Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Thực hiện pháp luật bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THU HẰNG




THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BÌNH ĐẲNG
GIỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Chu Hồng Thanh




HÀ NỘI – 2012



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ CHÍNH TRỊ PHÁP LÝ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BÌNH
ĐẲNG GIỚI 8
1.1. Những khái niệm cơ bản về bình đẳng giới 8
1.1.1. Khái niệm giới tính và đặc điểm của giới tính 9
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của giới và bình đẳng giới 9
1.1.3. Pháp luật và thực hiện pháp luật bình đẳng giới 14
1.1.4. Một số khái niệm khác 14
1.2. Quá trình hình thành, phát triển của pháp luật bình đẳng giới và
thực hiện pháp luật bình đẳng giới ở Việt Nam 16
1.2.1. Giai đoạn trước cách mạng tháng 8 năm 1945 17
1.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1954 18
1.2.3. Giai đoạn từ 1954 đến 1975 19
1.2.4. Giai đoạn từ 1975 đến nay 21
1.3. Pháp luật hiện hành về bình đẳng giới và các biện pháp bảo đảm
thực hiện pháp luật bình đẳng giới ở Việt Nam 23
1.3.1. Hệ thống pháp luật hiện hành về bình đẳng giới của Việt Nam 23
1.3.2. Các nguyên tắc cơ bản trong việc thực hiện bình đẳng giới 25
1.3.2.1. Nguyên tắc nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội và gia đình 25
1.3.2.2. Nguyên tắc nam nữ không bị phân biệt đối xử về giới 26
1.3.2.3. Nguyên tắc biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới không bị coi là
phân biệt đối xử về giới 27
1.3.2.4. Nguyên tắc chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ không bị coi là
phân biệt đối xử về giới 28



1.3.2.5. Nguyên tắc bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây
dựng và thực thi pháp luật 28
1.3.2.6. Nguyên tắc thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức, gia đình, cá nhân 29
1.3.3. Các biện pháp bảo đảm thực hiện pháp luật bình đẳng giới
ở Việt Nam 30
1.3.3.1. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới 30
1.3.3.2. Bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật 31
1.3.3.3. Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật 31
1.3.3.4. Thẩm tra lồng ghép về bình đẳng giới 32
1.3.3.5. Thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới 32
1.3.3.6. Biện pháp bảo đảm thực hiện pháp luật bình đẳng giới bằng
nguồn tài chính 33
1.4. Pháp luật quốc tế về bình đẳng giới và việc thực hiện pháp luật quốc
tế về bình đẳng giới qua Công ƣớc CEDAW tại Việt Nam 34
1.4.1. Pháp luật quốc tế về bình đẳng giới 34
1.4.2. Việc thực hiện pháp luật quốc tế về bình đẳng giới qua Công ước
CEDAW tại Việt Nam 35
Tiểu kết chƣơng 1 37
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 40
2.1. Những thành tựu Việt Nam đã đạt đƣợc trong việc thực hiện bình
đẳng giới 40
2.1.1. Thực hiện pháp luật bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị 40
2.1.2. Thực hiện pháp luật bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế 45


2.1.3. Thực hiện pháp luật bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động 47

2.1.4. Thực hiện pháp luật bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học và
công nghệ 50
2.1.5. Thực hiện pháp luật bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế 51
2.1.6. Thực hiện pháp luật bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hoá, thông
tin, thể dục, thể thao 53
2.1.7. Thực hiện pháp luật bình đẳng giới trong gia đình 57
2.2. Những bất cập của pháp luật về bình đẳng giới và hạn chế trong thực
hiện pháp luật bình đẳng giới 60
2.2.1. Những bất cập của pháp luật về bình đẳng giới 60
2.2.1.1. Pháp luật bình đẳng giới còn có những quy định chung chung
chưa cụ thể 60
2.2.1.2. Pháp luật bình đẳng giới còn những quy định chưa thống nhất,
đồng bộ 61
2.2.1.3. Pháp luật bình đẳng giới còn thiếu những quy định ngăn chặn,
xử lý tình trạng ngược đãi, phân biệt đối xử với phụ nữ 62
2.2.1.4. Pháp luật bình đẳng giới còn có những quy định chưa bảo đảm
khả thi trong thực tế 64
2.2.2. Những hạn chế trong thực hiện pháp luật bình đẳng giới 67
2.3. Nguyên nhân của những bất cập và hạn chế trong thực hiện pháp
luật bình đẳng giới 69
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 74
3.1. Phƣơng hƣớng tiếp tục thực hiện pháp luật bình đẳng giới ở Việt
Nam hiện nay 74
3.1.1. Tăng cường thực hiện Luật Bình đẳng Giới và Chiến lược quốc gia
về bình đẳng giới 74


3.1.2. Tăng cường sự tham gia của nam giới khi tham gia giải quyết các
vấn đề về giới 75

3.1.3. Tích cực huy động sự tham gia của các đoàn thể 76
3.1.4. Tăng cường hoạt động đào tạo và các cơ chế khuyến khích phụ nữ 77
3.2. Giải pháp thực hiện pháp luật bình đẳng giới 78
3.2.1. Thực hiện cơ chế liên ngành về bình đẳng giới 78
3.2.2. Tổ chức thực hiện và tuyên truyền giáo dục về pháp luật bình
đẳng giới 79
3.2.3. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát và có chế tài xử lý vi phạm
về bình đẳng giới 82
3.2.4. Xóa bỏ định kiến giới, tạo ra cái nhìn mới về giới và bình đẳng
giới 83
3.2.5. Rà soát, sửa đổi các văn bản liên quan tới bình đẳng giới 84
3.2.6. Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới 92
3.2.7. Kiện toàn bộ máy quốc gia về bình đẳng giới 95
3.2.8. Hợp tác quốc tế về bình đẳng giới 96
3.2.9. Kinh phí cho hoạt động bình đẳng giới 96
Tiểu kết chƣơng 3 97
KẾT LUẬN 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
PHỤ LỤC 104
1


