Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện
lực
Tống Thị Hoài Phương
Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01
Người hướng dẫn: TS Dương Đức Chính
Năm bảo vệ: 2011
Abstract: Nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực điện lực. Phân tích và đánh giá thực trạng quy định và hoạt động xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực. Phân tích và kiến nghị giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính cũng như nâng cao hiệu quả
hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực.
Keywords: Luật hành chính; Pháp luật Việt Nam; Vi phạm hành chính; Điện lực
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Điện lực là ngành năng lượng quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đối với hoạt động
lao động, sản xuất và đời sống xã hội. Nhất là trong giai đoạn nước ta xây dựng nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước thì điện lực được coi là "dòng máu" nuôi dưỡng và thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh
vực, ngành, nghề khác trong nền kinh tế quốc dân. Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy,
điện lực luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đầu tư thích đáng. Xét về phương diện
pháp lý, môi trường bảo đảm cho hoạt động điện lực phát triển hợp pháp, trong những năm
qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để quản lý và điều chỉnh ngành năng
lượng mũi nhọn này từ khâu quy hoạch, phát triển nguồn điện, xây dựng mạng lưới truyền tải
điện đến khâu phân phối điện tới khách hàng sử dụng điện. Đặc biệt là kể từ khi Luật Điện lực
được Quốc hội ban hành (ngày 03/12/2004), khung pháp lý về hoạt động điện lực ngày càng
được hoàn thiện. Đây là một thuận lợi lớn đối với hoạt động điện lực.
Tuy nhiên, cũng như bất cứ lĩnh vực nào, việc tuân thủ pháp luật và vi phạm pháp luật
cũng luôn có xu cùng tồn tại song song. Do đó, cùng với việc hoàn thiện các quy định pháp
luật về hoạt động điện lực, việc đấu tranh phòng ngừa và chống vi phạm hành chính, góp phần
giữ vững trật tự an toàn xã hội, bảo vệ an ninh năng lượng của quốc gia, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước về điện lực cũng là một nhiệm vụ
cấp thiết trong tình hình hiện nay.
Vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực được quy định trong Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, Pháp lệnh sửa đổi bổ sung năm 2008 và được quy
định chi tiết trong Nghị định số 68/2010/NĐ-CP ngày 15/6/2010 của Chính phủ quy định về
xử phạt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực điện lực (sau đây viết tắt là Nghị định số
68/2010/NĐ-CP).
2
Nghị định số 68/2010/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/8/2010 và thay thế Nghị định số
74/2003/NĐ-CP ngày 26/6/2003 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện
lực (sau đây viết tắt là Nghị định số 74/2003/NĐ-CP). Văn bản này đã khắc phục được một số
tồn tại trong hoạt động xử phạt vi phạm hành chính về điện lực như: mở rộng phạm vi xử phạt
đối với hành vi vi phạm, mở rộng chủ thể có thẩm quyền xử phạt, tăng mức phạt tiền… Nghị
định số 68/2010/NĐ-CP cũng được đánh giá là văn bản có tính "đi trước đón đầu" khi đã dự
liệu được nhóm hành vi vi phạm các quy định về thị trường điện (bao gồm quy định xử phạt
hành vi vi phạm quy định về bán buôn điện, điều độ hệ thống điện và thị trường điện) trong
khi thị trường phát điện cạnh tranh hoàn chỉnh (giai đoạn đầu tiên của thị trường điện) dự kiến
đến đầu năm 2012 mới vận hành.
Mặc dù được đánh giá là văn bản có nhiều điểm tiến bộ so với văn bản trước là Nghị
định số 74/2003/NĐ-CP, song việc áp dụng Nghị định số 68/2010/NĐ-CP trên thực tế chưa
được bao lâu đã bộc lộ những vướng mắc, bất hợp lý đòi hỏi phải có những sửa đổi, bổ sung
phù hợp.
Vì sao quy định về xử phạt vi phạm hành chính về điện lực lại có nhiều điểm hạn chế
như vậy, ngay cả một văn bản mới ban hành được khoảng một năm (trường hợp Nghị định số
68/2010/NĐ-CP) cũng đã sớm đặt ra yêu cầu cần được sửa đổi, bổ sung? Những bất cập đó
bắt nguồn từ những yếu tố khách quan, chủ quan nào, hướng khắc phục ra sao là vấn đề cần
được nghiên cứu, làm sáng tỏ để tìm ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nhằm
nâng cao hiệu quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính về điện lực và góp phần nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: "Xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực điện lực" làm luận văn thạc sĩ luật học, với mong muốn góp phần vào việc hoàn thiện
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính và nâng cao hiệu quả trong hoạt động xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực điện lực.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề xử lý vi phạm hành chính là vấn đề luôn có tính thời sự và được nhiều tác giả quan
tâm nghiên cứu, khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu vấn đề này cả về lý luận cũng như
thực tiễn. Xét ở góc độ nghiên cứu các vấn đề mang tính lý luận chung, đã có các công trình khoa
học: "Chế tài hành chính - Lý luận và thực tiễn", Luận án phó tiến sĩ Luật học, của Vũ Thư, năm
1995; "Hoàn thiện quy định pháp luật về hình thức xử phạt vi phạm hành chính", Luận văn thạc sĩ
Luật học, của Nguyễn Trọng Bình, năm 2000; "Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính", Luận văn
thạc sĩ Luật học, của Nguyễn Thị Thuỷ, năm 2001… Nghiên cứu vấn đề xử lý vi phạm hành
chính trong các lĩnh vực cụ thể, có một số công trình khoa học về xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai, môi trường, lao động… Ngoài ra còn có nhiều bài viết như: "Bàn về xử lý vi
phạm hành chính", PTS. Trần Minh Hương, đăng trên Tạp chí Luật học, số 4/1999; "Một số vấn
đề hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính"; ThS. Lê Vương Long, đăng trên Tạp chí
Luật học, số 9/2003; "Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính", ThS. Bùi Thị Đào, đăng trên Tạp chí
Luật học, số 9/2003
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên đều xem xét vấn đề xử lý vi phạm hành
chính dưới các góc độ, mức độ khác nhau. Các công trình khoa học đó đã đem lại những giá trị
khoa học quý giá ở góc độ lý luận cũng như thực tiễn, là tài liệu tham khảo hữu ích về vấn đề xử
lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, cho đến nay nghiên cứu về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực điện lực thì chưa có một công trình nào đề cập đến.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là góp phần làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực. Từ đó đưa ra một số kiến nghị và giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực.
