Tải bản đầy đủ (.pdf) (143 trang)

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã trước yêu cầu đổi mới Qua thực tiễn ở tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.68 MB, 143 trang )














ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC









LÊ THỊ LÝ












XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ
TRƯỚC YÊU CẦU ĐỔI MỚI
QUA THỰC TIỄN Ở TỈNH THANH HÓA







LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC












HÀ NỘI – 2007













ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC









LÊ THỊ LÝ









XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ
TRƯỚC YÊU CẦU ĐỔI MỚI
QUA THỰC TIỄN Ở TỈNH THANH HÓA











LUẬN VĂN THẠC SĨ : LUẬT H ỌC

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT H ỌC

Mã số: 60 38 01








HÀ NỘI – 2007
MỤC LỤC


Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục các chữ viết tắt
Mục lục
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
6. Đóng góp mới của luận văn
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
8. Kết cấu của luận văn

Chương 1: Cơ sở lý luận của việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức xã

1.1. Vị trí, vai trò của chính quyền cấp xã
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến chính quyền cấp xã
1.1.2. Vị trí, vai trò của chính quyền cấp xã trong bộ máy nhà
nước và hệ thống chính trị
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của cán bộ, công chức xã
1.2.1. Khái niệm cán bộ, công chức xã
1.2.2. Đặc điểm của cán bộ, công chức xã
1.2.3. Vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức xã trong thời kỳ đổi
mới
1.3. Quan điểm, mục tiêu và nội dung xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức xã ở Việt Nam.
1.3.1. Khái niệm về xây dựng đội ngũ cán bộ công chức

1.3.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức xã
1.3.2.1. Các quan điểm chung chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức
1.3.2.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức xã
1.3.2.3. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong việc thể chế
hóa quan điểm của Đảng về công tác cán bộ cơ sở nói
chung và cán bộ, công chức xã nói riêng
Trang



1










7

7
7

12

15
15
23

26

29
29

31

31

34


37
1.3.3. Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã ở Việt
Nam
1.3.3.1. Mục tiêu chung
1.3.3.2. Các mục tiêu về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã
1.3.4. Nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã trong thời
kỳ đổi mới và hội nhập hiện nay

Chương 2: Thực trạng đội ngũ cán bộ công chức xã ở tỉnh
Thanh Hóa hiện nay

2.1. Khái quát thực trạng pháp luật về cán bộ, công chức xã
ở Việt Nam từ năm 1992 đến nay
2.1.1. Thành tựu đạt được

2.1.2. Những hạn chế của pháp luật đặt ra cần được sửa đổi, bổ
sung
2.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức xã ở tỉnh Thanh
Hóa
2.2.1. Một số đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng
đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã ở tỉnh
Thanh Hóa
2.2.2. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã ở tỉnh Thanh Hóa
2.2.2.1. Đội ngũ cán bộ do bầu cử
2.2.2.2. Đội ngũ công chức chuyên môn
2.2.2.3. Đội ngũ cán bộ không chuyên trách
2.3. Những thành tựu đạt được trong xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức xã ở tỉnh Thanh Hóa.
2.3.1. Thành tựu đạt được
2.3.2. Nguyên nhân của thành tựu
2.4. Những mặt tồn tại cần khắc phục trong thời kỳ đổi
mới, nguyên nhân.
2.4.1. Những tồn tại, hạn chế
2.4.2. Nguyên nhân của những hạn chế

Chương 3: Phương hướng và giải pháp xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức xã ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

3.1. Những yêu cầu đòi hỏi đẩy mạnh công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức xã theo yêu cầu của thời kỳ đổi
mới.
3.1.1. Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước

38
38

39

45


47


47
47

58

62


62
65
66
72
77

78
78
83

84
84
87



93



93

Pháp quyền xã hội chủ nghĩa là yêu cầu bức thiết của việc
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức xã nói riêng
3.1.2. Thực hiện chương trình tổng thể Cải cách hành chính nhà
nước giai đoạn 2001 - 2006 là đòi hỏi xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức xã
3.1.3. Yêu cầu phát huy vai trò của chính quyền xã
3.1.4. Xuất phát từ sự bất cập về trình độ, năng lực, phẩm chất, tác
phong của đội ngũ cán bộ, công chức xã trong thời kỳ đổi
mới
3.2. Phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã.
3.2.1. Thực hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ, công chức xã
3.2.2. Về quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức xã
3.2.3. Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã
3.3. Các giải pháp cụ thể trong xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức xã hiện nay.
3.3.1. Hoàn thiện và cải cách chế độ chính sách đi đôi với quy
hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ, công chức xã
3.3.2. Ban hành pháp luật cụ thể về chính quyền xã và cán bộ,
công chức xã
3.3.3. Tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng gắn với kiểm tra, đánh giá cán
bộ, công chức xã
KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC




93


97
99


99
100
101
102
103

104

105

108

109
112
115





DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT



BHXH : Bảo hiểm xã hội
CBCC: Cán bộ công chức
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
CNH - HĐH: Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
CQCX: Chính quyền cấp xã
HĐND: Hội đồng nhân dân
KT - XH: Kinh tế - xã hội
NNPQ: Nhà nước pháp quyền
NQTW: Nghị quyết Trung ương
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
UBND: Ủy ban nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa










1

MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Đổi mới hệ thống chính trị, cải cách nền hành chính, xây dựng và kiện
toàn bộ máy nhà nước theo hướng dân chủ, pháp quyền …là yêu cầu tất yếu
trong thời kỳ đổi mới và xu thế hội nhập hiện nay. Trong đó cần nâng cao
năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức (viết tắt CBCC) có phẩm chất, năng
lực, thành thạo chuyên môn nghiệp vụ sẽ hoàn thành tốt được công việc. Tại
Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định:
“Cán bộ là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng, gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ”. Đội ngũ CBCC cấp xã nói
chung và ở xã nói riêng có vai trò quan trọng trong việc tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát
triển KT - XH, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
Ở nước ta, cấp xã là cấp cuối cùng trong tổ chức bộ máy nhà nước.
Hiện nay cả nước có 10.955 đơn vị xã, phường, thị trấn (trong đó có 9105 xã,
1245 phường, 605 thị trấn)(xem phụ lục 1), xã quản lý tới hơn 83 % dân số cả
nước. Nhìn nhận dưới góc độ thực tiễn, những đổi mới căn bản của Đảng và
Nhà nước về cán bộ cơ sở đã đem lại nhiều kết quả, song vẫn chưa thực sự
đáp ứng yêu cầu công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá (viết tắt CNH –
HĐH) nông nghiệp, nông thôn hiện nay, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập. Hơn
nữa, việc đánh giá đội ngũ cán bộ cơ sở ở nước ta hiện nay vẫn còn là khâu
yếu nhất. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước và đẩy mạnh CNH -
HĐH, để phát huy được sức mạnh của hệ thống chính trị cơ sở, trọng tâm và
trước hết là phải xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC theo tinh
thần Hội nghị Trung ương 5(khoá IX) là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có


2

năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy sức
dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hoá đội ngũ, chăm lo công tác
đào tạo bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ
sở. [6, tr. 167-168].
Thanh Hoá là một tỉnh có số dân đông thứ 2 cả nước (trên 3,6 triệu
dân), số lượng các xã so với các tỉnh còn lại trong cả nước là nhiều nhất. Toàn
tỉnh có 637 xã, phường, thị trấn (trong đó có 587 xã, 20 phường, 30 thị trấn)(
xem phụ lục 1). Mặc dù được Đảng, Nhà nước quan tâm đã có nhiều chính
sách ưu đãi để phát triển KT - XH, và nguồn nhân lực nhằm giảm số các xã
trong tỉnh thuộc diện đói nghèo, nhưng do chất lượng yếu kém và thiếu hụt
của đội ngũ CBCC xã trong tỉnh nên hiệu quả KT - XH của những chính sách
này chưa cao, bộ mặt nông thôn vẫn còn tình trạng chậm phát triển, lạc hậu.
Trong nhiều năm qua, dưới giác độ pháp lý, chưa có văn bản cụ thể quy
định sự khác nhau về khối lượng công việc, nguyên tắc quản lý, nội dung, yêu
cầu quản lý, chế độ chính sách cho cán bộ xã và cán bộ phường sao cho phù hợp
với đặc điểm hệ thống chính trị cơ sở ở Việt Nam. NQTW 5( khoá IX) nêu rõ:
trong cải cách hành chính cần phải “phân định lại thẩm quyền của chính quyền
nông thôn và chính quyền đô thị” để đáp ứng yêu cầu ổn định và phát triển lâu
dài của đất nước. CBCC xã là người có quan hệ trực tiếp với dân hàng ngày,
hàng giờ, kết quả công việc sẽ ảnh hưởng lớn đến việc phát huy dân chủ, xây
dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, nhà nước vững mạnh.
Thực tế ở nước ta, đội ngũ CBCC xã vẫn còn nhiều bất cập, trình độ
chuyên môn, trình độ quản lý, trình độ lý luận, ngoại ngữ, tin học còn yếu
kém và chưa được đào tạo có tính hệ thống, một bộ phận CBCC xã do ảnh
hưởng của cơ chế thị trường có biểu hiện sa sút về phẩm chất, quan liêu, xa
dân …Nhằm mục tiêu xoá đói giảm nghèo, đưa chính quyền xã hoà nhập vào


3

sự phát triển chung của đất nước và xu thế hội nhập một cách hiệu quả, đưa
bộ mặt nông thôn thay đổi, thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và phát
huy tốt hơn nữa dân chủ ở cơ sở, cần phải xây dựng đội ngũ CBCC xã mạnh
về chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, thành thạo nghề nghiệp,
nắm vững pháp luật, có phẩm chất tốt, gần dân hơn, sát dân, được dân tin cậy
là yêu cầu bức thiết hiện nay.Trong những năm qua, việc tổng kết, đánh giá
tình hình thực hiện NQTW5(khoá IX), đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động của CBCC cơ sở trong cả nước nói chung, và CBCC xã
trong tỉnh nói riêng còn chậm được tiến hành, và chưa có giải pháp đặc thù
đối với đội ngũ CBCC xã.
Với lý do đó, tác giả chọn đề tài: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức xã trƣớc yêu cầu đổi mới (qua thực tiễn ở tỉnh Thanh Hoá)”
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề CBCC cấp xã đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu. Liên quan trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng và quản lý đội ngũ
CBCC có một số công trình và bài viết đó là:
- Đề tài khoa học cấp Bộ: Th.s Nguyễn Thế Vịnh - Vụ chính quyền địa
phương - Bộ Nội vụ (2007) Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở theo Nghị quyết
Trung ương 5( khoá IX), Hà Nội.
- TS. Thang Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phương đồng chủ biên
(2001) Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, NXB.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
- Nguyễn Duy Phương (2003), Vấn đề xây dựng đội ngũ công chức ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay qua thực tiễn ở tỉnh Thừa Thiên Huế, Luận
văn thạc sĩ luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.


