ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ NGỌC HOAN
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA
NGÀNH THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ NGỌC HOAN
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA
NGÀNH THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Tuấn Khải
HÀ NỘI - 2011
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các sơ đồ
MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THANH TRA BỘ, CƠ
QUAN NGANG BỘ
7
1.1.
Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ - chức năng thiết yếu trong
quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ
7
1.1.1.
Địa vị pháp lý của Bộ, cơ quan ngang Bộ
7
1.1.2.
Vị trí, vai trò của thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ trong quản
lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ
8
1.2.
Thanh tra ngành Thông tin và Truyền thông - một tổ chức
giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước
11
1.2.1.
Khái niệm Thanh tra Thông tin và Truyền thông
11
1.2.2.
Một số đặc điểm của Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông
18
1.3.
Quá trình hình thành và phát triển của Thanh tra ngành
Thông tin và Truyền thông
23
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THANH
TRA NGÀNH THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
32
2.1.
Những quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của thanh
tra ngành thông tin và truyền thông
32
2.2.
Tổ chức, bộ máy và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Thanh tra ngành Thông tin và Truyền thông
33
2.2.1.
Đối với Thanh tra Bộ Thông tin và truyền thông
34
2.2.2.
Đối với Thanh tra Cục
37
2.2.3.
Đối với Thanh tra Sở Thông tin và Truyền thông
39
2.3.
Một số kết quả đạt được trong hoạt động của Thanh tra ngành
Thông tin và Truyền thông từ năm 2007 đến nay
42
2.3.1.
Hoạt động của Thanh tra ngành Thông tin và truyền thông
năm 2007
42
2.3.2.
Hoạt động của Thanh tra ngành Thông tin và Truyền thông
năm 2008
46
2.3.3.
Hoạt động của Thanh tra ngành Thông tin và Truyền thông
năm 2009
49
2.3.4.
Hoạt động của Thanh tra ngành Thông tin và Truyền thông
năm 2010
53
2.4.
Một số hạn chế trong tổ chức và hoạt động của thanh tra
ngành Thông tin và Truyền thông
56
2.4.1.
Hạn chế về tổ chức
56
2.4.2.
Hạn chế về hoạt động
57
2.4.3.
Hạn chế do cơ chế, chính sách
60
2.5.
Nguyên nhân của những hạn chế
63
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG THANH TRA NGÀNH THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
67
3.1.
Quan điểm và nguyên tắc hoàn thiện về tổ chức và hoạt động
của Thanh tra ngành Thông tin và Truyền thông
67
3.2.
Các giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động thanh tra
ngành Thông tin và Truyền thông
70
3.2.1.
Hoàn thiện các quy định pháp luật về thanh tra ngành thông
tin và truyền thông
70
3.2.2.
Hoàn thiện tổ chức, bộ máy thanh tra
75
3.2.3.
Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức thanh tra
78
3.2.4.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động thanh tra Thông
tin và Truyền thông
84
3.2.5.
Thực hiện tốt công tác phối hợp giữa các bộ, ngành liên quan
với Thanh tra Thông tin và Truyền thông
87
3.2.6.
Thực hiện tốt chính sách thi đua khen thưởng, chế độ lương,
phụ cấp và các chế độ đãi ngộ đối với cán bộ thanh tra Thông
tin và Truyền thông
91
3.2.7.
Thiết lập chế độ tài chính, tăng cường ứng dụng khoa học
công nghệ vào hoạt động thanh tra
92
KẾT LUẬN
95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
97
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng
và lãnh đạo, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn cả về kinh tế, chính
trị, văn hóa và xã hội. Tuy nhiên, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện được mục tiêu nước giàu, dân mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng và văn minh, chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều. Cải cách
nền hành chính là một nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng, Nhà nước ta đang tập trung
chỉ đạo quyết liệt nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch vững
mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa; hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên
tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Một trong bốn
nội dung của cải cách nền hành chính là cải cách bộ máy hành chính, trong đó
có tổ chức bộ máy và hoạt động của hệ thống Thanh tra nhà nước.
Công tác thanh tra, kiểm tra giữ vai trò rất quan trọng trong quản lý nhà
nước, là một công đoạn không thể thiếu được trong công tác quản lý. Trong
những năm qua nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng, của Chính phủ đã đề cập đến
công tác thanh tra. Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII đã chỉ rõ: "Tăng cường
tổ chức và hoạt động thanh tra, coi đó là công cụ quan trọng và hữu hiệu để đảm
bảo hiệu lực quản lý nhà nước; thiết lập kỷ cương xã hội". Nghị quyết còn nhấn
mạnh: "Đổi mới tổ chức thanh tra cho phù hợp với chức năng quản lý nhà nước
trong điều kiện mới" Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác định:
"Tăng cường chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy công tác kiểm
tra và kỷ luật của Đảng; củng cố, kiện toàn nâng cao hiệu lực của hệ thống thanh
tra các cấp, các cơ quan bảo vệ pháp luật và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan có liên quan". Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2009 của
Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm
2020: "Nghiên cứu sửa đổi pháp luật về thanh tra theo hướng làm rõ chức năng,
2
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra nhà nước… tăng cường tính độc
lập và tự chịu trách nhiệm của các cơ quan thanh tra… tăng cường hiệu lực thi
hành các kết luận của cơ quan thanh tra".
Để cụ thể hóa về công tác thanh tra đã được quy định tại Điều 112
Hiến pháp năm 1992, ngày 15 tháng 6 năm 2004 tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI đã thông qua văn bản
Luật số 22/2004/QH11 về thanh tra. Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra. Các
văn bản quy phạm pháp luật này là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động
của thanh tra các cấp, các ngành.
Theo quy định của Luật Thanh tra: Thanh tra nhà nước bao gồm thanh
tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Trong đó, Thanh tra hành chính là
hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo cấp hành chính đối với
việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân
thuộc quyền quản lý trực tiếp.
