Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước – qua thực tiễn thành phố Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (935.98 KB, 84 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRỊNH VĂN THẢO



GI¶I QUYÕT KHIÕU N¹I
CñA C¥ QUAN HµNH CHÝNH NHµ N¦íC
- QUA THùC TIÔN THµNH PHè H¶I PHßNG

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG

HÀ N ỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong


bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN


Trịnh Văn Thảo

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI HÀNH CHÍNH HIỆU QUẢ
BẰNG CON ĐƢỜNG HÀNH CHÍNH 7
1.1. Khiếu nại 7
1.1.1. Khái niệm khiếu nại 7
1.1.2 Đặc điểm của khiếu nại 10
1.2. Giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nƣớc 14
1.2.1. Khái niệm giải quyết khiếu nại 14
1.2.2. Một số nguyên tắc của việc giải quyết khiếu nại 16
1.3. Thẩm quyền và thủ tục giải quyết khiếu nại của cơ quan hành
chính nhà nƣớc 19

1.3.1. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước 19
1.3.2. Thủ tục giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước 22
1.3.3. Thời hiệu khiếu nại và thời hạn giải quyết khiếu nại 28
1.4. Vai trò của hoa
̣
t đô
̣
ng gi ải quyết khiếu nại của cơ quan hành
chính nhà nƣớc 29
1.5. Tại sao giải quyết khiếu nại hành chính bằng con đƣờng hành
chính lại hiệu quả? 30
1.5.1. Do chính cơ quan hành chính nhà nước thực hiện 30
1.5.2. Không qua nhiều khâu trung gian 31

1.5.3. Thời hạn giải quyết ngắn 31
1.5.4. Việc thay đổi quyết định hành chính bị khiếu nại dễ dàng hơn. 32
1.5.5. Việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại thuận lợi hơn. 32
1.5.6. Sau khi có quyết định giải quyết, nếu không đồng ý với kết quả
giải quyết, người khiếu nại vẫn có cơ hội giải quyết ở Tòa án là cơ
quan có phán quyết cuối cùng 33
1.5.7. Việc giải quyết án hành chính kéo dài, bị tác động bởi nhiều chủ
thể khác nhau 33
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI CỦA CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HẢI PHÒNG 35
2.1. Tình hình khiếu nại và giải quyết khiếu nại của cơ quan hành
chính nhà nƣớc trên địa bàn thành phố Hải Phòng 35
2.2. Đánh giá kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính
nhà nƣớc trên địa bàn thành phố Hải Phòng 39
2.2.1. Ưu điểm 39

2.2.2. Những mặt còn tồn tại 42
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại 49
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI
QUYẾT KHIẾU NẠI CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƢỚC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 57
3.1. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại của cơ quan
hành chính nhà nƣớc 57
3.2. Những giải pháp có tính tổ chức – pháp lý 58
3.3. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết khiếu nại 65
KẾT LUẬN 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CQHCNN
Cơ quan hành chính Nhà nước
HĐND
Hội đồng nhân dân
HVHC
Hành vi hành chính
QĐHC
Quyết định hành chính
UBND
Ủy ban nhân dân














1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
Nhà nước ta “là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân”, “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”
[10, Điều 2]. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ một cách trực tiếp khi tự
mình tham gia vào cơ quan quản lý nhà nước, tự mình giám sát cơ quan
quản lý hoặc gián tiếp bằng cách bầu ra người đại diện. Tiến trình dân chủ
được Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm, tạo điều kiện để nhân dân
thực hiện quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời,
các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong từng lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội ngày càng được ghi nhận đầy đủ hơn và bảo đảm
được thực hiện trên thực tế. Trong đó, khiếu nại, tố cáo là một trong những
quyền cơ bản của công dân, được Hiến pháp năm 2013 của nước ta ghi
nhận tại khoản 1 Điều 30: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của
cơ quan, tổ chức, cá nhân” [10].
Để đảm bảo cho việc giải quyết khiếu nại đạt hiệu quả cao nhất và
tránh tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, đồng thời đảm bảo việc bồi

thường những thiệt hại do cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước gây ra,
khoản 2 Điều 30 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị
thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự
theo quy định của pháp luật” [10].
Quản lý nhà nước là hoạt động sử dụng quyền lực nhà nước của chủ thể
có thẩm quyền tác động đến mọi lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, ảnh
hưởng tới các quyền và nghĩa vụ của đối tượng quản lý. Mặc dù, nhà nước đã