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp tiết của đề tài
Bình đẳng giới là khát vọng chung của nhân loại, là một mục tiêu quan
trọng trong các văn kiện quốc tế về quyền con người và là một trong những tiêu
chí quan trọng để đánh giá sự phát triển của một xã hội, của một đất nước. Từ
đó, vừa là mục tiêu của sự phát triển vừa là yếu tố để nâng cao khả năng tăng
trưởng kinh tế Quốc gia. Đối với Việt Nam sự tiến bộ của phụ nữ là một yếu tố

quan trọng để thực hiện được mục tiêu bình đẳng giới thực chất và rất cần thiết
để tạo điều kiện cho xã hội phát triển ổn định và bền vững. Trong thời gian gần
đây vấn đề bình đẳng giới không chỉ ở Việt Nam mà còn được cả cộng đồng
quốc tế đặc biệt quan tâm. Bởi vì thực tế tình trạng bất bình đẳng giới đã và
đang diễn ra phổ biến, đây là một trong những nguyên nhân hạn chế quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. Bất bình đẳng giới cũng là nguyên nhân làm tăng đói
nghèo, cản trở việc chăm sóc sức khỏe dân cư, hạn chế các cơ hội tăng thu
nhập,…và gây nên hàng loạt tổn thất khác cho xã hội. Việc Việt Nam ban hành
Luật Bình đẳng giới (được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 29/11/2006 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/7/2007) đã thể hiện
quyết tâm của Việt Nam trong việc xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với
nam, nữ đồng thời khẳng định những bảo đảm pháp lý khi Việt Nam thực hiện
các cam kết quốc tế về quyền con người. Cho đến nay, nhà nước ta đã có một hệ
thống văn bản pháp luật khá đầy đủ điều chỉnh về bình đẳng giới trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, phòng
chống hành vi xâm phạm đến quyền bình đẳng giới như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật
Hình sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ bà mẹ và trẻ em, Luật Bình
đẳng giới, một số luật khác và các văn bản dưới luật có liên quan. Ngoài ra, còn
có cả những quy phạm pháp luật được ban hành với mục đích ban đầu nhằm bảo
2


vệ quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ nhưng thực tế tác động của nó mang
lại cho phụ nữ không ít bất công, thiệt thòi như chế độ học phí, chế độ nghỉ thai
sản… Bên cạnh đó, một số chế tài pháp luật chưa nghiêm đối với những hành vi
vi phạm quyền, nhân phẩm phụ nữ, quyền trẻ em…Trên thực tế tình trạng bất
bình đẳng giới vẫn tồn tại và giữa quy định của pháp luật với việc thực thi vẫn là
một khoảng cách khá xa. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu các quy định về bình
đẳng giới không chỉ là yêu cầu của các nhà nghiên cứu khoa học mà còn là nhu
cầu thiết thực của từng công dân trong xã hội. Với ý nghĩa đó, nhằm góp phần

giúp mọi đối tượng có cái nhìn bao quát, toàn diện về quyền bình đẳng giới cũng
như pháp luật bình đẳng giới, tác giả chọn đề tài: “Thực hiện pháp luật bình
đẳng giới ở Việt Nam hiện nay”.
Với đề tài này tác giả muốn được góp một phần công sức nhỏ bé vào việc
hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới và hy vọng góp phần tháo gỡ những khó
khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về bình
đẳng giới ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục tiêu của đề tài
- Nghiên cứu cơ sở chính trị pháp lý về bình đẳng giới.
- Hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận của pháp luật bình đẳng giới.
- Nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật bình đẳng giới ở Việt Nam
hiện nay, đánh giá những thành tựu, những hạn chế trong xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về bình đẳng giới và những nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Đề xuất, kiến nghị các giải pháp chủ yếu để hoàn thiện pháp luật bảo bình
đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.
3. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua đã có một số công trình khoa học liên quan đến đề tài
nghiên cứu của luận văn, tiêu biểu là:
3


Nguyễn Thị Báo (2003), “Quyền bình đẳng của phụ nữ trong sự nghiệp và
cuộc sống” , Lý luận chính trị (10) (tr 39-44). Lê Ngọc Toàn (2005), “Công tác
tư tưởng với mục tiêu bình đẳng giới”, Tư tưởng văn hóa (6), (tr 27-29). Trịnh
Đình Thể (2007) “Suy nghĩ về bình đẳng giới dưới góc nhìn pháp luật”, NXB
Tư pháp, Hà Nội. GS Lê Thi (2011), “Vài nét bàn về việc thực thi công bằng,
dân chủ và bình đẳng nam nữ ở Việt Nam hiện nay”, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội. Dương Thị Ngọc Lan (2000) “Hoàn thiện pháp luật về quyền lao động nữ
ở Việt Nam hiện nay”, Chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp
luật. Trần Thị Quốc Khánh (2012) “Hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt

Nam” Chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật, đề tài khoa học
“Những vấn đề lý luận cơ bản về giới và kinh nghiệm giải quyết vấn đề giới ở
một số nước” của tác giả Ngô Thị Tuấn Dung làm chủ nhiệm, năm 2007 và
nhiều bài viết đăng trên các tạp chí có liên quan.
Trong cuốn “Suy nghĩ về bình đẳng giới dưới góc nhìn pháp luật” của tác
giả Trịnh Đình Thể (XNB Tư pháp năm 2007) tác giả đã tập trung đi sâu nghiên
cứu chủ trương bình đẳng giới của Đảng ta, bình đẳng dưới góc độ pháp luật,
thực tiễn tư pháp đã áp dụng để góp phần bảo đảm quyền bình đẳng giới, từ đó
tác giả rút ra một số vấn đề về việc thực hiện chính sách bình đẳng giới qua thực
tiễn. Giáo sư Lê Thi trong cuốn “Vài nét bàn về việc thực thi công bằng, dân chủ
và bình đẳng nam nữ ở Việt Nam hiện nay” đã đi từ quan niệm về công bằng,
bình đẳng và dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội và trên cơ sở làm rõ những
điều kiện để thực hiện chúng, tác giả đã luận giải việc thực hiện nguyên tắc công
bằng, dân chủ và bình đẳng xã hội với tư cách cơ sở nền tảng để thực hiện bình
đẳng giới. Tập trung phân tích vấn đề công bằng và bình đẳng về cơ hội, tác giả
bài viết đã làm rõ vai trò của nhà nước trong việc tạo ra các cơ hội về kinh tế,
chính trị, cơ hội tiếp cận với các quỹ phúc lợi công cộng. Làm rõ thực trạng việc
thực hiện công bằng, dân chủ và bình đẳng giới ở Việt Nam, chỉ ra những bất
4


