Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ (Qua thực tế tỉnh Thái Nguyên)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 116 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN QUANG HUY






THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC
ĐẢM BẢO TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
(QUA THỰC TẾ TỈNH THÁI NGUYÊN)





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2010



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN QUANG HUY





THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC
ĐẢM BẢO TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
(QUA THỰC TẾ TỈNH THÁI NGUYÊN)

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế




HÀ NỘI - 2010



MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG
LĨNH VỰC ĐẢM BẢO TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ

8
1.1.
Quan niệm về thực hiện pháp luật
8
1.1.1.
Khái niệm thực hiện pháp luật
8
1.1.2.
Đặc điểm của thực hiện pháp luật
10
1.1.3.
Hình thức thực hiện pháp luật
11
1.1.4.
Vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật
13
1.1.5.
Các yếu tố đảm bảo thực hiện pháp luật
16
1.2.
Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn
giao thông đường bộ
23
1.2.1.
Khái niệm pháp luật về đảm bảo trật tự an toàn giao thông
đường bộ
23
1.2.1.1.
Giao thông đường bộ và đảm bảo trật tự an toàn giao thông
đường bộ

23
1.2.1.2.
Khái niệm pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn
giao thông đường bộ
26
1.2.2.
Khái niệm thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự
an toàn giao thông đường bộ
27
1.2.3.
Đặc điểm thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự
an toàn giao thông đường bộ
28
1.2.3.1.
Chủ thể thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự
an toàn giao thông đường bộ đa dạng, phong phú
28
1.2.3.2.
Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn
giao thông đường bộ vừa mang tính quyền lực nhà nước vừa
mang tính cộng đồng
30
1.2.3.3.
Đặc điểm của quản lý nhà nước trong lĩnh vực đảm bảo trật
tự an toàn giao thông đường bộ
31
1.2.3.4.
Đặc điểm về đối tượng điều chỉnh của pháp luật trong lĩnh
vực đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ
32

1.2.3.5.
Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn
giao thông đường bộ được biểu hiện chủ yếu ở hành vi tuân
thủ pháp luật giao thông đường bộ
34
1.2.3.6.
Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn
giao thông đường bộ chịu ảnh hưởng nhiều từ những yếu tố
tác động mang tính chất cản trở
35
1.2.4.
Hình thức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự
an toàn giao thông đường bộ
35
1.2.4.1.
Tuân thủ pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn
giao thông đường bộ
35
1.2.4.2.
Chấp hành (thi hành) pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật
tự an toàn giao thông đường bộ
38
1.2.4.3.
Sử dụng pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn
giao thông đường bộ
38
1.2.4.4.
Áp dụng pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn
giao thông đường bộ
40

1.2.5.
Vai trò của thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật
tự an toàn giao thông đường bộ
41
1.2.5.1.
Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn
giao thông đường bộ có vai trò quyết định trong công tác
đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ
41
1.2.5.2.
Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn
giao thông đường bộ có vai trò phát triển kinh tế - xã hội
41
1.2.5.3.
Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn
giao thông đường bộ nhằm đảm bảo trật tự an toàn xã hội
42
1.2.5.4.
Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn
giao thông đường bộ đảm bảo an ninh quốc phòng
43
1.2.5.5.
Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ
nhằm thúc đẩy giao lưu, hội nhập khu vực và quốc tế
45

Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH
VỰC ĐẢM BẢO TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
47

2.1.
Đặc điểm cơ bản của tỉnh Thái Nguyên
47
2.1.1.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
47
2.1.1.1.
Vị trí địa lí
47
2.1.1.2.
Tiềm năng và tài nguyên thiên nhiên
48
2.1.1.3.
Dân số, nguồn nhân lực, truyền thông văn hóa và ngành
nghề của dân cư
49
2.1.1.4.
Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội
49
2.1.2.
Cơ sở hạ tầng giao thông
53
2.2.
Thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật
tự an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
55
2.2.1.
Thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật
tự an toàn giao thông đường bộ trên cả nước hiện nay
55

2.2.2.
Thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật
tự an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
60
2.2.1.1.
Thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật
tự an toàn giao thông đường bộ của các cơ quan nhà nước,
các tổ chức
60
2.2.2.2.
Thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự
an toàn giao thông đường bộ của người tham gia giao thông
67
2.3.
Nhận xét, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh
vực đảm bảo trật an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên
71
2.3.1.
Ưu điểm
71
2.3.2.
Những tồn tại, yếu kém
73

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC ĐẢM
BẢO TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
76

3.1.
Quan điểm thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật
tự an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Thái Nguyên trong
thời gian tới
76
3.1.1.
Mục tiêu, nguyên tắc chỉ đạo
76
3.1.2.
Nhiệm vụ của công tác thực hiện pháp luật trong lĩnh vực
đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ
77
3.2.
các giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật
trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
79
3.2.1.
Nhóm giải pháp chính trị - xã hội
79
3.2.1.1.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà
nước đối với công tác thực hiện pháp luật trong lĩnh vực
đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ
79
3.2.1.2.
Tăng cường chức năng kiểm tra, giám sát đối với công tác
thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn
giao thông đường bộ
81

