ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TỐNG THỊ HOÀI PHƢƠNG
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC ĐIỆN LỰC
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2011
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TỐNG THỊ HOÀI PHƢƠNG
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC ĐIỆN LỰC
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Dƣơng Đức Chính
HÀ NỘI - 2011
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM HÀNH
CHÍNH VÀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
6
1.1.
Một số vấn đề lý luận về vi phạm hành chính
6
1.1.1.
Khái niệm, đặc điểm và cấu thành của vi phạm hành chính
6
1.1.1.1.
Khái niệm vi phạm hành chính
6
1.1.1.2.
Đặc điểm và cấu thành của vi phạm hành chính
10
1.1.2.
Phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm
18
1.2.
Một số vấn đề lý luận về xử phạt vi phạm hành chính
20
1.2.1.
Khái niệm xử lý vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm
hành chính
21
1.2.1.1.
Khái niệm xử lý vi phạm hành chính
21
1.2.1.2.
Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
22
1.2.2.
Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính và thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính
24
1.2.2.1
1.2.2.2
Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
24
24
1.3.
Quy định về xử phạt vi phạm hành chính của một số nước
trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
25
1.3.1.
Quy định về xử phạt vi phạm hành chính của Trung Quốc
25
1.3.1.1.
Về đối tượng bị xử phạt
25
1.3.1.2.
Về thẩm quyền xử phạt
26
1.3.1.3.
Về hình thức xử phạt
27
1.3.2.
Quy định về xử phạt vi phạm hành chính của Liên bang Nga
28
1.3.2.1.
Về đối tượng xử phạt
28
1.3.2.2.
Về thẩm quyền xử phạt
29
1.3.2.3.
Về hình thức xử phạt
30
1.3.3.
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
33
Chương 2: PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TRẠNG VỀ XỬ
PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
ĐIỆN LỰC
35
2.1.
Đặc điểm sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực điện lực
35
2.2.
Những vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
36
2.2.1.
Khái niệm và đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh
vực điện lực
36
2.2.1.1.
Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
36
2.2.1.2.
Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
36
2.2.2.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
38
2.2.2.1.
Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
38
2.2.2.2.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
38
2.3.
Pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực điện lực
39
2.3.1.
Hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực điện lực
39
2.3.2.
Các chế định cơ bản của quy định pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
40
2.3.2.1.
Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
40
2.3.2.2.
Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
42
2.3.2.3.
Hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả
46
2.3.2.4.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
49
điện lực
2.3.2.5.
Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
51
2.3.2.6.
Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực điện lực
53
2.3.3.
Đánh giá quy định pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực điện lực
54
2.4.
Đánh giá thực trạng vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực điện lực
60
2.4.1.
Đánh giá thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
60
2.4.1.1.
Vi phạm quy định về giấy phép hoạt động điện lực
60
2.4.1.2.
Vi phạm quy định về an toàn điện
61
2.4.1.3.
Vi phạm quy định về sử dụng điện
61
2.4.1.4.
Đánh giá về thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực
điện lực
62
2.4.2.
Đánh giá thực trạng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực điện lực
62
2.4.2.1.
Kết quả xử phạt
62
2.4.2.2.
Hạn chế trong việc xử phạt
64
2.4.2.3.
Nguyên nhân của hạn chế
65
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XỬ PHẠT
VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐIỆN
LỰC
67
3.1.
Định hướng phát triển của ngành điện lực Việt Nam đến
năm 2020
67
3.1.1.
Quan điểm phát triển
68
3.1.2.
Mục tiêu phát triển
68
3.1.3.
Quy hoạch phát triển điện lực
69
3.2.
Hoàn thiện pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành
71
chính trong lĩnh vực điện lực
3.2.1.
Thường xuyên tiến hành tổng kết thực tiễn
71
3.2.2.
Rà soát các quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính, nghị định của Chính phủ quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực điện và các văn bản có liên
quan đến hoạt động điện lực
72
3.2.3.
Sửa đổi, bổ sung nội dung cụ thể của pháp luật về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
73
3.2.3.1.
Sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính
74
3.2.3.2.
Một số nội dung cần được sửa đổi, bổ sung trong nghị định
của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực điện lực
80
3.2.3.3.
Cần khẩn trương ban hành văn bản hương dẫn thực hiện
Nghị định số 68/2010/NĐ-CP
82
3.3.
Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực điện lực
83
3.3.1.
Tăng cường số lượng và chất lượng cho lực lượng xử phạt
vi phạm hành chính về điện lực
83
3.3.2.
Tăng cường sự phối hợp trong phát hiện và xử phạt vi phạm
của các cơ quan, tổ chức hữu quan
85
3.3.3.
Phổ biến, tuyên truyền nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
người dân trong xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
điện lực
85
KẾT LUẬN
87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
89
PHỤ LỤC
92
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Điện lực là ngành năng lượng quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đối
với hoạt động lao động, sản xuất và đời sống xã hội. Nhất là trong giai đoạn
nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì điện lực được coi là
"dòng máu" nuôi dưỡng và thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh vực, ngành,
nghề khác trong nền kinh tế quốc dân. Với ý nghĩa và tầm quan trọng như
vậy, điện lực luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đầu tư thích đáng.