cập giữa luật pháp, các chính sách của Nhà nước và việc thực thi những vấn đề
này trên thực tế, tác giả bài viết đã nêu lên những nguyên nhân khách quan, chủ
quan của nó và đề xuất một số kiến nghị với Nhà nước. Luận văn của Dương
Thị Ngọc Lan: “Hoàn thiện pháp luật về quyền lao động nữ ở Việt Nam hiện
nay”, Chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, đã tập trung
nghiên cứu các quy định của pháp luật lao động từ đó chỉ ra những bất cập, hạn
chế, những kẽ hở của pháp luật lao động và tìm ra giải pháp hoàn thiện pháp luật
góp phần thực hiện bình đẳng nữ. Những công trình nêu trên chỉ mới đề cập một
số khía cạnh liên quan đến bình đẳng giới và pháp luật về quyền của phụ nữ.

Trong khi tác giả đang hoàn thiện Luận văn này thì được biết cũng có một
Luận án tiến sỹ cũng nghiên cứu về vấn đề này, Trần Thị Quốc Khánh: “Thực
hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam” Chuyên ngành Lý luận và Lịch sử
Nhà nước và Pháp luật.
Tuy nhiên, qua so sánh, đối chiếu giữa bản Luận văn của tác giả với bản Luận
án của nghiên cứu sinh Trần Thị Quốc Khánh cho thấy hướng nghiên cứu hoàn
toàn có sự khác nhau. Luận án nghiên cứu theo hướng xuất phát từ cơ sở lý luận
của việc thực hiện pháp luật bình đẳng giới qua phân tích các đặc điểm, yêu cầu
thực hiện pháp luật bình đẳng giới, phân tích, so sánh kinh nghiệm việc thực hiện
pháp luật về bình đẳng giới ở một số nước trên thế giới, qua đó chỉ ra thực trạng
việc thực hiện pháp luật bình đẳng giới trong thời gian rất dài từ năm 1945 đến
nay (khoảng 65 năm), có tính đến đặc thù của các loại địa bàn; trên cơ sở đó Luận
án đưa ra các quan điểm và giải pháp thực hiện pháp luật bình đẳng giới ở Việt
Nam.
Luận văn của tác giả tập trung nghiên cứu theo hướng xuất phát từ cơ sở
chính trị pháp lý của việc thực hiện pháp luật bình đẳng giới qua việc đánh giá khái
quát quá trình hình thành, phát triển của pháp luật bình đẳng giới và thực hiện pháp
luật bình đẳng giới ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử; khái quát hệ thống pháp
5


luật hiện hành về bình đẳng của Việt Nam hiện nay, hệ thống pháp luật quốc tế về
bình đẳng giới và việc thực hiện pháp luật quốc tế về bình đẳng giới ở Việt Nam
qua Công ước CEDAW, từ đó làm cơ sở để đánh giá thực trạng thực hiện pháp
luật bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay qua việc chỉ ra những thành tựu và bất
cập trong thực hiện pháp luật bình đẳng giới. Trên cơ sở đánh giá thực trạng thực
hiện pháp luật bình đẳng giới, Luận văn đã đề xuất một số phương hướng và giải
pháp thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. Luận văn không đánh giá việc
thực hiện pháp luật bình đẳng giới trong khoảng thời gian dài mà chỉ tập trung đánh
giá những thành tựu và hạn chế từ khi có Luật bình đẳng giới, các số liệu báo cáo

cũng chỉ tập trung phân tích từ năm 2005 đến nay, điểm khác biệt về phạm vi
nghiên cứu nêu trên thể hiện ngay từ tên của đề tài.
Thiết nghĩ, cùng một vấn đề khoa học có nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu theo
hướng khác nhau từ góc nhìn khác nhau. Toàn bộ nội dung của Luận văn của tác
giả không có sự sao chép hay trùng lặp với Luận án. Hai công trình nghiên cứu
hoàn toàn khác biệt về đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, mục đích nghiên
cứu, cách trình bày cũng như bố cục và nội dung. Đây là công trình nghiên cứu
độc lập và có hệ thống về thực hiện pháp luật bình đẳng giới. Do đó, Luận văn vẫn
có những đóng góp mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề có tính lý luận và thực
tiễn về pháp luật Bình đẳng giới tại Việt Nam trong thời gian qua, những
phương hướng và những giải pháp chủ yếu để từng bước hoàn thiện pháp luật
Bình đẳng giới trong thời gian tới.
Phạm vi nghiên cứu bao gồm phạm vi về nội dung nghiên cứu và thời gian
nghiên cứu.
- Về nội dung, đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về khung
của pháp luật Bình đẳng giới cũng như quá trình hình thành và phát triển của
pháp luật Bình đẳng giới ở Việt Nam; Nghiên cứu và phân tích những thành tựu
6


và những tồn tại, bất cập của pháp luật Bình đẳng giới để đưa ra những kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Bình đẳng giới Việt Nam trong thời gian tới.
- Về thời gian, đề tài được thực hiện từ tháng 10 năm 2011 đến tháng 10
năm 2012. Trong quá trình thực hiện, các tài liệu được thu thập trong giai đoạn
từ năm 2005 đến năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận Mác -
Lê Nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và các quan