Để thực hiện mục đích đó, luận văn phân tích, làm rõ các vấn đề cơ bản sau đây:
3
- Nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực điện lực.
- Phân tích và đánh giá thực trạng quy định và hoạt động xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực điện lực.
- Phân tích và kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện
lực.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện
lực. Tuy nhiên, đây là một vấn đề có nội dung rất rộng, trong khuôn khổ của một luận văn cao
học, chúng tôi chỉ đề cập và nghiên cứu một cách khái quát những vấn đề cơ bản về pháp luật về
xử phạt vi phạm hành chính và thực trạng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là dựa trên phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể để giải quyết các vấn đề đặt ra trong luận văn như: phương pháp phân tích, tổng hợp,
so sánh, thống kê.
5. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực điện lực. Tuy còn ở mức độ nghiên cứu khái quát thực trạng pháp luật và hoạt động xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực nhưng luận văn đã có những đóng góp mới sau
đây:
- Trên cơ sở phân tích, lý giải những ưu điểm và hạn chế của "khái niệm vi phạm hành
chính" trong các Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, luận văn đã xây dựng khái niệm "vi
phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực" và khái niệm "xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực điện lực".
- Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
điện lực góp phần nâng cao lý luận nhận thức về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
điện lực.
- Những kết luận rút ra từ thực trạng pháp luật và hoạt động xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực điện lực còn là căn cứ thực tiễn xác đáng để hình thành phương hướng
hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói chung và nâng cao hiệu quả hoạt động
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực nói riêng.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn đóng góp tích cực cho việc hoàn thiện pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc xây
dựng và ban hành nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo học tập, nghiên cứu cho sinh viên và các
đồng nghiệp quan tâm đến vấn đề này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành
chính.
Chương 2: Pháp luật hiện hành và thực trạng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực điện lực.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật hiện hành và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực.
Chương 1
Một số vấn đề lý luận về vi phạm hành chính
4
và xử phạt vi phạm hành chính
1.1. Một số vấn đề lý luận về vi phạm hành chính
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và cấu thành của vi phạm hành chính, phân biệt vi
phạm hành chính với tội phạm
1.1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Nghiên cứu các Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được ban hành năm 1989, 1995
và 2002 cho thấy khái niệm vi phạm hành chính đều đã được đề cập trong các Pháp lệnh.
Nhưng hạn chế của cả ba Pháp lệnh là đều chưa đưa ra được một khái niệm toàn diện, đầy đủ.
Do đó, việc xây dựng một khái niệm phản ánh đầy đủ các dấu hiệu và yếu tố cấu thành của vi
phạm hành chính là việc cần thiết.
Trên cơ sở kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những hạn chế của khái niệm vi
phạm hành chính trong các Pháp lệnh, có thể quan niệm vi phạm hành chính như sau: Vi
phạm hành chính là hành vi trái pháp luật, xâm phạm tới trật tự nhà nước, xã hội, sở hữu nhà
nước, sở hữu tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được pháp luật hành chính bảo
vệ, do cá nhân hoặc tổ chức thực hiện với lỗi vô ý hoặc cố ý và theo quy định của pháp luật
phải bị áp dụng chế tài hành chính.
1.1.1.2. Đặc điểm và cấu thành của vi phạm hành chính
Các đặc điểm và yếu tố cấu thành của vi phạm hành chính sẽ được xem xét trong mối
quan hệ thống nhất với nhau:
* Mặt khách quan của vi phạm hành chính: là những biểu hiện ra bên ngoài thế giới
khách quan của vi phạm hành chính, bao gồm hành vi, tính trái pháp luật của hành vi, hậu quả
mà hành vi gây ra cho xã hội, quan hệ nhân quả, thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện vi
phạm.
* Khách thể của vi phạm hành chính: là các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp
luật hành chính bảo vệ.
* Chủ thể của vi phạm hành chính: có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Cá nhân, tổ chức
chỉ có thể trở thành chủ thể của vi phạm hành chính khi có năng lực trách nhiệm pháp lý hành
chính.
* Mặt chủ quan của vi phạm hành chính: là những quan hệ tâm lý bên trong của cá
nhân vi phạm hành chính, bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích thực hiện hành vi vi phạm.
1.1.1.3. Phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm
Việc phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm chủ yếu dựa trên những dấu hiệu trong cấu
thành của vi phạm hành chính và tội phạm, bao gồm:
* Về mặt khách quan:
Xét về hành vi vi phạm, dấu hiệu phân biệt đầu tiên giữa vi phạm hành chính và tội phạm
chính là ở mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm. Vi phạm hành chính ít nguy hiểm cho
xã hội hơn so với tội phạm.
Xét về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả thiệt hại, mặt khách quan
của đa phần các cấu thành vi phạm hành chính không bắt buộc phải có dấu hiệu hậu quả thiệt hại
của hành vi và quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của nó. Ngược lại, trong mặt khách
quan của tội phạm, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả thiệt hại là dấu
hiệu bắt buộc.