4
- Mạc Minh Sản (2002), Hoàn thiện pháp luật về cán bộ chính quyền
cơ sở theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay, Luận

văn thạc sĩ luật, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Lê Đình Vĩ (2005), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức
chính quyền các xã miền núi đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện
nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Khắc Bộ “ Nâng cao năng lực quản lý nhà nước của chính
quyền cơ sở” đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nước số tháng 3/2006.
Những tài liệu trên của các tác giả là nguồn tư liệu quý có giá trị tham
khảo, kế thừa để chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài của mình. Những công
trình nói trên mới đề cập đến vấn đề chung về CBCC cấp xã (trong đó có cả
xã, phường, thị trấn). Trong khi đó, đặc thù ở nước ta xã quản lý tới hơn 83 %
dân số cả nước, xã có đặc thù riêng của một chính quyền nông thôn, vẫn chưa
có tác giả nào đầu tư nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống dưới giác độ
luật học về sự phân biệt sâu sắc giữa cán bộ xã với cán bộ phường.
Tỉnh Thanh Hoá có nhiều đặc thù: tỷ lệ CBCC cấp xã chiếm số lượng
nhiều nhất so với các tỉnh trong cả nước. Số liệu điều tra của tỉnh, số lượng
CBCC cấp xã có mặt đến ngày 10 tháng 11 năm 2005 là 36.088 người, chiếm
18,75 % cả nước (tổng điều tra cả nước năm 2005 là 192.438 người). Việc
nghiên cứu xây dựng đội ngũ CBCC xã trong cả nước (qua thực tiễn ở tỉnh
Thanh Hoá), là một vấn đề bức xúc mà tác giả quan tâm, trăn trở và mạnh dạn
nghiên cứu vấn đề này, với mong muốn góp phần nhỏ bé luận giải khoa học
những vấn đề lý luận và thực tiễn đã và đang đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:


5
- Luận văn nghiên cứu những thành quả đạt được, những mặt tồn tại, và
những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ CBCC xã ở Việt Nam hiện nay và ở
tỉnh Thanh Hoá nói riêng (đặc biệt là cán bộ chính quyền)
Nhiệm vụ:

- Làm rõ cơ sở lý luận về quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng
đội ngũ CBCC ở cấp xã nói chung, và những vấn đề thực tiễn pháp luật, thực
trạng về xây dựng đội ngũ CBCC xã trong thời kỳ đổi mới.
- Phân tích làm rõ thành tựu đạt được và những mặt tồn tại cần khắc
phục của đội ngũ CBCC xã ở tỉnh Thanh Hoá, qua đó rút ra những vấn đề cần
giải quyết.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC xã
nói chung và ở tỉnh Thanh Hoá nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng đội ngũ CBCC xã trong thời
kỳ đổi mới và những yêu cầu đòi hỏi đẩy mạnh việc xây dựng đội ngũ CBCC
xã, những giải pháp xây dựng đội ngũ này trong điều kiện hội nhập.
- Qua khảo sát ở các xã miền núi, nông thôn, đô thị ở tỉnh Thanh Hoá
để đánh giá về việc xây dựng đội ngũ CBCC xã hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, bám sát đường lối chủ trương
của Đảng, pháp luật của Nhà nước về đội ngũ CBCC cấp xã gắn liền với việc
Cải cách hành chính và xây dựng Nhà nước pháp quyền (viết tắt NNPQ) Việt
Nam xã hội chủ nghĩa (viết tắt XHCN).
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác-
Lê nin theo quan điểm phát triển, toàn diện, lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn


6
kết hợp phương pháp khảo sát, thống kê, phân tích, so sánh, điều tra xã hội
học…
6. Đóng góp mới của luận văn
Đánh giá đúng thực trạng đội ngũ CBCC ở cấp cơ sở nói chung và cán

bộ chính quyền xã nói riêng, những yêu cầu đối với việc đẩy mạnh xây dựng
đội ngũ CBCC xã trong công cuộc CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn hiện
nay.
Luận văn góp phần làm sáng tỏ sự phân biệt giữa cán bộ xã và cán bộ
phường, sự bất cập về mặt pháp lý và thực tiễn về đội ngũ CBCC xã sau kết
quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương (viết tắt NQTW) 5 (khoá IX).
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận:
- Góp phần hệ thống các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước
về CBCC xã, và công tác cán bộ ở cơ sở nói chung.
- Thông qua thực tiễn pháp lý và thực trạng đội ngũ CBCC xã tỉnh
Thanh Hoá, đề xuất những giải pháp đặc thù nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ CBCC xã, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới và hội nhập của đất nước.
Ý nghĩa thực tiễn:
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện luận cứ khoa
học trong công tác xây dựng đội ngũ CBCC xã trong cả nước nói chung và ở
tỉnh Thanh Hoá nói riêng.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho chính quyền tỉnh
Thanh Hoá xây dựng đội ngũ CBCC xã trong giai đoạn đổi mới và hội nhập
của đất nước hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: phần mở đầu, phần nội dung gồm 3 chương, 10 tiết,
phần kết luận và tài liệu tham khảo.