Xét về phương diện pháp lý, môi trường bảo đảm cho hoạt động điện lực phát
triển hợp pháp, trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật để quản lý và điều chỉnh ngành năng lượng mũi nhọn này từ khâu
quy hoạch, phát triển nguồn điện, xây dựng mạng lưới truyền tải điện đến
khâu phân phối điện tới khách hàng sử dụng điện. Đặc biệt là kể từ khi Luật
Điện lực được Quốc hội ban hành (ngày 03/12/2004), khung pháp lý về hoạt
động điện lực ngày càng được hoàn thiện. Đây là một thuận lợi lớn đối với
hoạt động điện lực.
Tuy nhiên, cũng như bất cứ lĩnh vực nào, việc tuân thủ pháp luật và vi
phạm pháp luật cũng luôn có xu cùng tồn tại song song. Do đó, cùng với việc
hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động điện lực, việc đấu tranh phòng
ngừa và chống vi phạm hành chính, góp phần giữ vững trật tự an toàn xã hội,
bảo vệ an ninh năng lượng của quốc gia, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước về điện lực cũng là một
nhiệm vụ cấp thiết trong tình hình hiện nay.
Vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực được quy
định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, Pháp lệnh sửa đổi
bổ sung năm 2008 và được quy định chi tiết trong Nghị định số 68/2010/NĐ-
2
CP ngày 15/6/2010 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực điện lực (sau đây viết tắt là Nghị định số 68/2010/NĐ-CP).
Nghị định số 68/2010/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/8/2010 và thay
thế Nghị định số 74/2003/NĐ-CP ngày 26/6/2003 quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực (sau đây viết tắt là Nghị định số
74/2003/NĐ-CP). Văn bản này đã khắc phục được một số tồn tại trong hoạt
động xử phạt vi phạm hành chính về điện lực như: mở rộng phạm vi xử phạt
đối với hành vi vi phạm, mở rộng chủ thể có thẩm quyền xử phạt, tăng mức
phạt tiền… Nghị định số 68/2010/NĐ-CP cũng được đánh giá là văn bản có
tính "đi trước đón đầu" khi đã dự liệu được nhóm hành vi vi phạm các quy
định về thị trường điện (bao gồm quy định xử phạt hành vi vi phạm quy định
về bán buôn điện, điều độ hệ thống điện và thị trường điện) trong khi thị
trường phát điện cạnh tranh hoàn chỉnh (giai đoạn đầu tiên của thị trường
điện) dự kiến đến đầu năm 2012 mới vận hành.
Mặc dù được đánh giá là văn bản có nhiều điểm tiến bộ so với văn bản
trước là Nghị định số 74/2003/NĐ-CP, song việc áp dụng Nghị định số
68/2010/NĐ-CP trên thực tế chưa được bao lâu đã bộc lộ những vướng mắc,
bất hợp lý đòi hỏi phải có những sửa đổi, bổ sung phù hợp.
Vì sao quy định về xử phạt vi phạm hành chính về điện lực lại có
nhiều điểm hạn chế như vậy, ngay cả một văn bản mới ban hành được khoảng
một năm (trường hợp Nghị định số 68/2010/NĐ-CP) cũng đã sớm đặt ra yêu
cầu cần được sửa đổi, bổ sung? Những bất cập đó bắt nguồn từ những yếu tố
khách quan, chủ quan nào, hướng khắc phục ra sao là vấn đề cần được nghiên
cứu, làm sáng tỏ để tìm ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật,
nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính về điện
lực và góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: "Xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực điện lực" làm luận văn thạc sĩ luật học, với mong muốn góp
phần vào việc hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính và nâng cao hiệu
quả trong hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề xử lý vi phạm hành chính là vấn đề luôn có tính thời sự và
được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, khá nhiều công trình khoa học nghiên
cứu vấn đề này cả về lý luận cũng như thực tiễn. Xét ở góc độ nghiên cứu các
vấn đề mang tính lý luận chung, đã có các công trình khoa học: "Chế tài hành
chính - Lý luận và thực tiễn", Luận án phó tiến sĩ Luật học, của Vũ Thư, năm
1995; "Hoàn thiện quy định pháp luật về hình thức xử phạt vi phạm hành
chính", Luận văn thạc sĩ Luật học, của Nguyễn Trọng Bình, năm 2000; "Thẩm
quyền xử lý vi phạm hành chính", Luận văn thạc sĩ Luật học, của Nguyễn Thị
Thuỷ, năm 2001… Nghiên cứu vấn đề xử lý vi phạm hành chính trong các
lĩnh vực cụ thể, có một số công trình khoa học về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai, môi trường, lao động… Ngoài ra còn có nhiều bài viết
như: "Bàn về xử lý vi phạm hành chính", PTS. Trần Minh Hương, đăng trên
Tạp chí Luật học, số 4/1999; "Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật về xử phạt
vi phạm hành chính"; ThS. Lê Vương Long, đăng trên Tạp chí Luật học, số
9/2003; "Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính", ThS. Bùi Thị Đào, đăng trên
Tạp chí Luật học, số 9/2003
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên đều xem xét vấn đề xử
lý vi phạm hành chính dưới các góc độ, mức độ khác nhau. Các công trình
khoa học đó đã đem lại những giá trị khoa học quý giá ở góc độ lý luận cũng
như thực tiễn, là tài liệu tham khảo hữu ích về vấn đề xử lý vi phạm hành
chính. Tuy nhiên, cho đến nay nghiên cứu về vấn đề xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực điện lực thì chưa có một công trình nào đề cập đến.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là góp phần làm sáng tỏ lý luận
và thực tiễn về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực. Từ đó đưa
ra một số kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực điện lực.
4
Để thực hiện mục đích đó, luận văn phân tích, làm rõ các vấn đề cơ
bản sau đây:
- Nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực điện lực.