* Về khách thể của hành vi vi phạm:
Để xác định một hành vi nguy hiểm cho xã hội là vi phạm hành chính hay tội phạm phải
xem xét tiêu chí khách thể, quan hệ xã hội bị hành vi đó xâm hại.
Trong trường hợp cùng xâm hại một quan hệ xã hội thì sự phân biệt có thể xem xét ở
dấu hiệu: hành vi đó đã bị xử phạt hành chính chưa, nếu đã bị xử phạt hành chính mà còn vi
phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự và tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi
phạm.
5
* Về chủ thể của hành vi vi phạm:
Pháp luật nước ta quy định, chủ thể của vi phạm hành chính có thể là cá nhân hoặc tổ
chức. Ngược lại, trong hình sự thì chủ thể thực hiện tội phạm chỉ có thể là cá nhân.
* Về mặt chủ quan:
Dấu hiệu cơ bản nhất trong mặt chủ quan để phân biệt vi phạm hành chính và tội phạm là
dấu hiệu lỗi. Mức độ chống đối trong lỗi vi phạm hành chính cũng không cao bằng hình sự. Đa số
lỗi trong vi phạm hành chính do thiếu thận trọng, vô tình hay cùng lắm là coi nhẹ những nghĩa vụ
pháp lý.
Ngoài ra, trong hình sự, lỗi gắn liền với mục đích, động cơ của người vi phạm còn
trong hành chính chỉ cần người vi phạm biết hoặc có thể biết tính chất sai trái của mình là đủ
để xác định có vi phạm hành chính.
1.2. Một số vấn đề lý luận về xử phạt vi phạm hành chính
1.2.1. Khái niệm xử lý vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính
1.2.1.1. Khái niệm xử lý vi phạm hành chính
Trên cơ sở kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những hạn chế của khái niệm vi
phạm hành chính trong các Pháp lệnh, có thể quan niệm về vi phạm hành chính như sau: Xử lý vi
phạm hành chính là hoạt động cưỡng chế mang tính quyền lực nhà nước nhằm áp dụng các chế
tài hành chính, do các chủ thể được Nhà nước giao quyền thực hiện đối với cá nhân, tổ chức có
hành vi vi phạm hành chính theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định.
1.2.1.2. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Cú thể quan niệm: Xử phạt hành chính là hoạt động cưỡng chế nhà nước nhằm áp
dụng các biện pháp xử phạt đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính,
do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành, thông qua việc áp dụng các hình thức
xử phạt hành chính phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm gây thiệt
hại về vật chất cũng như tinh thần cho cá nhân, tổ chức vi phạm.
1.2.2. Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính
Cơ sở pháp lý để xác định phạm vi thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính được quy
định tại khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 như sau: "Việc xử lý vi
phạm hành chính phải do người có thẩm quyền tiến hành theo đúng quy định của pháp luật".
Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính được xác định cho nhiều cơ quan, cán bộ –
công chức nhà nước có thẩm quyền. Thẩm quyền này được Nhà nước quy định chủ yếu tại
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
1.2.3. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
- Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được trao cho hệ thống các cơ quan rộng
lớn. Điều này thể hiện tính chất đa dạng, phức tạp và biến động của hệ thống các cơ quan có
thẩm quyền xử phạt hành chính.
- Thẩm quyền xử phạt hành chính kết hợp hài hòa giữa thẩm quyền xử phạt với loại
hành vi vi phạm hành chính và thẩm quyền xử phạt vi phạm với mức phạt cụ thể.
- Các cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính hoàn toàn độc lập, không phụ thuộc
vào nhau.
1.3. Quy định về xử phạt vi phạm hành chính của một số nước trên thế giới
1.3.1. Quy định về xử phạt vi phạm hành chính của Trung Quốc
1.3.2. Quy định về xử phạt vi phạm hành chính của Liên bang Nga
1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Qua so sánh với pháp luật của Trung Quốc và Liên bang Nga, có thể nghiên cứu, bổ
sung pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của Việt Nam theo hướng:
Về đối tượng áp dụng: có thể giữ nguyên cách thức quy định về đối tượng áp dụng.
Về hình thức xử phạt: Ưu tiên áp dụng các biện pháp xử lý không chính thức đối với
người chưa thành niên vi phạm hành chính. Việc xem xét áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm
hành chính và biện pháp xử lý hành chính khác được thực hiện chỉ trong trường hợp thật cần
6
thiết và căn cứ vào tính chất của hành vi vi phạm, những đặc điểm về nhân thân, khả năng
nhận thức về tính chất nguy hiểm của hành vi vi phạm cho xã hội của hành vi vi phạm,
nguyên nhân và hoàn cảnh vi phạm.
Về mức phạt đối với hành vi vi phạm: Cần có mức phạt cụ thể đối với nhóm hành vi vi
phạm liên quan đến từng hoạt động quản lý nhà nước để có mức phạt tương ứng với hành vi vi
phạm, hạn chế sự không thống nhất về mức phạt đối với từng loại hành vi vi phạm. Cụ thể như
nhóm hành vi vi phạm quy định về xâm phạm quyền công dân, xâm phạm sức khỏe của con
người, xâm phạm tài sản, chống người thi hành công vụ… như mô hình quy định hành vi vi
phạm trong Bộ luật xử phạt vi phạm hành chính của Liên bang Nga.
Về trách nhiệm pháp lý của cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính: Pháp luật Trung Quốc rất đề cao trách nhiệm của những người thực thi pháp luật, góp
phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cồn dân. Với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân, Việt Nam cần có những quy định cụ thể hơn nữa về trách
nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền khi xử phạt vi phạm hành chính. Tương tự như Luật
xử phạt vi phạm hành chính của Trung Quốc, Liên bang Nga cũng đề cao trách nhiệm của những
người có chức vụ. Các múc phạt áp dụng đối với người có chức vụ có thể gấp 10 lần mức phạt
của người bình thường. Ngoài ra, mức phạt đối với pháp nhân cũng rất cao, có thể gấp 100 lần
mức phạt áp dụng cho cá nhân. Với mức phạt nghiêm khắc như vậy, trách nhiệm của người có
chức vụ và pháp nhân cũng được đề cao hơn, tránh tình trạng lạm dụng chức vụ, quyền hạn.