Thanh tra Thông tin và truyền thông (TT&TT) là cơ quan thanh tra theo
ngành, lĩnh vực được tổ chức ở Trung ương bao gồm Thanh tra Bộ TT&TT,
Thanh tra Cục Tần số vô tuyến điện (TSVTĐ), Thanh tra Cục Quản lý Chất
lượng (QLCL) Công nghệ Thông tin và Truyền thông (CNTT&TT); ở các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương có Thanh tra Sở TT&TT; thực hiện chức
năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong phạm vi quản lý
nhà nước về báo chí; xuất bản; bưu chính và chuyển phát; viễn thông và
Internet; truyền dẫn phát sóng; TSVTĐ; công nghệ thông tin (CNTT); điện tử;
phát thanh và truyền hình và cơ sở hạ tầng thông tin truyền thông quốc gia; các
dịch vụ công theo quy định của pháp luật.
Trong những năm qua, Thanh tra TT&TT đã có những đóng góp rất
lớn và thiết thực đối với công tác quản lý nhà nước về TT&TT. Điều này
được thể hiện thông qua việc tiến hành thanh tra, lập biên bản và xử lý vi
3
phạm hành chính (VPHC) những sai phạm trong hoạt động TT&TT, phối hợp
tốt với các cơ quan chức năng khác nhằm đưa hoạt động TT&TT vào khuôn
khổ theo đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra, Thanh tra TT&TT còn tích
cực tham mưu cho lãnh đạo các cấp trong các công tác tiếp công dân và xử lý
đơn thư phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu đã đạt được, hoạt động của Thanh tra TT&TT vẫn còn nhiều bất
cập, vướng mắc cần làm rõ cả về mặt lý luận và thực tiễn như: tổ chức và hoạt
động thanh tra; thẩm quyền của các cơ quan thanh tra; mối quan hệ giữa
Thanh tra Bộ với Thanh tra Cục, Thanh tra Sở; phân định thẩm quyền giữa Bộ
TT&TT với Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch về quyền tác giả và quyền liên
quan trong hoạt động thông tin truyền thông; hệ thống tổ chức ngành chưa thực
sự ổn định và thống nhất. Năng lực, trình độ nghiệp vụ chuyên môn và quản
lý của thanh tra, cơ sở vật chất trang thiết bị của hoạt động thanh tra v.v…
Mặt khác, cùng với sự phát triển chung của xã hội, ngành TT&TT, mạng
lưới, dịch vụ bưu chính, viễn thông (BCVT) và CNTT ngày càng được mở rộng
với quy mô lớn, phát triển đa dạng và được sử dụng rộng rãi. Môi trường kinh
doanh, chế độ sở hữu đã được đa dạng hóa và có bước phát triển để thực hiện lộ
trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, các vi phạm pháp luật cũng đã
phát sinh phức tạp, nhất là loại vi phạm, tội phạm sử dụng công nghệ cao như:
TSVTĐ, ứng dụng CNTT trong việc sử dụng thẻ tín dụng cá nhân, đánh bạc, cá
độ qua mạng, truyền đưa, phát tán thông tin xấu, khiêu dâm, độc hại lên mạng;
lĩnh vực thông tin, báo chí cũng bộc lộ những tồn tại, thể hiện ở việc thực
hiện không đúng tôn chỉ, mục đích, thông tin theo lối giật gân câu khách, xu
hướng thương mại hóa; thông tin sai sự thật, xâm phạm đời tư, xúc phạm uy
tín, danh dự, nhân phẩm của công dân; nhiều cơ quan báo chí, trang thông tin
điện tử thông tin thiếu nhạy cảm chính trị, không phù hợp với thuần phong mỹ
tục, truyền thống văn hóa dân tộc và vi phạm các quy định của Luật Báo chí…
Những hành vi vi phạm pháp luật nêu trên đã tác động xấu đến tình hình chính
trị, kinh tế xã hội, an ninh trật tự, công tác chỉ đạo, điều hành của Nhà nước,
4
chính sách ngoại giao, trực tiếp ảnh hưởng đến mục tiêu xây dựng và phát triển
đất nước, làm xấu đi hình ảnh đất nước ta trong mắt bạn bè quốc tế.
Ngày 15/11/2010, Luật Thanh tra số 56/2010/QH12 đã được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII thông qua và có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/7/2011. Luật này đã thể chế một cách khoa học quan điểm
của Đảng và Nhà nước về tổ chức và hoạt động thanh tra, đáp ứng yêu cầu cải
cách nền hành chính nhà nước, phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong
điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thanh tra Bộ, ngành nói chung và Thanh tra Bộ TT&TT nói riêng là một cơ
quan trong hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước cũng cần được đổi mới, tổ
chức lại theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010.
Trước những lý do mang tính thời sự trên, để đáp ứng yêu cầu của
công cuộc đổi mới theo chủ trương của Đảng và Chương trình tổng thể cải
cách hành chính của nhà nước, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của công tác thanh tra, chấn chỉnh và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp
luật góp phần vào sự phát triển ổn định của đất nước thì việc nghiên cứu hoàn
thiện tổ chức và hoạt động Thanh tra ngành TT&TT là một đòi hỏi khách
quan và là việc làm cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thanh tra là vấn đề mang tính tổ chức pháp lý quan trọng trong hệ thống
bộ máy nhà nước. Những năm qua, nhiều nhà khoa học pháp lý, quản lý, tổ
chức đã có các công trình nghiên cứu, bài viết mang tính khoa học về những
vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động thanh tra. Trong số đó trước tiên
phải kể đến tác phẩm "Những vấn đề pháp lý cơ bản của việc đổi mới tổ chức
và hoạt động thanh tra nhà nước Việt Nam" của TS. Phạm Tuấn Khải (1998).
