Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong việc bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.06 MB, 125 trang )

Bộ GIáO DụC Và ĐàO TạO
/
HọC VIệN CHíNH TRị- HàNH CHíNH
QUốC GIA Hồ CHí MINH
HọC VIệN HàNH CHíNH
/
NGÔ QUANG NGọC
NÂNG CAO HIệU QUả QUảN Lý NHà NƯớC TRONG VIệC
BảO ĐảM TRậT Tự AN TOàN GIAO THÔNG ĐƯờNG Bộ
TRÊN ĐịA BàN THàNH PHố Hà NộI HIệN NAY
LUậN VĂN THạC Sỹ QUảN Lý HàNH CHíNH CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý hành chính công
Mã số: 60 34 82
NGƯờI HƯớNG DẫN KHOA HọC:
TS. Nguyễn Minh Sản
Hµ NéI, N¡M 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn thạc sĩ Quản lý Hành chính công với đề
tài: “Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong việc bảo đảm trật tự an
toàn giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay” là công
trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn
khoa học của TS. Nguyễn Minh Sản và hoàn thành vào tháng 12 năm 2011 tại
Học viện Hành chính.
Học viên
Ngô Quang Ngọc
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng trân trọng biết ơn đối với lãnh đạo Học viện Hành
chính, các Khoa, Phòng ban trong Học viện, Quý Thầy Cô giáo giảng dạy tại
Học viện Hành chính.
Đặc biệt trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn Minh Sản đã tận tình giúp đỡ,
hướng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn thành đề tài.


Xin cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp cùng công tác với tôi ở Thanh tra
Sở giao thông vận tải Hà Nội đã tạo điều kiện về thời gian và sự ủng hộ; lãnh
đạo Sở Giao thông vận tải Hà Nội, Công an Thành phố, UBND Thành phố,
Ban Tuyên giáo Thành uỷ Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, cung cấp nhiều tư
liệu giúp tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn.
Tác giả
Ngô Quang Ngọc
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ATGT An toàn giao thông
CNH Công nghiệp hóa
HĐH Hiện đại hóa
QLNN Quản lý nhà nước
TTATGTĐB Trật tự an toàn giao thông đường bộ
TNGT Tai nạn giao thông
GTĐB Giao thông đường bộ
GTVT Giao thông vận tải
UTGT Ùn tắc giao thông
UBND Uỷ ban nhân dân
XHH Xã hội hoá
XHCN Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Thủ đô Hà Nội là trái tim của cả nước, đầu não chính trị - hành chính
quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch
quốc tế. Qua hai thập kỷ, thực hiện chính sách mở cửa đã thúc đẩy văn hóa,
khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế trên địa bàn thành phố Hà
Nội phát triển mạnh mẽ. Theo đó, nhu cầu về vận tải hành khách và hàng hóa
đã và đang tăng lên đáng kể. Hệ thống đường xá đã và đang được xây dựng

mới, nâng cấp, cải tạo đáng kể bằng nhiều nguồn vốn trong nước cũng như
các khoản vay từ các quốc gia, tổ chức tài trợ nước ngoài. Nhìn chung, kinh
tế, văn hóa - xã hội của thành phố Hà Nội phát triển và mức sống của người
dân ngày một được nâng cao.
Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, sự gia tăng về kinh tế, thu nhập và sự
phát triển của kết cấu hạ tầng giao thông vận tải đã thúc đẩy số lượng phương
tiện cơ giới đường bộ, đặc biệt là ôtô, môtô, xe gắn máy trên địa bàn thành
phố Hà Nội gia tăng một cách nhanh chóng. Lưu lượng và khối lượng giao
thông đường bộ (GTĐB) trên địa bàn thành phố Hà Nội tăng nhanh kéo theo
các vấn đề liên quan như xung đột giao thông, tai nạn giao thông (TNGT), ùn
tắc giao thông (UTGT) bắt đầu gia tăng. Mặt khác, mức độ hiểu biết và ý thức
chấp hành các yêu cầu về an toàn giao thông (ATGT) của người tham gia giao
thông của cộng đồng vẫn còn rất thấp. Công tác quản lý về an toàn GTĐB của
các cấp chính quyền Thành phố đã được cải thiện rõ rệt nhưng vẫn còn những
bất cập, chưa đáp ứng nhu cầu. Chính vì vậy, TNGT trên địa bàn thành phố
Hà Nội đã trở thành một vấn đề xã hội nghiêm trọng. Tốc độ gia tăng số vụ
TNGT hàng năm đã được kiềm chế, tuy nhiên số người chết, bị thương vẫn
còn ở mức độ cao và tính nghiêm trọng càng gia tăng.
1
Nhằm kiềm chế và giảm thiểu TNGT, Chình phủ đã ban hành các Nghị
định, và Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố Hà Nội đã ban hành các Quyết
định quy định thực hiện các biện pháp cấp bách. Tuy nhiên, hiệu quả chưa cao
do ý thức chấp hành luật của người tham gia giao thông thấp, hệ thống kết cấu
hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, yếu kém, hiệu lực quản lý nhà nước
(QLNN) chưa cao.
Sau hơn ba năm thực hiện Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP của Chính
phủ về một số giải pháp cấp bách kiềm chế tai nạn giao thông và ùn tắc giao
thông và Chỉ thị số 18-CT/TU ngày 16/8/2007 của Ban thường vụ Thành ủy
về tăng cường các biện pháp bảo đảm trật tự giao thông trên địa bàn thành
phố Hà Nội, tình hình trật tự ATGT đường bộ (TTATGTĐB) trên địa bàn