- Phân tích và đánh giá thực trạng quy định và hoạt động xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực.
- Phân tích và kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực điện lực. Tuy nhiên, đây là một vấn đề có nội dung rất rộng,
trong khuôn khổ của một luận văn cao học, chúng tôi chỉ đề cập và nghiên
cứu một cách khái quát những vấn đề cơ bản về pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính và thực trạng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là dựa trên phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó,
tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể để giải quyết các vấn đề
đặt ra trong luận văn như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê.
5. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về vấn đề xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực điện lực. Tuy còn ở mức độ nghiên cứu khái quát
thực trạng pháp luật và hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
điện lực nhưng luận văn đã có những đóng góp mới sau đây:
- Trên cơ sở phân tích, lý giải những ưu điểm và hạn chế của "khái
niệm vi phạm hành chính" trong các Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính,
5
luận văn đã xây dựng khái niệm "vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực"
và khái niệm "xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực".
- Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực điện lực góp phần nâng cao lý luận nhận thức về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực.
- Những kết luận rút ra từ thực trạng pháp luật và hoạt động xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực còn là căn cứ thực tiễn xác đáng để
hình thành phương hướng hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
nói chung và nâng cao hiệu quả hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực điện lực nói riêng.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn đóng góp tích cực cho việc
hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Luận văn có thể dùng làm
tài liệu tham khảo cho việc xây dựng và ban hành nghị định quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo học tập, nghiên cứu cho
sinh viên và các đồng nghiệp quan tâm đến vấn đề này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vi phạm hành chính và xử phạt vi
phạm hành chính
Chương 2: Pháp luật hiện hành và thực trạng xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực điện lực
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật hiện hành và giải pháp nâng cao hiệu
quả hoạt động về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
VÀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật rất dễ xảy ra và có
nguy cơ xảy ra ở mọi lúc, mọi nơi, trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Với đặc điểm đó, tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn như tội phạm,
nhưng vi phạm hành chính đã và đang gây tổn hại không nhỏ cho trật tự, kỷ
cương xã hội. Bởi vậy, việc đấu tranh phòng, chống các vi phạm hành chính
nhằm bảo đảm sự ổn định và phát triển của các quan hệ xã hội do luật hành
chính bảo vệ luôn được đặt ra. Để đấu tranh hiệu quả đối với các vi phạm
hành chính thì trước hết phải xác định được thế nào là vi phạm hành chính
và dấu hiệu để nhận biết một vi phạm pháp luật là vi phạm hành chính.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và cấu thành của vi phạm hành chính
1.1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Như đã trình bày, vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật,
nghĩa là hành vi vi phạm hành chính luôn chứa đựng yếu tố lỗi. Tuy nhiên,
trên thực tế, rất nhiều trường hợp người vi phạm chỉ là do vô tình hoặc không
để ý đến quy định của pháp luật nên đã vi phạm, chỉ đến khi bị xử lý mới biết
là mình vi phạm hành chính. Điều này chứng tỏ người vi phạm còn chưa biết,
chưa xác định được thế nào là vi phạm hành chính.
Như vậy, vấn đề đặt ra là cần phải quy định rõ khái niệm vi phạm
hành chính trong văn bản quy pháp pháp luật. "Mặc dù có khái niệm vi phạm
hành chính mới chỉ là ranh giới khái quát về vi phạm hành chính song lại rất
cần phải có và có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động áp dụng quy phạm pháp
luật" [19, tr. 6].
7
Việc quy định rõ khái niệm vi phạm hành chính trong văn bản pháp
luật có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Về mặt lý luận, khái niệm vi phạm hành chính là căn cứ để xác định
một hành vi vi phạm pháp luật nào đó là vi phạm hành chính, giúp phân biệt
vi phạm hành chính với tội phạm hình sự và các vi phạm pháp luật khác. Dựa
vào khái niệm vi phạm hành chính có thể xác định rõ tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của vi phạm hành chính, tạo cơ sở để quy định, xử lý
cũng như đấu tranh một cách hiệu quả đối với các vi phạm hành chính.
Trên thực tế, dựa vào các dấu hiệu cơ bản nêu trong khái niệm, người
dân ít nhất cũng có thể tự đối chiếu để đánh giá hoặc điều chỉnh hành vi của
mình, hoặc có thể tự bảo vệ mình trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền
đưa ra quyết định không đúng đối với hành vi vi phạm của họ. Về phía các
chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, khi giải quyết các vụ việc
cụ thể, có thể dễ dàng chỉ rõ và giải thích cho đối tượng vi phạm biết hành vi
nào của họ là vi phạm hành chính và bị xử lý ra sao.
Nghiên cứu các Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được ban hành
năm 1989, 1995 và 2002 cho thấy khái niệm vi phạm hành chính đều đã được
đề cập trong các Pháp lệnh. Trong đó, Pháp lệnh năm 1989 đã quy định khái
niệm vi phạm hành chính một cách trực tiếp, hai Pháp lệnh còn lại cho phép
xác định khái niệm vi phạm hành chính thông qua khái niệm xử phạt vi phạm
hành chính. Tuy nhiên, dù được quy định một cách trực tiếp hay gián tiếp thì
khái niệm vi phạm hành chính trong cả ba Pháp lệnh cũng đều chưa rõ ràng,
đầy đủ.
Điều 1 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính 1989 quy định: "Vi phạm
hành chính là hành vi do cá nhân hay tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý, xâm hại đến quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình
sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính" [24, tr. 1].
