3
MỤC LỤC
QUY TRÌNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI 1
TẠI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH Ở ĐỊA PHƢƠNG 1
QUA THỰC TIỄN Ở TỈNH BẮC NINH 1
QUY TRÌNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI 2
TẠI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH Ở ĐỊA PHƢƠNG 2
QUA THỰC TIỄN Ở TỈNH BẮC NINH 2
Chƣơng 1
QUY TRÌNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TẠI CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC Ở ĐỊA PHƢƠNG
1.1 Khái quát sự hình thành, phát triển của pháp luật về khiếnại hành
chính ở nƣớc ta 13
1.2. Quy trình giải quyết khiếu nại tại cơ quan hành chính ở địa
phƣơng 24
1.2.1. Cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính ở nước ta hiện nay 24
1.2.2. Quy trình giải quyết khiếu nại tại cơ quan hành chính ở địa
phương 30
1.3. Hạn chế và bất cập trong các quy định của pháp luật về giải
quyết khiếu nại hành chín 38
1.3.1. Một số vướng mắc và hạn chế trong quy định của Luật Khiếu nại, tố
cáo và Nghị định 136 /2006 /NĐ-CP ngày 14.11.2006 của
Chính phủ 38
1.3.2. Bất cập giữa Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật Thanh tra 50
1.3.3. Bất cập trong cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính 51
4
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI HÀNH CHÍNH
Ở TỈNH BẮC NINH (UBND TỈNH) 54
2.1. Tình hình khiếu nại hành chính ở tỉnh Bắc Ninh trong những
năm gần đây 54
2.2. Thực tiễn giải quyết khiếu nại tại cơ quan hành chính ở tỉnh Bắc
Ninh (UBND tỉnh) 58
2.2.1. Tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý đơn thư 58
2.2.2. Thụ lý đơn và giao Thủ trưởng cơ quan chuyên môn xác minh, kết
luận, đề xuất biện pháp giải quyết khiếu nại 62
2.2.3. Thẩm tra, xác minh, kết luận và đề xuất biện pháp giải quyết
khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan tham mưu………………………66
2.2.4. Giải quyết “khiếu nại” Báo cáo kết luận của Thủ trưởng cơ
quan tham mưu……………………………………………………….66
2.2.5. Ban hành quyết định giải quyết khiếu nại……………………67
2.2.6. Thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật
68
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong quá trình giải quyết khiếu nại và
nguyên nhân 72
2.3.1. Hạn chế trong phiên tiếp công dân của Chủ tịch UBND tỉnh 72
2.3.2. Hạn chế trong việc tham mưu cho Chủ tịch UBND tỉnh đề xuất
giải quyết khiếu nại 73
5
2.3.3. Việc xác minh, kết luận nội dung khiếu nại không đảm bảo về
quy trình 81
2.3.4. Hạn chế trong tổ chức đối thoại 84
2.3.5. Thời gian giải quyết khiếu nại còn bị kéo dài…………………85
2.3.6. Hạn chế trong tổ chức đối thoại 86
2.3.7. Việc thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực thiếu dứt
điểm 94
2.3.8. Một số hạn chế khác 94
Chƣơng 3
ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN QUY TRÌNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
TẠI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH Ở ĐỊA PHƢƠNG
99
3.1. Yêu cầu đặt ra đòi hỏi phải đổi mới, hoàn thiện quy trình giải
quyếkhiếu nại tại cơ quan hành chính ở địa
phƣơng 99
3.1.1. Đảm bảo quyền khiếu nại của công dân 99
3.1.2. Bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của quy trình giải quyết khiếu nại hành
chính 100
3.1.3. Đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch và chịu trách nhiệm của
cơ quan hành chính trong giải quyết khiếu nại của công dân 103
3.1.4. Đảm bảo tính cụ thể, phù hợp, thống nhất và thuận tiện cho người
khiếu nại, người giải quyết khiếu nại 104
6
3.1.5. Đảm bảo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân; yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước 107
3.1.6. Quy trình giải quyết khiếu nại hành chính cần đảm bảo tính độc lập,
khách quan 108
3.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình giải quyết khiếu nại tại cơ
quan hành chính ở địa phƣơng 109
3.2.1. Tổng rà soát các quy định của pháp luật liên quan tới khiếu nại và
quy trình giải quyết khiếu nại 109
Chƣơng 3
ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN QUY TRÌNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
TẠI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH Ở ĐỊA PHƢƠNG
3.1. Yêu cầu đặt ra đòi hỏi phải đổi mới, hoàn thiện quy trình giải quyết
khiếu nại tại cơ quan hành chính ở địa phƣơng 112
3.1.1. Đảm bảo quyền khiếu nại của công dân 112
KẾT LUẬN 133
TÀI LIỆU THAM KHẢO 138
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong chế độ dân chủ nhân dân ở nước ta, khiếu nại, tố cáo được coi là
một trong những biện pháp để thực hiện quyền làm chủ của người dân thông
qua việc tham gia xây dựng nhà nước, xây dựng chính quyền và quản lý nhà
nước, đồng thời cũng là một trong những công cụ quan trọng để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình khi quyền và lợi ích hợp pháp đó bị xậm hại. Vì
vậy, việc giải quyết các khiếu nại hành chính luôn là vấn đề được Nhà nước ta
quan tâm. Trong các bản Hiến pháp, khiếu nại, tố cáo được xác định là một
trong những quyền cơ bản của công dân và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo là
trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước.