thành phố Hà Nội đã có chuyển biến tích cực, TNGT giảm đáng kể ở cả ba
tiêu chí trong điều kiện phương tiện cơ giới đường bộ tiếp tục tăng nhanh, tuy
nhiên tình hình diễn biến rất phức tạp, nhất là tai nạn đặc biệt nghiêm trọng và
ùn tắc giao thông trong khu vực nội đô. Luật GTĐB đã được sửa đổi năm
2008 và các Nghị định hướng dẫn thi hành đã và đang được sửa đổi ban hành,
các quyết định của UBND thành phố Hà Nội cho thấy quyết tâm của Đảng,
Nhà nước và Chính quyền thành phố trong việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện các giải pháp đồng bộ để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của QLNN đối
với công tác đảm bảo TTATGTĐB.
Bên cạnh đó, những yếu tố đặc thù của địa bàn thành phố Hà Nội (kinh
tế, văn hóa - xã hội, cơ sở hạ tầng, phương tiện, môi trường) góp phần làm
cho tình hình đảm bảo TTATGTĐB càng trở lên phức tạp.
Để có những giải pháp hiệu quả đòi hỏi phải có một hướng tiếp cận
toàn diện , tổng thể cùng với sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ, các cấp, các
ngành, cộng đồng xã hội, các tổ chức khai thác vận tải và người tham gia giao
thông, từ việc ban hành luật đến vấn đề kết cấu hạ tầng giao thông, tuyên
2
truyền giáo dục, cưỡng chế thi hành luật .v.v, vì vậy, việc nghiên cứu đề tài
“Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong việc bảo đảm trật tự an toàn
giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay” là yêu cầu
tất yếu khách quan, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài liên quan đến đề tài luận văn
Tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài: “Nâng cao hiệu
quả QLNN trong việc bảo đảm TTATGTĐB trên địa bàn thành phố Hà Nội
hiện nay”, các nhà khoa học tiếp cận theo nhiều cách, với những cấp độ khác
nhau. Trong đó, đáng chú ý như:
- Trần Đào: “Tai nạn giao thông đường bộ, thực trạng, nguyên nhân và
giải pháp phòng ngừa của lực lượng cảnh sát giao thông” - Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ, năm 1998. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một vấn đề về
TNGT, cụ thể là: Khái niệm tai nạn GTĐB; nguyên nhân tai nạn GTĐB; đánh

giá thực trạng tai nạn GTĐB; từ đó đề xuất những giải pháp phòng ngừa tai
nạn GTĐB của lực lượng cảnh sát giao thông.
- Mai Văn Đức: “Nghiên cứu tình hình an toàn giao thông đường bộ và
các biện pháp khắc phục”, Luận văn thạc sĩ Khoa học- Kỹ thuật, năm 2000.
Luận văn không nghiên cứu về an toàn GTĐB dưới góc độ của khoa học quản
lý hành chính công mà chỉ tập trung nghiên cứu về an toàn GTĐB dưới góc
độ ứng dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật để quản lý, duy trì và
khắc phục những hạn chế trong lĩnh vực GTĐB.
- Nguyễn Huy Bằng: “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Luật học,
năm 2001. Luận văn đã làm rõ lịch sử phát triển tư tưởng pháp chế; khái niệm
pháp chế, quan niệm pháp chế trong lĩnh vực GTĐB; tỉnh tất yếu phải tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong lĩnh vực GTĐB; thực trạng,
phương hướng và giải pháp tăng cường pháp chế trong lĩnh vực GTĐB. Như
vậy, luận văn đã không đề ra mục tiêu nghiên cứu về QLNN về TTATGTĐB.
3
- Nguyễn Thị Thanh Thuỷ: “Hoàn thiện QLNN đối với giao thông đô
thị tại thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công, năm
2003. Luận văn không nghiên cứu sâu về QLNN đối với GTĐB mà tập trung
xây dựng hệ thống lý thuyết tổng quan về QLNN đối với giao thông đô thị;
phân tích thực trạng QLNN về giao thông đô thị tại Hà Nội; từ đó kiến nghị
những giải pháp QLNN về giao thông đô thị tại Hà Nội.
- Trần Văn Quan: “Tăng cường QLNN về vận tải đường bộ - từ thực
tiễn tỉnh Đồng Nai”, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công, năm 2004.
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung của QLNN về vận
tải đường bộ trong nền kinh tế thị trường; phân tích và đánh giá thực trạng
QLNN về vận tải đường bộ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai; từ đó đề xuất phương
hướng và giải pháp nhằm tăng cường QLNN về vận tải đường bộ. Như vậy,
luận văn chỉ nghiên cứu một vấn đề về vận tải đường bộ.
- Thạch Như Sỹ: “Phối hợp dịch vụ công cộng và trật tự công cộng