Theo đó, một số dấu hiệu và yếu tố cấu thành vi phạm hành chính đã được đề
8
cập trong khái niệm, bao gồm: hành vi vi phạm, tính trái pháp luật của hành vi,
lỗi, và bị xử phạt hành chính. Tuy nhiên, "yếu tố khách thể của vi phạm hành
chính (những quan hệ bị xâm hại) không được nêu ra trong định nghĩa, tuy rằng
điều này rất quan trọng. Công thức "xâm phạm quy tắc quản lý nhà nước"
không phải chỉ khách thể vi phạm, mà là chỉ tính trái pháp luật của hành vi, vì
khách thể vi phạm pháp luật là quan hệ xã hội, chứ không phải là "quy tắc",
mà quy tắc chính là nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội" [12, tr. 527]. Nhận
xét này hoàn toàn có cơ sở bởi lẽ mọi vi phạm pháp luật đều vi phạm các quy
tắc quản lư nhà nước chứ không riêng gì vi phạm hành chính trong khi khái
niệm nêu trong Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính 1989 lại chỉ nói đến
các "quy tắc quản lý nhà nước" chung chung mà chưa chỉ ra được tính đặc thù
của các quy định pháp luật bị các vi phạm hành chính xâm hại.
Trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 1995, khái niệm vi phạm hành
chính được quy định gián tiếp tại khoản 2 Điều 1 như sau: "Xử phạt vi phạm hành
chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý xâm
phạm quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm pháp
lý hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính" [25, tr. 1].
Ngoài ra, một số dấu hiệu về mặt chủ quan, chủ thể của vi phạm hành chính
được làm rõ thêm tại Điều 5 (Các đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính),
Điều 6 (Xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính), Điều 7 (Tình tiết
giảm nhẹ) và Điều 8 (Tình tiết tăng nặng) của Pháp lệnh. Tuy nhiên, khái
niệm vi phạm hành chính trong Pháp lệnh cũng mới chỉ được xác định một
cách chung chung mà chưa nêu được cụ thể về dấu hiệu và các yếu tố cấu
thành của vi phạm hành chính.
Nếu coi việc đề cập đến khái niệm vi phạm hành chính một cách gián
tiếp là một bước thụt lùi của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 1995 so với
Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính 1989 thì lỗi này lại lặp lại ở Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính 2002 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2007 và 2008 -
sau đây gọi chung là Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002). Pháp lệnh xử
9
lý vi phạm hành chính 2002 vẫn đưa ra khái niệm vi phạm hành chính một
cách một cách gián tiếp thông qua khái niệm xử phạt vi phạm hành chính như
sau: "Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ
chức (sau đây được gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý,
vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội
phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính" [26, tr. 1].
So với Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính 1989 và Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính 1995, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 đã nêu
được tính trái pháp luật của hành vi vi phạm là "…xâm phạm các quy định
của pháp luật về quản lý nhà nước". Tương tự như Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính 1995, trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002, một số
điểm về mặt chủ quan, chủ thể của vi phạm hành chính được bổ sung tại Điều
6 (về đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính), Điều 7 (về xử lý người chưa
thành niên vi phạm hành chính), Điều 8 (về tình tiết giảm nhẹ) Điều 9 (về tình
tiết tăng nặng) nhưng chưa giải quyết toàn bộ yêu cầu đặt ra đối với nội dung
của khái niệm vi phạm hành chính.
Cả ba Pháp lệnh đều đề cập đến ranh giới giữa vi phạm hành chính và
tội phạm: "mà không phải là tội phạm hình sự" trong khái niệm vi phạm hành
chính. Tuy nhiên, "Công thức "mà không phải là tội phạm hình sự" rất dễ làm
cho chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính hiểu lầm, dẫn đến chỗ
tự cho mình có quyền đánh giá hành vi nào là vi phạm hình sự, hành vi nào là
vi phạm hành chính, mà xem nhẹ việc dựa vào các quy định của Bộ luật hình
sự" [12, tr. 527].
Một yếu tố nữa được cả ba Pháp lệnh (năm 1989, 1995 và 2002) đề
cập đến trong khái niệm vi phạm hành chính, đó là "bị xử phạt hành chính"
theo quy định của pháp luật. Quy định như vậy là chưa hoàn toàn chính xác.
Bởi lẽ, xử phạt hành chính chỉ là một biện pháp chế tài. Một vi phạm hành
chính ngoài việc bị xử phạt, còn có thể bị áp dụng các biện pháp chế tài hành
chính khác như biện pháp ngăn chặn và đảm bảo việc xử phạt vi phạm hành
10
chính, biện pháp khắc phục hậu quả, biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định
xử phạt và các biện pháp xử lý hành chính khác.
Tóm lại, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1989, 1995 và 2002
đều đã đề cập đến khái niệm vi phạm hành chính nhưng hạn chế của cả ba
Pháp lệnh là đều chưa đưa ra được một khái niệm toàn diện, đầy đủ. Do đó,
việc xây dựng một khái niệm phản ánh đầy đủ các dấu hiệu và yếu tố cấu
thành của vi phạm hành chính là việc làm cần thiết.