2
thiết lập các cơ chế kiểm tra, giám sát đối với hoạt động này, nhưng cũng
không thể loại trừ hoàn toàn khả năng xâm phạm các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức. Vì vậy, khiếu nại là một công cụ pháp lý hữu
hiệu để công dân bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Khiếu nại là hình
thức dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của
bộ máy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày
càng trong sạch và vững mạnh.
Với vai trò quan trọng như vậy nên Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan
tâm và không ngừng hoàn thiện pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại,
tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công dân thực hiện quyền khiếu nại của
mình. Năm 1991, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo
của công dân. Năm 1998, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật khiếu nại, tố
cáo; được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2004, 2005. Ngày 11 tháng 11 năm
2011, Quốc hội khóa XIII thông qua Luật Khiếu nại có hiệu lực thi hành từ
ngày 1/7/2012, theo hướng tạo thêm thuận lợi cho công dân trong việc thực
hiện quyền khiếu nại, đồng thời nâng cao tính khách quan, dân chủ trong giải
quyết khiếu nại, góp phần hạn chế tình trạng khiếu kiện phức tạp, kéo dài.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Công tác giải quyết khiếu nại trong những năm qua, đã góp phần quan

trọng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức, đồng thời ổn
định tình hình an ninh, chính trị, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Mỗi năm,
các cơ quan hành chính nhà nước, các cấp, các ngành từ trung ương tới địa
phương phải tiếp nhận và giải quyết hàng chục nghìn vụ khiếu nại. Tuy nhiên,
hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại của các cơ quan hành chính nhà nước
chưa cao. Việc giải quyết khiếu nại của cơ quan có thẩm quyền còn chậm trễ,
chưa đảm bảo dân chủ, công khai, chưa khách quan, công bằng, hợp lý; tình
trạng né tránh, đùn đẩy, chồng chéo trong giải quyết khiếu nại vẫn còn tồn tại.

3
Đồng thời, số lượng đơn thư khiếu nại ngày càng gia tăng, tính chất và nội
dung khiếu nại ngày càng phức tạp và đa dạng. Bên cạnh đó, nhiều quyết định
giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật không được thi hành nghiêm chỉnh
trên thực tế. Bởi vậy, tình trạng khiếu nại vượt cấp, đông người, khiếu nại kéo
dài ngày càng tăng và tính chất ngày càng phức tạp.
Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác
nhau, nhưng có thể thấy chủ yếu do sự bất cập, chồng chéo trong hệ thống
pháp luật, cơ chế giải quyết khiếu nại còn nhiều hạn chế, bộ máy nhà nước
còn cồng kềnh, còn nhiều khiếm khuyết, không đáp ứng được yêu cầu là một
công cụ hữu hiệu giúp cơ quan hành chính nhà nước giải quyết khiếu nại của
công dân, tổ chức.
Hải Phòng là một thành phố thuộc đồng bằng sông Hồng, nằm ở cửa
ngõ quan trọng nhất ra biển của miền Bắc, là cực tăng trưởng trong tam giác
phát triển phía bắc Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh. Những năm qua, Hải
Phòng đã có những bước phát triển mạnh về kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, đời
sống nhân dân còn nhiều khó khăn nhất là từ khi kinh tế rơi vào thời kỳ suy
thoái. Bên cạnh đó, hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội của chính
quyền các cấp từ thành phố đến cơ sở còn bộc lộ nhiều thiếu sót, khuyết điểm
chậm được đổi mới, khắc phục. Bởi vậy, tình hình khiếu nại, nhất là trong
lĩnh vực quản lý đất đai, quản lý xây dựng cơ bản, giải phóng mặt bằng, thu

hồi đất… diễn ra khá phức tạp. Công tác giải quyết khiếu nại của các cơ quan
hành chính nhà nước các cấp từ thành phố đến cơ sở còn nhiều hạn chế. Bởi
vậy, tình trạng khiếu nại, khiếu nại phức tạp, kéo dài, khiếu nại vượt cấp,
khiếu nại đông người ngày càng tăng.
Nhằm góp phần đánh giá đúng thực trạng công tác giải quyết khiếu nại
của các cơ quan hành chính nhà nước, nêu rõ nguyên nhân và đề xuất những
giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết
khiếu nại của các cơ quan hành chính nhà nước nói chung và trên địa bàn

4
thành phố Hải Phòng nói riêng, tôi chọn đề tài: “Giải quyết khiếu nại của cơ
quan hành chính nhà nước – qua thực tiễn thành phố Hải Phòng”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề khái quát chung về
khiếu nại và công tác giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước.
Đồng thời, tác giả đánh giá đúng thực trạng công tác giải quyết khiếu nại
của cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Trên cơ
sở đó, tác giả phân tích rõ nguyên nhân, đề xuất các giải pháp cơ bản nâng
cao hiệu quả giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước nói
chung và cơ quan hành chính nhà nước trên dịa bàn thành phố Hải Phòng
nói riêng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước các cấp.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đề tài hệ thống hóa, phân tích cơ sở lý luận về khiếu nại và công tác
giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước.
- Đề tài phân tích và đánh giá thực trạng giải quyết khiếu nại; thực tiễn
công tác giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn
thành phố Hải Phòng, những ưu điểm và tồn tại.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm nâng

cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước đã dành
được mối quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả, thông qua nhiều công trình,
bài viết được công bố trong những năm gần đây như: Luận án Tiến sĩ luật học
Quyền khiếu nại hành chính của công dân ở Việt Nam hiện nay của tác giả
Nguyễn Thị Thủy; Quy trình giải quyết khiếu nại tại cơ quan hành chính ở địa
phương- qua thực tiễn ở tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả

5
Mai Văn Duẩn; Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về khiếu nại của tác giả Bùi Thị
Đào, Tạp chí Luật học số 03/2005; Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước của tác
giả Trần Văn Sơn, Tạp chí Thanh tra số 12/2005; Khiếu nại hành chính và giải
quyết khiếu nại hành chính của tác giả Nguyễn Tiến Trung, Tạp chí Tổ chức
nhà nước, số 4/2005; Một số vấn đề về sự tham gia của luật sư trong lĩnh vực
khiếu nại, khiếu kiện hành chính ở nước ta hiện nay, của tác giả Nguyễn Thắng
Lợi, Tạp chí Nghề luật (của Học viện Tư pháp), số 3/2011, Tr. 43- 47; Bàn về
cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính, của GS.TS Nguyễn Đăng Dung, Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề về Khiếu kiện hành chính và Tài phán
hành chính, tr. 8-13; Khiếu nại, tố cáo hành chính và giải quyết khiếu nại, tố
cáo hành chính ở Việt Nam hiện nay, của Viện Khoa học Thanh tra - Thanh tra
Chính phủ (2012) Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, Hà Nội
Các công trình nói trên đã đề cập đến vấn đề giải quyết khiếu nại của
cơ quan hành chính nhà nước dưới những khía cạnh khác nhau, nhưng chưa
có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và trực tiếp vấn đề:
“Giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước – qua thực tiễn
thành phố Hải Phòng”. Việc nghiên cứu vấn đề này sẽ làm sáng tỏ những vấn
đề khái quát chung về khiếu nại và hiệu quả giải quyết khiếu nại của cơ quan
hành chính nhà nước . Đồng thời nghiên cư

́
u làm rõ thực trạng công tác giải
quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn thành phố Hải
Phòng. Qua đó, góp phần hoàn thiện pháp luật về giải quyết khiếu nại của cơ
quan hành chính nhà nước, nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại
của cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn thành phố Hải Phòng nói riêng
và công tác giải quyết khiếu nại nói chung.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề khái quát chung về khiếu
nại và hiệu quả giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước; tình

6
hình khiếu nại và thực trạng công tác giải quyết khiếu nại của cơ quan hành
chính nhà nước trên địa bàn thành phố Hải Phòng và những giải pháp cơ bản
có tính khả thi nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại của cơ quan
hành chính nhà nước.
Khiếu nại, giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật cán bộ,
công chức là một loại khiếu nại, giải quyết khiếu nại đối với quyết định
hành chính, hành vi hành chính mang tính đặc thù liên quan trực tiếp đến
quyền lợi của cán bộ, công chức. Vì vậy trong phạm vi đề tài này, tôi
không nghiên cứu đến việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với quyết
định kỷ luật cán bộ, công chức.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối chính
sách của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân và vì dân.
Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp; phương
pháp điều tra, khảo sát; phương pháp so sánh, thống kê và một số phương
pháp khác để giải quyết các vấn đề đặt ra.

6. Kết cấu của luận văn
Gồm 3 phần: Mở đầu, Nội dung và Kết luận
- Phần Nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Giải quyết khiếu nại hành chính hiệu quả bằng con đường
hành chính
Chương 2: Thực trạng giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính
nhà nước trên địa bàn thành phố Hải Phòng
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại
của cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn thành phố
Hải Phòng

7
Chương 1
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI HÀNH CHÍNH HIỆU QUẢ
BẰNG CON ĐƢỜNG HÀNH CHÍNH

1.1. Khiếu nại
1.1.1. Khái niệm khiếu nại
Hoạt động quản lý xã hội là hoạt động phức tạp nhất, do vậy nhà nước
thiết lập một hệ thống các cơ quan để quản lý xã hội, việc phát sinh mâu
thuẫn giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý là không thể tránh khỏi. Khi
công dân cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại bởi những
quyết định, hành vi mang tính quyền lực nhà nước, phản ứng của công dân
được thể hiện bằng hành vi khiếu nại. Vì vậy, hành vi khiếu nại của công dân
là hành vi mang tính tất yếu khách quan trong xã hội.
Về phương diện xã hội, khiếu nại chính là việc người dân kêu oan,
phản đối, tự vệ trước một việc làm hay một quyết định làm ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích của họ. Về phương diện chính trị - pháp lý, khiếu nại là
quyền chính trị - pháp lý cơ bản của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật
ghi nhận và đảm bảo trên thực tế. Về phương diện quản lý nhà nước, khiếu

nại cung cấp một nguồn thông tin quan trọng cho nhà nước trong việc kiểm
tra, giám sát, phát hiện những thiếu sót, sai lầm trong hoạt động quản lý để từ
đó có sự điều chỉnh, thay thế để hoạt động quản lý được hoàn thiện hơn.
Bàn về thuật ngữ khiếu nại, có nhiều quan điểm khác nhau. “Khiếu nại”
trong tiếng La tinh là “complaint”, nghĩa là việc phàn nàn, phản ứng của
người nào đó đối với một vấn đề có liên quan đến lợi ích của mình. Như vậy,
khiếu nại trong tiếng La tinh bao quát phạm vi xã hội rất rộng, có thể là phản
ứng giữa người dân với nhau hoặc giữa người dân với cơ quan công quyền.
Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng - Viện Ngôn ngữ