trong QLNN về giao thông đô thị trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Luận văn
thạc sĩ Quản lý hành chính công, năm 2009. Luận văn chỉ tập trung nghiên
cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp về công tác
phối hợp giữa dịch vụ công và trật tự công cộng trong QLNN về giao thông
đô thị trên địa bàn thành phố Hà Nội mà không đề cập về TTATGTĐB.
Ngoài ra, còn một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành như:
Lý Huy Tuấn: “Quản lý nhà nước trong lĩnh vực giao thông đô thị”, Tạp chí
Quản lý nhà nước, số 3/2003; Nguyễn Thúy Anh: “Đổi mới QLNN về giao
thông công cộng trong đô thị lớn ở nước ta”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số
5/2003; Lê Ngọc Tiến: “Giáo dục pháp luật- biện pháp quan trọng giảm
thiểu tai nạn giao thông đường bộ”, Tạp chí Giao thông vận tải, số 7/2004,
v.v Nhìn chung, những bài viết này chỉ đề cập sơ lược đến một khía cạnh
của QLNN về GTĐB.
4
Tình hình nghiên cứu trên cho thấy, các đề tài, luận văn và bài báo
trong chừng mực nhất định đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và
thực tiễn quan trọng về nâng cao hiệu quả QLNN trong việc bảo đảm
TTATGTĐB trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn
diện, chuyên biệt về nâng cao hiệu quả QLNN trong việc bảo đảm
TTATGTĐB trên địa bàn thành phố Hà Nội. Luận văn là công trình khoa học
đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên biệt về: “Nâng cao hiệu
quả QLNN trong việc bảo đảm TTATGTĐB trên địa bàn thành phố Hà Nội
hiện nay” dưới góc độ Quản lý hành chính công. Với kết quả nghiên cứu của
luận văn, hy vọng sẽ góp phần khắc phục những tình trạng nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Về mục đích: Luận văn hướng tới là sáng tỏ cơ sở lý luận và thực trạng
QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay
để đưa ra phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả
QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB trên địa bàn thành phố Hà Nội trong

thời gian tới.
Về nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về nâng cao hiệu quả QLNN trong bảo đảm
TTATGTĐB trên địa bàn thành phố Hà Nội thông qua việc làm rõ khái niệm,
đặc điểm, nội dung và vai trò của QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB.
- Đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân hạn chế hiệu quả của
QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm
2001 đến nay.
- Xác định các phương hướng và đề xuất hệ thống giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao hiệu quả QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB trên địa bàn Hà
Nội trong thời gian tới.
5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là tổng quát hoạt
động QLNN trong lĩnh vực bảo đảm TTATGTĐB trên các mặt về xây dựng,
ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản QLNN về TTATGTĐB; việc xử lý
các hành vi vi phạm TTATGTĐB của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc
chủ thể và đối tượng của QLNN về TTATGTĐB trên địa bàn thành phố Hà
Nội trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
Về phạm vi: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về hiệu quả QLNN trong
bảo đảm TTATGTĐB. Vấn đề này được tiếp cận dưới góc độ của khoa học
Quản lý hành chính công, vì thế luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về QLNN
trong bảo đảm TTATGTĐB trên địa bàn thành phố Hà Nội của các cơ quan
quản lý hành chính nhà nước trong mối liên hệ với QLNN về TTATGTĐB
của các cơ quan nhà nước nói chung từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về QLNN; bám sát chủ trương, đường lối
của Đảng về nâng cao hiệu quả QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB, đặc biệt
là Nghị quyết số 15 về mở rộng địa giới hành chính Thủ đô đã được Quốc hội

nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/5/2008.
Trên cơ sở đó, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như
thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh và dự báo để chọn lọc những tri thức
khoa học cũng như kinh nghiệm thực tiễn QLNN về TTATGTĐB.
6. Đóng góp mới của luận văn
Trên bình diện Quản lý hành chính công, luận văn bước đầu chỉ đạt được
một số điểm mới sau:
- Xây dựng khái niệm QLNN về TTATGTĐB, làm rõ đặc điểm và nội
dung QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB.
6
- Xác định vai trò của QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB.
- Đánh giá một cách tương đối toàn diện về QLNN trong bảo đảm
TTATGTĐB trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2001 đến nay. Đề xuất hệ
thống giải pháp cơ bản, toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả QLNN trong bảo
đảm TTATGTĐB trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Thông qua việc làm rõ thực trạng QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB
trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay- những thành tựu, hạn chế và nguyên
nhân. Luận văn góp phần khẳng định nhu cầu thực tiễn phải nâng cao hiệu
lực, hiệu quả QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB trên địa bàn thành phố Hà
Nội hiện nay và những năm tiếp theo.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn
đề lý luận về QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB trên địa bàn thành phố Hà
Nội. Do đó, làm phong phủ thêm lý luận về Quản lý hành chính công. Luận
văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền QLNN về
TTATGTĐB, cho cán bộ, công chức có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực GTĐB. Ngoài ra, luận văn có thể là nguồn tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu, giảng dạy và phổ biến giáo dục pháp luật về GTĐB.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
TRONG BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG BẢO
ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1.1. Khái niệm và nguyên tắc quản lý nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước
Thuật ngữ “quản lý” có nhiều nghĩa khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt
“quản lý” được hiểu dưới hai khía cạnh: một là, trông coi và giữ gìn theo
những yêu cầu nhất định; hai là, Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo
những yêu cầu nhất định” [34, tr.72]. Theo sách gốc và nghĩa từ Việt thông
dụng quản lý được hiểu là “trông nom, sửa sang, sắp đặt công việc” [34, tr.95].
Như vậy, thuật ngữ “quản lý” có nhiều cách diễn đạt khác nhau tùy
theo góc độ tiếp cận. Các nhà điều khiển học đưa ra quan niệm chung: “quản
lý là sự tác động định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa
và hướng nó phát triển phù hợp với những quy định nhất định” [34, tr.83].
Trong khái niệm này, sự tác động có định hướng được hiểu là sự tác động có
tính kế hoạch của người quản lý vào bất kỳ một thời điểm nào đó, hướng đến
đối tượng là một hệ thống nào đó”. Hệ thống được xác định là “tập hợp nhiều
yếu tố, đơn vị cùng loại hoặc cùng chức năng có quan hệ hoặc liên hệ với
nhau chặt chẽ, làm thành một thể thống nhất” [22, tr.18].
Xuất phát từ tính kế hoạch của người quản lý nên sự tác động được xác
định mục đích rõ ràng là nhằm trật tự hóa một hệ thống bất kỳ nào đó. Do vậy
có thể nhận thấy, trước khi có tác động quản lý thì các yếu tố, các đơn vị của
một hệ thống đang ở trạng thái tự nhiên, tự phát, chưa được sắp đặt thứ bậc.
8
Nhưng dưới tác động của người quản lý thì các yếu tố, đơn vị được đặt vào

một vòng trật tự theo ý chí của người quản lý. Vị trí, vai trò của người quản lý
thể hiện rõ qua việc có trật tự hóa được hệ thống đó hay không. Ngoài ra,
người quản lý còn phải biết hướng hệ thống đó phát triển theo những quy định
nhất định. Như vậy, người quản lý đóng vai trò thức đẩy, hoạch định, khơi
gợi, phát huy “tính trội” của từng yếu tố, đơn vị, đồng thời hạn chế, ngăn
ngừa, loại trừ những “tác hại” của các yếu tố, đơn vị cản trở tính thống nhất
của hệ thống.
Trong quản lý xã hội nói chung và quản lý quá trình lao động sản xuất,
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ, quản lý là một dạng
hoạt động - một hiện tượng tất yếu trong xã hội loài người. C.Mác cho rằng:
“quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội của quá trình
lao động” [7, tr.29-30] và “Lao động giám sát và quản lý cần thiết ở tất cả
những nơi mà hoạt động sản xuất trực tiếp có hình thức của một quá trình
phối hợp mang tính xã hội chứ không phải là lao động riêng lẻ của những
người sản xuất độc lập” [6, tr.432]. Ăngghen khẳng định: “quản lý là tất yếu
khi nhiều người cần hoạt động chung với nhau, khi có sự hiệp tác của một số
người, khi có sự phối hợp của nhiều người” [8, tr.33-34]. Nghĩa là, ở đâu có
sự hợp tác của nhiều người, ở đó xuất hiện nhu cầu quản lý. Do đó, chức năng
quản lý là chức năng của một “nhạc trưởng” thể hiện ở sự điều hòa những
hoạt động cá nhân.
Quản lý quá trình xã hội để “trật tự hóa” xã hội là một quá trình phức
tạp, đa dạng và nhiều biến động. Các yếu tố “chủ thể quản lý”, “đối tượng
quản lý”, “khách thể” của quản lý xã hội luôn đặt ra những vấn đề đòi hỏi từ
thực tiễn cần được làm rõ về mặt lý luận.
Chủ thể của quản lý xã hội là con người hay tổ chức của con người.
Hoạt động do chủ thể quản lý tiến hành là hoạt động quản lý. Đối tượng của
9
quản lý xã hội là các quan hệ xã hội mà chủ thể quản lý tác động tới. Suy cho
cùng quản lý xã hội là quản lý con người. Mà yếu tố con người trong các quan
hệ xã hội lại là “đối tượng bị quản lý”. Như vậy, đối tượng của quản lý xã hội