Kết luận chương 1
Như vậy, những vấn đề liên quan đến vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành
chính như khái niệm vi phạm hành chính, đặc điểm và cấu thành của vi phạm hành chính,
khái niệm xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính… là những vấn đề cơ bản, quan trọng của pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính. Việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá những ưu điểm cũng như hạn chế của những
vấn đề này cùng với việc nghiên cứu, tiếp thu bài học kinh nghiệm của một số nước sẽ tạo tiền
để nghiên cứu, xây dựng các khái niệm trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính cụ thể như xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực.
Chương 2
Pháp luật hiện hành và thực trạng về xử PHạT vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
2.1. Đặc điểm hoạt động sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực điện lực
2.2. Những vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
2.2.1. Khái niệm và đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
2.2.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
Từ khái niệm chung về vi phạm hành chính có thể đưa ra khái niệm vi phạm hành chính trong
lĩnh vực điện lực như sau: Vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực là hành vi trái pháp luật, xâm
phạm trật tự quản lý nhà nước về điện lực và hoạt động điện lực, do cá nhân hoặc tổ chức thực hiện
với lỗi vô ý hoặc cố ý và theo quy định của pháp luật phải bị áp dụng chế tài hành chính.
2.2.1.2. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
Một là, vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực là hành vi trái pháp luật.
Hai là, vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực xâm phạm trật tự quản lý nhà nước
về điện lực và hoạt động điện lực
Ba là, chủ thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực là cá nhân hoặc tổ chức.
Bốn là, vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực là hành vi có lỗi.
Năm là, theo quy định của pháp luật phải bị áp dụng chế tài hành chính.
7
2.2.2. Khái niệm và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện
lực
2.2.2.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
Trật tự quản lý điện lực và hoạt động điện lực là một lĩnh vực được các quy phạm
pháp luật hành chính bảo vệ. Do đó, có thể định nghĩa: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực điện là là hoạt động cưỡng chế mang tính quyền lực nhà nước nhằm áp dụng chế tài hành
chính, do các chủ thể được nhà nước giao quyền thực hiện đối với cá nhân, tổ chức có hành
vi vi phạm quy định pháp luật về điện lực và hoạt động điện lực.
2.2.2.2. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
Do điện lực là một ngành kỹ thuật đặc thù, các lĩnh vực hoạt động điện lực rất đa
dạng, phong phú, trong đó có nhiều lĩnh vực nếu không có kiến thức và kinh nghiệm thì
không thể phát hiện được vi phạm chứ chưa nới đến việc xử phạt đúng đối tượng, đúng hành
vi vi phạm. Vì vậy, trong lĩnh vực điện lực, có thể có quyền xử phạt đối với nhiều nhóm hành
vi (Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp, Thanh tra chuyên ngành điện lực), có chủ thể chỉ có
thẩm quyền xử phạt đối với một nhóm hành vi (Cục trưởng Cục Kỹ thuật an toàn và Môi
trường công nghiệp chỉ có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định về an toàn
điện) hoặc có những loại hành vi vi phạm chỉ thuộc thẩm quyền xử phạt của một chủ thể (đối
với hành vi vi phạm quy định về điều độ hệ thống điện và hành vi vi phạm quy định về thị
trường điện thì chủ thể có thẩm quyền xử phạt duy nhất là Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực).
2.3. Pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
2.3.1. Hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực điện lực
* Quy định pháp luật chung về xử lý vi phạm hành chính:
- Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (được sửa đổi, bổ sung năm 2008)
- Các văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh.
* Quy định pháp luật chuyên ngành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện
lực
- Nghị định số 68/2010/NĐ-CP ngày 15/6/2010 của Chính phủ quy định về xử phạt vi
phạm phỏp luật trong lĩnh vực điện lực.
- Thông tư số 27/2011/TT-BTC ngày 19/7/2011 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy
định trình tự, thủ tục điều tra, xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực điện lực.
2.3.2. Các chế định cơ bản của quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực điện lực
2.3.2.1. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
Thứ nhất, nguyên tắc phân định thẩm quyền.
Thứ hai, nguyên tắc thời hiệu.
Thứ ba, nguyên tắc xử phạt.
2.3.2.2. Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
Thứ nhất, nhóm hành vi vi phạm quy định về giấy phép hoạt động điện lực.
Thứ hai, nhóm hành vi vi phạm quy định về xây dựng, lắp đặt công trình điện.
Thứ ba, nhóm hành vi vi phạm quy định về hoạt động phát điện.
Thứ tư, nhóm hành vi vi phạm quy định về hoạt động truyền tải điện.
Thứ năm, nhóm hành vi vi phạm quy định về hoạt động phân phối điện.
Thứ sáu, nhóm hành vi vi phạm quy định về hoạt động bán buôn điện, bán lẻ điện.
Thứ bảy, nhóm hành vi vi phạm quy định về sử dụng điện.
Thứ tám, nhóm hành vi vi phạm quy định về an toàn điện.
Thứ chín, nhóm hành vi vi phạm quy định về điều độ hệ thống điện.
Thứ mười, nhóm hành vi vi phạm quy định về thị trường điện.
2.3.2.3. Hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả
Cảnh cáo
8
Cảnh cáo mang tính cưỡng chế nhà nước nhưng mang nặng ý nghĩa giáo dục, răn đe
và chỉ áp dụng đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ
hoặc đối với mọi vi phạm do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện.