7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ


1.1. Vị trí, vai trò của chính quyền cấp xã
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến chính quyền cấp xã
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về xây dựng đội ngũ CBCC xã, trước
hết cần nghiên cứu vị trí, vai trò, đặc điểm của cấp xã nói chung và ở xã nói
riêng. Để xác định đúng đắn vị trí, vai trò của cấp xã cần tiếp cận đến các khái
niệm như: đơn vị hành chính, chính quyền đô thị, chính quyền nông thôn, cấp
xã, xã, phường, thị trấn, chính quyền cơ sở.
Khái niệm đơn vị hành chính theo Từ điển hành chính thì các khái
niệm đơn vị hành chính, đơn vị lãnh thổ được hiểu như sau:
- Đơn vị hành chính: đơn vị, tổ chức, tổ chức hành chính do quy định
của pháp luật. Mỗi đơn vị hành chính địa phương đều có ranh giới hành chính
và chức năng do pháp luật quy định. [37, tr. 100]
- Đơn vị lãnh thổ: đơn vị hành chính lãnh thổ quốc gia được phân chia
theo thứ bậc hành chính, đảm bảo sự phối hợp quản lý tập trung thống nhất
của Nhà nước và quyền chủ động quản lý của địa phương (tỉnh, huyện,
xã)[37, tr.101]
Theo quan niệm trên, khái niệm chính quyền cấp xã (viết tắt CQCX)
thuộc đơn vị hành chính lãnh thổ ở địa phương ở cấp thấp nhất.
Khái niệm đô thị và khái niệm nông thôn
- Nông thôn là vùng tập trung dân cư làm nghề nông. Chính quyền
được tổ chức trên lãnh thổ mà chủ yếu là vùng nông thôn được gọi là tỉnh,
huyện, xã.


8
- Đô thị được hiểu là nơi cư trú của cộng đồng người sống tập trung và
hoạt động trong những khu vực phi nông nghiệp. Ở Việt Nam, đô thị được
hiểu là 1 khu dân cư tập trung có đủ 2 điều kiện: Về cấp quản lý là thành phố,
thị xã, quận, thị trấn, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, về
trình độ phát triển đô thị phải đạt được các tiêu chuẩn như sau:

+ Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành có vai trò thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội (viết tắt KT - XH), của cả nước hoặc vùng
lãnh thổ nhất định.
+ Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động tối thiểu là
65%.
+ Cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt động của dân cư tối thiểu đạt 70%
mức tiêu chuẩn quy định theo loại đô thị.
+ Quy mô dân số ít nhất là 4000 người. Theo quan điểm của các nhà
quản lý đô thị hiện nay, thì “ đô thị là nơi tập trung đông đúc dân cư, chủ yếu
là lao động phi nông nghiệp, họ sống và làm việc theo lối sống và phong cách
thành thị. Đó là lối sống được đặc trưng bởi những đặc điểm: có nhu cầu về
tinh thần cao, tiếp thu nền văn minh của nhân loại nhanh chóng, có đầu tư cơ
sở hạ tầng KT - XH đầy đủ và thuận tiện.
Theo quan niệm trên, các đơn vị hành chính sau đây thuộc về chính
quyền đô thị: Thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố thuộc tỉnh, quận,
thị xã, phường, thị trấn. Ở nước ta, các huyện thuộc thành phố, các xã thuộc
thành phố thuộc tỉnh, thuộc thị xã có xu hướng đô thị hoá cao hơn các đơn vị
hành chính ở nông thôn. Đây là xu hướng biến động đáng chú ý khi nghiên
cứu về chính quyền xã cũng như CBCC xã.
CQCX bao gồm Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (viết tắt
HĐND - UBND) xã, phường, thị trấn. Đây là cấp chính quyền thứ 4, cấp
chính quyền thấp nhất nên gọi là chính quyền cơ sở. Vì vậy CBCC cấp chính


9
quyền cơ sở là những người làm việc thường xuyên ở các cơ quan của HĐND
- UBND cấp xã. Chính quyền xã là nói đến HĐND - UBND xã tách bạch với
phường và thị trấn.
Khái niệm về hệ thống chính trị cơ sở:
Hệ thống chính trị ở nước ta là 1 thiết chế chính trị - xã hội, bao gồm hệ