là con người hay tổ chức của con người bị quản lý và khách thể của quản lý
xã hội đó chính là “trật tự xã hội”.
Mối quan hệ giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý được thể hiện
thông qua quan hệ “quyền uy- phục tùng”. Quyền uy là phương tiện hữu hiệu
để chủ thể quản lý tiến hành hoạt động quản lý. Không có quyền uy thì hoạt
động quản lý sẽ không đạt được mục đích đề ra. Quyền uy và phục tùng tạo
thành nội dung của quyền lực quản lý. Quyền lực là sức mạnh của chủ thể
quản lý và cũng chính là yếu tố quyền lực làm cho ý chí của chủ thể quản lý
trở thành ý chí thống trị buộc đối tượng quản lý phải phục tùng.
Từ khi xã Nhà nước xuất hiện, bộ phận quản lý cơ bản và quan trọng
nhất do Nhà nước với tư cách là một tổ chức quyền lực thực hiện mang tính
nhà nước được gọi là QLNN. Quyền lực trong QLNN có bản chất khác với
quyền lực xã hội, mang tính chất nhà nước do pháp luật quy định và được
đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của Nhà nước. Nhưng quản lý xã hội
không chỉ do Nhà nước mà còn do tất cả các bộ phận cấu thành khác của hệ
thống chính trị thực hiện. Như vậy, quản lý xã hội là một khái niệm rộng, bao
hàm hai nội dung: 1) quản lý các công việc của Nhà nước - phần quản lý xã
hội do Nhà nước đảm nhiệm; 2) quản lý các công việc có tính xã hội - phần
quản lý còn lại do các tổ chức xã hội, tổ chức tư nhân, gia đình v.v thực hiện.
Theo nghĩa rộng, QLNN được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà
nước, có thể do các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng và nhân
dân trực tiếp thực hiện nếu được Nhà nước ủy quyền, trao quyền thực hiện
chức năng của Nhà nước theo quy định của pháp luật. Theo nghĩa hẹp, hoạt
động QLNN là hoạt động chấp hành và điều hành của Nhà nước hay còn gọi
10
là hoạt động quản lý theo ý nghĩa vốn có của nó. Hiểu theo nghĩa hành pháp,
hoạt động QLNN chủ yếu được thực hiện bởi hệ thống cơ quan hành chính nhà
nước, đó là Chính phủ, các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân
(UBND) các cấp. Các cơ quan này thành lập để chuyên thực hiện hoạt động
quản lý hành chính nhà nước và trong thực tiễn được gọi là cơ quan quản lý

hành chính nhà nước.
Bản chất của hoạt động quản lý hành chính nhà nước được thể hiện
thông qua hoạt động lập quy và hành chính. Hoạt động lập quy thể hiện ở
việc cụ thể hóa luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội. Hành chính là hoạt
động chỉ đạo, quản lý của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Trong
hoạt động này, chủ thể quản lý áp dụng các biện pháp tổ chức- pháp lý bằng
việc ban hành các văn bản pháp quy và văn bản cá biệt. Hoạt động lập quy
và hành chính xuất phát từ đặc thù của hoạt động quản lý hành pháp nhằm
thực hiện quyền lực nhà nước trong quản lý xã hội.
Mỗi Nhà nước luôn gắn với một thiết chế xã hội nhất định theo phạm vi
không gian và thời gian, do vậy đặc tính QLNN sẽ thay đổi tùy theo bản chất
của chế độ chính trị và trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia
trong từng thời kỳ. So với hoạt động của các chủ thể khác trong xã hội,
QLNN có những điểm khác biệt cơ bản sau đây:
- Chủ thể QLNN là các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức có
thẩm quyền trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao. Những chủ thể
này tham gia vào quá trình tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước về lập pháp
và hành pháp theo luật định.
- Đối tượng của QLNN bao gồm tất cả các tổ chức, cá nhân sinh sống
và hoạt động sản xuất kinh tế, văn hóa, xã hội trong phạm vi lãnh thổ quốc
gia; các nguồn tài nguyên thiên nhiên và xã hội được khai thác sử dụng vào
quá trình cung cấp các sản phẩm theo nhu cầu xã hội.
11
- QLNN có tính toàn diện, bao gồm các lĩnh vực chủ yếu của đời sống
xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và ngoại
giao, v.v
- QLNN mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng công cụ pháp luật,
chính sách, kế hoạch để quản lý xã hội.
- Mục tiêu QLNN là bảo đảm, bảo vệ sự ổn định và phát triển xã hội
bền vững, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do.

hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Từ những đặc tính trên, có thể khái quát: Quản lý nhà nước là một
dạng quản lý xã hội đặc biệt và chủ yếu nhất, là hoạt động mang tính quyền
lực nhà nước, được Nhà nước sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội, các
hành vi của cá nhân, tổ chức, có sức mạnh và hiệu lực do các cơ quan nhà
nước, công chức trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ công, duy
trì sự ổn định và phát triển bền vững xã hội.
1.1.1.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước
Ở Việt Nam, để QLNN bảo đảm hiệu lực và hiệu quả, cần quán triệt
các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong quản lý nhà nước
Cội nguồn sâu xa mang tính quy luật của cách mạng Việt Nam, của
nguyên tắc này đã từng được thừa nhận. Chính vì vậy, Điều 4 Hiến pháp năm
1992 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công
nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức Đảng hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” [24, tr.14]. Nội dung của
nguyên tắc này thể hiện: một là, Đảng lãnh đạo QLNN bằng việc đưa ra
những chủ trương, đường lối chính sách của mình về các lĩnh vực khác nhau
12
của QLNN. Các Nghị quyết của các cấp ủy đảng là những cơ sở quan trọng
để các chủ thể QLNN có thẩm quyền thể chế hóa thành pháp luật thực thi
trong QLNN. Để thực hiện nghị quyết này, phải thông qua hàng loạt những
hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của các chủ thể QLNN. Thông qua
những hoạt động này, chủ trương của Đảng sẽ được thấm sâu vào các lĩnh
vực QLNN. Hai là, Đảng lãnh đạo QLNN thông qua công tác cán bộ. Đảng
đào tạo, lựa chọn, giới thiệu cán bộ cho cơ quan QLNN. Chính vì vậy, Điều 4
Pháp lệnh cán bộ, công chức quy định: “công tác cán bộ, công chức đặt dưới
sự lãnh đạo thống nhất của Đảng ” [24, tr.9]. Ba là, Đảng lãnh đạo QLNN

thông qua hình thức kiểm tra. Đây là kiểm tra việc thực hiện chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng. Việc kiểm tra nhằm đánh giá tính hiệu quả,
tính thực tế của những chủ trương, đường lối, chính sách mà Đảng đã đề ra.
Trên cơ sở đó phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt hạn chế trong công tác
lãnh đạo QLNN.
Ngoài ra, sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động QLNN còn thực hiện
thông qua uy tín, vai trò của các tổ chức đảng, đảng viên. Việc nghiêm chính
chấp hành pháp luật được coi là kỷ luật của tổ chức đảng.
Thứ hai, tập trung dân chủ trong quản lý nhà nước
Tập trung dân chủ là nguyên tức trong tổ chức và hoạt động của Nhà
nước ta cho nên hoạt động QLNN đương nhiên cũng phải tuân thủ nguyên tắc
này. Điều 6 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và
các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ” [24, tr.7]. Nguyên tắc này bảo đảm mối quan hệ chặt chẽ và
tối ưu giữa tập trung và dân chủ, vừa đảm bảo sự tập trung trên cơ sở dân chủ,
vừa đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo của tập trung. Tập trung là
thâu tóm quyền lực nhà nước và chủ thể quản lý điều hành, chỉ đạo việc thực
hiện pháp luật. Dân chủ là việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lý nhằm
13
phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lý, phát huy khả năng tiềm tàng
của đối tượng quản lý trong quá trình thực hiện pháp luật.
Như vậy, nếu chỉ lãnh đạo tập trung trong QLNN mà không mở rộng
dân chủ thì dễ dẫn đến vi phạm quyền của công dân, quan liêu, hách dịch
tham nhũng, cửa quyền có điều kiện để phát triển. Ngược lại, nếu không lãnh
đạo tập trung thống nhất trong QLNN thì sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện, vô
chính phủ, cục bộ địa phương trong QLNN.
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong QLNN có biểu hiện rất phong phú, đa
dạng trong moi lĩnh vực. Có thể thấy sự biểu hiện đó trong sự phụ thuộc của cơ
quan QLNN (cơ quan hành chính nhà nước) vào cơ quan quyền lực nhà nước
cùng cấp; trong sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với

trung ương; trong sự phân cấp quản lý; trong sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan
QLNN ở địa phương và sự hướng về cơ sở của các cơ quan QLNN.
Tuy nhiên, phải thừa nhận hiện nay chúng ta còn lúng túng trong việc
vận dụng nguyên tắc này vào QLNN làm cho hiệu lực và hiệu quả QLNN
chưa được nâng cao một cách đáng kể, kỷ luật, kỷ cương trong QLNN còn
lỏng lẻo.
Thứ ba, Bảo đảm pháp chế trong quản lý nhà nước
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất của QLNN của các nhà nước đương đại.
Không tuân theo nguyên tắc này thì cũng đồng nghĩa với việc nhà nước không
quản lý xã hội bằng pháp luật.
Điều 12 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” [24, tr.17].
Nguyên tắc này đòi hỏi từ phía nhà nước (chủ thể quản lý) phải không những
xây dựng và hoàn thiện hệ thông pháp luật. Các cơ quan hành chính, đặc biệt
là Chính phủ phải làm theo pháp luật. Theo Hiến pháp, chính phủ phải chịu sự
giám sát của Quốc hội và các cơ quan tư pháp. Pháp luật là cơ sở, căn cứ tổ
14
chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan này
trong tổ chức và hoạt động không được vượt quá phạm vi mà pháp luật đã
quy định. Các quyết định hành chính của các cơ quan hành chính và công
chức, viên chức hành chính đều phải phù hợp với pháp luật. Còn đối với các
đối tượng bị quản lý (không phải là cơ quan, cán bộ công chức, viên chức nhà
nước) được làm tất cả những gì mà nhà nước không cấm. Tuy nhiên, những
việc được làm cần phải thực hiện theo sự hướng dẫn, quy định của nhà nước.
Nói một cách toàn diện “pháp chế xã hội chủ nghĩa là chế độ thực hiện pháp
luật nghiêm minh, thống nhất và tự giác của các cơ quan nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ trang, cán bộ, công chức
nhà nước và mọi công dân”. Quản lý nhà nước là một công việc phức tạp diễn
ra ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế xã
hội chủ nghĩa trong QLNN có nghĩa là phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu đối