Ngoài ra, một hạn chế nữa của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
hiện nay là Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính chỉ đưa ra khái niệm chung
chung còn hành vi vi phạm hành chính cụ thể cũng như hình thức xử phạt đối
với từng hành vi vi phạm lại được phân cấp cho Chính phủ quy định. Để đảm
bảo tính thống nhất của pháp chế, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, bên cạnh việc đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về vi
phạm hành chính, cũng cần phải quy định rõ ràng về các hành vi vi phạm
hành chính cụ thể kèm theo hình thức xử lý hành chính đối với hành vi đó
trong một văn bản có hiệu lực pháp lý cao đó là Luật hoặc Bộ luật.
Trên cơ sở kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những hạn chế
của khái niệm vi phạm hành chính trong các Pháp lệnh, có thể quan niệm về
vi phạm hành chính như sau: Vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật,
xâm phạm tới trật tự nhà nước, xã hội, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được pháp luật hành chính bảo vệ,
do cá nhân hoặc tổ chức thực hiện với lỗi vô ý hoặc cố ý và theo quy định của
pháp luật phải bị áp dụng chế tài hành chính.
1.1.1.2. Đặc điểm và cấu thành của vi phạm hành chính
Khái niệm vi phạm hành chính là cơ sở đầu tiên cho việc xác định một
vi phạm pháp luật là vi phạm hành chính, đồng thời để phân biệt giữa vi phạm
hành chính với các loại vi phạm pháp luật khác. Tuy nhiên, để xác định đúng
hành vi vi phạm hành chính cụ thể, đánh giá đúng được tính chất vi phạm và
11
mức độ xâm hại của hành vi, bên cạnh việc nghiên cứu, đưa ra khái niệm vi
phạm hành chính thì việc xem xét các đặc điểm và cấu thành của vi phạm
hành chính là vô cùng quan trọng.
Dưới đây, các đặc điểm và yếu tố cấu thành của vi phạm hành chính
sẽ được xem xét trong mối quan hệ thống nhất với nhau:
* Mặt khách quan của vi phạm hành chính:
Mặt khách quan của vi phạm hành chính là những biểu hiện ra bên
ngoài thế giới khách quan của vi phạm hành chính, bao gồm những dấu hiệu
sau: hành vi, tính trái pháp luật của hành vi, hậu quả thiệt hại mà hành vi gây
ra cho xã hội, quan hệ nhân quả, thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện vi
phạm. Cụ thể như sau:
- Hành vi vi phạm hành chính:
Vi phạm hành chính cũng như mọi vi phạm trước hết phải là hành vi
và chỉ được thực hiện bằng hành vi. Đây là dấu hiệu tiên quyết, buộc phải có.
Nếu không có hành vi vi phạm hành chính sẽ không có vi phạm hành chính.
Hành vi của vi phạm hành chính là những biểu hiện của con người hoặc tổ
chức tác động vào thế giới khách quan dưới hình thức bên ngoài cụ thể gây
tác hại đến sự phát triển bình thường của trật tự quản lý.
Hành vi của vi phạm hành chính có thể là hành động hoặc không hành
động song đều là biểu hiện của con người ra thế giới khách quan được ý thức
kiểm soát và ý chí điều khiển. Sẽ không coi là hành vi vi phạm nếu nó không
phải là kết quả hoạt động của ý thức. Đây chính là mặt khách quan của tính
xâm hại các quan hệ xã hội của vi phạm hành chính, chúng có ý nghĩa quyết
định đến tính trái pháp luật của hành vi vi phạm hành chính.
Vi phạm hành chính phải là hành vi trái pháp luật hành chính. Tính
trái pháp luật của hành vi thể hiện ở chỗ hành vi đó được thực hiện ngược lại
với yêu cầu của quy phạm pháp luật. Nói cách khác, đó là hành vi xâm phạm
12
những quy định pháp luật nói chung được pháp luật hành chính bảo vệ. Cụ thể
hơn, đó là hành vi bị pháp luật hành chính cấm, hoặc không thực hiện hay
thực hiện không đúng hành vi mà pháp luật hành chính buộc phải thực hiện.
Hành vi vi phạm hành chính có tính nguy hiểm cho xã hội tuy mức độ
nguy hiểm cho xã hội do nó gây ra không lớn so với tội phạm. Quan niệm vi
phạm hành chính không gây nguy hiểm cho xã hội là hoàn toàn sai lầm. Bởi
vì, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm không chỉ xem xét trên cơ
sở thiệt hại thực tế, mà chính là sự phá vỡ, đi ngược với trật quản lý đã được
quy định trong các quy phạm pháp luật hành chính. "Một vi phạm hành chính
có thể không nguy hiểm hoặc không gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.
Nhưng nhiều vi phạm hành chính thì sẽ gây hậu quả nghiêm trọng, trong khi
vi phạm hành chính là loại vi phạm xảy ra rất phổ biến" [12, tr. 530].
Hành vi trái pháp luật và có lỗi phải được một văn bản pháp luật quy
định là vi phạm hành chính và phải chịu chế tài hành chính. Đây được coi là
dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm hành chính.
"Chế tài được hiểu là biện pháp cưỡng chế nhà nước có thể áp dụng
nhằm đảm bảo việc thực hiện các quy định của pháp luật" [21, tr. 196].
"Chế tài hành chính là biện pháp xử lý của Nhà nước đối với cá nhân,
tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là
tội phạm, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự" [29, tr. 131].