3.2.1.3.
Tích cực đẩy mạnh phối hợp liên ngành và huy động cộng đồng
trong công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ
82
3.2.2.
Nhóm giải pháp về pháp luật, chính sách
83
3.2.2.1.
Tiếp tục xây dựng, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn
bản pháp luật về đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ
83
3.2.2.2.
Hoàn thiện các biện pháp ngăn chặn hành vi vi phạm giao
thông đường bộ bằng việc quy định các chế tài phải đủ độ
răn đe
85
3.2.2.3.
Hoàn thiện chế độ, chính sách đặc thù đối với cán bộ làm
công tác chuyên trách, trực tiếp, kiêm nhiệm và những người
không hưởng lương từ ngân sách nhà nước tham gia công
tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông
86
3.2.3.
Nhóm giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn giao thông
đường bộ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
87
3.2.3.1.
Tăng cường và đổi mới nội dung công tác tuyên truyền, phổ
biến, giải thích pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ

87
3.2.3.2.
Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát trong lĩnh vực giao
thông đường bộ
91
3.2.3.3.
Xây dựng và đẩy mạnh phong trào quần chúng thực hiện
pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn giao thông
đường bộ
92
3.2.3.4.
Nâng cao vai trò của gia đình trong công tác đảm bảo trật tự
an toàn giao thông đường bộ
93
3.2.3.5.
Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông
đường bộ - cơ sở quan trọng ngăn chặn tai nạn giao thông
94
3.2.3.6.
Ngăn chặn kịp thời, xử lí nghiêm minh, đúng pháp luật mọi
vi phạm pháp luật giao thông đường bộ
96
3.2.3.7.
Đẩy mạnh tuyên truyền chuyên đề tác hại của rượu, bia với
an toàn giao thông đường bộ và xử lý vi phạm do lạm dụng
rượu, bia khi tham gia giao thông cần đủ sức răn đe
97
3.2.3.8.
Thực hiện pháp luật giao thông đường bộ ở tầm văn hóa
99


KẾT LUẬN
101

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
103

PHỤ LỤC
108



danh s¸ch c¸c tõ viÕt t¾t

ATGT
: An toàn giao thông
ATGTĐB
: An toàn giao thông đường bộ
GTĐB
: Giao thông đường bộ
GTVT
: Giao thông vận tải
TNGT
: Tai nạn giao thông
TNGTĐB
: Tai nạn giao thông đường bộ
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, vấn đề tai nạn giao thông đường bộ (TNGTĐB) đang là vấn
đề quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Theo báo cáo về cải thiện an toàn
giao thông đường bộ (ATGTĐB) toàn cầu thì gánh nặng to lớn mang tính toàn
cầu hiện nay là tử vong do TNGTĐB, mỗi năm có khoảng 20 triệu đến 50 triệu
người bị thương do TNGTĐB, mà rất nhiều người trong số đó phải chịu thương
tật suốt đời. Trong đó, hiện nay TNGTĐB trở thành nguyên nhân tử vong hàng
đầu và hơn 90% số người tử vong do TNGTĐB xảy ra ở các nước có thu nhập
thấp và thu nhập trung bình. Ở các quốc gia này những nạn nhân phải chịu hậu
quả nhiều nhất là những người đi bộ, người đi xe đạp, những người sử dụng mô
tô hai bánh hoặc ba bánh và những hành khách sử dụng các phương tiện giao
thông công cộng không an toàn. Mỗi năm các nước này phải chịu thiệt hại đến
hơn 65 tỷ USD do tai nạn giao thông (TNGT); chi phí này vượt quá tổng số vốn
hỗ trợ phát triển và chiếm từ 1 - 1,5% tổng sản phẩm quốc nội, vì vậy sẽ ảnh
hưởng đến sự phát triển bền vững của các quốc gia này.
Ở Việt Nam hiện nay TNGT, đặc biệt là TNGTĐB đã gây ra những
thiệt hại to lớn về người, tài sản của Nhà nước và nhân dân và đang là vấn đề
xã hội hết sức bức xúc, nghiêm trọng. Thực tế hiện nay nhiều người tham gia
giao thông ý thức chấp hành chưa nghiêm, nhiều người vi phạm pháp luật trật
tự an toàn giao thông (ATGT) rất ngang nhiên mà không bị xử lý hoặc xử lý
không nghiêm. Dẫn đến tình trạng giao thông kém phát triển, tai nạn thường
xuyên tăng cả về số vụ tai nạn và số lượng người bị thương và tử vong, tạo ra
gánh nặng lớn cho xã hội.
Để kiềm chế TNGT, đòi hỏi phải có sự tham gia của toàn xã hội, nhất là
các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương, chính quyền các cấp, các
tổ chức, các đoàn thể vả mỗi người tham gia giao thông đều phải có trách