thống các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, các cơ quan nhà nước được
thành lập từ Trung ương đến cơ sở, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân
dân, chuyển tải và trực tiếp tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm thực hiện quyền lực của nhân dân
xây dựng CNXH làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Hệ thống chính trị cơ sở ở Việt Nam bao gồm các tổ chức chính trị
(tổ chức Đảng), chính quyền cấp xã (viết tắt CQCX), và các tổ chức chính trị
xã hội khác như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp
phụ nữ, Hội nông dân, Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt
Nam, được tổ chức ở xã, phường, thị trấn. Trong hệ thống chính trị cơ sở,
Đảng là hạt nhân chính trị có nhiệm vụ lãnh đạo cả hệ thống chính trị. Tìm
hiểu khái niệm này cho thấy CBCC trong hệ thống chính trị cơ sở rộng hơn
khái niệm CBCC chính quyền xã.
Khái niệm chính quyền cấp xã :
Trong bộ máy nhà nước bên cạnh những cơ quan nhà nước ở Trung
ương, thì chính quyền địa phương là bộ phận không thể thiếu được. Không
một nhà nước nào có thể ban hành và thực thi pháp luật trên toàn lãnh thổ của
đất nước mà không cần có sự tham gia của chính quyền địa phương. Hay về
thuật ngữ chính quyền địa phương có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng, chính quyền được hiểu theo 2 nghĩa: Bộ
máy điều hành, quản lý công việc nhà nước ở các cấp. 2. Quyền quản lý, điều
khiển bộ máy nhà nước ở các cấp. Như vậy theo quan niệm này thì chính


10
quyền địa phương là bộ máy quản lý, điều hành các công việc nhà nước ở địa
phương bao gồm Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (viết tắt HĐND -
UBND) và cả các cơ quan nhà nước khác ở địa phương như Toà án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên thuật ngữ chính quyền địa phương còn
được hiểu theo nghĩa hẹp hơn : Chính quyền địa phương là một nhóm người

chịu trách nhiệm đối với việc quản lý hành chính một vùng lãnh thổ. Như vậy
chính quyền địa phương ở đây được hiểu là các cơ quan hành chính ở địa
phương chịu trách nhiệm quản lý hành chính các công việc của địa phương, ở
nước ta gồm có: HĐND -UBND. Chính quyền địa phương là một bộ phận cấu
thành của chính quyền nhà nước thống nhất được lập ra để quản lý đời sống
xã hội ở địa phương. Chính quyền địa phương ở nước ta theo Hiến pháp 1992
và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 được tổ
chức thành 3 cấp tương ứng với các đơn vị hành chính gồm cấp tỉnh (bao gồm
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương), cấp huyện (gồm huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh), và cấp xã (gồm xã, phường, thị trấn). Mỗi cấp đều có
HĐND - UBND. Như vậy có thể thấy CQCX là một bộ phận hợp thành của
chính quyền địa phương và là cấp thấp nhất (gọi là cấp cơ sở). Cũng như các
cấp chính quyền địa phương khác, CQCX gồm có HĐND - UBND là bộ máy
thực thi quyền lực nhà nước trong phạm vi xã, phường, thị trấn. Vị trí, tính
chất pháp lý của HĐND - UBND cấp xã được pháp luật quy định chung trong
vị trí, tính chất pháp lý của HĐND - UBND các cấp.
- HĐND theo Điều 119 của Hiến pháp 1992 và Điều 1 của Luật tổ chức
Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được sửa đổi bổ sung năm 2003 quy
định: là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu
trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Theo quy định trên, HĐND có 2 tính chất sau:


11
+ HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. HĐND là cơ
quan nhà nước được nhân dân địa phương trao quyền thay mặt nhân dân để
thực hiện quyền lực nhà nước. HĐND còn đại diện cho quyền lực nhà nước ở
địa phương để thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao trên cơ sở sự phân cấp quản
lý nhằm giải quyết những công việc chung của nhà nước ở địa phương.

HĐND thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương không với chức năng lập
pháp mà với chức năng chấp hành pháp luật chung của nhà nước và văn bản
của cơ quan nhà nước cấp trên ban hành. Vì vậy, thực chất HĐND chủ yếu
thực hiện quyền hành pháp ở địa phương.
+ HĐND là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa
phương. Có thể nói, ở địa phương HĐND là cơ quan duy nhất do nhân dân địa
phương bầu ra theo nguyên tắc trực tiếp, phổ thông và bỏ phiếu kín. Đại biểu
HĐND đại diện cho các tầng lớp nhân dân địa phương, nói lên tiếng nói, nguyện
vọng của nhân dân địa phương, đại diện cho trí tuệ tập thể của nhân dân.
- UBND được Điều 123 Hiến pháp 1992 và Điều 2 của Luật tổ chức
Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được quy định: do HĐND bầu ra, là
cơ quan chấp hành của HĐND, là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên. Như
vậy, UBND có các vị trí, tính chất pháp lý sau:
+ UBND là cơ quan chấp hành của HĐND, UBND do HĐND cùng cấp
bầu ra có trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Luật, các văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND cùng cấp nhằm đảm bảo thực
hiện chủ trương, biện pháp phát triển KT-XH, củng cố quốc phòng, an ninh
và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn.
+ UBND là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. UBND thực
hiện việc quản lý nhà nước ở địa phương trên mọi lĩnh vực góp phần bảo


