1
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRỊNH THỊ THÙY ANH
TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
Công trình được hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2012.
Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung tâm tư
liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÖP PHÁP LÝ VÀ TRỢ GIÖP
PHÁP LÝ CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ CỦA
NƢỚC TA HIỆN NAY
9
1.1.
Quyền được trợ giúp pháp lý của công dân trong nhà nước
pháp quyền
9
1.2.
Cơ sở lý luận về trợ giúp pháp lý
13
1.2.1.
Khái niệm trợ giúp pháp lý
13
1.2.2.
Chủ thể thực hiện và đối tượng trợ giúp pháp lý
16
1.2.3.
Hình thức, lĩnh vực trợ giúp pháp lý
21
1.3.
Cơ sở lý luận về dân tộc thiểu số và trợ giúp pháp lý cho đồng
bào dân tộc thiểu số
24
1.3.1.
Khái niệm về dân tộc, dân tộc thiểu số
24
1.3.2.
Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam và quan điểm chính sách
dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
27
1.3.3.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về đồng bào dân tộc thiểu số
30
1.3.4.
Trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số
36
1.4.
Vai trò của trợ giúp pháp lý cho người dân tộc thiểu số
42
1.4.1.
Trợ giúp pháp lý cho người dân tộc thiểu số có vai trò nhằm
nâng cao ý thức pháp luật cho người dân tộc thiểu số
42
1.4.2.
Trợ giúp pháp lý cho người dân tộc thiểu số có vai trò trong
việc thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm công bằng, xã hội
42
1.4.3.
Trợ giúp pháp lý góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho đồng bào dân tộc thiểu số
43
1.4.4.
Trợ giúp pháp lý cho người dân tộc thiểu số góp phần tăng
cường đoàn kết toàn dân, thực hiện chiến lược "xóa đói, giảm
nghèo" của Chính phủ
43
1.4.5.
Trợ giúp pháp lý cho người dân tộc thiểu số góp phần cải cách
hành chính, thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa
43
Chương 2: THỰC TRẠNG TRỢ GIÖP PHÁP LÝ CHO ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC THIỂU SỐ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA
46
2.1.
Một số đặc điểm kinh tế, xã hội ở tỉnh thanh hóa ảnh hưởng
đến trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số
46
2.1.1.
Về địa lý tỉnh Thanh Hóa
46
2.1.2.
Về dân cư
47
2.1.3.
Về đặc điểm truyền thống
48
2.2.
Thực trạng về trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số
ở tỉnh Thanh Hóa
49
2.2.1.
Khái quát tình hình thực trạng trợ giúp pháp lý ở Thanh Hóa
trong thời gian qua
49
2.2.2.
Đánh giá thực trạng công tác trợ giúp pháp lý cho đồng bào
dân tộc thiểu số ở Thanh Hóa thời gian qua
79
2.2.3.
Nguyên nhân, bài học kinh nghiệm của công tác trợ giúp pháp
lý ở Thanh Hóa
83
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TRỢ GIÖP PHÁP LÝ CHO
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH THANH HÓA
HIỆN NAY
87
3.1.
Quan điểm chỉ đạo về trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc
thiểu số ở Thanh Hóa
87
3.2.
Những yêu cầu khách quan đòi hỏi việc trợ giúp pháp lý cho
đồng bào thiểu số ở tỉnh Thanh Hóa
96
3.3.
Các giải pháp bảo đảm trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc
thiểu số tỉnh Thanh Hóa
102
3.3.1.
Nâng cao trình độ năng lực chuyên môn, bồi dưỡng phẩm chất
đạo đức nguồn nhân lực thực hiện trợ giúp pháp lý
102
3.3.2.
Giáo dục kỹ năng sống cho người dân tộc thiểu số
104
3.3.3.
Vận dụng phù hợp và linh hoạt các hình thức trợ giúp pháp lý
104
3.3.4.
Tăng cường sự phối hợp giữa Nhà nước và các tổ chức chính
trị - xã hội trong việc trợ giúp pháp lý cho người dân tộc thiểu số
105
3.3.5.
Tăng cường nguồn tài chính phục vụ trợ giúp pháp lý
106
3.3.6.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc trợ giúp pháp lý
107
3.3.7.
Tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với việc trợ giúp
pháp lý
108
3.3.8.