Trên cơ sở các bản Hiến pháp, nhiều văn bản pháp luật, trong đó đáng
kể nhất là Pháp lệnh quy định việc xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân năm 1981; Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991;
Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998; Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
Khiếu nại, tố cáo năm 2004; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Khiếu nại, tố cáo năm 2005; Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính năm 1996; Pháp lệnh Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ
tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006; Luật Tố tụng Hành chính năm
2010 được ban hành. Từ việc quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
trong việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại của công đến việc nghiên cứu,
8
thiết lập cơ chế giải quyết khiếu kiện đã tạo ra cơ sở pháp lý để quyền khiếu
kiện của người dân ngày càng được đảm bảo thực hiện, quá trình giải quyết
ngày càng công khai, dân chủ và khách quan.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến việc
giải quyết khiếu nại chưa đạt hiệu quả cao, trong đó cần nhấn mạnh là: sự
không
nhất quán, đồng bộ của pháp luật, mà cụ thể giữa Luật Khiếu nại, tố cáo với
các luật chuyên ngành; việc hướng dẫn Luật Khiếu nại, tố cáo vẫn còn hạn
chế, chưa được chi tiết cụ thể; đây là một lĩnh vực “nhạy cảm”, người giải
quyết khiếu nại của công dân không ai khác chính là người bị kiện, người có
những quyết định, hành vi bị cho là vi phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân; cơ chế hiện hành đang áp dụng để giải quyết khiếu nại chưa có
hiệu quả cao; đặc biệt chúng ta chưa có quy trình giải quyết khiếu nại của cơ
quan hành chính.
Từ những nguyên nhân trên dẫn tới tình trạng việc áp dụng pháp luật
không thống nhất, tuỳ tiện, thiếu trách nhiệm trong quá trình giải quyết khiếu
nại của cơ quan hành chính. Sự e ngại, tránh đụng chạm đến các cơ quan nhà
nước, Thủ trưởng đơn vị cấp trên; sự nể nang, thiếu kiên quyết đối với cơ
quan và Thủ trưởng cơ quan nhà nước cấp dưới. Cơ chế phối hợp giữa các bộ
phận, cơ quan nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại còn có sự né tránh,
đùn đẩy, lòng vòng qua nhiều công đoạn; cơ chế giải quyết khiếu nại của
người dân qua con đường Toà án còn hạn chế, mới mẻ đối với người dân và
hiệu quả chưa cao, vì thế phần lớn công dân đã lựa chọn khiếu nại qua con
đường hành chính.
Thực tiễn cho thấy:
9
Ở địa phương nào, chính quyền đề cao trách nhiệm của mình trước
nhân dân, coi trọng việc giải quyết khiếu kiện của dân, các cơ quan
nhà nước phối hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình xử lý và xử lý
ngay từ đầu, tại chỗ các khiếu kiện thì ở nơi đó hiệu quả của công
tác này rã ràng cao hơn [5, tr.18].
Và
Hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại chành chính chưa cao là vì cơ
quan có trách nhiệm giải quyết vừa thiếu tính chuyên nghiệp, vừa
thiếu tính độc tập trong quá trình thẩm tra, xác minh cũng như quyết
định giải quyết vụ việc. Ngược lại, người thực sự có thẩm quyền giải
quyết thì lại chưa thấy, chưa làm đầy đủ trách nhiệm của mình” [8,
tr.187].
Thực tế đó đã đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn là làm thế nào
để công tác giải quyết khiếu nại của người dân đạt hiệu quả cao nhất? Theo
quan điểm cá nhân, bên cạnh việc nghiên cứu để thiết lập hệ thống tài phán
hoặc Toà án Hành chính độc lập, phù hợp với thực tiễn nước ta từ Trung ương
xuống địa phương thì một trong những việc cần làm ngay để nâng cao hiệu
quả công tác giải quyết khiếu nại của công dân là phải quy định rõ và công
khai quy trình giải quyết khiếu nại tại cơ quan hành chính nhà nước, trong đó:
Quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, cũng như trách nhiệm
của cá nhân, cơ quan được giao nhiệm vụ tham mưu, xác minh, đề xuất biện
pháp giải quyết khiếu nại; cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc giải quyết khiếu nại; thẩm quyền giải quyết khiếu nại của cơ quan hành
chính; thời hạn và thể thức giải quyết khiếu nại; quyền và nghĩa vụ của công
dân trong quá trình giải quyết khiếu nại cũng như sau mỗi lần giải quyết
khiếu nại tại cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền; việc thực hiện
10
quyết định giải quyết giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật; hình thức
xử lý kỷ luật đối với người đứng đầu cơ quan nhà nước, cá nhân và cơ quan
nhà có trách nhiệm giải quyết khiếu nại nhưng thiếu trách nhiệm, cố tình trì
hoãn, hoặc giải quyết không đúng thời hạn, quy trình và thể thức; chậm triển
khai việc thực thi các quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp
luật…
Để góp phần làm rõ những vấn đề đặt ra trên đây trong việc nâng cao
hiệu quả chất lượng giải quyết khiếu nại tại cơ quan hành chính nhà nước, tôi
chọn đề tài “Quy trình giải quyết khiếu nại tại cơ quan hành chính ở địa
phƣơng qua thực tiễn ở tỉnh Bắc Ninh” làm Luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, tình hình khiếu nại, tố cáo ở Bắc Ninh nói
riêng và của cả nước nói chung ngày một gia tăng và có chiều hướng phức
tạp. Vì thế, vấn đề khiếu nại, tố cáo được nhiều nhà nghiên cứu về khoa pháp
lý và hoạt động thực tiễn ở nước ta quan tâm. Tìm hiểu tình hình nghiên cứu
liên quan đến đề tài “Quy trình giải quyết khiếu nại tại cơ quan hành chính ở
địa phương qua thực tiễn ở tỉnh Bắc Ninh”, tôi thấy có một số công trình, bài
viết nghiên cứu như:
Luận án Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Hạnh: “Hoàn thiện thủ tục pháp
lý về giải quyết khiếu nại của công dân”, năm 2005; Luận án Tiến sỹ Luật học
của Ngô Mạnh Toan: “Hoàn thiện pháp luật khiếu nại, tố cáo trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền”, năm 2007.