2
nhiệm tham gia đảm bảo trật tự ATGT. Chỉ có như vậy thì các quy định của
pháp luật về đảm bảo trật tự ATGT mới đi vào cuộc sống một cách thiết thực.
Hòa nhịp với tiến trình đổi mới của đất nước, cũng như các tỉnh, thành
phố khác trong cả nước, tỉnh Thái Nguyên đã ra sức phấn đấu và đạt được
những thành tựu trên các mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên, vấn đề thực hiện
pháp luật nói chung và trong lĩnh vực đảm bảo trật tự ATGTĐB nói riêng vẫn
còn những khiếm khuyết và yếu kém, dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực giao thông xảy ra ngày càng nhiều và phức tạp; những biểu hiện
tiêu cực, ý thức tham gia giao thông của đại bộ phận người dân vẫn còn chưa tốt
nên có ảnh hưởng đến yêu cầu ổn định, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.
Thái Nguyên là tỉnh có đầu mối giao thông liên tỉnh quan trọng, thuận
tiện nối liền giữa thủ đô Hà Nội với một số tỉnh phía Bắc như Bắc Kạn, Cao Bằng,
Lạng Sơn, Bắc Giang, Tuyên Quang, Hà Giang Dân số nông thôn chiếm 72%,
là nơi tập trung nhiều trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và
cũng là nơi có nhiều khoáng sản: Sắt, than, vàng, thiếc, chì, đá vôi, cát Vì thế,
mỗi năm Thái Nguyên thu hút khoảng trên 100 nghìn thanh niên ở hầu hết các
tỉnh phía bắc về học tập, khai thác khoáng sản. Điều kiện cơ sở vật chất còn
nghèo, dân trí thấp, phong tục tập quán lạc hậu, điều kiện văn hóa, văn nghệ còn
khó khăn, thiếu thốn Những điều kiện trên cũng là nguyên nhân dẫn đến tình
trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ (GTĐB) ở Thái
Nguyên. Những năm qua, chính quyền địa phương đã triển khai nhiều biện
pháp tích cực nhằm ngăn chăn những vi phạm xảy ra nhưng tình trạng vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực GTĐB xảy ra rất nhiều và nghiêm trọng gây ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Với những lý do trên, việc
nghiên cứu đề tài: "Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn
giao thông đường bộ (qua thực tế tỉnh Thái Nguyên" là vấn đề cần thiết, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài


3
Ở nước ta trong những năm gần đây, vấn đề thực hiện pháp luật trong
lĩnh vực đảm bảo trật tự ATGTĐB đang được đặt ra và là nhiệm vụ cấp bách
của Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Thực hiện pháp luật trên
một số lĩnh vực đã có những công trình nghiên cứu như:
- "Thực hiện pháp luật trong hoạt động của lực lượng Công an nhân
dân để bảo vệ trật tự, an toàn xã hội ở nước ta hiện nay", Luận án phó tiến sĩ
Luật học của Đỗ Tiến Triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1996.
- "Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở ở tỉnh Bình Thuận hiện nay -
Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ Luật học của Lê Trung Quân, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
Riêng trong lĩnh vực GTĐB, đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên
cứu về các khía cạnh khác nhau như:
- Luận văn thạc sĩ Luật học: "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay", của Nguyễn Huy
Bằng, bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2001. Luận văn đã
xây dựng cơ sở lý luận về pháp chế, trong lĩnh vực ATGTĐB, nội dung và giải
pháp tăng cường pháp chế trên lĩnh vực này. Mặc dù đề tài luận văn này không
trùng lặp với đề tài luận văn mà tác giả nghiên cứu, song có nhiều vấn đề, nhất
là những vấn đề về cơ sở pháp luật của pháp chế trong lĩnh vực GTĐB có giá
trị tham khảo đối với việc thực hiện luận văn của tác giả.
- Luận văn thạc sĩ Luật học (2005): "Tăng cường quản lý nhà nước
bằng pháp luật trên lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay", của
Dương Quốc Hoàng, bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sĩ Luật học: "Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực
giao thông đường bộ ở tỉnh Lào Cai hiện nay", của Ngô Thị Nhung, bảo vệ tại
học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2008.