Mở rộng hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý
110
KẾT LUẬN
111
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
113
PHỤ LỤC
118
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Dân số người Dao ở Thanh Hóa
63
2.2
Dân số người Hmông ở Thanh Hóa
64
2.3
Phân bố dân tộc Khơ Mú ở Việt Nam
65
2.4
Dân số người Khơ Mú ở Thanh Hóa
66
2.5
Tình hình phân bố dân cư Khơ Mú ở Thanh Hóa những
năm gần đây
67
2.6
Dân số người Mường ở các huyện miền núi Thanh Hóa
68
2.7
Dân số người Thái ở các huyện miền núi Thanh Hóa
69
2.8
Dân số người Thổ ở miền núi Thanh Hóa
70
2.9
Bảng tổng hợp đối tượng được Trung tâm trợ giúp pháp
lý, Cục trợ giúp pháp lý thực hiện trợ giúp pháp lý từ năm
1997- 2007
71
2.10
Bảng tổng hợp hình thức trợ giúp pháp lý do Trung tâm
trợ giúp pháp lý, cục trợ giúp pháp lý thực hiện trợ giúp
pháp lý từ năm 1997- 2007
73
2.11
Bảng tổng hợp đối tượng trợ giúp pháp lý do Trung tâm
trợ giúp pháp lý Thanh Hóa thực hiện từ năm 2007 đến 6
tháng đầu năm 2011
74
2.12
Bảng tổng hợp lĩnh vực trợ giúp pháp lý do Trung tâm trợ
giúp pháp lý Thanh Hóa thực hiện từ năm 2007- 6 tháng
đầu năm 2011
75
2.13
Bảng tổng hợp hình thức trợ giúp pháp lý do Trung tâm
trợ giúp pháp lý Thanh Hóa thực hiện từ năm 2007- 6
tháng đầu năm 2011
75
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, hơn hai
mươi năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất
quan trọng trên mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Nhà nước ta đang ngày
một khẳng định mình trên con đường xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Một nhà nước mà quyền lợi con người luôn được bảo đảm, bảo vệ
và tất cả đều tuân theo pháp luật. Để thiết lập một nền pháp chế thống nhất và
vững chắc trên phạm vi cả nước; để thiết lập trật tự pháp luật, kỷ cương phép
nước được nghiêm minh, dân chủ và công bằng, có rất nhiều con đường với
nhiều giải pháp phong phú. Trong đó, phải kể đến giải pháp trước mắt và lâu
dài đảm bảo việc thực hiện pháp luật trở thành lối sống, thói quen của Nhà
nước và nhân dân. Tiến tới ai cũng hiểu và vận dụng pháp luật vào cuộc sống
của mình, để từ đó tự bảo vệ mình hoặc thông qua những người hiểu biết pháp
luật tư vấn, trợ giúp những vấn đề liên quan tới pháp luật để bảo vệ quyền lợi
cho họ.
Bên cạnh đó, chủ trương phát triển kinh tế gắn liền với tiến bộ, công
bằng xã hội, giảm chênh lệch giàu, nghèo, thu hẹp khoảng cách phát triển
giữa các vùng miền, làm cơ sở hình thành tương đối đồng bộ các chính sách
xã hội với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Ngày 14 tháng 01 năm 2011 Chính phủ ban hành Nghị định số
05/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc nhằm đảm bảo và thúc đẩy sự bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển, tôn trọng và giữ gìn bản sắc
văn hóa của các dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Đây là giai đoạn Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm tới
đồng bào các dân tộc trên cả nước nhất là dân tộc thiểu số sống trên các khu
vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn để tạo điều kiện cho đồng bào các
dân tộc thiểu số cùng phát triển về mọi mặt, bảo đảm và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của họ.
Trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số là biện pháp pháp lý
trong việc thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của dân, do dân, vì dân,
đòi hỏi tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật; theo nguyên tắc Hiến định:
"Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật".
Ở nước ta, có rất nhiều đối tượng cần được hưởng các dịch vụ tư vấn
pháp luật, song họ ít hoặc không có tiền nên phải được ưu tiên bằng việc
được trợ giúp pháp lý miễn phí, không phải trả tiền công. Vì vậy, Ban Bí thư
Trung ương Đảng khóa VIII đã chỉ đạo: Mở rộng loại hình tư vấn pháp luật
phổ thông, đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng lớp nhân dân
nhằm góp phần nâng cao ý thức pháp luật và ứng xử pháp luật của công dân
trong quan hệ đời sống hàng ngày cần nghiên cứu hệ thống dịch vụ tư vấn
pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo
pháp luật.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII tiếp tục khẳng định cần: "tạo điều kiện cho người nghèo được hưởng
dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí " [19].