Bài viết “Xây dựng quy trình giải quyết khiếu nại hành chính” của Đinh
Văn Minh, Tạp chí Thanh tra, số 1, năm 2005.
11
Tình hình nghiên cứu trên cho thấy, các công trình khoa học, các bài
viết đã đề cập đến vấn đề lý luận, thực tiễn và yêu cầu đổi mới, hoàn thiện quy
định về thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính. Tuy nhiên, các công trình trên
chưa nghiên cứu một cách chuyên biệt, cụ thể về những bất cập, vướng mắc
và những hạn chế từ lý luận và đặc biệt là từ thực tiễn thực hiện các quy định,
yêu cầu về quy trình giải quyết khiếu nại hành chính. Chưa thực sự xem xét
giải quyết khiếu nại từ góc độ của người giải quyết khiếu nại và người khiếu
nại; người giám sát, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại. Đề tài “Quy trình giải
quyết khiếu nại tại cơ quan hành chính ở địa phương qua thực tiễn ở tỉnh Bắc
Ninh” là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên biệt về những bất cập, vướng
mắc và hạn chế trong quá trình giải quyết khiếu nại, từ thực tiễn giải quyết
khiếu nại tại UBND tỉnh Bắc Ninh. Công trình đầu tiên đưa ra mô hình giải
quyết khiếu nại để quy trình giải quyết khiếu nại được độc lập, khách quan,
nhanh chóng, hiệu quả, vừa đảm bảo tính kế thừa, vừa đảm bảo tính đổi mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Khái quát sự hình thành và phát triển của pháp luật về khiếu nại hành
chính; cơ sở lý luận về quy trình giải quyết khiếu nại hành chính;
- Đánh giá và làm rõ những hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế
đó trong quá trình giải quyết khiếu nại của UBND tỉnh Bắc Ninh;
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nghiên cứu, đề xuất các giải pháp
nhằm đổi mới, hoàn thiện quy trình giải quyết khiếu nại của cơ quan hành
chính ở nước ta hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
12
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài là quy trình giải quyết khiếu
nại tại cơ quan hành chính ở địa phương. Cụ thể chỉ tập trung nghiên cứu công
tác giải quyết khiếu nại hành chính tại UBND tỉnh Bắc Ninh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là Chủ nghĩa duy vật biện chứng,
Chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật.
Trên cơ sở phương pháp luận trên, đề tài này sử dụng các phương pháp
nhận thức khoa học cụ thể như: phương pháp trừu tượng khoa học; phương
pháp so sánh; phương pháp tổng hợp, thống kê; phương pháp phân tích, đánh
giá…
6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu tìm ra những bất cập, thiếu sót trong các
quy định của pháp luật về khiếu nại nói chung và trình tự, thủ tục giải quyết
khiếu nại hành chính nói riêng trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn, từ
đó đưa ra những giải pháp để đổi mới, hoàn thiện quy trình giải quyết khiếu
nại tại cơ quan hành chính ở địa phương phù hợp với tình hình thực tiễn ở
nước ta hiện nay, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết khiếu
nại hành chính,
đảm bảo tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại.
Với các giải pháp đổi mới và hoàn thiện quy trình giải quyết khiếu nại
đưa ra trong đề tài sẽ góp phần hoàn thiện hơn nữa lý luận về khoa học Luật
Hành chính và cung cấp những thông tin có giá trị cho các cơ quan chức năng
trong quá trình nghiên cứu, đổi mới quy trình giải quyết khiếu nại tại cơ quan
hành chính ở nước ta. Cụ thể, cung cấp những luận cứ khoa học và thực tiễn
giúp cho UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh, Văn phòng UBND tỉnh Bắc Ninh
13
có những biện pháp nhằm chấn chỉnh lại công tác giải quyết khiếu nại; đồng
thời ban hành các văn bản cần thiết để chỉ đạo, hướng dẫn việc giải quyết
khiếu nại nói chung và tố cáo, tranh chấp nói riêng đối với các cấp, các ngành
trên địa bàn tỉnh.
7. Kết cấu của của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
phần nội dung gồm 3 chương:
Chƣơng 1. Quy trình giải quyết khiếu nại tại cơ quan hành chính ở địa
phương
Chƣơng 2. Thực trạng giải quyết khiếu nại hành chính ở tỉnh Bắc Ninh
(UBND tỉnh)
Chƣơng 3. Đổi mới và hoàn thiện quy trình giải quyết khiếu nại tại cơ
quan hành chính ở địa phương.