4
- Sách của nhóm tác giả Trần Văn Luyện, Trần Sơn và Nguyễn Văn

Chính (đồng chủ biên): Trật tự an toàn giao thông đường bộ - Thực trạng và
giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Sách đã phân tích khái niệm
trật tự ATGTĐB, thực trạng và giải pháp bảo đảm thực trạng ATGTĐB. Khái
niệm trật tự ATGTĐB mà các tác giả cuốn sách đưa ra có giá trị tham khảo đối
với việc thực hiện đề tài luận văn.
- Một số bài viết của các nhà khoa học đăng trên các tạp chí có liên
quan đến đề tài, chủ yếu là trên Tạp chí Giao thông vận tải (GTVT), Tạp chí
Quản lý nhà nước, nghiên cứu quản lý nhà nước lĩnh vực GTVT, giao thông đô thị
dưới góc độ của ngành luật hành chính, đáng chú ý là các công trình sau:
+ Nguyễn Thủy Anh: "Đổi mới quản lý nhà nước về giao thông công
cộng trong đô thị lớn ở nước ta", Tạp chí Quản lý nhà nước, số 5/2003.
+ Hoàng Đình Ban: "Luật Giao thông đường bộ sau hai năm nhìn lại",
Tạp chí GTVT, số 3/2004.
+ Lê Ngọc Tiến: "Giáo dục pháp luật - biện pháp quan trọng trong
giảm thiểu tai nạn giao thông đường bộ", Tạp chí GTVT, số 7/2004.
+ Hoàng Thị Kim Quế: "Văn hóa pháp luật giao thông, những giá trị
chân - thiện - mỹ - ích", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4/2010.
Từ nội dung của các công trình khoa học trên cho thấy đề tài luận văn
không trùng lặp, là đề tài mới thuộc chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước
và pháp luật. Các công trình nghiên cứu trên đây chủ yếu tập trung vào các vấn
đề về quản lí nhà nước về GTĐB và pháp chế trong lĩnh vực giao thông. Đến
nay, chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật trong lĩnh
vực đảm bảo trật tự ATGTĐB. Vì vậy, luận văn là công trình đầu tiên thực hiện
đề tài này trong phạm vi địa phương tỉnh Thái Nguyên. Tuy vậy, các công trình
nghiên cứu nêu trên là nguồn tài liệu quý giá để tác giả tham khảo trong việc
thực hiện đề tài này.

5
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn

Mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu thực trạng và đề xuất một
số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hoạt động thực hiện pháp luật trong lĩnh
vực đảm bảo trật tự ATGTĐB trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của thực hiện pháp luật trong lĩnh
vực đảm bảo trật tự ATGTĐB và gắn liền vào cuộc sống thực tiễn, là biện pháp
cơ bản để thực hiện mục tiêu giảm thiểu các vi phạm pháp luật nói chung và vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực GTĐB ở tỉnh Thái Nguyên nói riêng.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự
ATGTĐB trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong thời gian qua, bao gồm cả
những mặt đã làm được, những mặt chưa làm được, xác định nguyên nhân của
những kết quả đạt được và những hạn chế, thiếu sót, từ đó rút rút ra những kinh
nghiệm thực tiễn.
- Trên cơ sở thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật
tự ATGT trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện
công tác thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng nghiên cứu: luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn nhằm tạo ra cơ sở và đề xuất các giải pháp trong việc thực hiện
pháp luật nhằm đảm bảo trật tự ATGTĐB qua thực tế tỉnh Thái Nguyên.
Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự ATGTĐB là vấn đề
rộng và được thông qua các hình thức: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử
dụng pháp luật và áp dụng pháp luật về đảm bảo trật tự ATGTĐB. Nhưng chủ

6
yếu vẫn là hình thức tuân thủ pháp luật và áp dụng pháp luật, do đó tuân thủ
pháp luật và áp dụng pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự ATGTĐB được
xác định là đối tượng nghiên cứu chính của luận văn.

- Phạm vi vấn đề nghiên cứu chủ yếu tập trung làm rõ việc thực hiện
pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự ATGTĐB của các cơ quan nhà nước
các tổ chức và việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự
ATGTĐB của người tham gia giao thông trong phạm vi tỉnh Thái Nguyên.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; bám sát đường lối, chủ trương của
Đảng về thực hiện pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN)
gắn với việc quản lý xã hội bằng pháp luật nhằm xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các nội dung về
thực hiện pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp duy vật biện
chứng của triết học Mác - Lênin theo quan điểm phát triển, toàn diện, lịch sử,
cụ thể. Ngoài ra, luận văn còn kết hợp các phương pháp như: lôgíc, phân tích,
tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu vấn đề thực hiện
pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự ATGTĐB ở một địa phương cụ thể. Vì
vậy, có thể coi những vấn đề sau đây là những đóng góp mới về khoa học của
luận văn:
- Xây dựng khái niệm thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự
ATGTĐB.

7
- Khái quát được những đặc thù của việc thực hiện pháp luật trong lĩnh
vực đảm bảo trật tự ATGTĐB.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự
ATGTĐB trên các mặt tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước và ý thức của

người dân. Từ đó luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thực
hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự ATGTĐB trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên.
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Thông qua việc làm rõ thực trạng của vấn đề thực hiện pháp luật trong
lĩnh vực đảm bảo trật tự ATGTĐB trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên làm phong
phú thêm các vấn đề lý luận chung về thực hiện pháp luật trong thực tế hiện
nay và trong lĩnh vực cụ thể - lĩnh vực đảm bảo trật tự ATGTĐB.
Luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc tổ chức, thực hiện
pháp luật trong lĩnh vực ATGT ở tỉnh Thái Nguyên.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo
trật tự an toàn giao thông đường bộ.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật
tự an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên.