điểm của Đảng, Nhà nước ta về về hoàn thiện hệ thống pháp luật và xây dựng
Nhà nước pháp quyền và về vấn đề bình đẳng giới, đề tài tập trung nghiên cứu,
phân tích các quan điểm khoa học có liên quan để giải quyết một số vấn đề lý
luận cơ bản về pháp luật bình đẳng giới.
Đề tài còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh để nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành, thực tiễn áp dụng
pháp luật và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật bình
đẳng giới trong thời gian tới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả nhằm ngăn chặn và xử
lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật bình đẳng giới, tăng cường trật
tự kỷ cương trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
6. Ý nghĩa khoa học và đóng góp của luận văn
Trong thời gian qua đã có một số đề tài, luận văn nghiên cứu về pháp luật
bình đẳng giới, tuy nhiên những đề tài này chỉ đề cập đến một số khía cạnh này
hay khía cạnh khác của bình đẳng giới mà chưa có Đề tài nào nghiên cứu một
cách có hệ thống vấn đề thực hiện pháp luật bình đẳng giới ở Việt Nam. Vì vậy,
đây là một công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu pháp luật một cách tương
đối toàn diện về thực hiện pháp luật bình đẳng giới ở Việt Nam.
Luận văn không những chỉ rõ được những bất cập trong các quy định của
pháp luật Bình đẳng giới mà còn tìm ra được những hạn chế trong thực tiễn thực
hiện pháp luật bình đẳng giới, từ đó đưa ra những giải pháp có thể là ý kiến đóng
7


góp cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực hiện pháp luật bình đẳng giới
ở Việt Nam.
Luận văn hoàn thành có thể làm tài liệu tham khảo, vận dụng trong quá
trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở
Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, những kết quả của luận văn có thể được vận dụng
làm tài liệu nghiên cứu về bình đẳng giới và xây dựng pháp luật về bình đẳng
giới trong giai đoạn hội nhập quốc tế. Đồng thời luận văn góp phần hệ thống

hóa, bổ sung lý luận về pháp luật Bình đẳng giới ở Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở chính trị pháp lý thực hiện pháp luật bình đẳng giới.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật bình đẳng giới ở Việt Nam
hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp tiếp tục thực hiện pháp luật bình
đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.
Kết luận
8


Chƣơng 1
CƠ SỞ CHÍNH TRỊ PHÁP LÝ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
BÌNH ĐẲNG GIỚI

1.1. Những khái niệm cơ bản về bình đẳng giới
Phụ nữ là một nửa của thế giới, là mối quan tâm lớn của nhiều chính khách,
các đảng phái chính trị của mọi quốc gia. Ngày nay, trên thế giới, mặc dù đã có
nhiều quốc gia đạt được những tiến bộ quan trọng trong sự nghiệp giải phóng
phụ nữ song từ trước đến nay chưa ở nước nào phụ nữ được đối xử bình đẳng
xứng đáng với phẩm giá và vai trò của họ “Chưa một quốc gia nào trên thế giới
được công nhận đã đạt được bình đẳng giới" [24]. Bất bình đẳng giới là căn
nguyên của phân biệt đối xử, lạm dụng và bóc lột và bóc lột phụ nữ.
Ở Việt Nam, ghi nhận và bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ là vấn đề luôn
được Đảng và nhà nước quan tâm, thể hiện trong các chính sách, pháp luật nhất
quán. Ngay từ khi thành lập Đảng (03/02/1930) quan điểm “nam nữ bình quyền”
được xác định là một trong mười nhiệm vụ quan trọng yếu của cách mạng Việt
Nam trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Đó cũng chính là quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định vị trí vai

trò của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, Người luôn
căn dặn các cấp uỷ Đảng, cơ quan, đơn vị phải quan tâm chăm lo công tác vận
động phụ nữ, đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ, vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
Nhận định vai trò, vị trí của phụ nữ trong xã hội, Người khẳng định: “ Nói phụ
nữ là nói phần nửa của xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải
phóng loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ thì giải phóng phụ nữ là xây
dựng xã hội chủ nghĩa một nửa” [20]. Quan điểm đó luôn được quán triệt trong
các văn kiện, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng qua các thời kỳ.
9


1.1.1. Khái niệm giới tính và đặc điểm của giới tính
Dưới góc độ khoa học pháp lý, khái niệm giới tính lần đầu tiên được quy
định cụ thể tại Điều 5 khoản 2 Luật Bình đẳng giới “Giới tính chỉ các đặc điểm
sinh học của nam, nữ”. Như vậy, khi nói đến giới tính là nói tới các đặc điểm về
cấu tạo cơ thể, liên quan đến chức năng sinh sản của phụ nữ và nam giới. Đây là
những đặc điểm mà phụ nữ và nam giới không thể hoán đổi cho nhau. Giới tính
có đặc điểm sau:
Thứ nhất, giới tính là đặc trưng sinh học, được hình thành một cách tự
nhiên, con người sinh ra đã có. Nó là sản phẩm của quá trình di truyền, tiến hóa
sinh học rất lâu dài.
Thứ hai, giới tính có đặc điểm đồng nhất, giống nhau trên toàn thế giới. Ví
dụ như ở bất cứ nơi đâu trên Thế giới phụ nữ đều có thể sinh con, cho con bú,
còn nam giới thì không có khả năng này. Giới tính có những biển hiện về thể
chất có thể quan sát trong cấu tạo, giải phẫu, sinh lý người (giữa nam và nữ có
những đặc điểm khác nhau về gen, cơ quan nội tiết, hoóc môn, cơ quan sinh
dục…). Đồng thời, giới tính gắn liền với một số chức năng sinh học, đặc biệt là
chức năng tái sản xuất con người.
Thứ ba, giới tính bất biến không thay đổi về mặt không gian và thời gian.
Thứ tư, giới tính nam và giới tính nữ không thể thay đổi cho nhau trong

một quan hệ xã hội cụ thể.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của giới và bình đẳng giới
Giới là khái niệm ra đời từ môn xã hội học, là phạm trù chỉ quan niệm, vai
trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ nữ, xã hội tạo ra và gán cho trẻ
em gái và trẻ em trai, cho phụ nữ và nam giới các đặc điểm giới khác nhau. Bởi
vậy, các đặc điểm giới rất đa dạng và có thể thay đổi được. Nói về giới là nói về
vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quan niệm hay quy định cho nam
giới và phụ nữ. Tại khoản 1 điều 5 Luật bình đẳng giới quy định: “giới chỉ đặc
10


điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội” [34, điều 1
khoản 5]. Giới là đặc trưng văn hóa, xã hội của đời sống nam và nữ, giới có
những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, giới là đặc điểm xã hội, nó không mang tính bẩm sinh như giới tính
mà nó được hình thành trong môi trường xã hội, môi trường giáo dục. Ví dụ ngày
nhỏ các em nam thường được giáo dục là con trai phải mạnh mẽ, không được khóc,
không được mặc váy, không được đánh phấn, được cha mẹ cho chơi các trò chơi
như: Đá bóng, chơi cù, chơi khăng còn các em gái thì thường được giáo dục là
phải dịu dàng, hiền thục, được mặc váy, chơi búp bê, được đánh phấn và thường
chơi những trò chơi như: Nhảy dây, chơi chuyền, Như vậy, sở dĩ có sự khác nhau
đó là do cách giáo dục. Điều này, có nghĩa theo quan điểm giới, về mặt xã hội,
nam và nữ hoàn toàn bình đẳng với nhau, sự khác biệt hai giới chỉ là do nhân
tạo, do quan niệm, do giáo dục, do truyền thống và quyền lực chính trị ở các thời
đại tạo nên.
Thứ hai, khác với giới tính, giới có tính đa dạng, có sự khác nhau ở các
vùng, các quốc gia. Ví dụ như ở một số quốc gia hồi giáo, phụ nữ chỉ đóng vai
trò là người nội trợ, họ không trực tiếp tạo ra thu nhập và của cải cho xã hội,
trong khi đó ở một số quốc gia Châu Á thì phụ nữ lại là lượng lao động chính
trong gia đình và xã hội, còn ở Châu Âu thì phụ nữ lại tham gia nhiều vào các

hoạt động chính trị, hoạt động xã hội,
Thứ ba, giới có thể thay đổi dưới tác động của các yếu tố xã hội, nó luôn
luôn vận động không ngừng theo không gian và thời gian. Điều kiện kinh tế - xã
hội quy định sự phát triển của giới trong xã hội.
Thứ tư, giới nam (đặc điểm, vị trí, vai trò của nam trong quan hệ xã hội) và
giới nữ (đặc điểm, vị trí, vai trò của nữ trong quan hệ xã hội) có thể thay đổi vai
trò trong một quan hệ xã hội cụ thể. Ví dụ, trong gia đình phụ nữ thường đảm
nhận công việc nội trợ nhưng nam giới cũng có thể giặt giũ, chăm sóc con cái
11


và nấu ăn ; ngoài xã hội phụ nữ thường đóng vai trò là cấp dưới và là người
thừa hành nhưng phụ nữ cũng có thể giữ các cương vị như tổng thống hay chủ
tịch nước.
Từ những đặc điểm trên cho chúng ta thấy sự phân biệt giữa khái niệm giới
với khái niệm giới tính. Sự phân biệt hai khái niệm “giới tính” và “giới” nhằm
phân biệt hai loại đặc điểm của phụ nữ và nam giới: Một loại đặc điểm do yếu tố
sinh học quy định - đặc điểm giới tính, loại đặc điểm thứ hai do quan niệm xã
hội và sự phân công lao động xã hội tạo nên - đặc điểm giới. Như vậy, muốn đạt
đến vấn đề bình đẳng giới tức là bình đẳng xã hội giữa nam và nữ thì vấn đề
không phải là thay đổi các đặc điểm về giới tính, mà cần phải thay đổi quan
niệm về vị trí, vai trò của phụ nữ và nam giới cũng như thay đổi những định kiến
về giới, thay đổi về cách phân công lao động trong xã hội.
Bình đẳng giới theo quan niệm xã hội học là sự đối xử ngang quyền giữa
hai giới nam và nữ, cũng như giữa các tầng lớp phụ nữ trong xã hội, có xét đến
đặc điểm riêng của nữ giới, được điều chỉnh bởi các chính sách đối với phụ nữ
một cách hợp lý. Hay nói cách khác, bình đẳng giới là sự thừa nhận, sự coi trọng
ngang nhau đối với các đặc điểm giới tính và sự thiết lập các cơ hội ngang nhau
đối với nữ và nam trong xã hội.
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, các thuật ngữ “bình đẳng nam nữ”, “nam

nữ bình quyền” đã được sử dụng trong các văn bản pháp luật để thể hiện sự bình
đẳng về địa vị pháp lý của nam nữ trong các quan hệ pháp luật cụ thể. Tuy
nhiên, việc nam nữ bình đẳng về địa vị pháp lý không bao hàm sự bình đẳng của
nam và nữ trong tất cả các quan hệ xã hội. Thuật ngữ "Bình đẳng giới" lần đầu
tiên được quy định tại Điều 5 Khoản 3 Luật Bình đẳng giới, bình đẳng giới được
hiểu “là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội
phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ
hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.
12


Bình đẳng giới là mục tiêu và thước đo tiến độ phát triển của một xã hội và
là một tiêu chí văn hóa. Sự bình đẳng giới được thể hiện ở nhiều phương diện,
cụ thể như: Bình đẳng trong đối xử, bình đẳng về cơ hội, bình đẳng về hưởng
thụ, lợi ích, bình đẳng trong kiểm soát và ra quyết định Như vậy, bình đẳng
giới không chỉ đơn giản là số lượng của phụ nữ và nam giới, hay trẻ em trai
và trẻ em gái tham gia trong tất cả các hoạt động là như nhau, cũng không có
nghĩa là nam giới và phụ nữ giống nhau, mà bình đẳng giới có nghĩa là nam
giới và phụ nữ được công nhận và hưởng các vị thế ngang nhau trong xã hội.
Nam, nữ có điều kiện bình đẳng để phát huy đầy đủ các tiềm năng của họ, có
cơ hội để tham gia, đóng góp và hưởng lợi bình đẳng khi họ tham gia vào các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội. Ở nhiều quốc gia trên thế giới
trong đó có Việt Nam, xuất phát từ vấn đề quyền con người, Hiến pháp đã ghi
nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ trên mọi phương diện. Điều đó là một
sự tiến bộ lớn, tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở mức độ này, phụ nữ vẫn chưa
được bình đẳng thực sự. Thực tế cho thấy, trong quá trình phát triển, giữa
nam và nữ đã không có cùng một điểm xuất phát, cho nên cơ hội mở ra như
nhau nhưng phụ nữ khó nắm bắt được nó như nam giới. Ví dụ: Trong lĩnh vực
lao động, khi cơ hội tìm việc làm mở ra cho cả nam và nữ thì phụ nữ khó có
thể đón nhận được cơ hội đó như nam giới vì nhiều lý do như: Sức khỏe, do