Chƣơng 1
QUY TRÌNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TẠI CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC Ở ĐỊA PHƢƠNG
14
1.1. Khái quát sự hình thành, phát triển của pháp luật về khiếu
nại hành chính ở nƣớc ta
Khiếu nại là quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến
pháp, là công cụ pháp lý để công dân bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi bị
xâm phạm, đồng thời cũng là một nguồn thông tin phản ánh việc thực thi
quyền lực của bộ máy nhà nước, tình hình thực hiện công vụ của cán bộ, công
chức. Do đó, giải quyết khiếu nại hành chính có vai trò quan trọng trong quản
lý nhà nước. Thông qua giải quyết khiếu nại hành chính, Nhà nước có thể
kiểm tra tính đúng đắn, sự phù hợp của chính sách, pháp luật do mình ban
hành, từ đó có cơ sở thực tiễn để hoàn thiện hiệu quả quản lý nhà nước. Vì
vậy, giải quyết khiếu nại của công dân là một vấn đề được Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm.
Ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đưa
ra vấn đề phải thành lập tổ chức Thanh tra.
Trong lúc chờ đợi Sắc lệnh về việc thành lập tổ chức Thanh tra,
Chính phủ giao cho cấp trên quyền xét xử cấp dưới và đề nghị Bộ
Nội vụ lập một Ủy ban Thanh tra hành chính để điều tra công việc
hành chính ở các địa phương [15, tr. 11].
Ngày 23.11.1945, nhân danh Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban
Thanh tra đặc biệt. Ban Thanh tra đặc biệt có nhiệm vụ giám sát tất cả các
công việc và nhân viên của các Ủy ban hành chính và các cơ quan của Chính
phủ, nhận và giải quyết các đơn khiếu nại của nhân dân. Sắc lệnh 64/SL là
văn kiện mang tính pháp lý về công tác thanh tra. Nhiệm vụ của Ban Thanh
tra đặc biệt là thường xuyên nghiên cứu và giải quyết các đơn thư khiếu nại
và phản ánh của các tầng lớp nhân dân. Mặc dù hoạt động của Ban Thanh tra
15
chưa nhiều nhưng những vụ việc được Ban Thanh tra đặc biệt giải quyết có
tính chất điển hình, liên quan đến
nhiều mặt của đời sống xã hội, từ việc giải quyết các vấn đề tham ô, cửa
quyền đến việc bảo vệ quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Qua đó thấy rõ
Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng tiếng nói, yêu cầu, nguyện
vọng chính đáng của tất cả các tâng lớp nhân dân, nghiêm trị bất cứ ai làm sai
đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ, đề cao kỷ cương, phép nước (Ban
Thanh tra đặc biệt sau này là Ban Thanh tra của Chính phủ (theo Sắc lệnh số
138/SL ngày 18.12.1949). Về cơ bản chức năng, nhiệm vụ của Ban Thanh tra
của Chính phủ giống với Ban Thanh tra đặc biệt. Nội dung công việc thanh
tra bao gồm cả chức năng xét khiếu tố của nhân dân).
Với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và việc ký kết hiệp định Giơ ne
vơ năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và bắt đầu chuyển sang
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Miền Nam bị đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai thống
trị, nên nhân dân phải tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân. Thời kỳ này, miền Bắc có vị trí, vai trò “là nền tảng của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa”. Từ yêu cầu thực tiễn của việc quản lý nhà nước và
thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 28.3.1956, Chủ tịch nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa đã ra Sắc lệnh số 26/SL thành lập Ban Thanh tra Trung ương
của Chính phủ (sau này là Ủy ban Thanh tra của Chính phủ (29.9.1961)).
Theo Nghị định số 762/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 01.4.1956 quy
định về công tác và lề lối làm việc của Ban Thanh tra Trung ương của Chính
phủ thì Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ thường xuyên tiến hành
công tác thanh tra căn cứ vào sắc lệnh quy định và theo các đơn thư khiếu nại,
tố cáo của nhân dân đối với cơ quan, cán bộ, công nhân viên của Chính phủ.
Bộ máy của Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ cũng như cơ quan
Thanh tra của các địa phương được củng cố. Do vậy, công tác tiếp nhận và
16
giải quyết khiếu nại của cán bộ, nhân viên và nhân dân đã được chú ý và thu
được kết quả đáng kể.
Trước tình hình đơn thư khiếu tố của nhân dân gửi đến các cấp chính
quyền và tới cơ quan Trung ương ngày càng nhiều, ngày 13.5.1958, Thủ
tướng Chính phủ ra Thông tư số 436/TTg quy định trách nhiệm, quyền hạn
của các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo (gọi
tắt là khiếu tố) của nhân dân. Thông tư quy định:
Nghiên cứu và giải quyết các khiếu nại, tố giác của nhân dân là
trách nhiệm quan trọng của tất cả các cơ quan nhà nước, các cấp
trước nhân dân Trách nhiệm giải quyết các khiếu nại hoặc tố giác
chủ yếu thuộc về cơ quan nơi phát sinh vấn đề và trước hết là trách
nhiệm của Thủ trưởng cơ quan Trong trường hợp nhân dân khiếu
tố lên cấp trên thì tùy tính chất của vấn đề, tùy từng trường hợp cụ
thể, cấp trên có thể tiến hành điều tra và giải quyết, hoặc chuyển đến
cơ quan nơi phát sinh giải quyết [23, tr.73].
Ngày 01.01.1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 01-SL công
bố Hiến pháp mới của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Hiến pháp năm
1959). Điều 29, Hiếp pháp ghi rõ:
Công dân Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có quyền khiếu nại, tố cáo
với bất cứ cơ quan nào về hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên
cơ quan nhà nước. Những việc khiếu nại, tố cáo phải được xem xét
và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì hành vi phạm pháp
của nhân viên cơ quan nhà nước có quyền được bồi thường [13].