8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC
ĐẢM BẢO TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ

1.1. QUAN NIỆM VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật
Để thực hiện được việc quản lí xã hội, Nhà nước phải ban hành ra pháp
luật nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Nhưng quản lý nhà nước chỉ được đánh giá là có hiệu quả khi pháp luật ban
hành ra phải đi vào cuộc sống, hay nói cách khác pháp luật phải được thực hiện
trong thực tế. Trong thực tế cuộc sống hiện đại, thực hiện pháp luật là hoạt
động không thể thiếu và thậm chí là hoạt động cực kì quan trọng vì nó có vai
trò hiện thực hóa các quy định của pháp luật biến các quy định ấy từ văn bản
thành các xử sự thực tế hợp pháp của các chủ thể khi tham gia vào những quan
hệ pháp luật cụ thể. Thông qua hoạt động thực hiện pháp luật mục đích của nhà
nước khi ban hành pháp luật được hiện thực hóa, nhờ đó nhà nước có thể điều
hành và quản lí xã hội, có thể thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội trong những lĩnh
vực nhất định. Do tầm quan trọng như vậy mà thực hiện pháp luật trở thành
một trong những khái niệm cơ bản của khoa học pháp lí, được đề cập đến trong
các giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của các cơ sở đào tạo
luật học
Thực hiện pháp luật là hoạt động tiếp nối sau khi văn bản pháp luật
được ban hành nhằm làm cho các qui định của pháp luật đi vào cuộc sống và
trở thành quy tắc xử sự của các chủ thể pháp luật. Để hiểu rõ hơn, sâu hơn và
chính xác hơn khái niệm thực hiện pháp luật, trước hết chúng ta tìm hiểu một
số quan điểm khác nhau về thực hiện pháp luật.
Theo giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật của Trường Đại học luật
Hà Nội: "Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các

9
quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành
vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật" [36, tr. 468].
Theo giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Khoa luật -
Đại học Quốc gia Hà Nội: "Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có
mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành
những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật" [22, tr. 494].
Theo giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Viện Nhà
nước và Pháp luật - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: "Thực hiện

pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp
luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động
thực tế của các chủ thể pháp luật" [19, tr. 270].
Theo Tiến sĩ Nguyễn Minh Đoan: "Thực hiện pháp luật là một quá trình
hoạt động có lý trí và có ý chí của các chủ thể pháp luật làm cho những quy
định của pháp luật đi vào cuộc sống nhằm đạt được những mục đích nhất định
vì lợi ích của mỗi thành viên, cũng như của cả cộng đồng xã hội [17, tr. 14].
Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Hồi: "Thực hiện pháp luật là hành vi (hành
động hoặc không hành động) hợp pháp của chủ thể có năng lực hành vi pháp
luật" [21, tr. 16].
Có thể nhận xét rằng, các định nghĩa trên đều có quan niệm tương đối
đồng nhất về những nội dung cơ bản, đó là: Thực hiện pháp luật là hoạt động
có mục đích nhằm thực hiện những yêu cầu của pháp luật, thực hiện pháp luật
là hoạt động thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật làm cho những quy
định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống. Tuy nhiên, cũng có sự
khác nhau trong các định nghĩa trên. Có định nghĩa nêu thực hiện pháp luật là
một quá trình hoạt động, các định nghĩa khác lại chỉ nêu thực hiện pháp luật là
hiện tượng, quá trình.
Theo chúng tôi, hiện tượng, quá trình hay quá trình hoạt động đều là
những phạm trù có nội hàm riêng của nó nhưng có cùng mục đích là thực hiện

10
những quy định của pháp luật, làm cho những quy định ấy trở thành những hành
vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật, đáp ứng yêu cầu đặt ra của pháp
luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, hoạt động thực hiện
pháp luật không chỉ là những hành vi đơn lẻ, độc lập, cắt khúc mà nó luôn luôn là
một quá trình. Vì vậy, về khái niệm thực hiện pháp luật chúng tôi đồng ý với
nội dung cơ bản trong các định nghĩa nêu trên và sắp xếp lại như sau:
Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho
những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực

tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật
Qua định nghĩa trên ta thấy hoạt động thực hiện pháp luật mang những
đặc điểm cơ bản sau đây:
- Thực hiện pháp luật là một trong những hình thức để thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Tất cả các nhà nước để quản lí được xã hội
đều phải ban hành pháp luật và mong muốn nó điều chỉnh được các quan hệ trong
xã hội, điều đó chỉ có thể đạt được khi các quy phạm do nhà nước ban hành được
các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện một cách chính xác đầy đủ. Do vậy,
đối với các nhà nước vấn đề quan trọng không chỉ là ban hành pháp luật mà
còn phải tổ chức thật tốt để chúng được thực hiện trong thực tế.
- Thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Pháp
luật được đặt ra là để điều chỉnh hành vi của con người, nên việc thực hiện pháp
luật phải thể hiện ở hành vi pháp luật của con người. Hành vi đó có thể là hành
động hoặc không hành động phù hợp với những quy định của pháp luật. Hành vi
thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp nên không trái pháp luật, không vượt quá
phạm vi quy định của pháp luật, vì vậy hành vi trái pháp luật không thể được coi
là thực hiện pháp luật. Từ "thực hiện" theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ thì có thể
được hiểu theo nghĩa là "Làm cho thành ra sự thực" [37], hoặc "bằng hoạt động
làm cho trở thành sự thật" [47, tr. 973]. Như vậy theo cách hiểu này thì "thực hiện