Phạt tiền
Mức phạt tiền cụ thể đối với mỗi hành vi vi phạm được áp dụng theo nguyên tắc:
"Mức phạt tiền cụ thể đối với một hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực điện lực là mức
trung bình của khung phạt tiền đối với hành vi đó, nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức phạt có
thể giảm thấp hơn nhưng không giảm quá mức tối thiểu của khung phạt tiền; nếu có tình tiết tăng
nặng thì mức phạt có thể tặng lên nhưng không được vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt".
Hình thức xử phạt bổ sung
- Tước quyền sử dụng có thời hạn giấy phép hoạt động điện lực
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng làm phương tiện vi phạm.
- Tịch thu toàn bộ số tiền thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.
- Thu hồi giấy phép hoạt động điện lực.
Các biện pháp khắc phục hậu quả
- Buộc khôi phục tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do hành vi vi phạm gây ra hoặc
buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép.
- Buộc thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn.
- Buộc nộp đủ phí, lệ phí theo quy định.
- Buộc bồi thường toàn bộ số tiền tổn thất do hành vi vi phạm gây ra.
- Buộc kiểm định lại thiết bị đo đếm điện hoặc thay thế thiết bị đo đếm điện khác.
- Buộc chia tách Đơn vị phát điện có tổng công suất đặt các nhà máy điện trên 25%
tổng công suất đặt toàn hệ thống.
- Buộc sử dụng các thiết bị đáp ứng đủ tiêu chuẩn kỹ thuật.
- Buộc ký hợp đồng mua bán điện.
2.3.2.4. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
Theo quy định hiện hành, chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực điện lực bao gồm: Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp, Thanh tra chuyên ngành điện
lực (Thanh tra viên chuyên ngành điện lực đang thi hành công vụ, Chánh thanh tra Sở Công
Thương, Chánh thanh tra Bộ Công Thương); Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực; Cục trưởng
Cục Kỹ thật an toàn và Môi trường công nghiệp và các chủ thể khác (Chiến sĩ Cảnh sát nhân
dân, Thanh tra Xây dựng, Thanh tra Môi trường).
2.3.2.5. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
2.3.2.6. Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
điện lực
Cưỡng chế thi hành bằng các biện pháp sau:
- Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập.
- Khấu trừ tiền từ tài khoản tại ngân hàng.
- Kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá.
- Ngừng cung cấp điện đối với cá nhân, tổ chức sử dụng điện.
- Các biện pháp cưỡng chế khác để tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi
phạm, buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do hành vi vi phạm gây ra hoặc buộc
tháo dỡ công trình xây dựng trái phép.
2.3.3. Đánh giá quy định pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực điện lực
- Định nghĩa về vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực trong Nghị định của Chính
phủ chưa đầy đủ, chưa thể hiện được đặc điểm cơ bản của loại vi phạm này.
- Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
chưa đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ
9
- Một số quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
chưa phù hợp với thực tế, tính khả thi không cao.
- Một số quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực chưa
được hướng dẫn cụ thể dẫn đến khó triển khai trên thực tế
2.4. Đánh giá thực trạng vi phạm và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
điện lực
2.4.1. Đánh giá thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực chủ yếu chỉ tập trung vào ba nhóm hành
vi, bao gồm: nhóm vi phạm quy định về giấy phép hoạt động điện lực, nhóm vi phạm quy
định về sử dụng điện và nhóm vi phạm quy định về an toàn điện, cụ thể như sau:
2.4.1.1. Vi phạm quy định về giấy phép hoạt động điện lực
2.4.1.2. Vi phạm quy định về an toàn điện
2.4.1.3. Vi phạm quy định về sử dụng điện
2.4.1.4. Đánh giá chung về thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
Về số lượng, số vụ vi phạm và đối tượng vi phạm hàng năm đều gia tăng. Tuy nhiên,
trên thực tế, việc xử phạt chỉ tập trung chủ yếu ở ba nhóm hành vi là vi phạm quy định về giấy
phép hoạt động điện lực, vi phạm quy định về sử dụng điện và vi phạm quy định về an toàn
điện. Trong khi đó, theo quy định, vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực được phân loại
thành mười nhóm hành vi. Điều này cho thấy, các nhóm hành vi vi phạm các quy định về xây
dựng, lắp đặt công trình điện, vi phạm các quy định về hoạt động phát điện, vi phạm các quy
định về hoạt động truyền tải điện, vi phạm các quy định về hoạt động phân phối điện, vi phạm
các quy định về hoạt động bán buôn điện, bán lẻ điện, vi phạm các quy định về điều độ hệ
thống điện và vi phạm các quy định về thị trường điện lực, trên thực tế không được phát hiện
và xử lý.
2.4.2. Đánh giá thực trạng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
2.4.2.1. Kết quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
Theo số liệu thống kê từ Báo cáo tình hình thực hiện Nghị định số 74/2003/NĐ-CP của 63
Sở Công Thương, từ năm 2004 đến năm 2009, đã tiến hành xử phạt vi phạm hành chính điện lực
được 21.404 vụ/21.932 đối tượng, cụ thể là: phạt cảnh cáo 4.781 vụ/5.675 đối tượng; phạt tiền
14.551 vụ/14.551 đối tượng; chuyển cho cơ quan chức năng 2.072 vụ/2.072 đối tượng, nộp ngân
sách nhà nước 11,2 tỉ đồng (Bảng 1 - Phụ lục 1). Trong đó, xử phạt vi phạm quy định về giấy
phép hoạt động là 2.316 vụ/2.316 đối tượng, xử phạt vi phạm quy định về sử dụng điện là 16.554
vụ/16.554 đối tượng và xử phạt vi phạm quy định về an toàn điện là 2.534 vụ/3.602 đối tượng.