8
học thì khiếu nại là “đề nghị cơ quan có thẩm quyền xét một việc làm mà
mình không đồng ý cho là trái phép hay không hợp lý” [30, tr.483]. Theo quan
niệm này có thể hiểu khiếu nại ở phạm vi rộng, là phản ứng của cá nhân, tổ
chức với cơ quan có thẩm quyền về bất kỳ một việc làm, hay quyết định mà
mình thấy không đúng pháp luật và bất hợp lý.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học - Luật hành chính của tập
thể tác giả do GS.TS Nguyễn Ngọc Hoà chủ biên thì khiếu nại là “việc đề nghị
của công dân, cơ quan, tổ chức với cơ quan nhà nước hay người có chức vụ về
sự vi phạm hoặc cho là vi phạm quyền, lợi ích chính đáng của họ” [5, tr.67].
Thuật ngữ khiếu nại ở đây đã được thu hẹp hơn hẳn vì khiếu nại chỉ xảy ra khi
người khiếu nại thấy có sự vi phạm hoặc cho là vi phạm đến quyền và lợi ích
chính đáng của họ.
Luật Khiếu nại năm 2011 (sau đây gọi chung là Luật khiếu nại) quy
định tại khoản 1 Điều 2 như sau:
Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công
chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành
chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền
trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ,

công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái
pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình [12].
Trước đó Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, sửa đổi bổ sung năm 2004,
2005 (sau đây gọi chung là Luật khiếu nại, tố cáo) tại khoản 1 Điều 2 đã quy định:
Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ,
công chức theo thủ tục do Luật này quy định đề nghị cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính,
hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi

9
có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật,
xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình [11].
Như vậy so với Luật khiếu nại, tố cáo, Luật khiếu nại đã quy định cụ
thể và rõ ràng hơn khi xác định quyết định hành chính (QĐHC), hành vi hành
chính (HVHC) bị khiếu nại phải là QĐHC, HVHC của cơ quan hành chính
nhà nước (CQHCNN), của người có thẩm quyền trong CQHCNN [12].
Cả hai Luật về khiếu nại này đã đưa ra khái niệm khiếu nại một cách
khá rõ ràng và logic.
Có thể thấy, dù được hiểu dưới bất kì góc độ nào thì khiếu nại bao giờ
cũng hàm chứa những dữ liệu chứng tỏ có sự vi phạm hoặc cho là vi phạm
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể được pháp luật bảo vệ.
Qua các quan điểm trên, tác giả đồng tình với quan điểm của Luật Khiếu
nại, theo đo
́
, khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức theo thủ tục do pháp
luật quy định, đề nghị CQHCNN hoặc người có thẩm quyền trong CQHCNN
xem xét lại QĐHC, HVHC khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó
là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình [12].
Thuật ngữ khiếu nại trong Từ điển Tiếng Việt và Từ điển giải thích
thuật ngữ Luật học được hiểu là khiếu nại nói chung của công dân và trên

thực tế, phần lớn người dân cũng chỉ quen sử dụng thuật ngữ khiếu nại mà
không hề biết đến khiếu nại hành chính. Bên cạnh đó, pháp luật thực định
không có điều khoản nào quy định về khiếu nại hành chính, nhưng khiếu nại
trong Luật Khiếu nại được mặc định hiểu là khiếu nại trong quản lý hành
chính nhà nước, hay còn gọi là khiếu nại hành chính.
Giáo trình Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo của Trường Đại học
Luật Hà Nội, năm 2008 đã định nghĩa: “Khiếu nại hành chính là khiếu nại về
tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính và quyết định
kỷ luật cán bộ, công chức là những sự việc phát sinh trong hoạt động quản lý
hành chính” [6, tr.74].

10
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học - Luật hành chính thì:
Khiếu nại hành chính là từ ngữ để chỉ hành vi của cá nhân
hay cơ quan, tổ chức đề nghị với các cơ quan hành chính nhà nước
hoặc với người có thẩm quyền của cơ quan đó xem xét lại các quyết
định hành chính, hành vi hành chính khi có căn cứ cho rằng quyết
định, hành vi đó trái pháp luật xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của mình [5, tr.102].
Trong Luận án Tiến sĩ “Quyền khiếu nại hành chính của công dân ở
Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thủy, tiếp cận dưới nhiều góc độ
khác nhau, về kinh tế, xã hội, chính trị - pháp lý, tác giả đã đưa ra kết luận:
Khiếu nại hành chính là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức theo
thủ tục do pháp luật quy định yêu cầu chủ thể có thẩm quyền xem
xét lại các quyết định hành chính, hành vi hành chính khi họ có
căn cứ cho rằng các quyết định, hành vi đó trái pháp luật, xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình [27, tr.33].
Phạm vi phát sinh khiếu nại hành chính rất rộng, gồm tất cả các lĩnh vực
của quản lý hành chính nhà nước. Đối tượng của khiếu nại hành chính là các
QĐHC, HVHC, quyết định kỷ luật đối với cán bộ, công chức. Khiếu nại hành