với từng lĩnh vực hoạt động khác nhau. Đây là điều kiện không thể thiếu để
đảm bảo hiệu quả QLNN.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm về quản lý nhà nước trong bảo đảm trật tự an
toàn giao thông đường bộ
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, việc
phát triển GTĐB và bảo đảm TTATGTĐB có ý nghĩa quan trọng trong việc
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đây là một lĩnh vực hoạt động tất yếu, rộng
lớn và hết sức phức tạp. Có thể nói, TTATGTĐB là đối tượng quản lý của
mọi nhà nước. Từ những vấn đề lý luận về QLNN trên đây sẽ được cụ thể hóa
trong QLNN về bảo đảm TTATGTĐB.
1.1.2.1. Giao thông và giao thông đường bộ
Khi nói đến giao thông là nói đến “việc đi lại từ nơi này đến nơi khác
của người và phương tiện chuyên chở” [15, tr.378].
15
Giao thông là đòi hỏi có tính tất yếu, cần thiết của quá trình phát triển
đời sống xã hội ở mỗi thời đại và mỗi quốc gia. Sự phát triển của giao thông
mang tính lịch sử và phụ thuộc vào trình độ phát triển của kinh tế, khoa học -
công nghệ nhất định.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người có thể nói từ khi còn sơ khai
đến xã hội văn minh ngày nay đều gắn bó chặt chẽ với hoạt động giao thông
mà trước hết là GTĐB, sau đó mới phát triển các loại hình giao thông khác
như giao thông đường thủy, giao thông đường sắt, giao thông đường không.
Theo Từ điển Tiếng Việt, đường bộ được hiểu là “đường đi trên đất liền
dùng cho người đi bộ và xe cộ [22, tr.346]. Luật GTĐB năm 2008 có định
nghĩa: “đường bộ gồm đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường
bộ”. Như vậy, GTĐB được hiểu là việc đi lại từ nơi này đến nơi khác của
người và phương tiện chuyên chở trên đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ,
bến phà qua sông, suối nối đường bộ.
GTĐB là một hiện tượng xã hội có xu hướng biến động mạnh mẽ ở hầu
hết các quốc gia. GTĐB và phát triển GTĐB đang được xem xét ở nhiều góc

độ kinh tế - xã hội, chính trị dưới sự tác động của sự phát triển khoa học - kỹ
thuật tiên tiến. Ở đây, dưới góc độ quản lý hành chính công hiện tượng GTĐB
đang đặt ra những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, GTĐB là một nhu cầu tự nhiên của xã hội người. Nhưng
từng cá thể con người, tổ chức người nhất định không thể tự lo để thỏa mãn
nhu cầu của mình. Đặc biệt, để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường,
chỉ có Nhà nước mới có thể xây dựng kết cấu hạ tầng GTĐB. Mặc dù, ở mức
độ nào đó, Nhà nước phải huy động sức dân, nhưng trách nhiệm thuộc về Nhà
nước. Trách nhiệm này mang tính pháp lý được quy định trong chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước.
16
Thứ hai, các quan hệ xã hội diễn ra trong lĩnh vực GTĐB là đối tượng
quản lý của Nhà nước. Nhà nước kiểm soát, hướng dẫn, điều chỉnh các
QHXH để các quan hệ này diễn ra “trong vòng trật tự”.
Thứ ba, các quan hệ xã hội phát sinh trong GTĐB diễn ra bởi nhiều chủ
thể với những mục đích kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh khác nhau và cần
được định chế hóa, quy phạm hóa và tiến tới pháp điển hóa. Các quan hệ xã
hội trong lĩnh vực GTĐB cũng như vậy, kết quả của quá trình định chế hóa,
quy phạm hóa, pháp điển hóa là Luật GTĐB năm 2001 ra đời.
Tóm lại, từ vai trò tất yếu của GTĐB và những vấn đề QLNN nêu trên
là cơ sở, có tính điều kiện để nghiên cứu khái niệm về TTATGTĐB và QLNN
trong bảo đảm TTATGTĐB.
1.1.2.2. Trật tự an toàn giao thông đường bộ
Trên thực tế, còn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về TTATGTĐB.
Có ý kiến cho rằng: TTATGTĐB là sự bảo đảm cho mọi hoạt động giao
thông được trật tự, an toàn, nhanh chóng, tiện lợi, thông suốt và mỹ quan môi
trường; hạn chế thấp nhất các vi phạm Luật Giao thông và các quy phạm pháp
luật về trật tự ATGT, kiềm chế tai nạn giao thông, ngăn ngừa thiệt hại do tai
nạn giao thông gây ra.
Một quan niệm khác cho rằng: “TTATGTĐB là việc chấp hành triệt để