2.4.2.2. Hạn chế trong việc xử phạt vi phạm hành chính
Một là, số lượng các vụ vi phạm bị phát hiện và xử phạt còn ít. Các hành vi vi phạm bị
xử phạt tập trung chủ yếu vào ba nhóm: vi phạm quy định về giấy phép hoạt động điện lực, vi
phạm quy định về sử dụng điện và vi phạm quy định về an toàn điện.
Hai là, chủ thể thực hiện hành vi vi phạm bị phát hiện và xử phạt trên thực tế chủ yếu là các
tổ chức, cá nhân sử dụng điện, rất ít các đơn vị hoạt động điện lực bị xử phạt, đặc biệt là các đơn vị
có chức năng, phát điện, truyền tải điện, phân phối điện thì hầu như không bị xử phạt. Điều này cho
thấy, thực tế hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực đang tồn tại tình trạng
"phân biệt đối xử" giữa các chủ thể thực hiện hành vi vi phạm.
Ba là, lực lượng có thẩm quyền thực hiện xử phạt theo quy định bao gồm chủ tịch ủy
ban nhân dân các cấp, thanh tra chuyên ngành điện lực, Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực,
Cục trưởng Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp và các lực lượng khác. Tuy
nhiên, trên thực tế chỉ có Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã, Chủ tịch ủy ban nhân cấp tỉnh và
Chánh thanh tra Sở Công Thương thực hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm trong lĩnh vực điện
lực.
2.4.2.3. Nguyên nhân của hạn chế
10
Thứ nhất, hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi
phạm hành chính về điện lực nói riêng còn chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất
và chặt chẽ, việc thực hiện pháp luật do đó cũng chưa nghiêm và hiệu quả chưa cao.
Thứ hai, lực lượng cán bộ xử phạt còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Lực lượng xử
phạt có trình độ hiểu biết về chuyên ngành điện còn quá ít.
Thứ ba, sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong đấu tranh phòng ngừa, phát hiện và
xử phạt vi phạm hành chính về điện lực chưa hiệu quả.
Thứ tư, đặc điểm của ngành điện là mang tính độc quyền tự nhiên, do đó việc xử phạt
vi phạm đối với các đơn vị hoạt động điện lực ở các khâu phát điện, truyền tải, phân phối điện
gặp rất nhiều khó khăn.
Thứ năm, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực chưa được chú trọng.
Kết luận chương 2
Tóm lại, pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
còn tồn tại một số hạn chế đó là một số quy định còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, chưa
bảo đảm tính thi, văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn lại quy định mở rộng hơn so với quy
định của văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.
Về thực trạng vi phạm và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực, hoạt động
xử phạt vi phạm trên thực tế còn phiến diện, mới chỉ tập trung vào phát hiện và xử phạt một số
nhóm hành vi vi phạm nhất định do các chủ thể thực hiện hành vi là cá nhân hoặc tổ chức sử
dụng điện, chưa chú trọng tới việc xử phạt vi phạm đối với các đơn vị hoạt động điện lực.
Chương 3
Một Số Giải Pháp NÂNG CAO Hiệu Quả Hoạt Động
Xử PHẠT VI Phạm Hành Chính TRONG Lĩnh Vực Điện Lực
3.1. Định hướng phát triển của ngành điện lực Việt Nam đến năm 2020
3.1.1. Quan điểm phát triển
Một là, phát triển ngành điện phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, bảo đảm cung cấp đủ điện nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội.
Hai là, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong nước cho phát triển
điện, kết hợp với việc nhập khẩu điện, nhập khẩu nhiên liệu hợp lý, đa dạng hóa các nguồn
năng lượng sơ cấp cho sản xuất điện, bảo tồn nhiên liệu và bảo đảm an ninh năng lượng cho
tương lai.
Ba là, từng bước nâng cao chất lượng điện năng để cung cấp dịch vụ điện với chất
lượng ngày càng cao. Thực hiện giá bán điện theo cơ chế thị trường nhằm khuyến khích đầu
tư phát triển ngành điện; khuyến khích sử dụng điện tiết kiệm và có hiệu quả.
Bốn là, phát triển điện đi đôi với bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái; bảo
đảm phát triển bền vững đất nước.
Năm là, từng bước hình thành, phát triển thị trường điện cạnh tranh, đa dạng hóa phương
thức đầu tư và kinh doanh điện. Nhà nước chỉ giữ độc quyền lưới điện truyền tải để đảm bảo an
ninh hệ thống năng lượng quốc gia.
Sáu là, phát triển ngành điện dựa trên cơ sở sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn tài
nguyên năng lượng sơ cấp của mỗi miền; tiếp tục đẩy mạnh công tác điện khí hóa nông thôn,
đảm bảo cung cấp đầy đủ, liên tục, an toàn cho nhu cầu điện tất cả các vùng trong toàn quốc.
3.1.2. Mục tiêu phát triển
3.1.3. Quy hoạch phát triển điện lực
- Định hướng phát triển nguồn điện
11
- Định hướng phát triển lưới điện
3.2. Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
3.2.1. Thường xuyên tiến hành tổng kết thực tiễn
3.2.2. Rà soát các quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Nghị định của
Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện và các văn bản có liên
quan đến hoạt động điện lực
3.2.3. Sửa đổi, bổ sung nội dung cụ thể của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực điện lực
3.2.3.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
Một là, về khái niệm vi phạm hành chính.
Cần đưa ra được định nghĩa rõ ràng và đầy đủ về vi phạm hành chính trong Pháp lệnh
hoặc Luật (Bộ luật) xử lý vi phạm hành chính theo hướng phản ánh đầy đủ các dấu hiệu và
yếu tố cấu thành của vi phạm hành chính. Hai là, về chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính
Bổ sung chủ thể có thẩm quyền xử phạt là Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực.