12
đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ
Trung ương đến cơ sở.
Riêng đối với cấp xã là nơi diễn ra các hoạt động tự quản của nhân dân
nên CQCX còn có trách nhiệm hướng dẫn các hoạt động tự quản của nhân
dân ở cơ sở.
Từ đó có thể khẳng định: CQCX ở nước ta là một cấp của chính

quyền địa phương bao gồm HĐND xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương đại diện cho ý chí và lợi ích của nhân dân tại cơ sở do nhân dân xã,
phường, thị trấn trực tiếp bầu ra và UBND do HĐND thành lập nhằm quản lý
các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương và hướng dẫn nhân dân thực
hiện các hoạt động tự quản ở cơ sở trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ
và kết hợp hài hoà giữa lợi ích của nhân dân địa phương với lợi ích chung
của cả nước.
1.1.2. Vị trí, vai trò của chính quyền cấp xã trong bộ máy nhà nƣớc
và hệ thống chính trị.
CQCX vừa là một bộ phận của chính quyền địa phương, một cấp của
chính quyền địa phương và chính quyền nhà nước nói chung, vừa là một bộ
phận của hệ thống chính trị ở cơ sở. Vì vậy, chúng ta cần đánh giá vị trí, vai
trò của CQCX trong hệ thống chính quyền nhà nước đồng thời phải xem xét
cả vị trí, vai trò của CQCX trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Về vị trí, vai trò của chính quyền cấp xã trong hệ thống chính quyền
nhà nước.
Chính vì CQCX là chính quyền cơ sở nên nó có một vị trí đặc biệt
trong các cấp chính quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cấp xã là gần
gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi
việc đều xong xuôi”. Về phương diện lý luận cũng như thực tiễn hiệu quả và
sức mạnh của nhà nước không chỉ phụ thuộc vào cách thức tổ chức quyền lực


13
ở Trung ương mà còn lại phụ thuộc rất nhiều vào cách thức tổ chức, thực thi
quyền lực ở cơ sở bởi vì các cấp chính quyền có thể chia thành 3 cấp: cấp
chính sách, cấp trung gian và cấp thực thi chính sách. CQCX là chính quyền
cấp thấp nhất, gần dân nhất, là cấp thực thi chính sách trong hệ thống chính
quyền nên nó có vị trí, vai trò sau:
- Các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật muốn đi vào cuộc

sống phải thông qua hoạt động của CQCX, phải được thực hiện ở xã, phường,
thị trấn thành phong trào hành động của nhân dân, thông qua những sáng kiến
và nỗ lực của nhân dân bởi vì là cấp thấp nhất, cấp thực thi chính sách nhưng
cơ sở lại là tầng sâu nhất của việc hiện thực hoá đường lối, quan điểm được
vạch ra ở cấp Trung ương. Cho nên, khi CQCX tổ chức tốt việc thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước thì các chính sách và
pháp luật mới đi vào cuộc sống, mới phát huy được hiệu lực. Mặt khác thông
qua việc thực hiện chính sách, pháp luật ở cấp xã, sẽ kiểm nghiệm được tính
đúng đắn, tính khả thi, tính hiệu quả, của các chính sách, pháp luật của cấp
trên, giúp cấp trên xem xét, điều chỉnh các chính sách, pháp luật cho phù hợp.
Lê Nin chỉ rõ: Phải khẳng định rằng thành quả của cuộc cách mạng mà chúng
ta đã đạt được ngày hôm nay chính là vì chúng ta luôn chú ý tới một vấn đề
quan trọng bậc nhất, đó là chính quyền cơ sở, kinh nghiệm của chính cơ sở.
Và cũng từ cơ sở mà chúng ta có được sự lạc quan, sự nhanh nhạy và quyết
đoán trong hành động cách mạng.
- CQCX là cấp gần dân nhất, là nơi trực tiếp tổ chức các hoạt động quản
lý, điều hành các công việc hành chính ở cơ sở và trực tiếp tổ chức thi hành
pháp luật ở xã, phường, thị trấn, có khả năng tiếp xúc gần gũi dân nhất, nắm bắt
tốt tâm tư nguyện vọng của nhân dân từ đó có thể đề xuất những biện pháp
chăm lo, bảo đảm cho lợi ích của nhân dân địa phương. CQCX có vai trò rất
quan trọng trong việc chăm lo đến lợi ích của nhân dân, đảm bảo trật tự an toàn


14
xã hội, phát triển địa phương ở cơ sở. Nếu CQCX được tổ chức tốt, đảm bảo
thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của mình thì nhà nước ta sẽ vững mạnh.
- CQCX có vai trò quyết định trong việc đảm bảo thực hiện dân chủ.
CQCX ở nước ta được hình thành trên cơ sở những địa điểm quần cư (xóm,
làng, thị trấn) là loại lãnh thổ hành chính tự nhiên. Chính quyền không chỉ là
cơ quan cai trị mà còn là cơ quan thể hiện lợi ích chung của dân cư. Do vậy,

CQCX là cấp chính quyền trực tiếp liên hệ với dân, giải quyết các công việc
của dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, gắn bó với đời sống
nhân dân. Thông qua đó nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình trên các
lĩnh vực đời sống xã hội, thực hiện quyền tham gia vào quản lý nhà nước,
quản lý xã hội và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước.
- CQCX quyết định những chủ trương, biện pháp phát triển địa phương
về kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng…và tổ chức thực hiện các
chủ trương biện pháp đó, góp phần quan trọng vào việc phát triển địa phương,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân địa phương.
Về vị trí, vai trò của chính quyền cấp xã trong hệ thống chính trị ở cơ sở
Để đánh giá toàn diện cần phải xem xét vai trò của CQCX theo cả
chiều ngang trong mối tương quan với các thiết chế, các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị ở cơ sở. Hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn là một trong
4 cấp của hệ thống chính trị nước ta. Nếu trong hệ thống chính trị ở cơ sở, tổ
chức cơ sở Đảng là hạt nhân chính trị, có nhiệm vụ lãnh đạo hệ thống chính
trị ở cơ sở thì CQCX giữ vai trò là trung tâm, là nòng cốt của hệ thống chính
trị ở cơ sở. Bởi vì, khác với bộ phận khác trong hệ thống chính trị ở cơ sở,
CQCX có một bộ máy thực thi quyền lực nhà nước, được áp dụng các biện
pháp cưỡng chế nhà nước trong khuôn khổ pháp luật, được nhà nước giao các
nguồn lực để thực hiện việc quản lý nhà nước ở địa phương. Vai trò của
CQCX đối với hệ thống chính trị ở cơ sở thể hiện ở những khía cạnh sau:


