
nhau, đồng thời có thể giảm bớt chi phí về thời gian và vật chất cho việc
soạn thảo hoặc hướng dẫn thi hành các văn bản khi được thông qua và có
hiệu lực pháp luật.
Kinh nghiệm thực tế trong thời gian qua (từ khi có Luật Ban hành
VBQPPL năm 1996) cho thấy, các cơ quan ban hành VBQPPL có thể cải
thiện được kết quả xây dựng pháp luật nhờ một quy trình thẩm định và
thẩm tra tương đối khoa học, góp phần chỉnh lý, hoàn thiện các dự thảo.
Chất lượng thẩm định và thẩm tra của dự thảo có tác động mạnh tới trình độ
xây dựng pháp luật, tác động tới quy mô của việc thực hiện pháp luật.
Ngược lại, nếu thẩm định và thẩm tra không chuẩn xác có thể làm nản lòng
chủ thể soạn thảo, ban hành và kết quả là dự thảo được ban hành sẽ gây
thiệt hại cho xã hội. Mặt khác, nếu thẩm định và thẩm tra hời hợt, không
nắm bắt tuân thủ các quy định của pháp luật và không có nghiệp vụ sẽ làm
cho các chủ thể mất tin tưởng và tốn kém nhiều sức lực, thời gian để
“chống chọi” với sự mâu thuẫn, không thống nhất trong hệ thống pháp luật
hiện hành.

21

Có thể nói thẩm định và thẩm tra là hoạt động mang tính “quyền lực”
Nhà nước, chi phối nội dung, hình thức của các dự thảo. Chỉ có thông qua
công tác thẩm định và thẩm tra của chủ thể có thẩm quyền mới đánh giá
được những mặt được, mặt chưa được của dự thảo để từ đó đề xuất những
biện pháp thích hợp để nâng cao chất lượng của dự thảo. Trong điều kiện
hiện nay, khi giao các dự án, dự thảo cho các Bộ, ngành chủ trì xây dựng
nội dung thì việc xem xét, đánh giá theo một quy trình nhất định nhằm đảm
bảo tính khách quan, nâng cao chất lượng của dự thảo là việc làm không thể
thiếu được. Bởi lẽ, thông thường người (cơ quan) xây dựng dự án, dự thảo
chỉ nhìn thấy những mặt có lợi cho ngành, lĩnh vực hoặc địa phương mà
chưa nhìn thấy cái tổng thể, toàn diện, do đó điều quan trọng là “từ những ý
tưởng ban đầu ấy (của Bộ, ngành) nhiệm vụ của những người làm công tác
thẩm định, thẩm tra cần nâng cấp bổ sung hoàn thiện và làm cho những ý
tưởng đó trở thành phổ biến, bảo đảm lợi ích của tất cả các Bộ, ngành và
cũng chính là bảo đảm lợi ích chung của đất nước.
1.3. Nguyên tắc thẩm định và thẩm tra dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật.
Bất kỳ một hoạt động pháp lý nào khi tiến hành thì các chủ thể tiến
hành hoạt động đó đều phải tiến hành dựa trên những nguyên tắc cơ bản
nhất định đã được đề ra. Như đã nói ở trên, thẩm định và thẩm tra là một
khâu không thể thiếu, là một hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong công
tác xây dựng ban hành VBQPPL. Do vây, để làm tốt công tác này góp phần
nâng cao chất lượng và hiệu lực của VBQPPL thì khi tiến hành thẩm định,
thẩm tra phải đảm bảo những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo trong quá trình chủ
thể tiến hành thẩm định VBQPPL, để văn bản luôn đáp ứng được các yêu
cầu nội tại của cả hệ thống pháp luật cũng như sự thống nhất về hình thức
nội dung, phù hợp với thực tế khách quan. Khi tiến hành thẩm định, thẩm
tra các chủ thể có thẩm quyền phải tuyệt đối tuân theo các nguyên tắc cơ