11
pháp luật là làm cho pháp luật trở thành sự thực hay làm cho các quy định của
pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống" [21, tr. 14].
- Thực hiện pháp luật là một giai đoạn không thể thiếu và vô cùng quan
trọng của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Thực hiện pháp luật một mặt nhằm đạt
được những mục đích của xã hội mặt khác còn cho phép làm rõ những hạn chế,
bất cập của hệ thống pháp luật thực định để từ đó có thể đưa ra những giải pháp
hữu hiệu cho việc sửa đổi bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành và
cơ chế đưa pháp luật vào cuộc sống

- Thực hiện pháp luật do nhiều chủ thể khác nhau tiến hành với nhiều
cách thức khác nhau. Pháp luật mang tính bắt buộc chung đòi hỏi mọi tổ chức
và cá nhân trong xã hội đều phải nghiêm chỉnh thực hiện. Vì vậy, thực hiện
pháp luật có thể là hành vi của mỗi cá nhân nhưng cũng có thể là hoạt động của
các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội. Pháp luật gồm rất nhiều các loại quy
phạm pháp luật khác nhau, do vậy đối với mỗi loại quy phạm pháp luật thì
những cách thức thể hiện chúng cũng khác nhau. Bởi vậy cách thức thực hiện
pháp luật có thể là xử sự chủ động (hành động) cũng có thể là xử sự thụ động
(không hành động).
1.1.3. Hình thức thực hiện pháp luật
Trong xã hội tồn tại rất nhiều quan hệ xã hội khác nhau, vì vậy các qui
phạm pháp luật rất phong phú, đồng thời chúng cũng xác định quyền, nghĩa vụ
thực hiện đối với các chủ thể khác nhau, vì thế hình thức thực hiện chúng cũng rất
đa dạng. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, theo tài liệu học
tập giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Khoa luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội và giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật của Trường Đại học
Luật Hà Nội đều cho rằng có bốn hình thức thực hiện pháp luật nhằm mục đích
chuyển tải các qui phạm pháp luật vào cuộc sống thực tiễn, đó là:
Tuân theo (tuân thủ) pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà

12
pháp luật ngăn cấm. Những qui phạm pháp luật cấm trong luật hình sự, luật
hành chính được thực hiện dưới hình thức này. Ví dụ: Một công dân kiềm chế
không thực hiện những hành vi mà luật hình sự ngăn cấm, tức là công dân đó
đã tuân thủ các quy định của luật hình sự.
Thi hành (chấp hành) pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành
động tích cực. Những qui phạm pháp luật bắt buộc (những quy định nghĩa vụ
phải thực hiện những hành vi tích cực nhất định) được thực hiện ở hình thức

này. Ví dụ: Công dân chấp hành tốt nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc với hành động
dũng cảm và tinh thần hy sinh quên mình.
Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi
mà pháp luật cho phép). Hình thức này khác với hình thức tuân thủ pháp luật và
thi hành pháp luật ở chỗ chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền
được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, mà không bị bắt buộc phải thực
hiện. Ví dụ: Pháp luật qui định công dân có quyền kết hôn. Trên thực tế, công
dân có thể kết hôn (hoặc không kết hôn). Như vậy công dân đó đã sử dụng
(hoặc không sử dụng) pháp luật (quyền được kết hôn).
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt, luôn
gắn với công quyền, vì nó chỉ được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước hoặc
nhà chức trách có thẩm quyền. Bằng hoạt động này, các cơ quan nhà nước hoặc
nhà chức trách đã cá biệt hóa các qui định của pháp luật vào các trường hợp cụ
thể đối với các đối tượng cụ thể làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan
hệ pháp luật. Ví dụ: Luật Hôn nhân và gia đình qui định: việc kết hôn phải
được đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Như vậy khi Ủy ban nhân dân cấp
giấy đăng ký kết hôn cho công dân, tức là Ủy ban nhân dân đã thay mặt nhà
nước áp dụng các qui định của Luật Hôn nhân và gia đình vào một trường hợp
cụ thể. Bằng hoạt động này, đã làm phát sinh quan hệ pháp luật về hôn nhân và
gia đình cho đối tượng xin đăng ký kết hôn.