chính được giải quyết theo thủ tục hành chính. Như vậy, khiếu nại hành chính,
về bản chất là loại khiếu nại phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà
nước, xảy ra trong hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước, nhưng chủ yếu
và phổ biến là trong hoạt động chấp hành và điều hành của các CQHCNN.
1.1.2 Đặc điểm của khiếu nại
Một là, cơ sở phát sinh khiếu nại là xung đột lợi ích giữa cá nhân, tổ
chức với Nhà nước. Điều này xuất phát từ góc độ khiếu nại là sự kiện pháp lý
phản ánh các tranh chấp – xung đột về lợi ích giữa Nhà nước và cá nhân, tổ
chức trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Đó là các tranh chấp giữa

11
chủ thể quản lý hành chính và đối tượng quản lý. Đây là tranh chấp khá phổ
biến trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Khi các đối tượng quản lý
hành chính, trên cơ sở suy xét của chính bản thân mình, cho rằng các QĐHC,
HVHC của các chủ thể quản lý đã xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của
mình, thì khi đó họ sẽ thực hiện quyền khiếu nại, yêu cầu chủ thể có thẩm
quyền bảo vệ và khôi phục những quyền và lợi ích đó.
Hai là, mục đích của khiếu nại là bảo vệ và khôi phục lại quyền và lợi
ích của người khiếu nại đã bị QĐHC, HVHC của CQHCNN hoặc người có
thẩm quyền trong CQHCNN xâm hại.
Nhà nước là lực lượng duy nhất có đầy đủ quyền lực và khả năng bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức trên cơ sở pháp
luật. Bên cạnh đó, khiếu nại là quyền tự vệ mà nhà nước trao cho cá nhân, tổ
chức để tự bảo vệ mình trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Vì vậy,
trong lĩnh vực khiếu nại và giải quyết khiếu nại, người khiếu nại không được
sử dụng quyền lực nhà nước nên họ không thể tự mình thực hiện mà phải đề
nghị CQHCNN hoặc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiến hành theo
thủ tục do pháp luật quy định.
Như vậy, khiếu nại là biện pháp bảo vệ và khôi phục lại các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức đã bị QĐHC, HVHC của

CQHCNN hoặc người có thẩm quyền trong CQHCNN xâm hại.
Ba là, đối tượng của khiếu nại là các QĐHC, HVHC, quyết định kỷ
luật cán bộ, công chức của CQHCNN hoặc người có thẩm quyền trong
CQHCNN gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức.
Theo khoản 8 Điều 2 Luật Khiếu nại thì:
Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà
nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước

12
ban hành để quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản
lý hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một
số đối tượng cụ thể [12].
QĐHC bao gồm ba loại là quyết định chủ đạo, quyết định quy phạm, và
quyết định cá biệt. Theo quy định của Luật khiếu nại thì QĐHC là đối tượng
của khiếu nại chỉ bao gồm các QĐHC cá biệt, đó là các QĐHC chỉ được áp
dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể
trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Khoản 9 Điều 2 Luật Khiếu nại quy định hành vi hành chính là “hành
vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo
quy định của pháp luật [12].
Do vậy, không phải mọi hành vi của CQHCNN, người có thẩm quyền
trong CQHCNN đều được coi là HVHC, mà chỉ những hành vi của
CQHCNN, người có thẩm quyền trong CQHCNN khi thực hiện nhiệm vụ,
công vụ trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước mới được coi là HVHC.
Trong đó, công vụ là những hoạt động được tiến hành thường xuyên, mang
tính quyền lực nhà nước, chủ yếu do đội ngũ công chức chuyên nghiệp thực
hiện, nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước, vì lợi ích nhà nước, xã hội
và lợi ích chính đáng của các tổ chức, cá nhân. Còn nhiệm vụ là công việc cụ

thể phải làm vì một mục đích nhất định trong một khoảng thời gian nhất định.
Bốn là, chủ thể của khiếu nại, theo khoản 2,4 Điều 2, khoản 1 Điều 3
Luật Khiếu nại và Điều 2 Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật khiếu nại thì chủ thể có
quyền khiếu nại bao gồm: Công dân; cán bộ, công chức; cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân; cơ quan, tổ chức, cá nhân