Các bài viết của một số tác giả trên tạp chí thanh tra, kỷ yếu nghiên cứu khoa
học thanh tra như: "Bàn về định hướng đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra
ở nước ta" của tác giả Phạm Văn Khanh (Tập IV- Kỷ yếu nghiên cứu khoa học
5
thanh tra); "Một số ý kiến về đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra bộ, ngành"
của TS. Nguyễn Văn Mạnh (Tập V- Kỷ yếu nghiên cứu khoa học thanh tra);
"Quán triệt quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra trong đổi
mới tổ chức hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước" của tác giả Trần
Đức Lượng (Thông tin khoa học Thanh tra số 11-2/2007). Đề tài khoa học cấp
bộ "Đổi mới công tác tổ chức cán bộ của ngành thanh tra" của tác giả Nguyễn
Khắc Hường (2008); đề tài "Nghiên cứu hoàn thiện mô hình tổ chức thanh tra
bộ, ngành bảo đảm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và trật tự kỷ
luật, kỷ cương hành chính" của tác giả Đặng Xuân Phương (2009) v.v… Tuy
nhiên, việc nghiên cứu về tổ chức và hoạt động thanh tra ngành TT&TT thì
chưa có công trình nào đề cập đến. Chính vì vậy, thực tiễn đặt ra yêu cầu cấp
thiết phải nghiên cứu sâu cả về lý luận và thực tiễn tổ chức và hoạt động
thanh tra ngành TT&TT nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả các mặt của công
tác thanh tra góp phần vào việc tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trong
lĩnh vực TT&TT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về tổ chức và hoạt động thanh tra ngành TT&TT; đánh giá đúng thực trạng
về hoạt động thanh tra của ngành TT&TT, trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số
giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động thanh tra, đồng thời đóng góp
vào quá trình hoàn thiện pháp luật về thanh tra ngành TT&TT ở nước ta.
Để đạt được mục đích này, nhiệm vụ của luận văn phải thực hiện là:
phân tích, làm rõ cơ sở lý luận về thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, về vị trí vai
trò của thanh tra trong quản lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ; quá trình
hình thành và phát triển của Thanh tra ngành TT&TT; nghiên cứu về thực
trạng hoạt động thanh tra ngành TT&TT từ năm 2007 đến nay; những tồn tại,
hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế này, từ đó đề xuất phương hướng
hoàn thiện thanh tra TT&TT trong thời gian tới.
6
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, dựa vào nghị
quyết Đại hội Đảng về công tác thanh tra, các quan điểm xây dựng nhà nước
và pháp luật Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là: phép biện
chứng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, từ cái chung đến cái riêng, phương pháp
phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp phân tích
quy phạm, phương pháp xã hội học, phương pháp tổng kết thực tiễn và các
phương pháp khác.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sâu sắc
thêm một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của
thanh tra bộ, ngành nói chung và thanh tra ngành TT&TT nói riêng.
Về mặt thực tiễn, luận văn sẽ là tài liệu có giá trị, có thể sử dụng làm
tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho học sinh, sinh viên và những người làm
công tác thanh tra. Những đề xuất của luận văn sẽ cung cấp luận cứ khoa học,
làm cơ sở cho việc hoàn thiện nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra của ngành
TT&TT, một ngành có vị trí quan trọng đối với sự phát triển của xã hội.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động thanh tra ngành Thông tin
và Truyền thông.
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện tổ chức và hoạt động thanh tra
ngành Thông tin và Truyền thông.
7
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THANH TRA BỘ,
CƠ QUAN NGANG BỘ
1.1. Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ - chức năng thiết yếu trong
quản lý nhà nƣớc của Bộ, cơ quan ngang Bộ
1.1.1. Địa vị pháp lý của Bộ, cơ quan ngang Bộ
Bộ, cơ quan ngang Bộ (sau đây gọi chung là Bộ) chính thức được ghi
nhận từ Hiến pháp 1946. Qua các Hiến pháp 1954, 1980 và 1992, địa vị pháp
lý của Bộ được xác định ngày càng rõ rệt.
Bộ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về các ngành, lĩnh vực được giao trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước
các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước
của Bộ. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ (dưới đây gọi chung là Bộ
trưởng) là thành viên Chính phủ, là người đứng đầu và lãnh đạo một Bộ; chịu
trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về quản lý nhà nước
đối với ngành được phân công. Bộ trưởng có quyền ban hành quyết định, chỉ
thị, thông tư, tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy trình, quy phạm, định mức kinh tế -
kỹ thuật về quản lý ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ
và hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các văn bản đó; kiểm tra, thanh tra các
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện
nhiệm vụ của mình thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ.
Bộ là cơ quan của Chính phủ, nhưng thực chất hoạt động của Bộ phụ
thuộc vào Chính phủ, phạm vi quản lý nhà nước của Bộ do Chính phủ quy
định và phân công. Theo đó, có thể khẳng định Bộ là cơ quan thực hiện một
hoặc nhiều nhiệm vụ quản lý nhà nước của Chính phủ. Khi nói đến quản lý,
điều hành và trách nhiệm của Bộ tức là nói đến việc đại diện cho Chính phủ
8
quản lý, điều hành đối với một hoặc một số ngành. Nếu nhìn và tiếp cận theo
hướng này thì sẽ dễ dàng giải quyết được vấn đề chồng chéo về phạm vi quản
lý nhà nước giữa các Bộ hiện nay. Đây cũng là cơ sở để xác định phạm vi
hoạt động của Thanh tra bộ. Mặt khác, phạm vi quản lý nhà nước của Bộ là
ngành, theo chúng tôi để thống nhất quản lý nhà nước, khi nói đến Bộ tức là
nói đến ngành, bất kỳ nó ở lĩnh vực nào của đời sống xã hội. Chỉ có Bộ mới
có chức năng quản lý nhà nước đối với ngành - đây là xu hướng phát triển tất
yếu của quản lý nhà nước trong giai đoạn mới.
Về cơ cấu tổ chức của Bộ: Theo quy định của pháp luật hiện hành, Bộ
gồm có các Vụ, Cục, Tổng Cục, Thanh tra Bộ và Văn phòng. Đối với tổ chức
thanh tra ở Bộ, địa vị pháp lý còn được xác định trong pháp luật về thanh tra.
Thanh tra Bộ là một bộ phận cấu thành, nằm trong cơ cấu tổ chức của Bộ.
Ngoài ra tùy theo tính chất quản lý ngành, Chính phủ thành lập các Cục, Tổng
cục quản lý chuyên ngành trực thuộc Bộ, các tổ chức sự nghiệp và các đơn vị
kinh tế. Bộ hoạt động theo chế độ Thủ trưởng, Bộ trưởng điều hành hoạt động
của bộ, giúp Bộ trưởng có các Thứ trưởng do Bộ trưởng phân công.