con nhỏ, do công việc gia đình. Bình đẳng giới thể hiện vị trí, vai trò của nam
và nữ ngang nhau trong các quan hệ xã hội, do đó bình đẳng giới có các đặc
điểm sau:
Thứ nhất, tính ngang quyền: Để đạt được bình đẳng giới, phụ nữ cần được
tạo điều kiện và cơ hội ngang bằng nam giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Ví dụ, cần có quy định như nhau (bình đẳng), chung cho phụ nữ và nam
giới về hưởng thụ các quyền và gánh vác các nghĩa vụ. Đây là các quy định bình
đẳng mang tính tối thiểu, không thể thiếu để đảm bảo về mặt pháp lý quyền bình
13


đẳng nam nữ (công dân nam và nữ đều có quyền bầu cử, ứng cử; có quyền tự do
kinh doanh theo quy định của pháp luật; có quyền tự do kết hôn và tự do ly
hôn ).
Thứ hai, tính ưu đãi: Xuất phát từ những đặc điểm sinh học và do đặc điểm
truyền giống của phụ nữ khác biệt so với nam giới nên để đạt được bình đẳng
giới thì cần có sự đối xử ưu đãi, khuyến khích đặc biệt và hợp lý đối với phụ nữ.
Thứ ba, tính linh hoạt: Bình đẳng giới cần phải hiểu rằng không phải lúc
nào nam và nữ cũng như nhau mà bình đẳng giới cần phải được hiểu linh hoạt
trong những hoàn cảnh cụ thể ví dụ như do đặc điểm của phụ nữ là xét về thể
lực yếu hơn nam giới do đó cần có chính sách ưu tiên trong lao động đối với lao
động nữ nhất là phụ nữ làm việc trong môi trường nặng nhọc, độc hại. Sự đối xử
ưu đãi với phụ nữ cần được điều chỉnh linh hoạt trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ
thể, không mang tính bất biến. Khi khoa học kỹ thuật phát triển, điều kiện lao
động được cải thiện, cần có sự điều chỉnh cho phù hợp nhằm loại bỏ quy định
cấm này đối với các nghành nghề, lĩnh vực đã được cải thiện điều kiện lao động,
để tạo thêm cơ hội có việc làm cho phụ nữ.
Thứ tư, tính phân loại: Trong khi tìm hiểu về bình đẳng giới chúng ta cũng
cần tìm hiểu trên nhiều phương diện khác nhau, đó là không chỉ nhìn nhận bình
đẳng giới trong mối tương quan giữa phụ nữ và nam giới mà còn phải nhìn nhận

trong từng giới nghĩa là bình đẳng còn được xem xét giữa các tầng lớp phụ nữ
thuộc các thành phần xã hội khác nhau trong các vùng lãnh thổ khác nhau, trong
phạm vi quốc gia và trên thế giới. Ví dụ, những quy định tăng độ tuổi nghỉ hưu
đối với phụ nữ thì có thể có lợi cho nữ giới lao động làm việc ở những môi
trường, những công việc nhẹ nhàng như làm văn phòng, giảng dạy, nghiên cứu
hay ngoại giao, nhưng lại bất lợi đối với nữ giới ở khu vực lao động nặng nhọc,
nguy hiểm và phụ nữ nông thôn. Do đó chúng ta cần hiểu bình đẳng giới một
cách linh hoạt để từ đó làm giảm khoảng cách đối xử phân biệt giới.
14


Như vậy bình đẳng giới cần được hiểu dưới các khía cạnh sau:
Thứ nhất, bình đẳng giới không chỉ có ý nghĩa cơ học là số lượng của phụ
nữ và nam giới tham gia trong tất cả các hoạt động là như nhau. Bình đẳng giới
có nghĩa là nam và nữ giới được công nhận và được hưởng các vị thế ngang
nhau trong xã hội.
Thứ hai, bình đẳng giới không có nghĩa là nhìn nhận nam giới và nữ giới
giống y hệt nhau mà sự tương đồng và khác biệt tự nhiên tự nhiên giữa nam và
nữ được công nhận và có giá trị như nhau. Bình đẳng giới có nghĩa là nam và nữ
được hưởng các thành quả một cách bình đẳng.
Hiểu sâu xa thì bình đẳng giới là vấn đề cơ bản về quyền con người và là yêu
cầu về sự phát triển bền vững. Có thể nói, ý nghĩa quan trọng của bình đẳng giới là
nam và nữ có thể trải nghiệm những điều kiện bình đẳng để phát huy đầy đủ các tiềm
năng của họ, có cơ hội để tham gia, đóng góp vào công cuộc phát triển quốc gia
trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.
1.1.3. Pháp luật và thực hiện pháp luật bình đẳng giới
Pháp luật bình đẳng giới là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc
chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận thể hiện ý chí của nhà nước nhằm đảm
bảo việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát
huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ

hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó trên cơ sở giáo dục thiết phục
và cưỡng chế.
Thực hiện pháp luật bình đẳng giới là một quá trình hoạt động có mục đích
làm cho những quy định của pháp luật bình đẳng giới đi vào cuộc sống, trở
thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
1.1.4. Một số khái niệm khác
Phân biệt đối xử về giới là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc
không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
15


Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới là biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng
giới thực chất, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp
có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát
huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các
quy định như nhau giữa nam và nữ không làm giảm được sự chênh lệch này.
Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được thực hiện trong một thời gian nhất
định và chấm dứt khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được.
Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật là biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới bằng cách xác định
vấn đề giới, dự báo tác động giới của văn bản, trách nhiệm, nguồn lực để giải
quyết vấn đề giới trong các quan hệ xã hội được văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh.
Hoạt động bình đẳng giới là hoạt động do cơ quan, tổ chức, gia đình, cá
nhân thực hiện nhằm đạt mục tiêu bình đẳng giới.
Chỉ số phát triển giới (GDI) là số liệu tổng hợp phản ánh thực trạng bình
đẳng giới, được tính trên cơ sở tuổi thọ trung bình, trình độ giáo dục và thu nhập
bình quân đầu người của nam và nữ. Chỉ số phát triển giới (GDI) càng tiến tới
bằng 1 thì càng bình đẳng, và càng lùi về 0 thì càng bất bình đẳng.