15
- Các Nghị quyết của Đảng uỷ xã, phường, thị trấn phải được cụ thể
hoá trong Nghị quyết của HĐND - UBND cấp xã và tổ chức thực hiện thì mới
có thể đi vào đời sống của nhân dân. Các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn
thể nhân dân cũng chỉ thực hiện có hiệu quả được quyền làm chủ của nhân
dân thông qua hoạt động của CQCX. Các tổ chức chính trị - xã hội và các
đoàn thể nhân dân thay mặt cho các tầng lớp nhân dân địa phương tham gia

phối hợp với CQCX trong việc quản lý mọi mặt của đời sống xã hội ở xã,
phường, thị trấn. Mặt khác, các tổ chức này được quyền kiến nghị với CQCX
về những vấn đề liên quan đến lợi ích của nhân dân địa phương. CQCX có
trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức này hoạt động tốt. Vì vậy,
CQCX có vai trò không nhỏ trong việc giúp các tổ chức chính trị - xã hội và
các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Do đó, muốn tăng
cường hệ thống chính trị ở cơ sở phải đặc biệt quan tâm đến việc củng cố
CQCX bên cạnh việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và củng cố các tổ
chức, đoàn thể nhân dân.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của cán bộ, công chức xã.
1.2.1. Khái niệm cán bộ, công chức xã
Tìm hiểu khái niệm CBCC xã cần tiếp cận quan niệm trong quá trình
hình thành đội ngũ CBCC Việt Nam nói chung và CBCC xã nói riêng.
Thứ nhất: Khái lược lịch sử hình thành khái niệm CBCC ở Việt Nam từ
năm 1945 đến nay.
Ngay từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra vấn đề phải làm sao cho tất cả CBCC từ Chính
phủ đến làng xã đều là công bộc của dân, đều phải tận tuỵ phục vụ nhân dân.
Sắc lệnh số 76/SL ngày 23/5/1950 ban hành quy chế công chức (là người làm
công ăn lương cho cơ quan Chính phủ).


16
Từ những năm 60 trở đi, khái niệm cán bộ được sử dụng thay cho công
chức (người có trình độ trung cấp trở lên giao giữ một nhiệm vụ lâu dài trong
cơ quan Nhà nước, trong các tổ chức chính trị, xã hội, trong các doanh nghiệp
Nhà nước và sĩ quan trong lực lượng vũ trang nhân dân). Cán bộ được hình
thành lên từ bầu cử, bổ nhiệm, phân công công tác sau khi tốt nghiệp các
trường Trung cấp và Đại học. Cán bộ được phân biệt khác với các công nhân
về vị trí làm việc và trình độ. Có thể hiểu chung lại là: Cán bộ chỉ những

người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động
hoặc ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ lãnh đạo chỉ huy,
quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức. Thời kỳ
này có 6 loại cán bộ: Các nhà hoạt động chính trị, cán bộ ở các cơ quan hành
chính sự nghiệp của nhà nước, cán bộ trong các tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, trong các doanh nghiệp Nhà nước, cán bộ trong các lực
lượng vũ trang - sĩ quan, và cán bộ xã.
Nhưng mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, thì việc quy định về cán bộ xã có
những thay đổi. Cụ thể: Theo Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, thì cán bộ xã
làm việc ở Uỷ ban Hành chính (giai đoạn từ 1954 -1980), UBND (từ 1980 đến
nay) hoạt động theo chế độ bán chuyên trách, không thoát ly khỏi sản xuất.
Bước sang thời kỳ cả nước xây dựng CNXH ở chặng đầu tiên (sau
những năm 80) khi mà cơ chế kế hoạch hoá, tập trung bao cấp vẫn còn duy trì
trong quản lý Nhà nước và trong điều kiện làm ăn kinh tế tập thể, quản lý Hợp
tác xã với quy mô lớn thì đối tượng cán bộ xã ở nước ta vẫn chưa đặt ra yêu
cầu chuyên môn hoá, vẫn là chế độ bán chuyên trách và không đặt ra vấn đề
“công chức xã”. Từ NQTW5 khoá (IX) về “Đổi mới hệ thống chính trị cơ sở
xã, phường, thị trấn”, tiếp đó là Pháp lệnh cán bộ công chức sửa đổi năm
2003 cụ thể hoá NQTW 5 đã đưa “công chức xã” là đối tượng công chức Nhà
nước được điều chỉnh bằng Pháp lệnh thuộc hệ thống CBCC của Nhà nước ta.