Việc Hiến pháp năm 1959 quy định và thừa nhận quyền khiếu nại của công
dân thực sự là một bước phát triển qua trọng trong hệ thống các quyền công
dân.
17
Trong 4 năm (1965-1968), hệ thống thanh tra nhà nước từ Trung ương
đến các khu, tỉnh, thành phố bị giải thể, chỉ còn có các Ban Thanh tra của các
Bộ, ngành hoạt động. Các Ban Thanh tra ngành do nhiều nguyên nhân đã
không hoạt động đúng chức năng, dẫn tới hiệu quả công tác thanh tra còn
nhiều hạn chế. Trước tình hình đó, ngày 22.12.1967, Ban Bí thư Trung ương
Đảng đã có
Thông tri số 210/TT-TW nhận định:
Sau khi giải thể Ủy ban Thanh tra của Chính phủ, đáng lẽ việc
lãnh đạo Ban Thanh tra của các ngành, việc xét đơn khiếu tố của
nhân dân phải được coi trọng và tăng cường hơn trước, nhưng
ngược lại, nhiều cấp ủy Đảng đoàn lại rất coi nhẹ Nhiều vụ khiếu
nại, tố cáo trong Đảng và của nhân dân, nhất là những vụ đảng
viên, cán bộ làm sai đường lối, chính sách, vi phạm đến quyền lợi
chính trị và kinh tế của nhân dân chưa được giải quyết hoặc để ứ
đọng, bê trễ, gây ảnh hưởng không tốt đến lòng tin của Đảng viên
và nhân dân đối với Đảng và Nhà nước [23, tr.32].
Trước nhiệm vụ mới của đất nước và trước yêu cầu cấp thiết của công tác
thanh tra, công tác xét khiếu tố, Đảng và Nhà nước quyết định thành lập lại
Ủy ban Thanh tra của Chính phủ và Ban Thanh tra các tỉnh, thành phố.
Để cụ thể hoá quy định về quyền khiếu nại, tố cáo của công đã được
Hiến pháp năm 1959 ghi nhận; đồng thời để củng cố và phân định rõ trách
nhiệm của cơ quan thanh tra trong việc thanh tra, xét khiếu tố, ngày 31.8.1970
Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 164/CP về tăng cường công
tác thanh tra và chấn chỉnh hệ thống cơ quan thanh tra của Nhà nước và Nghị
định số 165/CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Thanh
tra Chính phủ. Liên quan đến quyền khiếu nại và trách nhiệm của cán bộ, Thủ
trƣởng cơ quan nhà nƣớc trong việc xem xét, giải quyết khiếu nại của
18
công dân, Nghị quyết 164/CP nêu rõ: Xét, giải quyết và đôn đốc việc xét, giải
quyết đúng đắn, kịp thời các vụ khiếu nại, tố cáo của nhân dân….đối với cán
bộ công dân viên chức nhà nước, xã viên hợp tác xã và nhân dân nói chung
cần đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, không được làm bất kỳ
việc gì gây trở ngại cho việc thực hiện quyền ấy. Thủ trưởng các cơ quan nhà
nước phải hết sức coi trọng việc xét và giải quyết nhanh chóng, hợp tình, hợp
lý đơn từ của nhân dân.
Để việc xét, giải quyết đơn khiếu tố được nhanh chóng, nghiêm chỉnh
và
đi vào nề nếp, ngày 22.5.1971 Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ ban hành
Thông
tư số 60-UBTTr hướng dẫn trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc xét
và giải quyết đơn thư khiếu nại và tố cáo của công dân (trong đó lần đầu tiên
có sự phân biệt giữa khiếu nại và tố cáo cũng như cách xử lý đối với từng loại
đơn). Tiếp đó, ngày 29.3.1973, Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ ban hành
Thông tư số 67-UBTTr/ XKT hướng dẫn việc xét, giải quyết đơn khiếu nại, tố
cáo ở cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương và Thông tư số 68-
UBTTr/XKT hướng dẫn việc xét, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo ở cấp
huyện.
Đất nước thống nhất, Hiến pháp năm 1980 ra đời. Kế thừa và phát triển
Hiếp pháp năm 1959, trong quy định về khiếu nại, tố cáo của công dân, Hiến
pháp năm 1980 đã quy định cụ thể, chi tiết và mở rộng hơn. Tại Điều 73 quy
định:
Công dân có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan nào của
Nhà nước về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào
thuộc cơ quan, tổ chức, đơn vị đó. Các điều khiếu nại và tố cáo
19
phải được xem xét, giải quyết nhanh chóng. Mọi hoạt động xâm
phạm quyền lợi chính đáng của công dân phải được kịp thời sửa
chữa và xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi
thường. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo [13].
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1980, căn cứ và tình hình thực
tiễn khiếu kiện của nhân dân sau ngày thống nhất đất nước, Ủy ban Thanh tra
của Chính phủ đã chủ trương:
Toàn ngành phải đẩy mạnh việc xét, giải quyết đơn khiếu tố của
nhân dân gắn với việc phục vụ các trọng tâm công tác của Đảng,
Chính phủ đồng thời chuẩn bị mọi mặt để triển khai việc thực
hiện pháp luật về công tác xét khiếu tố [15, tr.190]
và ban hành nhiều văn bản hướng dẫn công tác xét và giải quyết đơn thư
khiếu
tố. Ủy ban Thanh tra của Chính phủ đề nghị các ngành, các cấp tổng hợp,
phân loại, hệ thống hóa đơn thư, xác định tính chất sai phạm nói chung và các
vụ nghiêm trọng, điển hình kịp thời báo cáo lên Chính phủ. Đây là cơ sở giúp
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ra Chỉ thị số
81/TTg ngày 08.4.1981 giao cho Thủ trưởng các cấp, các ngành kiểm tra và
giải quyết đơn thư khiếu tố của quần chúng.