Bạo lực giới là bất kì một hành động nào dẫn đến, hoặc có khả năng dẫn
đến những tổn thất về thân thể, về tình dục hay tâm lý hoặc sự đau khổ cho phụ
nữ, bao gồm cả sự đe dọa có những hành động như vậy, sự cưỡng bức hay
cưỡng đoạt một cách tùy tiện sự tự do, dù nó xảy ra ở nơi công cộng hay trong
cuộc sống riêng tư.
Bình đẳng nói chung là nhu cầu của mọi thành viên trong đời sống xã hội.
Bình đẳng giới là một dạng của bình đẳng xã hội nói chung, nó cũng cần có sự
điều chỉnh của pháp luật, nhằm thiết lập quyền bình đẳng giữa nam giới và phụ
nữ, cũng như điều chỉnh những những lĩnh vực, những nơi mà phụ nữ đang
16


thiệt thòi, đang có vị trí thấp kém so với nam giới do nhiều nguyên nhân khác
nhau bắt nguồn từ đời sống xã hội, nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đấu
tranh cho bình đẳng giới ở Việt Nam và góp phần thúc đẩy công cuộc đầu
tranh cho bình đẳng giới trên thế giới.
Pháp luật về bình đẳng giới là hệ thống các quy phạm pháp luật do nhà
nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về quyền bình đẳng của
phụ nữ và nam giới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.2. Quá trình hình thành, phát triển của pháp luật bình đẳng giới và
thực hiện pháp luật bình đẳng giới ở Việt Nam
Bình đẳng giới chính là bình đẳng nam nữ và là một trong những vấn đề cơ
bản của quyền con người. Ở Việt Nam, vấn đề bình đẳng giới sớm được quan tâm
đưa vào các quy định của pháp luật và triển khai thực hiện. Quan điểm “nam, nữ
bình quyền” của Đảng và Bác Hồ được xác định ngay trong Cương lĩnh đầu
tiên của Đảng năm 1930. Ngay trong bản luận cương chính trị của Đảng đã nêu
khẩu hiệu: “Người cày có ruộng” cùng với “nam nữ bình đẳng”. Sau này, quan
điểm đó luôn được quán triệt trong các văn kiện, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng
qua các thời kỳ. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định vị trí vai trò của phụ nữ
trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, Người luôn căn dặn các

cấp uỷ Đảng, cơ quan, đơn vị phải quan tâm chăm lo công tác vận động phụ nữ,
đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ, vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
Trong thời kỳ đổi mới của đất nước nhân phẩm cũng như vai trò của phụ
nữ ngày càng được khẳng định hơn, điều ấy thể hiện rõ qua việc Đảng ta ghi
nhận trong các nghị quyết như Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 12/7/1993. Chỉ
thị 37/CT-T.Ư ngày 16-5-1994 về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình
hình mới khẳng định: "Nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước,
quản lý kinh tế - xã hội là một yêu cầu quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng,
dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và nâng cao địa vị
của phụ nữ". Chỉ thị cũng nhấn mạnh:
17


Cần xây dựng Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng lao động
nữ nói chung và cán bộ nữ nói riêng…Chú trọng đào tạo đội ngũ cán
bộ nữ làm công tác khoa học- kỹ thuật, kinh tế, pháp luật, hành chính,
quản lý nhà nước [5].
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ rõ:
Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng
giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn; có cơ chế,
chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh
đạo và quản lý ở các cấp, các ngành, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà
mẹ và trẻ em [6].
Hiện nay, vấn đề bình đẳng giới đã và đang trở thành mối quan tâm chung
của hầu hết mọi quốc gia trên thế giới. Nhận thức được tầm quan trọng của
việc nâng cao bình đẳng giới, Đảng và Nhà nước ta đã xác định đây là một
trong những mục tiêu quan trọng trong chương trình phát triển của đất nước và
coi chính sách bình đẳng giới thật sự là chính sách quan trọng qua các thời kỳ
phát triển của đất nước.
1.2.1. Giai đoạn trước cách mạng tháng 8 năm 1945

Xã hội Việt Nam trong một thời gian dài bị thống trị bởi tư tưởng nho
giáo do đó vai trò, vị trí của người phụ nữ chưa được nhìn nhận đúng còn bị hạ
thấp “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” là tư tưởng trọng nam khinh nữ tồn
tại dai dẳng và ăn sâu vào nếp nghĩ của xã hội. Đó là những hạn chế của Nho
giáo đã ảnh hưởng sâu sắc tới quyền bình đẳng của phụ nữ. Tuy nhiên, chúng
ta cũng không thể phủ nhận những giá trị tích cực mà nho giáo mang lại. Nhìn
vào lát cắt lịch sử chúng ta thấy vào thời Lê - thời kỳ nho giáo thịnh trị ở Việt
Nam, những tư tưởng nho giáo ảnh hưởng đến luật pháp thời kỳ này. Bộ luật
Hồng Đức là bộ luật là công trình lập pháp tiêu biểu của người Việt trong lịch
sử. Đây là bộ luật có những thành tựu to lớn, có những nét riêng biệt, thể hiện
18