Bổ sung chủ thể có thẩm quyền xử phạt là Kiểm tra viên điện lực Bộ Công Thương
và Kiểm tra viên điện lực Sở Công Thương.
Ba là, thời hiệu xử phạt.
Cần bổ sung quy định về xác định thời hiệu xử phạt trong trường hợp hành vi vi phạm
diễn ra liên tục, kéo dài theo hướng tính từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm.
Bốn là, mức phạt tiền tối đa.
Cần thiết phải nâng mức xử phạt tối đa trong lĩnh vực điện lực tương đương với mực
xử phạt trong lĩnh vực môi trường hoặc khai thác dầu khí.
Năm là, về biện pháp cưỡng chế:
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng cần có quy định mở về biện pháp cưỡng chế
thi hành quyết định xử phạt hành chính theo hướng giao cho Chính phủ thẩm quyền quy định
biện pháp cưỡng chế mang tính chuyên ngành, đặc thù.
3.2.3.2. Một số nội dung cần được sửa đổi, bổ sung trong Nghị định của Chính phủ quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực.
Một là, tên gọi của Nghị định.
Cần thống nhất tên gọi các nghị định của Chính phủ quy định về hành vi vi phạm và
hình thức xử phạt vi phạm hành chính là "Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành
chính…" để bảo đảm tính thống nhất của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nói riêng
và tính thống nhất của hệ thống pháp luật nói chung.
Hai là, khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
Cần quy định khái niệm "vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực" một cách rõ
ràng, đầy đủ hơn nhằm hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính về điện lực và tạo
điều kiện thuận lợi cho các chủ thể có thẩm quyền trong việc áp dụng quy định pháp luật tiến
hành xử phạt vi phạm hành chính về điện lực.
Ba là, cần nghiên cứu bổ sung, tăng cường các quy định về xử phạt vi phạm về đầu tư
phát triển điện lực và quy hoạch điện lực (vi phạm quy định về sử dụng công nghệ, thiết bị
hiện đại, thân thiện với môi trường đối với các nhà máy điện mới); xử phạt đối với hành vi
không bảo đảm tiêu chuẩn về độ tin cậy cung cấp điện, giảm tổn thất điện năng, bảo đảm chất
lượng điện năng; xử phạt đối với hành vi điều chỉnh giá điện theo cơ chế thị trường không
đúng quy định; xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định về xuất, nhập khẩu điện.
Bốn là, nên lược bỏ những quy định mang tính tuyên ngôn, hình thức hoặc không phù
hợp với thực tế hoạt động điện lực như đã nêu và phân tích ở mục 2.1.3 Chương 2 của luận
văn.
3.2.3.3. Cần khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định
68/2010/NĐ-CP
12
- Theo quy định tại Khoản 2 điều 30 và Khoản 1 Điều 32 Nghị định số 68/2010/NĐ-
CP, cần ban hành hai văn bản hướng dẫn thi hành: Văn bản hướng dẫn về việc điều tra, xử
phạt của Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực và Cục trưởng Cục Kỹ thuật an toàn và Môi
trường công nghiệp và văn bản hướng dẫn sử dụng tiền phạt. Tuy nhiên hiện này, mới ban
hành Thông tư số 27/2011/TT-BCT quy định trình tự, thủ tục điều tra và xử phạt vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực điện lực, còn văn bản hướng dẫn sự dụng tiền phạt chưa được Liên
bộ Tài chính - Công Thương ban hành.
- Ngoài ra, trên cơ sở tổng hợp những vướng mắc cũng như đề xuất, kiến nghị gửi Cục
Điều tiết điện lực (Bộ Công Thương) của một số Sở Công Thương và UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, đơn vị điện lực, chúng tôi cho rằng, cần ban hành thông tư hướng dẫn
Nghị định số 68/2010/NĐ-CP về các nội dung sau đây:
+ Cần thiết phải ban hành thông tư liên tịch giữa Bộ Công Thương và Bộ Công an để
hướng dẫn trình tự thủ tục phối hợp xử phạt đối với những trường hợp trộm cắp điện với số
lượng lớn từ 3.000 kWh trở lên.
+ Tính toán số tiền tổn thất mà khách hàng sử dụng điện phải bồi thường cho bên bán điện
trong trường hợp khách hàng ký hợp đồng mua bán điện phục vụ mục đích sinh hoạt nhưng có sử
dụng một phần cho các mục đích khác (sản xuất, kinh doanh, dịch vụ) và có hành vi trộm cắp điện. Vì
hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nên dẫn đến tình trạng cùng một hành vi vi phạm nhưng ở
mỗi địa phương lại áp dụng một cách tính bồi thường khác nhau.
+ Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế ngừng cung cấp điện. Đõy là biện phỏp
mang tớnh đặc thự của ngành điện, tuy nhiờn hiện nay chưa cú văn bản nào hướng dẫn trỡnh tự, thủ
tục ỏp dụng biện phỏp cưỡng chế này nờn cũn gặp nhiều khú khăn, vướng mắc khi triển khai thực
hiện trờn thực tế.
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực điện lực
3.3.1. Tăng cường số lượng và chất lượng cho lực lượng xử phạt vi phạm hành
chính về điện lực
3.3.2. Tăng cường sự phối hợp trong phát hiện và xử phạt vi phạm của các cơ quan,
tổ chức hữu quan
3.3.3. Phổ biến, tuyên truyền nâng cao nhận thực, trách nhiệm của người dân trong
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
Kết luận chương 3
Tóm lại, để nâng cao hiệu quả hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
điện lực, biện pháp cơ bản và quan trọng nhất đó là cần hoàn thiện quy định pháp luật hiện
hành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực. Đồng thời, cần thực hiện đồng
bộ các giải pháp như: Tăng cường số lượng và chất lượng cho lực lượng xử phạt vi phạm
hành chính về điện lực; tăng cường sự phối hợp trong phát hiện và xử phạt vi phạm của các cơ
quan, tổ chức hữu quan và phổ biến, tuyên truyền nâng cao nhận thực, trách nhiệm của người
dân trong xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực.