Vì vậy, cần nhận thức rõ hành vi trái pháp luật hành chính có thể diễn
ra trong hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhưng không có nghĩa đó
đều vi phạm hành chính. Chỉ những hành vi nào pháp luật quy định bị áp
dụng biện pháp chế tài hành chính thì mới là vi phạm hành chính. Điều này
đòi hỏi các nhà lập quy bên cạnh việc dự liệu các hành vi trái pháp luật phải
dự liệu luôn hình thức xử phạt hành chính. Sẽ là vô lý nếu một hành vi trái
pháp luật hành chính mà lại không có hình thức xử phạt hành chính nào. Sẽ
không có hành vi vi phạm hành chính nếu chưa có văn bản nào quy định xử
13
phạt đối với hành vi đó cho dù hành vi đó xâm hại quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ và có lỗi. Song sẽ là rất bất hợp lý nếu tồn tại một hành vi vi phạm
hành chính bị xử phạt mà không trái pháp luật và không có lỗi. Do vậy, khi
xem xét các đặc điểm này cần đặt chúng trong mối liên hệ biện chứng để có
cách nhìn tổng thể, khái quát và toàn diện nhất.
- Hậu quả, mối quan hệ nhân quả của vi phạm hành chính:
Mặt khách quan của đa phần các cấu thành vi phạm hành chính không
bắt buộc phải có dấu hiệu hậu quả thiệt hại và mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi và hậu quả thiệt hại. Bởi lẽ tính xâm hại của mọi loại vi phạm hành
chính chưa đến mức nguy hiểm đáng kể cho xã hội nên hậu quả của chúng rất
ít phụ thuộc vào thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra. Thiệt hại do vi phạm
hành chính gây ra chỉ có ý nghĩa trong việc xác định hình thức xử phạt và
mức phạt.
Tuy nhiên, đối với cấu thành của nhiều vi phạm hành chính khác thì
hậu quả thiệt hại cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc. Ví dụ, làm hư hại cây cối,
thảm cỏ, hoa ở công viên; làm hoen bẩn, hư hại các công trình kiến trúc, văn
hoá nghệ thuật, di tích lịch sử…
Hậu quả của vi phạm hành chính là tính xâm hại khách quan của vi
phạm hành chính, được thể hiện ở chỗ vi phạm hành chính đã xâm hại hoặc
đe dọa xâm hại cho các quan hệ xã hội được pháp luật quy định thành các quy
tắc quản lý nhà nước. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp hậu quả của vi phạm
hành chính biểu hiện ở các thiệt hại cụ thể về sức khỏe, nhân phẩm, danh dự,
về tự do than thể của cá nhân hoặc thiệt hại về tài sản của Nhà nước, của tập
thể của công dân.
Giữa hành vi vi phạm hành chính và hậu quả của vi phạm hành chính
có mối quan hệ hữu cơ, trong đó hậu quả vi phạm hành chính có tiền đề xuất
hiện của nó là hành vi vi phạm hành chính và hậu của vi phạm hành chính có
tiền đề xuất hiện của nó là hành vi khách quan của vi phạm hành chính. Sự
14
tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hành chính và hậu quả của
vi phạm hành chính dựa trên những căn cứ sau: (i) hành vi vi phạm xảy ra
trước hậu quả xâm hại các quan hệ mặt thời gian; (ii) hành vi vi phạm phải
chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả xâm hại các quan hệ xã hội
và (iii) hậu quả vi phạm đã xảy ra phải là sự hiện thực hóa khả năng thực tế
làm phát sinh hậu quả của hành vi vi phạm.
Ngoài ra, trong những trường hợp cần thiết, mặt khách quan của vi
phạm hành chính cũng cần phải xem xét đến các yếu tố: thời gian và địa điểm,
công cụ và phương tiện được sử dụng để vi phạm. Những dấu hiệu này tuy
không phổ biến và có ý nghĩa quy định đối với các dấu hiệu khác của tất cả
các loại vi phạm hành chính nhưng chúng sẽ trở thành dấu hiệu bắt buộc và
có ý nghĩa quyết định đối với một số vi phạm hành chính nhất định.
* Khách thể của vi phạm hành chính:
Khách thể vi phạm hành chính là các quan hệ xã hội được các quy
phạm pháp luật hành chính bảo vệ. Tuy nhiên, dưới góc độ của vi phạm hành
chính, trật tự quản lý nhà nước cũng chính là các quan hệ xã hội được luật
hành chính bảo vệ. Có quan điểm cho rằng, khách thể của vi phạm hành chính
là trật tự quản lý nhà nước. Nhưng quan niệm như vậy chưa chính xác, ngoài
trật tự quản lý nhà nước thì khách thể của vi phạm hành chính còn có thể là
các quan hệ xã hội khác. Các loại quan hệ xã hội bị vi phạm hành chính xâm
hại rất đa dạng, đó là: trật tự nhà nước và xã hội, sở hữu nhà nước, tổ chức,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, trật tự quản lí. Cho nên khách thể
của vi phạm hành chính phải được hiểu là các quan hệ xã hội được quy phạm
pháp luật hành chính bảo vệ.
Khách thể của vi phạm hành chính được chia thành ba loại:
- Khách thể chung là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản
lý nhà nước hay nói cách khác là trật tự quản lý nhà nước nói chung.
15
- Khách thể loại là những quan hệ xã hội có cùng hoặc gần tính chất
với nhau trong từng lĩnh vực nhất định của quản lý nhà nước, đây chính là trật
tự quản lý nhà nước chuyên ngành hoặc lĩnh vực cụ thể.
- Khách thể trực tiếp là quan hệ xã hội cụ thể được pháp luật quy định
và bảo vệ, bị chính hành vi vi phạm hành chính gây tác hại.
* Chủ thể của vi phạm hành chính:
Chủ thể của vi phạm hành chính có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Cá
nhân, tổ chức chỉ có thể trở thành chủ thể của vi phạm hành chính khi có năng
lực trách nhiệm pháp lý hành chính.