độc đáo bản sắc dân tộc và tính độc lập của một quốc gia có chủ quyền, Bộ luật
được trong và ngoài nước đánh giá có nhiều giá trị đương đại. Bộ luật Hồng
Đức có nhiều giá trị nhân văn một phần bởi lẽ trong bộ luật có nhiều điều luật
quan tâm đến quyền lợi cũng như sự bình đẳng của nam giới với nữ giới. Một
số điều luật quy định:
Phàm chồng đã bỏ lửng vợ năm tháng không đi lại (vợ được
trình với quan sở tại và quan xã làm chứng) thì mất vợ. Nếu vợ đã có
con thì hạn một năm. Vì việc quan đi xa thì không theo luật này. Nếu
đã bỏ vợ mà lại ngăn cản người khác lấy vợ của mình thì phải tội
biếm [8, Điều 308].
Hai chương "Hộ hôn" và "Điền sản" là hai chương đặc sắc nhất của Bộ
luật Hồng Đức. Có 53/722 điều luật (7%) bàn về hôn nhân - gia đình; 30/722
điều luật (4%) bàn về việc hương hỏa, tế lễ, thừa kế và sở hữu tài sản. Qua hai
chương này, các nhà làm luật đã coi trọng cá nhân và đặc biệt vai trò của người
phụ nữ. Những quy định đó của Bộ luật Hồng Đức về quyền của phụ nữ đặt
trong bối cảnh xã hội phong kiến là hết sức tiến bộ đồng thời đặt nền móng cho
việc đảm bảo quyền của phụ nữ trong pháp luật Việt Nam.

Từ những phân tích trên có thể khẳng định, ở Việt Nam vấn đề bình đẳng
giới được quan tâm từ rất sớm, ngay từ thời phong kiến, mặc dù xuất phát và
ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trọng nam, khinh nữ nhưng pháp luật phong
kiến cũng đã có những quy định hết sức tiến bộ, đảm bảo quyền của người phụ
nữ, từ đó tạo tiền đề thúc đẩy bình đẳng giới ở các giai đoạn sau.
1.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1954
Là thời kỳ miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam tiếp tục đấu tranh
giành thắng lợi, đất nước bước vào thời kỳ mới, lần đầu tiên người dân được
quyền làm chủ sau gần một thế kỷ bị đô hộ. Sau năm 1945 xã hội mới đã được
hình thành trên nền tảng độc lập của dân tộc và quyền tự do của cá nhân, công
19


dân được đảm bảo trong đó có quyền bình đẳng của nam và nữ. Đến thời điểm
này nho giáo vẫn tiếp tục ảnh hưởng tới tư tưởng người Việt nhưng dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nhiều tư tưởng lạc hậu của nho giáo đã bị loại bỏ và Đảng ta luôn
coi trọng sự phát triển bình đẳng của nam nữ và coi đó là nội dung quan trọng
của việc xây dựng xã hội dân chủ, văn minh.
Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp năm 1946 quy định: “Tất cả quyền bính
trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái
trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”; “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi
phương diện”; “Tất cả công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên không phân biệt gái
trai đều có quyền bầu cử…”. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, pháp luật quy
định phụ nữ được hưởng các quyền ngang với nam giới: “Tất cả công dân Việt
Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: Chính trị, kinh tế, văn hóa”. Ngoài
ra, ngay từ khi ra đời nhà nước ta đã ban hành nhiều Sắc lệnh về tổ chức thực hiện
bình đẳng giới. Đây chính là những văn bản pháp lý tạo điều kiện cho phụ nữ và
nam giới được thực hiện quyền bình đẳng của mình. Các văn bản đó đã khẳng
định, từ khi ra đời, nhà nước ta luôn luôn nhận thức vai trò của phụ nữ trong sự
nghiệp cách mạng xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.

1.2.3. Giai đoạn từ 1954 đến 1975
Kể từ khi ra đời cho đến nay nhà nước ta đã ban hành bốn bản Hiến pháp
(năm 1946, 1959, 1980, 1992- sửa đổi, bổ sung năm 2001) luôn quán triệt và thể
chế hoá quan điểm “nam, nữ bình quyền” bằng những quy định cụ thể.
Sau năm 1954 Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, Miền Nam tiếp tục
đâu tranh giành độc lập trong điều kiện hoàn cảnh mới nhà nước ta đã ban hành
Hiến pháp năm 1959. Hiến pháp 1959 đã quy định và ghi nhận quyền bình đẳng
giữa nam và nữ về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Hiến
pháp đã khẳng định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ công hoà đều bình đẳng
trước pháp luật” (Điều 22 ).
20


Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ công hoà có quyền bình đẳng
với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội
và gia đình.
Cùng làm việc như nhau, phụ nữ đuợc hưởng lương ngang với
nam giới. Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên
chức được nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương.
Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và của trẻ em, bảo đảm
phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ [27, Điều 2].
Như vậy, thêm một lần nữa bản Hiến pháp thứ hai của nước ta đã khẳng định
quyền bình đẳng của phụ nữ và việc ghi nhận này đã tạo điều kiện thuận lợi cho
phụ nữ tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội và có những đóng góp to lớn
vào quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngay trong những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, ngày 10/01/1967, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số
152-NQ/TW về một số vấn đề tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận, chỉ rõ:
Tư tưởng phong kiến đối với phụ nữ còn tồn tại khá sâu sẳc trong
một số cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo. Thể hiện rõ nhất tư

tưởng hẹp hòi, “trọng nam khinh nữ”, chưa tin vào khả năng lãnh đạo
và khả năng quản lý kinh tế của phụ nữ, chưa thấy hết khó khăn trở
ngại của phụ nữ [2].
Nghị quyết số 153/NQ-TƯ ngày 01/01/1967 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng khẳng định: “sự nghiệp giải phóng phụ nữ là trách nhiệm của toàn Đảng của
Nhà nước, của xã hội. Lực lượng phụ nữ, trong đó đội ngũ xung kích là lực lượng
cán bộ phụ nữ ở tất cả các lĩnh vực, phải phát huy vai trò chủ động của mình” [7].
Như vậy, với các quy định cụ thể và thể hiện nhất quán, liên tục trong hai
bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 cùng với nhiều Sắc luật đã thể
hiện nhất quán quan điểm của Đảng ta về việc bảo đảm cũng như phát huy quyền
làm chủ của phụ nữ.

×