Kết Luận
Tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực những năm gần đây có xu hướng
ngày càng tăng, diễn biến ngày càng phức tạp, tinh vi. Đối tượng vi phạm bao gồm cả cá nhân
và tổ chức, cả tổ chức sử dụng điện và cả tổ chức hoạt động điện lực. Để kịp thời ngăn chặn,
hạn chế những thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho
các cá nhân, tổ chức, góp phần giữ vững ổn định an ninh cung cấp điện đòi hỏi phải có hệ thống
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm trong lĩnh vực điện lực nói
riêng hoàn thiện, thống nhất và đồng bộ. Các quy định trong Pháp lệnh xử ý vi phạm hành chính
2002 còn thiếu hoặc chung chung, có quy định chưa rõ ràng, không phù hợp. Việc ban hành văn
bản để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp lệnh còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu
13
triển khai thực hiện pháp lệnh. Mặt khác nhiều văn bản hướng dẫn cụ thể hoá Pháp lệnh vẫn thể
hiện sự thiếu đồng bộ, không ít các hướng dẫn chưa cụ thể, chồng chéo mâu thuẫn.
Hơn nữa, từ thực tiễn hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực đã chỉ ra
những bất cập giữa quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng. Xuất phát từ những lý do trên việc hoàn
thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực trong giai đoạn hiện nay là hết sức
cần thiết.
Với mong muốn góp phần hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực điện lực nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, bảo đảm an ninh cung cấp điện, tác giả luận
văn đã tập trung nghiên cứu ba nội dung cơ bản:
Thứ nhất, trình bày một số vấn đề lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực điện lực như: Phân tích lý giải xây dựng các khái niệm "vi phạm hành chính", "vi phạm hành
chính trong lĩnh vực điện lực", "xử lý vi phạm hành chính" và "xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực điện lực" góp phần nâng cao lý luận nhận thức về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực điện lực.
Thứ hai, đánh giá một cách toàn diện thực trạng quy định và thực hiện pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực. Những kết lụân rút ra từ thực trạng và thực
tiễn áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực còn là căn cứ
thực tiễn xác đáng để hình thành phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực.
Thứ ba, trên cơ sở tính đến sự đồng bộ với các văn bản pháp luật khác có liên quan, đề
xuất một số giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực như thường xuyên tiến hành tổng kết thực tiễn; rà
soát các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực; sửa đổi, bổ sung nội
dung cụ thể của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực. Đây là
những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực điện lực.
Như vậy, những kết quả nghiên cứu của luận văn của luận văn đã đóng góp tích cực cho việc
hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực điện lực.
References
1. Ban Soạn thảo Dự án Bộ luật Xử lý vi phạm hành chính (2009), Pháp luật quốc tế về xử
lý vi phạm hành chính, (Tài liệu tham khảo), Hà Nội.
2. Ban Soạn thảo Dự án Bộ luật Xử lý vi phạm hành chính - Vụ Pháp luật hành sự - hành
chính Bộ Tư pháp (2010), Báo cáo Tổng kết tình hình thực hiện pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính, Hà Nội.
3. Nguyễn Ngọc Bích (2003), Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính với người
chưa thành niên, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
4. Bộ Công Thương (2010), Tờ trình của về Nghị định thay thế Nghị định số 74/2003/NĐ-
CP ngày 26/6 quy định về xử phạt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực điện lực, Hà Nội.
5. Bộ Tư pháp, Tờ trình số 20/TTr-BTP ngày 18/6 về Dự án Luật xử lý vi phạm hành chính,
Hà Nội.
6. Cục Điều tiết điện lực (2005), Văn bản quy phạm pháp luật về điện lực, (Lưu hành nội
bộ), Hà Nội.
7. Bùi Thị Đào (2005), "Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính", Luật học, (Số đặc san về vi
phạm hành chính), tr. 17-22.
14
8. Bùi Xuân Đức (2006), "Vi phạm hành chính và hình thức xử phạt vi phạm hành chính -
Những hạn chế và giải pháp đổi mới", Luật học, (2), tr 18-25.
9. Trần Thị Hiền (2003), "Về nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính",
Luật học, (Số đặc san về vi phạm hành chính), tr 23-27.
10. Trần Minh Hương (1999), "Bàn thêm về xử lý vi phạm hành chính", Luật học, (4), tr 16-
19.
11. Phạm Quang Huy (2002), Ranh giới giữa tội phạm và không phải là tội phạm trong Luật
hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà
Nội.
12. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
13. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và
pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
14. Lê Vương Long (2003), "Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính", Luật học, (Số đặc san về vi phạm hành chính), tr.34-40.
15. Quốc hội (2004), Luật Điện lực, Hà Nội.
16. Quốc hội (2011), Dự thảo số 2 và số 4 Luật xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.
17. Lê Minh Tâm (2003), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam - Những vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
18. Vũ Thư (2000), Chế tài hành chính - Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
19. Nguyễn Thị Thuỷ (2001), Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, Luận văn thạc sĩ luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
20. Tổng công ty điện lực Việt Nam (2004), Các văn bản về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực điện lực, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
21. Trung tâm Từ điển học (2008), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
22. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
23. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
24. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1989), Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính, Hà Nội.
25. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1995), Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.
26. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.
27. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2008), Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp
xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.
28. Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (2005), Bình luận khoa học Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính năm 2002, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
29. Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa,
Nxb Tư pháp.
30. Vụ Công tác lập pháp, Bộ Tư pháp (2005), Những nội dung cơ bản của Luật Điện lực,
Nxb Tư pháp.