Kết hợp với việc thực hiện Chỉ thị số 81/TTg, ngành Thanh tra đã tiến
hành đợt kiểm tra và giúp chính quyền các cấp giải quyết dứt điểm các đơn
thư tồn đọng lâu ngày. Với những kết quả đạt được sau đợt kiểm tra cùng
những đề xuất của Ủy ban Thanh tra của Chính phủ đã trở thành cơ sở nền
tảng cho Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh quy định việc xét và giải
quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân ngày 27.11.1981. Pháp lệnh quy định
việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân được ban hành có
nghĩa rất lớn, vì đây là lần đầu tiên quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc
20
khiếu nại, tố cáo đối với cơ quan nhà nước được xác định trong một văn bản
pháp lý riêng. Tiếp đó, ngày 29.3.1982, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số
58/HĐBT về việc thi hành Pháp lệnh quy định việc xét và giải quyết các
khiếu nại, tố cáo của công dân. Nghị định đã cụ thể hóa việc triển khai thực
hiện pháp lệnh của nhà nước về công tác xét và giải quyết đơn thư khiếu tố
của nhân dân, đưa pháp lệnh đi vào đời sống xã hội nước ta.
Nhằm quán triệt, tổ chức triển khai việc thi hành Pháp lệnh vào cuộc
sống, trong các ngày 28, 28 tháng 4 và đầu tháng 6.1982, dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Hội đồng Bộ trưởng, Ủy ban Thanh tra Chính phủ đã tổ chức 2 cuộc
hội nghị với sự tham gia của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt các bộ, ngành,
các địa phương. Trên tinh thần của hội nghị, ngày 04.5.1982, Ủy ban Thanh
tra của Chính phủ đã ban hành Thông tư số 02/TT-TTr hướng dẫn thi hành
Pháp lệnh quy định việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân
và Nghị định số 58/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.
Theo tinh thần Chỉ thị của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tại Hội nghị
quán
triệt nội dung Pháp lệnh tháng 4.1982 thì “Việc tiếp dân là một việc quan
trọng”. Tại nhiều cơ quan đã niêm yết công khai, thông báo cho nhân dân biết
quy chế, chế độ tiếp dân thường xuyên và định kỳ. Chế độ tiếp dân được củng
cố thêm một bước, có chất lượng hơn.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VI, nhiều trường hợp vi phạm chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước được phát hiện; một số cán
bộ, quần chúng đã gửi đơn thư khiếu nại, tố cáo các hiện tượng tiêu cực lên
các cấp có thẩm quyền. Nắm bắt được tình hình, ngày 14.12.1987, Ban Bí thư
Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 23/CT-TW về việc tăng cường công tác xử
lý đơn thư khiếu tố và tiếp công dân nhằm làm rõ trách nhiệm của các tổ chức
21
Đảng, chính quyền các cấp, các ngành trong việc lãnh đạo, chỉ đạo xem xét,
giải quyết có hiệu quả đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
Do có nhiều cán bộ, quần chúng gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan
Đảng, Nhà nước, ngày 03.7.1989 Hội đồng Bộ trưởng ra Chỉ thị số 176/CT
kiểm điểm việc thi hành Pháp lệnh quy định việc xét và giải quyết các khiếu
nại, tố cáo của công dân. Chỉ thị nêu rõ:
Tổ chức kiểm điểm việc thi hành Pháp lệnh quy định việc xét và
giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân. Qua kiểm điểm khẩn
trương thi hành pháp lệnh giải quyết kịp thời, đúng chính sách, đúng
pháp luật các khiếu nại, tố cáo của công dân [15, tr. 203].
Thông qua kiểm điểm và thực tiễn công tác, một số quy định của Pháp lệnh
đã bộc lộ sự không phù hợp với tình hình thực tế cần được sửa đổi, bổ sung
và thay thế.
Từ những đòi hỏi của tỉnh hình mới, ngày 07.5.1991, Hội đồng Nhà
nước ban hành Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân, thay thế Pháp lệnh
quy định việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân ngày
27.11.1981. Sau đó, ngày 28.2.1992, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số
38/HĐBT về việc thi hành Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân. Pháp
lệnh khiếu nại, tố cáo năm 1991 ra đời có một ý nghĩa qua trọng nhằm đổi
mới công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Pháp lệnh đã xác định rõ hơn quyền
lợi, nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo; trình tự và thẩm quyền của các cấp
trong việc xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Cùng với sự khởi sắc của nền kinh tế thị trường vào những năm đầu
thập niên 90 của thể kỷ XX đã nảy sinh khá nhiều mâu thuẫn làm gia tăng số
lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo, nhất là các tỉnh phía Nam. Có nơi, nhân dân
tụ tập hàng trăm người, kéo đến cơ quan nhà nước cấp trên đòi được giải
quyết. Trước tình hình đó, ngày 25.01.1995, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị
22
số 64/CT-TTg về việc tăng cường công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của
nhân dân nhằm giải quyết kịp thời tình trạng khiếu nại, tố cáo nói chung.
Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo năm 1991 ra đời, công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo đã có những bước chuyển biến mới và thu được những kết quả
nhất định. Nhưng do tác động của nhiều yếu tố, tình hình khiếu nại có chiều
hướng gia tăng và diễn biến biến phức tạp. Thanh tra Nhà nước đã ban hành
nhiều văn bản để chỉ đạo, đôn đốc các địa phương, bộ, ngành xử lý, giải quyết
các vụ việc khiếu nại, tố cáo có tính chất phức tạp nhằm đảm bảo cho khiếu
nại, tố cáo của công dân được giải quyết kịp thời, đúng luật.
Năm 1992 Nhà nước ban hành Hiến pháp mới, thay thế Hiến pháp năm
1980. Tại Điều 74 Hiến pháp năm 1992 quy định:
Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân
hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan
nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn luật định. Mọi hành
vi xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập
thể và của công dân được kịp thời xử lý ngiêm minh. Người bị hại
có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi về danh dự.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng
quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác
[13].
Một lần nữa, quyền khiếu nại, tố cáo và trách nhiệm giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân tiếp tục được khẳng định và hoàn thiện hơn so với
các bản Hiến pháp trước đó theo hướng quyền đi đôi với trách nhiệm; việc
xem xét và giải quyết khiếu nại không những khách quan đúng luật mà phải
23
trong khoảng thời hạn mà pháp luật quy định. Đây thực sự là một bước tiến
mới đảm bảo quyền tự do dân chủ của nhân dân.
Ngày 20.7.1996 Tổng Thanh tra Nhà nước ban hành Thông tư số 1118/
TTNN hướng dẫn việc giải quyết khiếu nại hành chính nhằm tăng cường hơn
nữa trách nhiệm và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hành chính nhà
nước với Tòa án nhân dân các cấp, giải quyết có hiệu quả khiếu kiện hành
chính.
Để việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật,
góp phần phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước; quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức và
tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc hơn trong giải quyết khiếu nại, tố cáo,
ngày 02.12.1998, Luật Khiếu nại, tố cáo được ban hành, thay thế Pháp lệnh
Khiếu nại, tố cáo năm 1991. Đây là văn bản có tính pháp lý cao nhất từ trước
đến nay về khiếu nại, tố cáo của công dân. Luật Khiếu nại, tố cáo ra đời đáp
ứng được đòi hỏi bức thiết về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong giai
đoạn thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển của đất nước trong 10 năm
(2001-2010) mà Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra. Đại hội đã nhấn mạnh cần
phải “Đổi mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các cơ quan, cán bộ,
công chức trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân” [4, tr.
134]. Ngay sau đó, ngày 07.8.1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
67/1999NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại, tố
cáo; Nghị định số 62/2002/NĐ-CP ngày 14.6.2002 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 67/1999/NĐ-CP.
Luật Khiếu nại tố cáo năm 1998 đến nay đã qua hai lần sửa đổi vào
năm 2004 và năm 2005. Sau mỗi lần sửa đổi, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 53/2005/NĐ-CP ngày 19.4. 2005 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật Sửa đổi, bổ sung một số
24
điều của Luật Khiếu nại, tố cáo; Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày
14.11.2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Khiếu nại, tố cáo và các Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu
nại, tố cáo.
Luật Khiếu nại, tố cáo được ban hành có có hiệu lực thực thi cũng là
thời điểm tình hình khiếu nại, tố cáo phát sinh nhiều và tiếp tục có những diễn
biến phức tạp, nhất là các tỉnh phía Bắc. Nổi lên thời điểm này là các đoàn
khiếu kiện đông người có tổ chức, từ chỗ chỉ xảy ra ở một số tỉnh, thành phố
đã lan rộng ra nhiều địa phương. Nội dung đơn thư tố cáo liên quan đến thu
chi ngân sách, quản lý đất đai; khiếu nại về hành chính chủ yếu liên quan đến
đất đai.
Trước tình hình khiếu nại, tố cáo phát sinh và diễn biến ngày càng phức
tạp Ban Bí thư Trung ương Đảng, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và
Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản để chỉ đạo việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của nhân dân như: Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 06.3.2002 của Ban Bí thư
Trung ương về một số vấn đề cấp bách trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
và Kế hoạch số 01/KH-TW; số 02/KH-TW về kiểm tra sự lãnh đạo, chỉ đạo
của các cấp uỷ Đảng cũng như tư cách đảng viên trong việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân; Nghị quyết số 30/2004/QH11 ngày 15.6.2004 của
Quốc hội về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực quản lý hành
chính nhà nước; Nghị
quyết số 715/2004/NQ-UBNTVQH11 ngày 18.6.2004 của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội về việc tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo và kiến
nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức gửi Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,
các thành viên của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; Chỉ thị số 35/1998/CT-TTg
ngày 09.10.1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường hiệu lực giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tại cơ các cơ quan Trung ương và nhà
25
riêng của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; Chỉ thị số 26/2001/CT-TTg
ngày 09.10.2001 về tạo điều kiện để Hội Nông dân tham gia giải quyết khiếu
kiện của nông dân; Chỉ thị số 36/2004/CT-TTg ngày 27.10.2004 về chấn
chỉnh và tăng cường trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan hành chính
trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo vv
Như vậy, cùng vời sự hình thành và hoàn thiện của bản Hiến pháp, các
quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo càng ngày càng hoàn thiện. Nếu
như Hiến pháp năm 1946, quyền khiếu nại chưa được ghi thành điều luật
riêng thì đến Hiến pháp năm 1959, thì quyền khiếu nại, tố cáo được ghi nhận
là một trong 27 quyền cơ bản của công dân; Hiến pháp năm 1980 là một trong
44 quyền cơ bản; Hiến pháp năm 1992 là một trong 52 quyền cơ bản của công
dân. Việc ghi nhận và mở rộng quyền khiếu nại, tố cáo của công dân là thể
hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ta, không những ghi nhận sự tham gia
vào hoạt động quản lý nhà nước của nhân dân mà còn ghi nhận quyền kiểm
tra, giám sát các hoạt động của Nhà nước.