22

bản của hoạt động thẩm định, thẩm tra được quy định tại Điều 3 Quy chế
thẩm định dự án, dự thảo VBQPPL ban hành kèm theo Quyết định số
05/2007/QĐ-TTg ngày 10 tháng 01 năm 2007 quy định về nguyên tắc thẩm
định dự án, dự thảo VBQPPL bao gồm:
Thứ nhất: Bảo đảm tính khách quan và khoa học
Yêu cầu về tính khách quan và khoa học được đặt ra nhằm đảm cho
VBQPPL được ban hành phản ánh đầy đủ, kịp thời ý chí, nguyện vọng của
nhân dân lao động - tầng lớp người đông đảo trong xã hội mà không phải
chỉ thể hiện cho lợi ích của cơ quan ban hành văn bản. Đảm bảo tính khách
quan và khoa học cũng chính là sự đảm bảo yếu tố phù hợp giữa nhu cầu
của xã hội và chủ trương xây dựng pháp luật của Nhà nước, nhằm dung hoà
về lợi ích giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý khi chủ thể quản lý đưa
ra các quyết định quản lý. Chính vì vậy, cơ quan thẩm định, thẩm tra khi
tiến hành thẩm định, thẩm tra cần đứng trên lợi ích của nhân dân, thực tế
khách quan của tồn tại xã hội để đánh giá về nội dung, hình thức của văn
bản được ban hành cũng như tính khả thi của văn bản đó trên thực tế. Đánh
giá một cách khoa học về dự thảo văn bản tức là không thể dựa trên ý muốn
chủ quan của chủ thể thẩm định mà phải dựa trên nền tảng toàn bộ vấn đề
về mặt khoa học từ đó đối chiếu với nội dung điều chỉnh này về mặt khoa
học sẽ được xem xét như thế nào, chính sách pháp luật có quy định có quy
định rõ ràng hay không, cần có cái nhìn tổng thể, toàn diện, sâu sắc về
những mặt được hay chưa được của dự thảo, những gì có khả năng thực thi
trên thực tế và những gì chưa phù hợp với thực tế từ đó đề suất những biện
pháp thích hợp để nâng cao chất lượng của dự thảo.
Thứ hai: Tuân thủ trình tự, thủ tục và thời hạn thẩm định, thẩm tra
theo quy định của pháp luật.
Đây là một nguyên tắc xuyên suốt trong cả một quá trình ban hành

23
VBQPPL vì có tuân thủ trình tự, thủ tục và thời hạn thì hoạt động thẩm

định, thẩm tra mới có hiệu quả và phát huy vai trò bảo đảm chất lượng dự
thảo VBQPPL. Toàn bộ trình tự, thủ tục và thời hạn thẩm định, thẩm tra dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ở địa phương ban
hành được quy định cụ thể và chi tiết trong Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của HĐND và UBND năm 2004. Toàn bộ quy trình thẩm
định của cơ quan tư pháp địa phương và thẩm tra của các ban của HĐND
đều phải tuân thủ chặt chẽ tất cả mọi quy định này. Bảo đảm cho hoạt động
thẩm định, thẩm tra đúng trình tự thủ tục và thời hạn cũng chính là bảo đảm
cho hiệu lực trên thực tế của văn bản, tạo điều kiện thuận lợi cho các khâu
tiếp theo trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản, mặt khác nó cũng
giúp cho các cơ quan tiến hành các hoạt động này có ý thức trách nhiệm để
thực hiện một cách tốt nhất và có hiệu quả công tác của mình.
Thứ ba: Bảo đảm sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan
Hoạt động xây dựng và ban hành VBQPPL nói chung và hoạt động
thẩm định, thẩm tra nói riêng khá phức tạp, nó liên quan đến nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội và có ảnh hưởng rộng lớn tới toàn xã
hội. Mà cơ quan thẩm định, thẩm tra thì không thể có kiến thức, sự am hiểu
chuyên sâu về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội là đối tượng mà các
VBQPPL điều chỉnh. Chính vì vậy, việc phối hợp giữa cơ quan có trách
nhiệm thẩm định và thẩm tra văn bản với các cơ quan có liên quan đến
những lĩnh vực cụ thể được nêu trong dự thảo là vô cùng cần thiết và quan
trọng, nó góp phần phát huy trí tuệ tập thể trong công tác xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật nói chung đồng thời nâng cao chất lượng của văn bản
thẩm định, thẩm tra cũng như chất lượng của dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật. Như vậy, cần có sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan ở những
lĩnh vực khác nhau để đảm bảo văn bản được thẩm định, thẩm tra, ban hành