13
Như vậy, thực hiện pháp luật được thực hiện thông qua bốn hình thức:
tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Trong đó, hình thức áp dụng pháp luật có sự khác biệt với các hình thức tuân
thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật. Sự khác biệt này thể
hiện ở chỗ, nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật
là những hình thức mà mọi chủ thể thực hiện pháp luật đều có thể thực hiện thì
áp dụng pháp luật là hình thức luôn luôn có sự tham gia của nhà nước (thông

qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền).
1.1.4. Vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật
Một yêu cầu quan trọng đặt ra đối với việc xây dựng pháp luật của Nhà
nước ta là pháp luật phải là cơ sở của việc tổ chức và hoạt động của nhà nước,
pháp luật phải là công cụ gìn giữ trật tự, kỷ cương xã hội, là phương tiện xử sự
của mọi công dân. Đường lối, quan điểm của Đảng, chủ trương, chính sách của
Nhà nước, nhu cầu khách quan của đời sống xã hội phải được phản ánh thông
qua hệ thống pháp luật.
Quản lý xã hội bằng pháp luật không đơn giản chỉ dừng lại ở việc nhà
nước xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đầy đủ, điều quan trọng
hơn cả là pháp luật của nhà nước phải được mọi thành viên trong xã hội tôn
trọng và chấp hành một cách nghiêm chỉnh và triệt để, pháp luật phải đi vào cuộc
sống, phải biến thành hành động của mọi công dân, mọi tổ chức trong xã hội.
Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đầy đủ cũng chưa có thể nói lên
điều gì, vì "pháp luật ở trạng thái đó vẫn là trạng thái tĩnh nó có thể tác động đến
trật tự pháp luật, thúc đẩy quá trình phát triển của các quan hệ xã hội nhưng
mức độ rất hạn chế và chủ yếu mới chỉ là thông qua ý thức pháp luật của công
dân ở một bộ phận không đáng kể" [45, tr. 225]. Pháp luật chỉ có thể phát huy
hết tác dụng và có ý nghĩa thực sự khi nó được tổ chức thực hiện tốt trong đời
sống xã hội, tức là khi các qui định của pháp luật trở thành những hành vi, cách
xử sự thực tế của các cá nhân, tập thể trong cuộc sống hằng ngày.

14
Trong đời sống xã hội có rất nhiều lĩnh vực khác nhau, đòi hỏi nhà
nước phải xây dựng và ban hành nhiều văn bản pháp luật để đáp ứng yêu cầu
điều chỉnh các quan hệ xã hội đó. Thực tiễn cho thấy, có rất nhiều văn bản pháp
luật phát huy tác dụng tốt, đem lại hiệu quả thiết thực trong công tác quản lý,
nhưng vẫn còn không ít văn bản pháp luật chưa phát huy được hiệu lực thi
hành, không mang lại hiệu quả như mong muốn. Mặt tồn tại đó có nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là do chưa tổ chức tốt việc thực hiện

pháp luật. "Khi giữa hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật có
một khoảng cách lớn, tức là pháp luật được ban hành với khối lượng lớn mà ít
đi vào cuộc sống, thì sẽ dẫn đến tình trạng pháp luật bị coi thường, không hiệu
quả" [45, tr. 226]. Vì vậy, thực hiện pháp luật có vai trò to lớn trong việc đưa
pháp luật của nhà nước đi vào đời sống thực tiễn, biến chung thành những hành
vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
Để quản lý xã hội bằng pháp luật, nhà nước phải có phương thức thực
hiện tốt các hoạt động liên quan đến pháp luật, từ khâu xây dựng pháp luật, phổ
biến, giáo dục pháp luật đến tổ chức thực hiện pháp luật và kiểm tra, xử lý
những hành vi vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ pháp luật. Đồng thời, muốn
pháp luật phát huy tối đa hiệu lực, hiệu quả trong quá trình điều chỉnh các quan
hệ xã hội, thì nhà nước, ngoài việc tạo lập môi trường chính trị - xã hội ổn định,
nâng cao trình độ pháp lý cho cán bộ và nhân dân, xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật, đòi hỏi phải xác lập cơ chế thực hiện pháp luật một cách có
hiệu quả.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, thực hiện pháp luật có vị trí và tầm
quan trọng đặc biệt trong toàn bộ các hoạt động về pháp luật. Thực hiện pháp
luật là hoạt động đưa pháp luật vào cuộc sống, biến những qui phạm pháp luật
thành những hành vi, xử sự thực tế, hợp pháp của cá nhân, tập thể trong thực
tiễn xã hội. Nếu không tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật thì ý chí của nhà
nước sẽ không thể đi vào đời sống thực tiễn, pháp luật sẽ không phát huy được
hiệu lực, sẽ không đạt hiệu quả trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.