1.1.2. Vị trí, vai trò của thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ trong quản
lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, để quản lý nhà nước nói chung,
quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường nói riêng không thể thiếu vai
trò quản lý của Nhà nước. Kinh tế thị trường bên cạnh những yếu tố tích cực
thì đã xuất hiện những mặt trái đó là vấn đề việc làm, môi trường, tệ nạn xã
hội, nguy cơ mất ổn định chính trị…điều này không những đã và đang diễn ra
ở nước ta, mà đã xuất hiện ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là những nước
kém và đang phát triển.
Trong quản lý nhà nước, trên cơ sở pháp luật và mục tiêu phát triển
đất nước, Bộ phải sử dụng nhiều chức năng để quản lý: xây dựng chiến lược,
quy hoạch và kế hoạch phát triển, ban hành quy trình quy phạm về kinh tế -
9
kỹ thuật, đưa ra các biện pháp tổ chức triển khai thực hiện, thanh tra, kiểm tra
việc thực hiện pháp luật, chính sách và các quyết định trong phạm vi quản lý
nhà nước của mình. Như vậy, thanh tra là yêu cầu tất yếu, là một bộ phận, giai
đoạn trong chu trình quản lý và là vai trò không thể thiếu trong quản lý nhà
nước của Bộ. Hoạt động thanh tra không phải là hoạt động trực tiếp chỉ huy,
điều hành quản lý, cũng phải là cơ quan chuyên môn thuần túy trong bộ máy
quản lý của Bộ mà nó chính là cơ quan đảm bảo cho hoạt động quản lý đúng
pháp luật, giúp cho cơ quan quản lý thực hiện chức năng quản lý đối với
ngành có hiệu quả. Thanh tra bộ có vai trò giữ vững trật tự, kỷ cương trong
quản lý, hướng tới hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân thuộc
quyền quản lý nhà nước của Bộ. Ngoài việc thực hiện quyền tài phán đối với
việc chấp hành pháp luật của các đối tượng, Thanh tra bộ còn xem tính hợp lý
của pháp luật và các chính sách do cơ quan quản lý nhà nước ban hành để
kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế nhằm hoàn thiện chính sách quản lý.
Về ý nghĩa này, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhấn mạnh trong Hội nghị
thanh tra toàn quốc ngày 24 tháng 3 năm 1972 tại Hà Nội: "Vị trí, tầm quan
trọng của công tác thanh tra là ở chỗ nó phát hiện cho mình những cái mà
mình cần, nó thường xuyên là tai mắt của mình, nó biết nhìn, biết thấy, biết
phát hiện và biết chỉ cho mình thấy những cái mà mình cần biết" [34].
Thanh tra bộ có vai trò giúp Bộ quản lý nhà nước đối với ngành nhằm
thực hiện các mục tiêu:
- Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, khả năng tác động vào đối
tượng quản lý nhằm tìm ra những ưu nhược điểm, định hướng đúng cho hoạt
động của đối tượng quản lý.
- Góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật đối với mọi tổ chức
và cá nhân.
- Bảo đảm việc kiểm soát hoạt động của cơ quan nhà nước, người thừa
hành công vụ; phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm
pháp luật; đấu tranh chống tham nhũng, tham ô lãng phí.
10
- Đảm bảo quyền tự do sản xuất kinh doanh, quyền bình đẳng của các
thành phần kinh tế trước pháp luật.
- Đảm bảo giữ vững ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng, ổn định
kinh tế và định hướng phát triển của Nhà nước cũng như của ngành v.v
Thanh tra bộ là chức năng thiết yếu trong quản lý của bộ. Lịch sử thanh
tra đã chứng minh khẳng định vấn đề này thông qua sự hiện diện của các hình
thức tổ chức, hoạt động thanh tra ở từng thời điểm cách mạng Việt Nam. Sau
Cách mạng tháng Tám, năm 1945, Nhà nước đã thấy được vị trí, vai trò và tầm
quan trọng của thanh tra, vì thế tổ chức thanh tra được thành lập rất sớm. Trong
hoạt động lập pháp mấy năm gần đây, chúng ta đã coi trọng và đề cao vị trí, vai
trò của thanh tra. Trong các đạo luật, pháp lệnh chuyên ngành, các điều khoản
về thanh tra chiếm tỷ lệ khá lớn. Ví dụ các Luật: CNTT, TSVTĐ, Viễn thông,
Lao động… Điều này càng cho ta thấy vị trí, vai trò quan trọng của thanh tra
trong quản lý nhà nước đối với ngành trong tình hình hiện nay.
Tổ chức thanh tra bộ là bộ phận thuộc cơ cấu tổ chức của bộ, thực
hiện nhiệm vụ theo yêu cầu quản lý nhà nước của bộ. Thực tế, Thanh tra bộ
được thiết lập dưới nhiều hình thức: Thanh tra bộ, tổng cục, cục, sở. Mặc dù
với nhiều hình thức tổ chức như vậy, song nhìn chung, các tổ chức thanh tra
đều được thành lập do yêu cầu quản lý nhất định, gắn với mục tiêu, mục đích,
nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ.
Thanh tra bộ là bộ phận không thể thiếu trong hoạt động quản lý nhà
nước của Bộ, nó càng có vị trí, vai trò quan trọng khi chúng ta đang xây dựng
Nhà nước pháp quyền, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mục đích của
thanh tra đều nhằm điều chỉnh, hướng các đối tượng của quản lý thực hiện
nghiêm chỉnh chính sách pháp luật, đánh giá tìm ra những ưu điểm, nhược
điểm của các chính sách quản lý nhằm phục vụ quản lý nhà nước của Bộ mà
không dừng lại ở việc xem xét, đánh giá một cách đơn thuần đối với các hành
vi cụ thể. Do đó, ở khía cạnh nhất định, Thanh tra bộ có vai trò "tham mưu"
11
cho Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành. Thực tiễn đã chứng
minh, trong rất nhiều vấn đề quản lý, nếu không có hoạt động của Thanh tra
bộ thì Thủ trưởng cơ quan quản lý chuyên ngành không thể quyết định hoặc
rất khó khăn trong việc ra quyết định quản lý. Vì vậy, việc xác định vị trí, vai
trò của Thanh tra bộ trong quản lý nhà nước của bộ có ý nghĩa quan trọng
trong việc nghiên cứu để hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra bộ
nói chung và Thanh tra Bộ TT&TT nói riêng.