13
nước ngoài tại Việt Nam trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác [2, Điều 2]
Cụ thể là, công dân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì tự mình
khiếu nại: Chủ thể có quyền khiếu nại là người chưa thành niên, người bị mất
năng lực hành vi dân sự thì quyền khiếu nại này sẽ do người đại diện (cha,
mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột có năng lực hành vi dân sự đầy đủ hoặc
người giám hộ) của họ thực hiện. Chủ thể có quyền khiếu nại là người ốm
đau, già yếu, có nhược điểm về thể chất hoặc vì lý do khách quan khác mà
không thể tự mình khiếu nại thì có thể ủy quyền cho cha, mẹ, vợ, chồng, con
đã thành niên, anh, chị, em ruột hoặc người khác có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ để thực hiện việc khiếu nại (Điểm a khoản 1 Điều 12 Luật khiếu nại).
Cơ quan thực hiện quyền khiếu nại thông qua người đại diện là thủ
trưởng cơ quan. Tổ chức thực hiện quyền khiếu nại thông qua người đứng đầu
tổ chức đó (theo Điều lệ hoặc quyết định thành lập của tổ chức).
Như vậy, pháp luật hiện hành đã quy định khá cụ thể về chủ thể có
quyền khiếu nại, chủ thể thực hiện quyền khiếu nại và vấn đề ủy quyền,
quyền nhờ luật sư của người khiếu nại.
Năm là, khiếu nại được thực hiện theo thủ tục hành chính được quy
định trong Luật khiếu nại và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thủ tục giải quyết khiếu nại có thể hiểu là trình tự tiến hành các công
việc phải làm của chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong việc giải

quyết một vụ việc khiếu nại kể từ khi thụ lý cho đến khi ra quyết định giải
quyết khiếu nại và thực hiện xong quyết định giải quyết khiếu nại theo quy
định của pháp luật.
Giải quyết khiếu nại là một quá trình phức tạp vì vậy nó phải được tiến
hành theo thủ tục do pháp luật quy định. Việc giải quyết khiếu nại thông
thường phải tuân thủ các bước sau:

14
Thứ nhất, nhận đơn, phân loại đơn và thụ lý để giải quyết
Thứ hai, thẩm tra, xác minh, thu thập chứng cứ, lập hồ sơ giải quyết
Thứ ba, ra quyết định giải quyết khiếu nại
Thứ tư, thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại
Đây là trình tự pháp lý cần thiết bảo đảm cho việc thực hiện quyền
khiếu nại của công dân trên thực tế.
Sáu là, khiếu nại bao giờ cũng chứa đựng trong đó những dữ liệu chứng
tỏ có sự vi phạm hoặc cho là vi phạm quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ.
Khiếu nại là đề nghị của chính chủ thể khiếu nại, người chịu tác động
trực tiếp của QĐHC, HVHC của chủ thể có thẩm quyền. Việc người khiếu
nại trực tiếp đến khiếu nại hoặc gửi đơn khiếu nại đến cơ quan nhà nước có
thẩm quyền giải quyết có nghĩa là người đó tin chắc rằng quyền và lợi ích
hợp pháp của mình bị xâm hại và đòi hỏi được bảo vệ và khôi phục lại
quyền và lợi ích hợp pháp đó. Vì vậy, việc khiếu nại không phải là hoạt
động mang tính phòng ngừa mà là việc bảo vệ một cách tích cực quyền và
lợi ích của công dân, cơ quan, tổ chức. Pháp luật hiện hành nghiêm cấm mọi
hành vi cản trở việc thực hiện quyền khiếu nại như: đe dọa, trả thù, trù dập
người khiếu nại.
Ngoài ra, khiếu nại còn hàm chứa trong nó yêu cầu khôi phục quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức; và sự phê phán các cơ quan,
tổ chức, người có thẩm quyền đã ra QĐHC, hay thực hiện HVHC bị khiếu nại.
1.2. Giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nƣớc

1.2.1. Khái niệm giải quyết khiếu nại
Việc các CQHCNN có thẩm quyền xem xét và giải quyết khiếu nại là
một biện pháp hữu hiệu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân, cơ
quan, tổ chức, bảo vệ lợi ích nhà nước và xã hội, thông qua đó phát hiện và
khắc phục kịp thời những thiếu sót, sai lầm trong hoạt động của bộ máy hành
chính nhà nước.

15
Khoản 11 Điều 2 Luật khiếu nại đã đưa ra khái niệm “giải quyết khiếu
nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại”.
[12]. Theo cách lý giải này thì giải quyết khiếu nại là một quy trình bao gồm
các bước như xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết đối với một vụ
việc khiếu nại.
Theo Từ điển luật học của Bộ tư pháp thì giải quyết khiếu nại là:
Xem xét, xác minh, kết luận và ra quyết định theo trình tự,
thủ tục do luật định các khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành
vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, đề nghị xem xét lại quyết
định hành chính hoặc hành vi hành chính đó khi có căn cứ cho rằng
quyết định, hành vi hành chính đó là trái pháp luật, xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của người đưa đơn khiếu nại [31, tr.286].
Trên cơ sở các quy định của pháp luật về Khiếu nại và đặc trưng của
hoạt động quản lý hành chính nhà nước, TS Trần Văn Sơn đã đưa ra khái niệm
giải quyết khiếu nại của các CQHCNN là:
Hoạt động kiểm tra, xác minh, kết luận về tính hợp pháp, tính
hợp lý của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại
thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước
để có biện pháp giải quyết theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức và lợi ích
chung của nhà nước và xã hội [15, tr.24].