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg ngày
06/9/1997 về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối
tượng chính sách. Đặc biệt là, ngày 29/6/2006, Luật Trợ giúp pháp lý đã được
kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XI thông qua, theo đó ngày 12/01/2007 Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 07/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật trợ giúp pháp lý. Như vậy, ở Việt Nam pháp luật về trợ giúp
pháp lý đã được xây dựng và có thể coi là khá hoàn chỉnh. Vấn đề còn lại là tổ
chức thực hiện pháp luật ấy trong đời sống xã hội.
Đồng bào dân tộc thiểu số là những đối tượng được Đảng và Nhà nước
hết sức quan tâm vì sự phát triển chung của cả dân tộc; nên để cho người dân
tộc thiểu số được tiếp cận pháp luật, được cung cấp thông tin về pháp luật,
qua đó họ sẽ tự bảo vệ mình và được các cơ quan của nhà nước bảo vệ đó là
yêu cầu tất yếu. Vì vậy, trợ giúp pháp lý cho họ là một nghiên cứu cần thiết.
Trợ giúp pháp lý đã hỗ trợ một bộ phận không nhỏ dân cư là người
nghèo, các đối tượng chính sách, đồng bào thiểu số sống ở những vùng điều
kiện khó khăn biết cách bảo vệ mình hoặc biết vận dụng pháp luật vào cuộc
sống. Hoạt động trợ giúp pháp lý cho đồng bào các dân tộc thiểu số thời gian
qua đã có những đóng góp quan trọng vào việc phổ biến, tuyên truyền, giáo
dục pháp luật miễn phí cho hàng triệu người. Trợ giúp pháp lý tập trung chủ
yếu vào các lĩnh vực pháp luật như: Dân sự, hôn nhân - gia đình, đất đai, việc
làm và các chế độ chính sách Nhiều vụ việc phức tạp, vượt cấp, kéo dài
nhiều năm, đã được các tổ chức trợ giúp pháp lý hướng dẫn, giải quyết dứt
điểm; trật tự an toàn xã hội, an ninh được giữ vững; thúc đẩy kinh tế - xã hội
phát triển. Vì thế, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa được khẳng định
trong thực tế cuộc sống; niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước
không ngừng được củng cố và nâng cao.
Tuy nhiên, trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số là một lĩnh
vực còn nhiều hạn chế, bất cập do nhiều nguyên nhân cả về khách quan và
chủ quan. Việc thành lập và quản lý các tổ chức trợ giúp pháp lý còn lỏng lẻo,
thủ tục, trình tự được thụ hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý còn bất cập, nhận
thức về pháp luật của người đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp và không
đồng đều. Cách thức, biện pháp trợ giúp còn chưa hiệu quả, đối tượng trợ
giúp và người cần trợ giúp chưa gắn kết với nhau.
Thanh Hóa là một tỉnh đông dân, theo số liệu thống kê năm 2009, dân
số trên 3,7 triệu người. Trong đó, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm một tỉ lệ
đáng kể và do thiếu kiến thức pháp luật và thiếu hiểu biết nên họ không biết
cách tự bảo vệ quyền lợi của mình cũng như gây ra những vụ án nghiêm trọng
ảnh hưởng tới chính bản thân, gia đình và xã hội. Vì vậy, giúp họ hiểu các
kiến thức về pháp luật cũng như trợ giúp pháp lý cho đồng bào thiểu số được
đặt ra cả về mặt lý luận và thực tiễn, cũng như việc đề xuất các giải pháp bảo
đảm thực hiện pháp luật trên lĩnh vực này.
Với những lý do phân tích trên, tôi chọn đề tài: "Trợ giúp pháp lý cho
đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa " làm luận văn thạc
sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thực hiện pháp luật là một trong các lĩnh vực pháp lý cụ thể nói
chung, trợ giúp pháp lý đã và đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều
cơ quan nghiên cứu khoa học, các nhà khoa học pháp lý.