Bên cạnh việc mở rộng và ghi nhận quyền khiếu nại của công dân, với
các quy định của pháp luật về khiếu nại thì cơ chế giải quyêt khiếu nại cũng
được hình thành. Trách nhiệm giải quyết khiếu nại của công dân của các cơ
quan nhà nước cũng có sự thay đổi và quy định chặt chẽ, cụ thể hơn. Từ việc
quy định giao cho Ban Thanh tra đặc biệt quyền nhận và xem xét những khiếu
nại của nhân dân đến việc hình thành hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước
cũng như quy định nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của các cơ quan thanh tra
trong việc giải quyết khiếu nại. Từ việc quy định Thanh tra là một cấp có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại (Pháp lệnh giải quyết khiếu nại, tố cáo năm
1991) đến việc quy định Thanh tra không còn là một cấp giải quyết khiếu nại
mà trách nhiệm giải quyết khiếu nại thuộc về Thủ trưởng cơ quan hành chính
nhà nước (Cơ quan Thanh tra chỉ được giải quyết một số vụ việc khi được
26
Thủ trưởng cơ quan cùng cấp uỷ quyền (Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998))
chỉ là cơ quan tham mưu giúp cho Thủ trưởng cơ quan cùng cấp giải quyết
khiếu nại (Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998; sửa đổi, bổ sung năm 2005). Từ
việc quy định trách nhiệm giải quyết khiếu nại chỉ là công việc của cơ quan
hành chính nhà nước đến việc chuyển một số vụ việc sang cơ quan toà án
(thời điểm Toà Hành chính được thành lập và đi vào hoạt động năm 1996 là 7
loại vụ việc; đến năm 1998, thời điểm ban hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính là 10 loại vụ việc; tiếp đến là 22 loại vụ việc năm 2006,
thời điểm Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được sửa đổi, bổ
sung).
1.2. Quy trình giải quyết khiếu nại tại cơ quan hành chính ở địa
phƣơng
1.2.1. Cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính ở nước ta hiện nay
Cơ chế giải quyết khiếu nại được hiểu như là cách thức tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước trong việc tiếp nhận, giải quyết các khiếu nại hành
chính nhằm đảm bảo quyền khiếu nại của công dân, tổ chức [26, tr.12]. Nó
được vận hành theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998; Luật Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004; Luật Sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2005; Nghị định số
136/NĐ-CP ngày 14.11.2006 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Khiếu
nại, tố cáo và các văn bản pháp luật chuyên ngành, tùy thuộc khiếu nại phát
sinh theo từng lĩnh vực mà nó điều chỉnh như: Luật Đất đai năm 2003, Luật
Sở hữu trí tuệ năm 2005, Luật Lao động năm 1994…, Trong đó, Luật Khiếu
nại, tố cáo và các Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố
cáo được coi là luật chung, làm nền tảng cho cơ chế giải quyết khiếu nại hành
chính ở nước ta hiện nay. Cách thức mà chúng ta đang áp dụng để giải quyết
khiếu nại là một vụ khiếu kiện hành chính có thể trải qua hai giai đoạn: giải
27
quyết theo cấp hành chính (tiền tố tụng hành chính) và giai đoạn tố tụng trước
Toà Hành chính.
Ở giai đoạn thứ nhất, cơ quan hành chính nhận được các khiếu nại của
tổ chức, công dân sẽ tự xem xét, kiểm tra lại các căn cứ ra quyết định hành
chính bị
khiếu nại. Cơ quan hành chính có thể huỷ bỏ hoặc thay đổi quyết định hành
chính đó. Trong việc giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính thì trách
nhiệm giải quyết thuộc về người đứng đầu cơ quan, trong đó Thanh tra nhà
nước vừa là một cấp giải quyết khiếu nại hành chính, vừa là cơ quan tham
mưu quan trọng cho cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Theo các quy định pháp luật hiện hành về khiếu nại, tố có thể đưa ra
đặc điểm cơ chế giải quyết khiếu nại ở nước ta hiện nay như sau:
1.2.1.1. Lựa chọn có giới hạn cơ quan giải quyết (hay con đường giải
quyết) khiếu nại của công dân, tố chức khi phát sinh khiếu nại
Pháp luật khiếu nại, tố cáo quy định công dân có quyền lựa chọn con
đường giải quyết khiếu nại của mình bằng cơ quan hành chính hoặc Tòa án
nhân dân. Nếu công dân lựa chọn con đường hành chính thì vụ việc khiếu nại
được giải quyết bằng quyết định giải quyết khiếu nại. Nếu công dân lựa chọn
con đường giải quyết là Tòa án nhân dân thì việc giải quyết khiếu kiện của
công dân được thực hiện theo quy định về thủ tục giải quyết vụ án hành chính
(tố tụng hành chính). Tuy nhiên, sự lựa chọn con đường giải quyết khiếu kiện
của công dân không phải lúc nào và trường hợp nào cũng được thực hiện mà
nó bị giới hạn bởi những quy định sau:
- Thứ nhất, khi công dân không đồng ý với quyết định hành chính, hành
vi hành chính và có sơ sở cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính
đó xâm hại trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì phải khiếu