những yêu cầu về kỹ thuật, quản lý đối với các công trình giao thông và
phương tiện giao thông, quy định đối với người tham gia giao thông khi hoạt
động trên đường bộ, là cho giao thông được trật tự, an toàn, thông suốt, thuận
tiện”[22, tr.6-7].
Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân thì “TTATGTĐB là hệ
thống các mối quan hệ xã hội được hình thành và điều chỉnh bởi các quy
phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông vận tải công cộng mà mọi người
tham gia giao thông phải tuân theo để đảm bảo hoạt động giao thông thông
17
suốt, trật tự an toàn, hạn chế thấp nhất tai nạn giao thông, gây thiệt hại về
người và tài sản” [22, tr.30].
Như vậy, có thể quan niệm: Trật tự an toàn giao thông đường bộ là
hoạt động giao thông được điều chỉnh bằng một hệ thống quy phạm pháp luật
bắt buộc mọi chủ thể tham gia giao thông phải tuyệt đối tuân theo nhằm hạn
chế thấp nhất tai nạn giao thông xảy ra, bảo đảm an toàn cho người và tài
sản khi tham gia giao thông; hạn chế ùn tắc giao thông, bảo đảm giao thông
được tiện lợi, có hiệu quả, tiết kiệm được các cước phí vận chuyển, thời gian
trên đường; đảm bảo được yêu cầu mỹ quan giao thông đô thị, chống ô nhiễm
môi trường.
TTATGTĐB là việc các đối tượng tham gia giao thông thực hiện
nghiêm chỉnh các quy định pháp luật về GTĐB do Nhà nước ban hành nhằm
bảo đảm GTĐB được thông suốt; người, hàng hóa, phương tiện tham gia giao
thông không bị xâm hại, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa và nhu
cầu đi lại của nhân dân, góp phần ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật, đấu
tranh phòng chống tội phạm trên các tuyến đường và ở từng địa bàn.
TTATGTĐB là vấn đề xã hội gắn liền với cuộc sống con người, bảo
đảm sự tồn tại và phát triển của con người. Xã hội càng hiện đại, văn minh,
yêu cầu về bảo đảm TTATGTĐB càng cao. TTATGTĐB được bảo đảm thể
hiện ở việc người, phương tiện, hang hóa tham gia giao thông không bị xâm
hại; mọi hoạt động giao thông được tiến hành nhanh chóng, thuận tiện; bảo

đảm hiệu quả, tiết kiệm và trật tự an toàn vệ sinh môi trường, mỹ quan đô thị.
Nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, khi mà độ an toàn, chi phí trong lưu
thông vận chuyển đã kết tinh thành giá cả hàng hóa thì TTATGTĐB còn được
xem là tiêu chí quan trọng để xem xét việc có quyết định đầu tư kinh doanh
và mở rộng sản xuất hay không.
18
1.1.2.3. Quản lý nhà nước trong bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ
a. Khái niệm
Hoạt động QLNN nói chung và QLNN trong một lĩnh vực cụ thể nào
đó có thể bằng nhiều phương pháp, cách thức khác nhau. Phổ biến là quản lý
bằng phương pháp hành chính, phương pháp kế hoạch chính sách, phương
pháp kinh tế và phương pháp tư tưởng. Nhưng tựu chung, Nhà nước nào cũng
dùng pháp luật như một công cụ, là chuẩn mực khách quan để đánh giá hiệu
lực, hiệu quả của QLNN, đồng thời là phương pháp chủ yếu để quản lý xã
hội. Tuy nhiên, pháp luật không phải là tuyệt đối, do vậy không được tuyệt
đối hóa vai trò của pháp luật trong QLNN.
QLNN trong bảo đảm TTANGTĐB là hoạt động mang tính chất quyền
lực của cơ quan hành chính nhà nước, nhằm tạo ra các điều kiện để xác lập,
duy trì và ổn định các quan hệ về giao thông, theo quy định của pháp luật về
TTANGTĐB. Đây là một hoạt động có vai trò, vị trí rất quan trọng trong lĩnh
vực an ninh trật tự. Bởi vì, TNGT hàng ngày vẫn xảy ra đã và đang là một
hiểm họa không chỉ đối với nước ta mà còn là hiểm họa chung đối với tất cả
các quốc gia trên thế giới.
QLNN trong bảo đảm TTANGTĐB là hoạt động chấp hành và điều
hành của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội được Nhà nước ủy quyền,
được tiến hành trên cơ sở pháp luật, nhằm bảo vệ trật tự ATGT. QLNN trong
bảo đảm TTANGTĐB được tiến hành trên các lĩnh vực: ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật về TTANGTĐB; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về GTĐB; quản lý quy tắc GTĐB; quản lý kết cấu hạ tầng GTĐB; quản
lý phương tiện tham gia GTĐB; quản lý người điều khiển phương tiện

GTĐB; quản lý vận tải đường bộ; tuần tra kiểm soát giao thông; chỉ huy điều
khiển giao thông; thanh tra, kiểm tra và xử lý TNGT.
19

×