1.2. Thanh tra ngành Thông tin và Truyền thông - một tổ chức
giúp Bộ trƣởng thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc
1.2.1. Khái niệm Thanh tra Thông tin và Truyền thông
Để làm rõ khái niệm Thanh tra TT&TT, trước hết chúng ta phải đặt
Thanh tra TT&TT trong mối quan hệ với khái niệm chung về Thanh tra; khái
niệm về Thanh tra bộ, ngành; với vị trí, vai trò của thanh tra trong quản lý nhà
nước của Bộ.
a. Khái niệm chung về thanh tra
Khi nghiên cứu về khái niệm thanh tra, chúng ta không thể không xem
đến sự xuất hiện của Nhà nước với tư cách là một hiện tượng tất yếu, khách
quan. Nhà nước ra đời - một thiết chế quyền lực chính trị công cộng đặc biệt
của giai cấp thống trị đối với giai cấp bị trị, đòi hỏi phải có những thiết chế
cần thiết để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Từ đó, tính quyền lực của
quản lý nhà nước xuất hiện và là đặc trưng để phân biệt rõ Nhà nước với các
thị tộc, bộ lạc và các tổ chức mang tính xã hội khác. Để thực hiện quyền lực
quản lý của mình, giai cấp thống trị đặt ra các thiết chế quyền lực, sử dụng
nhiều công cụ khác nhau. Một trong những công cụ quan trọng để quản lý, đó
là hoạt động thanh tra, kiểm tra.
Ở nước ta, từ khi có Hiến pháp năm 1946 đến nay, mặc dù đã có nhiều
thay đổi về cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, thể chế kinh tế, các quyền cơ
12
bản của công dân…, song về cơ bản bộ máy nhà nước vẫn tổ chức và hoạt
động trên cơ sở nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, "nguyên tắc mà về
bản chất là đối lập với nguyên tắc phân quyền áp dụng trong tổ chức cơ chế
quyền lực nhà nước tư sản" [27, tr. 45], nguyên tắc tập trung dân chủ. Do đó,
các thiết chế về thanh tra cũng bị ảnh hưởng bởi nguyên tắc này.
Điểm lại những quy định của Hiến pháp, pháp luật và thực tiễn qua các
giai đoạn của lịch sử thanh tra của nước ta, cho chúng ta thấy rằng, thanh tra và
kiểm tra là một chức năng của quản lý nhà nước, là hoạt động không thể thiếu
được trong hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và quản lý hành chính nhà
nước nói riêng. Trên cơ sở các tài liệu, văn kiện của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và sách báo pháp lý trong và ngoài nước, thanh tra được định nghĩa,
hiểu theo nhiều cách khác nhau, ví dụ có một số định nghĩa như sau:
- "Thanh tra (tiếng Anh là Inspect) là "nhìn vào bên trong", chỉ sự
kiểm tra, xem xét từ bên ngoài vào hoạt động của một đối tượng nhất định, là
sự kiểm soát, kiểm kê đối với đối tượng bị thanh tra" [51, tr. 203].
- "Thanh tra là sự tác động của chủ thể đến đối tượng đã và đang thực
hiện thẩm quyền được giao nhằm đạt được mục đích nhất định - sự tác động
có tính trực thuộc" [28, tr. 13].
- "Thanh tra là sự kiểm tra, kiểm soát sự tuân thủ, thực hiện đúng đắn;
xem xét nhằm phát hiện sự có mặt, hoặc tìm dấu hiệu của tình trạng không có
hiệu quả; chỉ sự kiểm soát việc ra vào một khu vực nào đó" [28, tr. 14].
- "Thanh tra là sự kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương,
cơ quan, với khái niệm này thanh tra bao hàm nghĩa kiểm soát nhằm xem xét
để phát hiện, ngăn chặn những hành vi trái với quy định" [56, tr. 882].
- "Thanh tra được xem là "biện pháp" (phương pháp) của kiểm tra" [52, tr.129].
Bên cạnh thanh tra, khái niệm về kiểm tra cũng rất đa dạng. Kiểm tra là
"xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét", để chỉ hoạt động của một chủ
13
thể tác động vào đối tượng bị kiểm tra, có thể trực thuộc hoặc không trực thuộc;
"kiểm tra là một phương diện, một mặt của hoạt động thanh tra hoặc hoạt động
kiểm tra như là một bộ phận "hạt nhân" của hoạt động thanh tra" [28, tr. 17].
Xét quá trình và bản chất của hoạt động thanh tra và kiểm tra của các cơ quan
nhà nước thì hầu như không có sự phân biệt hai khái niệm này. Khi bàn đến sự
thống nhất rằng, mục đích của kiểm tra, thanh tra là nhằm xây dựng, V.I. Lênin
nhiều lần nhấn mạnh trong các tác phẩm của ông cũng như trong thực tiễn
hoạt động của Đảng Bônsêvích rằng, mục đích của kiểm tra và thanh tra là
nhằm xây dựng "khả năng biết làm, biết thành thạo trong quản lý" [32, tr. 34].
Khi tìm đọc trong sách báo chính trị, pháp lý và các văn bản pháp luật
của nước ta, chúng ta thường thấy sử dụng cụm từ "thanh tra, kiểm tra" để chỉ
một giai đoạn không thể thiếu trong quá trình quản lý, một chức năng của
quản lý nhà nước nhằm hướng hoạt động của chủ thể tác động vào đối tượng
bị kiểm tra, ví dụ Nghị định số 61/1998/NĐ-CP, ngày 15/8/1998 của Chính
phủ về công tác thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp hoặc Luật Tổ chức Chính
phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ là "lãnh đạo
công tác thanh tra, kiểm tra của Chính phủ".