24
đúng với thực tế khách quan của đời sống xã hội.
Khi tiến hành hoạt động thẩm định, thẩm tra các chủ thể có trách

nhiệm thẩm định, thẩm tra cần tuân thủ nghiêm chỉnh các nguyên tắc trên
thì công tác thẩm định, thẩm tra mới đạt được hiệu quả cao.
1.4. Các chủ thể có thẩm quyền thực hiện hoạt động thẩm định
và thẩm tra đối với văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nƣớc
ở địa phƣơng ban hành.
1.4.1. Chủ thể có thẩm quyền tiến hành hoạt động thẩm định
Thẩm định văn bản trước khi ban hành là một thủ tục luật định, Luật
ban hành VBQPPL của HĐND và UBND năm 2004 và các văn bản hướng
dẫn thi hành đều quy định văn bản trước khi ban hành phải qua thủ tục
thẩm định. Khi một văn bản được thẩm định và ý kiến thẩm định có giá trị,
văn bản được ban hành sẽ phát huy hiệu quả trên địa bàn địa phương. Vai
trò thẩm định được giao cho cơ quan Tư pháp – là cơ quan tham mưu, giúp
việc cho UBND trong lĩnh vực tư pháp. UBND sẽ quyết định việc trình hay
không trình đối với dự thảo nghị quyết của HĐND, ban hành hay không
ban hành đối với dự thảo quyết định, chỉ thị của UBND.
Theo Điều 24 Luật ban hành VBQPPL của HĐND và UBND năm
2004 và Điều 21 của Nghị định số 91/2006/NĐ-CP ngày 06/09/2006 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật ban hành
VBQPPL của HĐND và UBND quy định: Dự thảo Nghị quyết của HĐND
cấp tỉnh do UBND cùng cấp trình phải được cơ quan Tư pháp cùng cấp
thẩm định trước khi trình UBND. Chậm nhất là 15 ngày trước ngày UBND
họp, cơ quan soạn thảo phải gửi hồ sơ dự thảo Nghị quyết đến cơ quan Tư
pháp để thẩm định. Cũng theo quy định tại khoản 1 Điều 1 chương 1 Thông
tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc UBND cấp tỉnh, Phòng

25
Tư pháp thuộc UBND cấp huyện và công tác Tư pháp của UBND cấp xã thì
Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý

Nhà nước. Như vậy, cơ quan Tư pháp cùng cấp thẩm định dự thảo Nghị
quyết của HĐND tỉnh do UBND cùng cấp trình là Sở Tư pháp.
Để đảm bảo công tác xây dựng của cơ quan chính quyền địa phương
dần dần đi vào nề nếp, cùng với việc quy định thẩm định là một khâu bắt
buộc trong việc soạn thảo, ban hành nghị quyết của HĐND tỉnh, Luật cũng
quy định thẩm định là một khâu không thể bỏ qua trong việc soạn thảo, ban
hành quyết định, chỉ thị của UBND cấp tỉnh, cấp huyện. Theo quy định tại
Điều 38 và Điều 42 Luật Ban hành VBQPPL của HĐND và UBND năm
2004: Dự thảo quyết định, chỉ thị của UBND cấp tỉnh, cấp huyện phải được
cơ quan Tư pháp cùng cấp thẩm định trước khi trình UBND. Đối với dự
thảo quyết định, chỉ thị của UBND cấp tỉnh chậm nhất là 15 ngày, đối với
dự thảo quyết định, chỉ thị của UBND cấp huyện chậm nhất là 10 ngày
trước ngày UBND họp cơ quan soạn thảo phải gửi hồ sơ dự thảo quyết
định, chỉ thị đến cơ quan Tư pháp để thẩm định. Và cũng theo quy định tại
khoản 1 Điều 4 Chương II Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV
ngày 28/04/2009 thì Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc UBND
cấp huyện tham mưu, giúp UBND cấp huyện thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước. Như vậy cơ quan Tư pháp cùng cấp thẩm định dự thảo quyết
định, chỉ thị của UBND cấp tỉnh là Sở Tư pháp, còn dự thảo quyết định, chỉ
thị của UBND cấp huyện là Phòng Tư pháp chịu trách nhiệm thẩm định.
Tóm lại, hoạt động thẩm định dự thảo VBQPPL của cơ quan Nhà
nước địa phương được giao cho Sở Tư pháp (đối với VBQPPL của cấp
tỉnh) và phòng Tư pháp (đối với VBQPPL của cấp huyện).
1.4.2. Chủ thể tiến hành hoạt động thẩm tra

×