Qua tìm hiểu các công trình khoa học đã được công bố trong nước về
trợ giúp pháp lý, trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã
hội; có các công trình sau đây:
Nhóm thứ nhất: Các công trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật nói
chung. Ở nhóm này, các tài liệu và giáo trình lý luận chung về nhà nước và
pháp luật đều thống nhất về khái niệm, các hình thức thực hiện pháp luật. Đặc
biệt là hình thức áp dụng pháp luật, cụ thể là khái niệm, căn cứ, các bước,
trình tự, thủ tục áp dụng pháp luật. Tiêu biểu là:
- Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Khoa luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2007.
- Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Trường Đại học
Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2002.
- Tài liệu học tập và nghiên cứu môn lý luận chung về nhà nước và
pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Nhà nước và pháp
luật, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004.
- Tài liệu phục vụ học tập và nghiên cứu môn lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước
và pháp luật, Hà Nội, 2005.
Nhóm thứ hai: Bao gồm các công trình nghiên cứu về quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với hoạt động trợ giúp pháp lý. Tiêu biểu là:
"Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động trợ giúp pháp lý
ở Việt Nam hiện nay", Luận án Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Văn Tùng, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2007
Nhóm thứ ba: Bao gồm các công trình nghiên cứu thực hiện pháp luật
về trợ giúp pháp lý. Tiêu biểu cho nhóm này là công trình sau đây:
- "Phương hướng xây dựng luật trợ giúp pháp lý" của TS. Đinh Trung
Tụng, Tập san Trợ giúp pháp lý, 2006.
- "Khái niệm trợ giúp pháp lý một số vấn đề cần bàn thêm" của Tạ
Minh Lý, Đặc san Trợ giúp pháp lý, 2006.
- "Một số vấn đề về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng
chính sách" của TS. Trần Huy Liệu, Thông tin Khoa học pháp lý, 2005.
- "Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện trợ giúp pháp lý ở Việt
Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học của Vũ Hồng Tuyến, Trường Đại học Luật
Hà Nội, 2004.
- "Báo cáo tổng kết 10 năm công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo
và đối tượng chính sách" Bộ Tư pháp, năm 2007, Báo cáo ngày 20/11/2007.
- "Báo cáo tổng kết 10 năm hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo
và đối tượng chính sách ở tỉnh Thanh Hóa", Sở Tư pháp Thanh Hóa, 2007.
- "Tìm kiếm mô hình phổ biến giáo dục pháp luật có hiệu quả trong
một số dân tộc ít người", đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu Khoa
học pháp lý;
- "Xây dựng lối sống theo pháp luật và vấn đề giáo dục pháp luật
trong nhà trường", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11/2001, v.v
Các công trình trên đã nghiên cứu quản lý nhà nước về trợ giúp pháp
lý; trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội ở tầm vĩ
mô, tức là ở phạm vi toàn quốc. Cùng các công trình nghiên cứu khoa học của
tập thể và cá nhân, các bài viết từ trước đến nay đã có những đóng góp quan
trọng về lý luận và thực tiễn. Trong giai đoạn hiện nay cần phải chú trọng
đúng mức và cấp thiết của hoạt động trợ giúp pháp lý, đây là nhiệm vụ chính
trị quan trọng để góp phần vào việc ổn định tình hình và phát triển kinh tế - xã
hội ở một tỉnh Thanh Hóa.
Vì vậy, đây có thể được coi là đóng góp mới, nghiên cứu về lý luận và
thực tiễn hoạt động trợ giúp pháp lý cho đồng bào thiểu số ở tỉnh Thanh Hóa.
Tuy nhiên, để nghiên cứu, thực hiện đề tài này, cần phải kế thừa, vận dụng
những kết quả nghiên cứu của các công trình nêu trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về
hoạt động trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số trong tình hình mới.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng việc trợ giúp pháp lý cho đồng bào thiểu số ở
tỉnh Thanh Hóa trong thời gian gần đây; để xác định quan điểm, giải pháp bảo
đảm nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp pháp lý ở tỉnh Thanh Hóa
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận, xác định khái niệm, nội dung pháp
luật về trợ giúp pháp lý. Khái niệm về đối tượng được trợ giúp là đồng bào
dân tộc thiểu số.
- Làm rõ vai trò của việc trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số.