17
Từ đó ngày càng yêu cầu “chuyên nghiệp hoá” đội ngũ cán bộ cơ sở, Chính
phủ đã quy định chức danh tiêu chuẩn riêng cho từng cán bộ. Trong những
năm đổi mới, đã có những nỗ lực phân biệt công chức với các loại cán bộ
khác. “Công chức” phải là: Công dân Việt Nam, được tuyển dụng qua thi
tuyển công khai, được bổ nhiệm giữ một chức vụ thường xuyên, làm việc
trong một công sở Nhà nước, được xếp vào một ngạch công chức, hưởng
lương từ ngân sách Nhà nước cấp. Có thể hiểu: Công chức nhà nước là

“những người làm việc chuyên môn, có tính chất lâu dài và ổn định trong bộ
máy Nhà nước có tư cách nhân danh Nhà nước”.
Nhiều quốc gia quan niệm công chức là những nhân viên công tác,
được hưởng lương ngân sách, bị quy định bởi quy chế hoặc luật công chức, là
người làm việc trong hệ thống chính quyền Nhà nước. Ở nước ta, khái niệm
CBCC là những người được bầu, bổ nhiệm hay giao giữ một công việc nhất
định trong các tổ chức của hệ thống chính trị nước ta cho nên cán bộ Đảng,
đoàn thể, Mặt trận do bầu cử cũng gọi chung là CBCC được quy định trong
Pháp lệnh Cán bộ công chức được sửa đổi, bổ sung năm 2003.
Thứ hai: Khái niệm CBCC nói chung ở Việt Nam hiện nay
Theo Pháp lệnh Cán bộ công chức được sửa đổi, bổ sung năm 2003,
CBCC là công dân Việt Nam, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà
nước, bao gồm:
a. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong
các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện.
b. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm, hoặc giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở
Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện.


18
c. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm, hoặc giao nhiệm vụ
thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện.
d. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào 1 ngạch viên chức
hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
đ. Thẩm phán Toà án nhân dân, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân.
e. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong cơ quan, đơn vị, thuộc quân đội nhân dân mà

không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, làm
việc trong cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân mà không phải là sĩ quan,
hạ sĩ quan chuyên nghiệp.
g. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong
Thường trực HĐND, UBND; Bí thư, phó Bí thư Đảng uỷ, người đứng đầu tổ
chức chính trị - xã hội ở xã, phường, thị trấn (gọi tắt là cấp xã).
h. Những người được tuyển dụng, giao giữ 1 chức danh chuyên môn
nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã.
Như vậy CBCC cấp xã bao gồm các đối tượng được quy định của Pháp
lệnh đó là: Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ
trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Bí thư, Phó bí thư
Đảng uỷ, người đứng đầu tổ chức chính trị- xã hội xã, phường, thị trấn, những
người tuyển dụng giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Uỷ
ban nhân dân cấp xã được gọi là CBCC trong biên chế Nhà nước được hưởng
từ ngân sách Nhà nước.
Đội ngũ cán bộ cơ sở có cán bộ chuyên trách và không chuyên trách.
Cán bộ chuyên trách là cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao động
làm việc công để thực hiện chức trách được giao, bao gồm:


19
- Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử: Gồm cán bộ chủ chốt của cấp uỷ
Đảng, HĐND,UBND, những người đứng đầu Uỷ ban Mặt trận tổ quốc và các
đoàn thể chính trị xã hội.
- Cán bộ chuyên môn được UBND tuyển chọn gồm: Công an trưởng,
xã đội trưởng, cán bộ văn phòng - thống kê, địa chính- xây dựng, tài chính -
kế toán, tư pháp- hộ tịch, văn hoá- xã hội. Số lượng cán bộ chuyên trách do
Chính phủ quy định.
- Cán bộ chuyên trách ở cơ sở có chế độ làm việc và hưởng lương
chính sách về cơ bản như CBCC Nhà nước, CBCC cơ sở có đủ điều kiện

được thi tuyển vào ngạch công chức ở cấp trên.
Cán bộ không chuyên trách là những người chỉ tham gia việc công
trong một thời gian lao động.
Như vậy so với những quy định trước đây của pháp luật, những quy
định trên của NQTW 5 về đội ngũ CBCC xã đặc biệt là cán bộ chuyên trách,
đã có những thay đổi. Đối tượng sau không phải là chuyên trách: Thường trực
Đảng uỷ, Trưởng ban tổ chức, dân vận, tuyên giáo và Chủ nhiệm Uỷ ban
kiểm tra Đảng uỷ, Phó công an xã, công an viên, Phó chủ tịch Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên, Phụ nữ, Nông dân, Cựu chiến binh, Chủ tịch
hội chữ thập đỏ, Chủ tịch hội người cao tuổi cấp xã.
Trên cơ sở lý luận về CQCX và các quy định cấp xã, thì CBCC cấp xã
hiện nay theo Pháp lệnh cán bộ công chức năm 2003 và Nghị định số
114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ công chức xã,
phường, thị trấn được quy định như sau:
Cán bộ chuyên trách xã (có 11 chức danh), gồm những người do dân
bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ
- Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ (hoặc thường trực Đảng uỷ xã); Bí thư,
phó bí thư chi bộ xã (nơi chưa thành lập Đảng uỷ cấp xã)

×