- Cá nhân:
Năng lực trách nhiệm pháp lý hành chính thể hiện khả năng nhận thức
của con người đối với hành vi vi phạm. Vì vậy, hai yếu tố để xác định năng
lực trách nhiệm pháp lý đối với cá nhân là: Đạt độ tuổi theo quy định của
pháp luật và không mắc bệnh làm mất khả năng nhận thức hành vi.
Cá nhân thực hiện hành vi vi phạm hành chính chỉ được coi là chủ thể
vi phạm hành chính khi có năng lực trách nhiệm pháp lý hành chính. Ở đây
cũng cần phân biệt giữa chủ thể vi phạm hành chính với đối tượng vi phạm
hành chính. Cá nhân chỉ cần có năng lực trách nhiệm pháp lý hành chính được
xác định là chủ thể vi phạm hành chính. Còn đối tượng vi phạm hành chính
ngoài năng lực trách nhiệm pháp lý hành chính còn phải thực hiện một hành
vi vi phạm hành chính cụ thể và bị xử phạt hành chính.
Cá nhân là chủ thể của vi phạm hành chính theo quy định của pháp
luật hiện hành là mọi công dân. Trong đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi nếu vi phạm hành chính thì bị xử phạt về vi phạm hành chính do cố ý và
chỉ bị phạt cảnh cáo. Người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi
hành vi vi phạm hành chính do mình gây ra và khi phạt tiền đối với họ thì
mức tiền phạt không quá một nửa mức tiền phạt đối với người thành niên,
trong trường hợp họ không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc người giám hộ
phải nộp phạt thay. Quy định cha mẹ (người chưa thành niên vi phạm) phải
16
nộp thay không có nghĩa là xử phạt cả người không vi phạm. Mà ở đây chúng
ta hướng tới trách nhiệm giáo dục ý thức pháp luật cho những người chưa
thành niên. Đối với cán bộ, công chức, viên chức và người có thẩm quyền bị
xử lý vi phạm hành chính đối với những vi phạm hành chính liên quan đến
việc thi hành công vụ, thực hiện quyền hạn, nhiệm được giao. Nếu không có
yếu tố này thì họ chỉ bị xử lý như mọi công dân bình thường. Quân nhân tại
ngũ, quân nhân dự bị trong thời kì tập trung huấn luyện và những người thuộc
lực lượng công an nhân dân, nếu thực hiện vi phạm hành chính thì bị xử lý
như đối với công dân khác.
- Tổ chức:
Trong vi phạm hành chính không phải lúc nào người vi phạm cũng là
cá nhân. Ở trường hợp người vi phạm là người nhân danh tổ chức thực hiện vi
phạm thì đương nhiên chủ thể vi phạm hành chính ở đây phải là tổ chức. Pháp
luật hành chính coi tổ chức là chủ thể vi phạm hành chính gồm: cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức nước ngoài. Tuy nhiên, khi xử
phạt hành chính đối với tổ chức, nếu là cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã
hội sẽ dẫn đến tình trạng tiền nhà nước chạy từ túi này sang túi khác. Do đó
cần phải truy cứu người có lỗi trực tiếp vi phạm hành chính để tổ chức bị xử
phạt, hoặc cần phải suy xét người có lỗi để truy cứu trách nhiệm kỷ luật. Điều
này đã được quy định cụ thể tại điểm b khoản 1 Điều 6 Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính 2002: "Tổ chức bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành
do mình gây ra. Sau khi chấp hành quyết định xử phạt, tổ chức bị xử phạt xác
định cá nhân có lỗi gây ra vi phạm hành chính để xác định trách nhiệm pháp
lý của người đó theo quy định của pháp luật" [26, tr.2].
Đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trong phạm
vi lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, thì bị xử
phạt hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều
ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác.
17
* Mặt chủ quan của vi phạm hành chính:
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính là những quan hệ tâm lý bên
trong của cá nhân vi phạm hành chính, bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích…
thực hiện hành vi vi phạm.
Dấu hiệu tập trung cơ bản nhất của mặt chủ quan là yếu tố lỗi. "Lỗi
được hiểu một cách thông thường là điều sai sót, không nên, không phải trong
cách cư xử, trong hành động" [21, tr. 719]. Trên phương diện pháp lý, lỗi
được xác định là trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể thực hiện hành vi vi
phạm, biểu hiện thái độ của người đó đối với hành vi vi phạm của mình và
hậu quả của hành vi đó. Tuy nhiên, dưới góc độ của luật hành chính, nội dung
lỗi có những nét đặc thù so với lỗi của các ngành luật khác, Trong nhiều
trường hợp chỉ cần có lỗi, nghĩa là người vi phạm biết hoặc có thể biết tính
chất sai trái của mình là đủ để xác định vi phạm hành chính xảy ra.
Mặt khác, lỗi trong hành chính không chỉ đặt ra đối với cá nhân vi
phạm mà còn đặt ra với tổ chức. Thông thường, yếu tố lỗi của tổ chức vi
phạm hành chính được xác định bởi hành vi trái pháp luật hành chính và hành
vi đó theo quy định của pháp luật hành chính phải bị xử phạt hành chính. Như
vậy, không phải đối với tổ chức vi phạm hành chính chúng ta không và không
thể xác định yếu tố lỗi truy cứu trách nhiệm pháp lý hành chính mà việc xem
xét lỗi sẽ thông qua việc truy cứu trách nhiệm kỷ luật. Lỗi trong vi phạm hành
chính là lỗi của một người thực hiện hành vi trái pháp luật nhận thức được
nghĩa vụ pháp lý bắt buộc nhưng họ lại có ý thức xem thường mặc dù họ hoàn
toàn có khả năng xử sự theo đúng nghĩa vụ đó.