15
Vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật không chỉ thể hiện trong toàn bộ
các hoạt động về pháp luật (xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật bảo vệ
pháp luật) mà nó còn là "một mặt quan trọng của nền pháp chế" [33, tr. 225].
Kết quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật là một trong những tiêu chuẩn để
xác định tính chất của nền pháp chế XHCN. Bởi vì pháp chế là một phạm trù
thể hiện những yêu cầu và sự đòi hỏi đối với các chủ thể pháp luật phải tôn

trọng và triệt để thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Có thể khẳng định
rằng sự thực hiện pháp luật là trung tâm của pháp chế.
Thật vậy, nếu như không có sự tôn trọng và thực hiện pháp luật một
cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác của các chủ thể pháp luật thì sẽ không có
pháp chế XHCN.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân là một trong những điều kiện đảm bảo sự thành
công của sự nghiệp đổi mới, bởi vì việc yêu cầu tôn trọng tính tối cao của Hiến
pháp và pháp luật, việc thực hiện nghiêm chỉnh những qui định Hiến pháp và
pháp luật của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân là yêu cầu bắt
buộc của Nhà nước pháp quyền XHCN.
Nhận thức vấn đề này, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác
định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công
chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật" [15, tr. 132].
Quan điểm, tư tưởng trên của Đảng ta đã được thể chế hóa trong Hiến pháp
năm 1992 và được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 năm
2001 của Quốc hội. Điều 12 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
qui định:
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

16
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị
vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành
Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội
phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật
[27, tr. 17].

1.1.5. Các yếu tố đảm bảo thực hiện pháp luật
Trên thực tế không phải lúc nào và ở đâu việc thực hiện pháp luật đều
đúng với yêu cầu và đòi hỏi đó. Về mặt thực tiễn khi đánh giá thực trạng thực
hiện pháp luật chúng ta cần tìm hiểu các nguyên nhân vì sao pháp luật không
được thực hiện nghiêm minh, thống nhất, song về mặt lý luận cần đi sâu nghiên
cứu có những yếu tố nào tạo ra khả năng bảo đảm thực hiện pháp luật trong
thực tiễn, bảo đảm cho pháp luật đi vào cuộc sống.
* Chất lượng của văn bản pháp luật, hệ thống pháp luật
Muốn cho pháp luật được thực hiện trong thực tiễn, trước hết, bản thân
văn bản pháp luật nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung phải có chất lượng
cao. Đánh giá chất lượng của hệ thống pháp luật, văn bản pháp luật lâu nay
thường được đề cập đến các tiêu chí sau đây:
- Tính đồng bộ, thống nhất: đồng bộ, thống nhất trong nội dung của văn
bản pháp luật không trái với Hiến pháp, nội dung các văn bản pháp luật không
chồng chéo, mâu thuẫn.
- Phù hợp giữa nội dung và hình thức văn bản.
- Phù hợp với thực tiễn, có tính khả thi.
- Bảo đảm ổn định tương đối.
- Chất lượng kỹ thuật lập pháp: sử dụng ngôn ngữ diễn đạt.

17
Theo chúng tôi, những tiêu chí nêu trên mới chỉ nhấn mạnh đến mặt
"hình thức" (theo nghĩa rộng) của văn bản pháp luật, chưa đi sâu vào nội dung
của văn bản pháp luật. Có thể bảo đảm cho nội dung văn bản pháp luật không
trái với Hiến pháp, không mâu thuẫn với các quy định hiện hành, khả thi nhưng
không đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước có hiệu quả, không hợp lòng
dân. Vì thế, những văn bản, những Quyết định nêu trên bị dân phản ứng gay
gắt, khiếu kiện kéo dài, thậm chí phát triển thành điểm nóng phức tạp. Như vậy,
chất lượng văn bản pháp luật còn cần được xem xét theo tiêu chí nội dung của
nó có thể hiện lợi ích của đất nước; lợi ích chung, ý chí chung của nhân dân hay

không. Đó chính là tiêu chí hiệu quả kinh tê - xã hội, sự đồng tình của nhân dân
(qua trưng cầu ý dân). ở những nơi lấy đất nông nghiệp xây dựng khu công
nghiệp, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế vì lợi ích chung, nhân dân sẵn
sàng chấp hành, nhưng lấy đất của dân để xây dựng chung cư bán kiếm lợi
nhuận cho một số người thì bị dân phản ứng gay gắt.
* Các yếu tố liên quan đến tổ chức thực hiện pháp luật
Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến, giải thích, hướng dẫn thực
hiện pháp luật: mỗi hoạt động nêu trên có nội dung công tác riêng nhưng đều
có liên quan chặt chẽ với nhau, trong mỗi hoạt động đều có ý nghĩa, tác dụng,
ảnh hưởng của hoạt động khác. Chẳng hạn, trong hoạt động giáo dục pháp luật
cũng có ý nghĩa tuyên truyền, phổ biến pháp luật, ngược lại trong tuyên truyền,
phổ biến pháp luật cũng có ý nghĩa, tác dụng giáo dục pháp luật v.v
Các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phổ biến, giải thích, hướng dẫn
thực hiện pháp luật có vai trò tạo tiền đề cho việc thực hiện pháp luật. Những
hoạt động này cung cấp tri thức, hiểu biết về pháp luật, xây dựng tình cảm, thái độ
đúng đắn đối với pháp luật; làm cho các chủ thể nhận thức được quyền, nghĩa
vụ, trách nhiệm, hình dung được hành vi xử sự nào là đúng đắn. Việc bỏ ra 4
tháng để tuyên truyền, phổ biến về cấm pháo (Chỉ thị 406/TTg của Thủ tướng

×