Từ đó có thể thống nhất rằng, thanh tra, kiểm tra với tư cách là một
chức năng, một lĩnh vực hoạt động của quản lý nhà nước. Khái niệm thanh tra
và kiểm tra có sự đan xen lẫn nhau, thâm nhập vào nhau rất đa dạng, có rất
nhiều nét tương đồng, như đều là những phương thức đảm bảo pháp chế và kỷ
luật trong quản lý nhà nước, đều có khách thể chung là hoạt động quản lý nhà
nước. Chính những nét tương đồng này trong rất nhiều quy định của pháp luật
cũng như thực tiễn, nhiều trường hợp đã không phân biệt một cách rành mạch
hoặc không thể phân biệt được giữa thanh tra, kiểm tra và các loại hoạt động
có tính chất tương tự khác.
Thuật ngữ "Thanh tra" được xuất hiện đầu tiên trong Sắc lệnh số 64/SL,
ngày 23/11/1945 về việc thành lập Ban thanh tra đặc biệt. Đến Hiến pháp
14
1959 trong một số quy định đã có nội dung về kiểm tra "Hội đồng Chính phủ
ra những thông tư, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các thông tư, chỉ thị ấy"
(Điều 76). Hiến pháp 1980 đã sử dụng thuật ngữ thanh tra, kiểm tra rộng rãi
hơn cho các cơ quan Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng và Ủy ban nhân dân các
cấp "… Hội đồng Bộ trưởng (này là Chính phủ) tổ chức và lãnh đạo công tác
thanh tra và kiểm tra của Nhà nước" (Điều 107). Hiến pháp 1992, càng ghi
nhận nhiều hơn và mở rộng phù hợp với phạm vi và thẩm quyền quản lý của
Chính phủ, thông qua các điều 112, 115, 116, 124. Pháp lệnh Thanh tra 1990,
Luật Thanh tra 2004 và Luật Thanh tra 2010 có hiệu từ ngày 01/7/2011, thanh
tra được coi là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước.
Như vậy, xuất phát từ những hình thức biểu hiện được phân tích tổng
quát trên, qua sự phân tích, so sánh giữa thanh tra và kiểm tra, trên cơ sở khảo
sát thực tiễn pháp lý và lý luận về mối quan hệ thanh tra với quản lý nhà nước
(theo nghĩa hẹp), chúng ta có thể đưa ra khái niệm chung về thanh tra như sau:
Thanh tra là một chức năng của quản lý nhà nước được thực hiện bởi
chủ thể quản lý có thẩm quyền (theo quy định của pháp luật), nhân danh
quyền lực nhà nước nhằm tác động đến đối tượng quản lý trên cơ sở xem xét,
đánh giá ưu khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các vi
phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, đảm bảo pháp chế, tăng cường kỷ
luật trong quản lý, điều hành; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân.
b. Khái niệm thanh tra bộ, ngành
Như trên đã phân tích, Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ
quan quản lý nhà nước, thanh tra hành chính hay thanh tra chuyên ngành ở Bộ
hiện nay đều thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của
Bộ. Điều này có nghĩa là, Bộ quản lý nhà nước đến đâu thì Thanh tra bộ có
quyền thanh tra đến đó, quản lý ngành nào thì Thanh tra bộ có quyền thanh tra
ngành đó. Như vậy, Thanh tra hành chính hay thanh tra chuyên ngành ở bộ
15
đều gắn liền với khái niệm quản lý nhà nước chuyên ngành, với tính chất
chuyên ngành của bộ. Do đó về bản chất hoạt động, không có sự phân biệt hai
loại hình thanh tra này, mà tổ chức thanh tra của bộ quản lý ngành là thanh tra
chuyên ngành của bộ.
Qua phân tích các quy định hiện hành và thực tiễn hoạt động của
thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành ở Bộ TT&TT, chúng ta đều
thấy rằng các hình thức này đều đáp ứng đầy đủ các tiêu thức của khái niệm
chung về thanh tra. Thanh tra bộ là một chức năng quản lý nhà nước đối với
ngành, được tiến hành bởi chủ thể là cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành,
được thực hiện các quyền mang tính nhà nước, nhân danh quyền lực nhà nước
và phải thực hiện những trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
* Tính chất chuyên ngành trong hoạt động thanh tra của bộ - cơ sở để
xác định Thanh tra bộ là Thanh tra chuyên ngành:
Trong tự nhiên và xã hội, các ngành được biểu hiện rất đa dạng, nó
phản ánh tính chuyên môn hóa cao, ngành là tổng thể những đơn vị, tổ chức
sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là kết quả của sự phân công lao động xã hội một
cách khách quan. Cơ sở để phân chia ngành là căn cứ vào các hoạt động kinh
tế - kỹ thuật, sản xuất dịch vụ, sự nghiệp hành chính. Bộ quản lý nhà nước đối
với ngành luôn luôn thể hiện tính đặc trưng riêng của ngành, hay nói cách
khác tính đặc trưng của bộ chính là sự thể hiện ra bằng nội dung, phạm vi
quản lý nhà nước - ngành. Đặc trưng này nó ảnh hưởng đến quy mô, tổ chức
và phương pháp điều hành, quản lý nhà nước của Bộ và cũng có nghĩa là ảnh
hưởng đến tính chất hoạt động của Thanh tra bộ. Với tư cách là công cụ, chức
năng quản lý nhà nước của bộ, tính chất chuyên ngành trong hoạt động của
Thanh tra bộ được thể hiện ở các mặt sau:
- Các tổ chức Thanh tra bộ tiến hành thanh tra đối với các đối tượng
thuộc phạm vi quản lý nhà nước chuyên ngành của bộ, không được hoạt động
sang phạm vi quản lý của ngành khác mà bộ không quản lý, bộ quản lý nhà
16
nước đến đâu thì Thanh tra bộ hoạt động đến đó. Thanh tra Bộ TT&TT chỉ
thanh tra lĩnh vực báo chí, xuất bản, BCVT, TSVTĐ … mà không thanh tra
sang lĩnh vực đất đai, khoa học, môi trường…v.v.
- Tất cả các hoạt động của các tổ chức Thanh tra bộ đều nhằm và
hướng tới mục tiêu quản lý nhà nước chuyên ngành của bộ. Ví dụ, hoạt động
của Thanh tra TT&TT luôn luôn hướng tới mục tiêu đảm bảo việc thực hiện
tốt pháp luật trong lĩnh vực thông tin truyền thông.