Lỗi trong thực hiện vi phạm hành chính được thể hiện dưới hai hình
thức lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Lỗi cố ý trong vi phạm hành chính là thái độ tâm lý của một người khi
thực hiện hành vi trái pháp luật, tuy nhận thức được nghĩa vụ pháp lý bắt buộc
nhưng lại có ý thức xem thường, mặc dù họ hoàn toàn có khả năng xử sự theo
đúng nghĩa vụ đó.
18
Lỗi vô ý trong vi phạm hành chính là lỗi của một người khi thực hiện
hành vi trái pháp luật do vô tình thiếu thận trọng mà đã không nhận thức được
những nghĩa vụ pháp lý bắt buộc, mặc dù họ có khả năng và điều kiện xử sự theo
đúng nghĩa vụ đó.
Lỗi vô ý lại có hai hình thức thể hiện. Vô ý do cẩu thả là lỗi của người
có hành vi vi phạm không biết và không nhận thức được rằng hành vi của
mình là trái pháp luật mặc dù cần phải biết và nhận thức được điều đó. Vô ý
do quá tự tin là lỗi trong trường hợp người có hành vi vi phạm nhận thức
được điều này nhưng cho rằng có thể ngăn ngừa được dễ dàng hậu quả của
hành vi trái pháp luật đó của mình.
Ngoài ra, mục đích, động cơ cũng là những dấu hiệu về mặt chủ quan
của vi phạm hành chính. Tuy nhiên, những dấu hiệu này không có ý nghĩa
quyết định như dấu hiệu lỗi, không được coi là dấu hiệu cơ bản, bắt buộc
trong mọi cấu thành vi phạm hành chính nhưng trong một số trường hợp, nếu
thiếu nó thì không thể xác định được là có vi phạm hành chính hay không.
1.1.2. Phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm
Trong khoa học pháp lý, vi phạm pháp luật được phân chia thành bốn
loại: tội phạm, vi phạm hành chính, vi phạm pháp luật dân sự và vi phạm kỷ
luật. Trong bốn loại vi phạm pháp luật này, xét về phạm vi xâm hại các quan
hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, tội phạm và vi phạm hành chính có nhiều
điểm tương đối gần nhau. Vì vậy việc để phân biệt những điểm khác nhau
giữa chúng có nghĩa rất lớn trong áp dụng quy định pháp luật, tránh tình
trạng hình sự hoá quan hệ hành chính và ngược lại hành chính hoá các quan
hệ hình sự.
Việc phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm chủ yếu dựa trên
những dấu hiệu trong cấu thành của vi phạm hành chính và tội phạm, bao
gồm dấu hiệu về mặt khách quan, dấu hiệu về khách thể, dấu hiệu về chủ thể
và mặt chủ quan.
19
- Về mặt khách quan:
Xét về hành vi vi phạm, dấu hiệu phân biệt đầu tiên giữa vi phạm
hành chính và tội phạm chính là ở mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
vi phạm. "Nghĩa là, sự khác nhau chỉ là mức độ nguy hiểm cho xã hội của
từng hành vi và của từng loại hành vi trái pháp luật. Vi phạm hành chính ít
nguy hiểm cho xã hội hơn so với tội phạm" [12, tr. 530].
Xét về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả thiệt
hại, mặt khách quan của đa phần các cấu thành vi phạm hành chính không bắt
buộc phải có dấu hiệu hậu quả thiệt hại của hành vi và quan hệ nhân quản
giữa hành vi và hậu quả của nó. Nghĩa là, chỉ cần tồn tại dấu hiệu hành thức là
có hành vi trái pháp luật là đủ căn cứ để áp dụng biện pháp xử phạt hành
chính. Ngược lại, trong mặt khách quan của tội phạm, mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi vi phạm và hậu quả thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc.
- Về khách thể của hành vi vi phạm:
Để xác định một hành vi nguy hiểm cho xã hội là vi phạm hành chính
hay tội phạm phải xem xét tiêu chí khách thể, quan hệ xã hội bị hành vi đó
xâm hại. "Hành vi xâm hại đến tính mạng con người bao giờ cũng là tội
phạm, còn hành vi đi tàu xe không mua vé, dù nhiều lần, bao giờ cũng là vi
phạm hành chính" [12, tr. 532].
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, không phải mọi hành vi có tính
chất trái pháp luật hành chính hoặc đất đai, môi trường, kinh tế, tài chính…
đều là vi phạm hành chính. Nhiều tội phạm cũng là hành vi trái pháp luật hành
chính, hoặc đất đai, môi trường, kinh tế, tài chính… như các tội chống người
thi hành công vụ, vi phạm quy tắc trật tự an toàn giao thông… Nghĩa là vi
phạm hành chính và tội phạm nhiều khi có cùng chung khách thể. Trong trường
hợp cùng xâm hại một quan hệ xã hội thì sự phân biệt có thể xem xét ở dấu
hiệu: hành vi đó đã bị xử phạt hành chính chưa, nếu đã bị xử phạt hành chính
mà còn vi phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự và tính nguy hiểm cho
xã hội của hành vi vi phạm (đã nêu ở phần phân biệt về mặt khách quan).