Giải quyết khiếu nại là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nước,
thuộc chức năng của CQHCNN, được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Hoạt động giải quyết khiếu nại được pháp luật hiện hành quy định khá chặt
chẽ về thẩm quyền giải quyết, trình tự thủ tục cũng như thời hạn, thời hiệu và
trách nhiệm của các cơ quan có liên quan. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại

16
của CQHCNN là tổng thể các quyền, nghĩa vụ pháp lý của CQHCNN trong
việc giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật. Dưới góc độ là quyền,
giải quyết khiếu nại là cơ hội cho các chủ thể xem xét lại các QĐHC, HVHC
mà mình đã ban hành hoặc thực hiện. Từ đó, tăng cường tính tự giác, tinh
thần trách nhiệm của chính mình. Bên cạnh đó, đây cũng là cơ hội để sửa
chữa những sai lầm trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước của các chủ
thể có thẩm quyền. Dưới góc độ là nghĩa vụ, khi có QĐHC, HVHC sai trái,
người có thẩm quyền phải xem xét, sửa đổi, hoặc hủy bỏ quyết định, chấm
dứt hành vi hành chính gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người khiếu nại.
Xét cho cùng, dù là quyền hay nghĩa vụ thì giải quyết khiếu nại cũng
nhằm mục đích cuối cùng là hướng tới duy trì trật tự quản lý hành chính nhà
nước và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
1.2.2. Một số nguyên tắc của việc giải quyết khiếu nại
Để đảm bảo giải quyết khiếu nại đúng pháp luật, bảo vệ được lợi ích
nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, việc giải
quyết khiếu nại phải được xây dựng và thực hiện theo những nguyên tắc nhất
định do pháp luật quy định. Dựa trên các nguyên tắc cơ bản trong quản lý
hành chính nhà nước và thực tiễn hoạt động giải quyết khiếu nại thì việc
khiếu nại cũng như giải quyết khiếu nại phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
* Nguyên tắc pháp chế:
Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi trước hết là mọi quy định về khiếu nại và
giải quyết khiếu nại phải được xây dựng và ban hành theo đúng thẩm quyền,

trình tự, thủ tục nhất định. Việc giải quyết khiếu nại phải do chủ thể có thẩm
quyền thực hiện, theo đúng trình tự, thủ tục, thời hạn, thời hiệu do pháp luật
quy định. Mọi vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết khiếu nại, bất kể là
do người khiếu nại hay người giải quyết khiếu nại gây ra, đều phải được xử lý

17
nghiêm minh. Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái
pháp luật vào hoạt động giải quyết khiếu nại. Bên cạnh đó, quyết định giải
quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật phải được mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức
tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh.
Luật khiếu nại không ghi rõ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
nhưng tại Điều 4 quy định: Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại phải được
thực hiện theo quy định của pháp luật. Nếu không tuân thủ nguyên tắc pháp
chế sẽ dẫn tới việc giải quyết khiếu nại không hợp pháp, và như vậy, quyết
định giải quyết khiếu nại được ban hành cũng sẽ không có hiệu lực pháp luật
trên thực tế, hoạt động giải quyết khiếu nại bị kéo dài, không đạt được mục
đích của mình.
* Nguyên tắc công tâm, khách quan:
Để đảm bảo nguyên tắc công tâm, đòi hỏi chính những người giải
quyết khiếu nại phải có tâm thật sự trong sáng, không bị chi phối bởi ý
thức chủ quan, không định kiến, xuất phát từ chính yêu cầu thực tiễn khách
quan của hoạt động khiếu nại và giải quyết khiếu nại. Nguyên tắc này cũng
đòi hỏi hoạt động giải quyết khiếu nại phải dựa trên những căn cứ pháp lý
đã được pháp luật quy định. Các quyết định giải quyết khiếu nại được chủ
thể có thẩm quyền ban hành phải dưa trên thực tiễn khách quan, đảm bảo
cả tính hợp pháp, tính hợp lý, có tình và phải được thi hành nghiêm chỉnh
trên thực tế.
Điều 4 Luật khiếu nại nêu rõ: Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại
phải đảm bảo khách quan. Nếu không đảm bảo nguyên tắc này, cơ quan,
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại sẽ rất dễ ban hành những quyết

định giải quyết khiếu nại không đúng, chủ quan, duy ý chí, không hợp lý,
không hợp tình, là nguyên nhân của tình trạng khiếu nại kéo dài.