- Những người tiến hành thanh tra phải có kiến thức chuyên ngành về
những vấn đề mà mục đích, yêu cầu của Thanh tra bộ đề ra. Thanh tra việc
chấp hành các quy định của pháp luật về lĩnh vực báo chí, xuất bản thì bản
thân người thanh tra phải có kiến thức về pháp luật, quản lý đối với lĩnh vực
báo chí, xuất bản. Người thực hiện quyền thanh tra trực tiếp phải có chuyên
môn sâu về vấn đề mình tiến hành thanh tra, vì bản chất của thanh tra là tìm ra
nguyên nhân, sự thật khách quan, những yếu tố tác động, tính hợp lý, hợp
pháp nhằm đảm bảo sự tuân thủ quy trình, quy phạm… mang tính chuyên
ngành của bộ.
- Hoạt động quản lý, điều hành của Thủ trưởng các tổ chức Thanh tra
bộ, Trưởng đoàn thanh tra cũng phải căn cứ vào đặc điểm chuyên ngành của
bộ. Hay nói một cách khác, đặc điểm chuyên ngành chi phối tính chất chỉ đạo,
điều hành, phương pháp, cách thức hoạt động của các tổ chức thanh tra của bộ.
- Kết luận, kiến nghị của Thanh tra bộ bao giờ cũng thể hiện tính
chuyên ngành sâu sắc, từ việc đánh giá đặc điểm tình hình, những sự kiến đến
việc đánh giá ưu, khuyết điểm, nguyên nhân. Kết luận thanh tra là sản phẩm,
là căn cứ để cơ quan quản lý nhà nước xử lý các vấn đề gắn với chuyên ngành
quản lý của Bộ.
- Quyết định xử lý và hậu quả pháp lý của nó luôn gắn với tính chất
chuyên ngành. Thường là các quyết định xử lý thanh tra chỉ được thực hiện khi
Thanh tra bộ phát hiện ra hành vi vi phạm pháp luật về chuyên ngành, quy trình,
17
quy phạm. Ví dụ, hành vi không phát báo hoặc phát báo không đúng địa chỉ,
không đúng số lượng (Báo Nhân dân, Báo Quân đội, báo do Đảng bộ các tỉnh
thành phố trực thuộc Trung ương xuất bản và 14 loại báo cho vùng dân tộc
thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 975/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ ngày 20/7/2006) là hành vi không cung ứng hoặc
cung ích dịch vụ bưu chính công ích không đúng quy định mà pháp luật về
TT&TT đã quy định.
Hoạt động của các tổ chức Thanh tra bộ còn được thể hiện rất rõ qua
rất nhiều quy định về thanh tra chuyên ngành hiện nay, mà điển hình là thực
tiễn hoạt động của các tổ chức thanh tra của Bộ TT&TT (tiểu mục 2.4).
* Cùng với chức năng thanh tra chuyên ngành như đã phân tích ở trên,
Thanh tra bộ cũng thực hiện đồng thời cả chức năng thanh tra hành chính.
Xuất phát từ lý luận về quản lý nhà nước (theo nghĩa hẹp) thì các đơn vị trực
thuộc bộ đều là những đối tượng thuộc phạm vi thanh tra của bộ. Quan niệm
này đã được đưa vào Luật Thanh tra năm 2004 theo hướng đơn nhất hóa mô
hình tổ chức thanh tra ở các Bộ, ngành. Luật Thanh tra xác định có tính
nguyên tắc mỗi bộ, ngành có một tổ chức thanh tra. Thanh tra bộ sẽ là đầu
mối giúp Bộ trưởng quản lý toàn bộ công tác thanh tra, kể cả thanh tra hành
chính và thanh tra chuyên ngành.
Qua phân tích về vị trí, vai trò, chức năng thanh tra trong quản lý nhà
nước của bộ, trên cơ sở khái niệm chung về thanh tra, chúng ta có thể đưa ra
khái niệm về thanh tra Bộ, ngành như sau:
Thanh tra Bộ, ngành là cơ quan thanh tra hoặc hệ thống
các cơ quan thanh tra thuộc một Bộ, cơ quan ngang Bộ, được thành
lập trên cơ sở quy định của Luật Thanh tra và các quy định riêng
của Chính phủ, thực hiện chức năng thanh tra hành chính và thanh
tra chuyên ngành trong phạm vi quản lý thuộc chức năng, nhiệm vụ
của Bộ, cơ quan ngang Bộ đó [37, tr. 18].
18
c. Khái niệm Thanh tra Thông tin và Truyền thông
Trên cơ sở khái niệm chung về thanh tra; thanh tra bộ, ngành và trên
cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành, chúng ta có thể đi đến thống nhất
khái niệm về Thanh tra TT&TT như sau:
Thanh tra TT&TT là cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực, thực
hiện chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong phạm
vi quản lý nhà nước về báo chí; xuất bản; bưu chính và chuyển phát; viễn
thông và internet; truyền dẫn phát sóng; tần số vô tuyến điện; công nghệ
thông tin, điện tử; phát thanh và truyền hình và cơ sở hạ tầng thông tin truyền
thông quốc gia; các dịch vụ công theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Một số đặc điểm của Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông
a. Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông gắn liền với tính chất quản
lý nhà nước của Bộ Thông tin và Truyền thông
Bàn về quản lý, C. Mác cho rằng: "quản lý là một chức năng đặc biệt
nảy sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao động" [35, tr. 29-30]. Mọi hoạt
động quản lý đều có ý chí, mục đích, cách thức tác động theo những nguyên
tắc nhất định. Bộ TT&TT là cơ quan quản lý nhà nước đối với ngành TT&TT,
trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý, luôn luôn cần có sự điều
chỉnh, kiểm tra thường xuyên nhằm hướng các đối tượng đi đúng mục tiêu
quản lý. Thanh tra Bộ TT&TT với tư cách là một chức năng, một giai đoạn
trong chu trình quản lý nhà nước, đương nhiên và tất yếu phải gắn liền với
quản lý nhà nước của Bộ TT&TT, "quản lý đồng thời phải có thanh tra, quản
lý và thanh tra đó là một chứ không phải là hai" [31, tr. 544].
Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước đối với ngành TT&TT, Bộ
TT&TT luôn giữ vai trò chủ đạo, chi phối, đề ra mục tiêu, yêu cầu, nội dung
đối với hoạt động của Thanh tra Bộ TT&TT. Cơ chế tổ chức và hoạt động của
Thanh tra Bộ TT&TT phải phù hợp với quy mô, tính chất và yêu cầu quản lý
nhà nước của Bộ TT&TT. Quản lý nhà nước của Bộ và Thanh tra Bộ TT&TT
19
có điểm chung đó là nhân danh quyền lực nhà nước tác động đến đối tượng
quản lý, nhưng xét theo cơ cấu, chức năng của quản lý thì Thanh tra Bộ
TT&TT chỉ là công cụ, phương tiện để thực hiện chức năng quản lý nhà nước
của Bộ TT&TT.
Tuy nhiên, Thanh tra Bộ TT&TT cũng có tác động tích cực trở lại đối
với quản lý nhà nước của Bộ TT&TT. Nếu hoạt động thanh tra có hiệu quả nó
sẽ tác động thúc đẩy quá trình quản lý của Bộ, còn nếu thanh tra mà kém hiệu
quả thì sẽ làm hạn chế quản lý. Thanh tra Bộ TT&TT có thể xem như một đầu
mối mà qua đó các chức năng khác của quản lý sẽ được kết nối với nhau. Có
thể thấy rằng, đánh giá hiệu lực, hiệu quả của Thanh tra Bộ TT&TT không
chỉ xem xét trên bản thân "tổ chức thanh tra" mà thực chất là phải xem hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước của Bộ TT&TT, trong đó thanh tra giữ vai trò
là một công cụ quản lý, coi nhẹ thanh tra có nghĩa là buông lỏng quản lý. Tính
hiệu quả trong hoạt động của Thanh tra Bộ TT&TT sẽ có tác dụng ngăn chặn
được nguy cơ biến dạng, tùy tiện, thiếu kỷ cương trong hoạt động quản lý của
Bộ TT&TT. Điều này cũng được V.I.Lênin chỉ rõ: "Ở đâu có nạn hối lộ và
tham nhũng hoành hành thì ở đó phép nước, kỷ cương xã hội, pháp chế và
thanh tra trở thành vô hiệu" [31, tr. 54].
Trong quá trình chấp hành và điều hành, hoạt động quản lý nhà nước
phải áp dụng và tuân thủ một cách nghiêm minh pháp luật, trên thực tế không
phải bao giờ và khi nào pháp luật cũng được chấp hành nghiêm chỉnh. Trong
trường hợp này, trách nhiệm của Thanh tra Bộ TT&TT là giúp cơ quan quản
lý nhà nước chuyên ngành có biện pháp bảo đảm cho pháp luật thi hành trên
thực tế. Ví dụ: để xem xét, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật
đối với hoạt động cung cấp, sử dụng dịch vụ điện thoại di động trả trước,
ngày 17/6/2009, Bộ TT&TT đã có công văn số 1795/BTTTT-TTra chỉ đạo Sở
TT&TT các tỉnh, thành phố triển khai thanh tra diện rộng hoạt động cung cấp,
sử dụng dịch vụ điện thoại di động trả trước trên phạm vi toàn quốc. Thời
gian thanh tra bắt đầu từ ngày 01/7/2009 và kết thúc ngày 30/9/2009. Kết quả
20
thanh tra cho thấy các doanh nghiệp thông tin di động, đại lý, người sử dụng
dịch vụ đã không tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý thuê bao di
động trả trước như chấp nhận giấy tờ không phải là giấy chứng minh nhân
dân hoặc hộ chiếu để đăng ký thông tin thuê bao di động trả trước; bán SIM
thuê bao di động trả trước đã được đăng ký thông tin thuê bao của người khác…
Các đoàn thanh tra đã kiến nghị xử lý nhiều vấn đề, kiến nghị người có thẩm
quyền xử phạt (Chánh Thanh tra Bộ TT&TT, Chánh Thanh tra Sở TT&TT)
xử phạt các hành vi vi phạm trên với tổng số tiền xử phạt lên đến
1.005.900.000 đồng, ngoài ra còn kiến nghị Bộ TT&TT có các biện pháp
quản lý như phối hợp với Bộ Công an nhanh chóng xây dựng cơ sở dữ liệu về
chứng minh nhân dân để có cơ sở kiểm tra tính chính xác về thông tin thuê
bao; ban hành mẫu "Bản khai thông tin thuê bao di động trả trước" để áp dụng
chung cho tất cả doanh nghiệp; nghiên cứu, thẩm định một phần mềm quản lý
thuê bao di động trả trước chung cho các doanh nghiệp thông tin di động để
có sự thống nhất trong quản lý.
Từ những luận điểm trên, chúng ta có thể nhận định rằng, Thanh tra
Bộ TT&TT và quản lý nhà nước của Bộ TT&TT luôn luôn có mối hữu cơ với
nhau, trong nhiều trường hợp, chúng phụ thuộc, tác động thúc đẩy lẫn nhau
trong một thể thống nhất. Trong mối quan hệ với quản lý - Thanh tra bộ có vị
trí, vai trò đặc biệt, không thể thiếu trong quản lý, điều hành của Bộ TT&TT.
b. Tính quyền lực nhà nước của Thanh tra Bộ TT&TT
Quyền lực nhà nước là sức mạnh đã được hợp pháp hóa và được trao
cho các chủ thể xác định để thực hiện chức năng, nhiệm vụ nhằm đạt tới
những mục đích cụ thể. Tính quyền lực nhà nước của Thanh tra Bộ TT&TT
có mối quan hệ chặt chẽ đến tính quyền uy - phục tùng của quản lý hành
chính nhà nước. Là một chức năng trong quản lý nhà nước của Bộ TT&TT,
Thanh tra Bộ TT&TT có tác động tích cực nhằm thực hiện quyền lực của Bộ
trong quản lý nhà nước mà pháp luật đã trao quyền. Khi nhấn mạnh tính