18
* Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật:
Thủ tục giải quyết khiếu nại có sự tham gia của chủ thể khiếu nại và
chủ thể giải quyết khiếu nại. Tuy nhiên, trong hoạt động quản lý nhà nước,
giữa hai chủ thể này lại là quan hệ bất bình đẳng về ý chí giữa chủ thể sử
dụng quyền lực nhà nước (chủ thể giải quyết khiếu nại) và chủ thể phục tùng
quyền lực nhà nước (chủ thể khiếu nại). Nhưng trước pháp luật cả hai chủ thể
này đều bình đẳng như nhau: Mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền khiếu nại khi
họ cho rằng QĐHC, HVHC của CQHCNN xâm phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Chủ thể khiếu nại cũng như chủ thể giải quyết khiếu nại
đều có quyền đưa ra những căn cứ pháp lý, các tài liệu chứng cứ để chứng
minh trong quá trình giải quyết khiếu nại.
Bên cạnh đó, bất kể là chủ thể sử dụng quyền lực nhà nước hay là chủ
thể phục tùng quyền lực nhà nước khi có những hành vi vi phạm pháp luật
trong khiếu nại và giải quyết khiếu nại thì đều phải chịu trách nhiệm pháp lý
đối với hành vi vi phạm của mình.
* Nguyên tắc công khai, minh bạch:
Công khai, dân chủ vốn là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa của
nước ta. Nguyên tắc này đòi hỏi quá trình ban hành các quy định pháp luật về
khiếu nại, giải quyết khiếu nại phải tạo điều kiện cho mọi chủ thể tham gia
đóng góp ý kiến. Các quy định của pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu
nại phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện và phải được ghi nhận đầy đủ trong
Luật khiếu nại và các văn bản hướng dẫn thi hành. Pháp luật về khiếu nại và
giải quyết khiếu nại phải được tuyên truyền, phổ biến công khai dưới mọi
hình thức, tới mọi tầng lớp nhân dân.
Đồng thời, hoạt động giải quyết khiếu nại phải được thực hiện công
khai ngay từ giai đoạn khởi xướng vụ việc đến khi thi hành quyết định giải

quyết khiếu nại. Các quyết định giải quyết khiếu nại được ban hành phải được
công bố công khai.

19
* Nguyên tắc tiết kiệm, nhanh chóng, kịp thời:
Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính hiện nay của
nước ta, việc giải quyết khiếu nại cũng phải đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm,
nhanh chóng, kịp thời. Nguyên tắc này đòi hỏi CQHCNN, người có thẩm
quyền trong CQHCNN phải giải quyết nhanh chóng, tiết kiệm và gọn nhẹ các
khiếu nại của người dân. Tránh tình trạng cán bộ lợi dụng cố tình chây ì, gây
phiền hà, sách nhiễu người dân. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi CQHCNN phát
hiện, ngăn ngừa và xử lý nhanh chóng, kịp thời trong thời hạn pháp luật quy
định những vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, lợi ích nhà nước và xã hội.
Như vậy, để đảm bảo đúng pháp luật, bảo vệ được lợi ích nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, việc giải quyết
khiếu nại phải được xây dựng và thực hiện theo những nguyên tắc chủ yếu và
cơ bản trên.
1.3. Thẩm quyền và thủ tục giải quyết khiếu nại của cơ quan hành
chính nhà nƣớc
1.3.1. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước
Thẩm quyền, về mặt pháp lý, là “tổng thể những quyền, nghĩa vụ mang
tính quyền lực – pháp lý do pháp luật quy định” [5, tr.801]. Thẩm quyền giải
quyết khiếu nại của CQHCNN là tổng thể các quyền, nghĩa vụ pháp lý của
CQHCNN trong việc giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật. Đây là
phương tiện pháp lý của CQHCNN để thực hiện nhiệm vụ, chức năng được
nhà nước trao.
Luật khiếu nại không trực tiếp quy định nguyên tắc xác định thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, nhưng qua các quy định từ Điều 17 đến Điều 26
thì có thể hiểu thẩm quyền giải quyết khiếu nại được xác định theo nguyên

tắc: người có thẩm quyền do pháp luật quy định có trách nhiệm giải quyết

20
khiếu nại đối với: QĐHC, HVHC của mình; QĐHC, HVHC của người có
trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp; khiếu nại mà cấp dưới trực tiếp đã giải
quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại.
Trên cơ sở nguyên tắc này, thẩm quyền giải quyết khiếu nại được Luật
khiếu nại quy định rất cụ thể, chi tiết đối với cán bộ, công chức giữ những
cương vị khác nhau ở các cấp khác nhau như sau:
Thứ nhất, thẩm quyền giải quyết khiếu nại của các chức danh trong bộ
máy hành chính nhà nước ở địa phương:
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (gọi chung là UBND
cấp xã); thủ trưởng cơ quan thuộc UBND quận, huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh: có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với QĐHC, HVHC của
mình; của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp [12, Điều 17].
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(gọi chung là UBND cấp huyện): có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối
với QĐHC, HVHC của mình; giải quyết khiếu nại mà Chủ tịch UBND cấp
xã, thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cấp huyện đã giải quyết nhưng còn có
khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được giải
quyết [12, Điều 18].
Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương: có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại đối với QĐHC, HVHC của mình; của cán bộ, công chức do
mình quản lý trực tiếp [12, Điều 19].
Giám đốc sở và cấp tương đương: có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại đối với QĐHC, HVHC của mình, của cán bộ, công chức do mình quản
lý trực tiếp; giải quyết khiếu nại lần hai đối với QĐHC, HVHC của thủ
trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương đã giải quyết lần đầu nhưng
còn có khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được
giải quyết [12, Điều 20].

×