- Khái quát tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ảnh hưởng
đến hoạt động trợ giúp pháp lý cho đồng bào thiểu số ở tỉnh Thanh Hóa.
- Đánh giá thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý cho đồng bào thiểu số;
- Làm rõ nguyên nhân của những kết quả và những tồn tại, yếu kém
trong hoạt động trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số.
- Đưa ra các kiến nghị, cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả trong
hoạt động trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Thanh Hóa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu đối tượng cần được trợ giúp pháp lý là đồng bào thiểu số
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
- Nghiên cứu các dạng thức trợ giúp pháp lý có tính chất lý thuyết và
vai trò của nó trong thực tiễn.
- Tổng kết thực tiễn hoạt động trợ giúp pháp lý cho đồng bào thiểu số
ở tỉnh Thanh Hóa, nguyên nhân của kết quả và nguyên nhân của hạn chế, yếu
kém. Từ đó đề xuất một số giải pháp bảo đảm khắc phục sự yếu kém đó cũng
như đưa ra một số giải pháp bảo đảm toàn diện, thiết thực và hiệu quả hơn
cho hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Vận dụng lý luận chung về hoạt động trợ giúp pháp lý cho đồng bào
thiểu số.
Vì vậy, luận văn chỉ đi sâu vào hoạt động trợ giúp pháp lý và luận
chứng vai trò thực tiễn của hoạt động này đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở
Thanh Hóa trong thời gian gần đây.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và chính sách xã hội của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đề tài này được thực hiện trên
nền tảng lý luận về Nhà nước và pháp luật nói chung; về trợ giúp pháp lý nói
riêng. Đồng thời căn cứ vào việc tổng kết có tính khoa học về thực tiễn thực
hiện chính sách xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận của triết học mácxít cả về chủ nghĩa duy
vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đồng thời, luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể của các ngành khoa học đó là các phương
pháp nghiên cứu như: Phương pháp lịch sử cụ thể, phân tích tổng hợp,
phương pháp so sánh, điều tra xã hội học
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần đánh giá, phân tích làm rõ hơn cơ sở lý luận về
khái niệm, nội dung về hoạt động trợ giúp pháp lý; hình thức trợ giúp pháp lý;
vai trò của trợ giúp pháp lý cho đồng bào thiểu số.
- Luận văn tập trung phân tích đánh giá khách quan, khoa học về trợ
giúp pháp lý cho đồng bào thiểu số. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra quan điểm
và giải pháp để trợ giúp pháp lý cho đồng bào thiểu số ở tỉnh Thanh Hóa ngày
càng đạt kết quả cao.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÖP PHÁP LÝ VÀ TRỢ GIÖP PHÁP LÝ
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ CỦA NƢỚC TA HIỆN NAY
1.1. QUYỀN ĐƢỢC TRỢ GIÖP PHÁP LÝ CỦA CÔNG DÂN TRONG NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN
Ở Việt Nam, kể từ khi giành được độc lập (năm 1945), Đảng và Nhà
nước ta luôn tôn trọng quyền con người. Tuyên ngôn độc lập của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba
Đình, Hà Nội ngày 2/9/1945 được coi là một văn kiện có tính lịch sử trên
phương diện quốc tế về quyền con người. Trên cơ sở đó, quyền con người đã
được ghi nhận trong Hiến pháp nước ta: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm
1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Điều 50 Hiến pháp năm
1992 của nước ta khẳng định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn
trọng và bảo đảm thực hiện" [48]. Gần đây nhất, vấn đề nhân quyền đã được
tiếp tục khẳng định trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: "Chăm lo
cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và
thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết
hoặc tham gia" [21].
Nước ta đang trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì việc bảo vệ quyền con người lại
càng có ý nghĩa to lớn hơn bao giờ hết. Người công dân trong mối quan hệ
với Nhà nước pháp quyền là con người, mà các quyền cơ bản, thiêng liêng
nhất như quyền được sống, quyền bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc,
quyền sở hữu tài sản v.v…, được Nhà nước bảo vệ bằng pháp luật. Nhà nước
cam kết, tôn trọng trên thực tế và bằng pháp luật các quyền, lợi ích hợp pháp,
danh dự và nhân phẩm của công dân. Con người được sống trong công lý và
lẽ phải. Pháp luật là phương tiện để con người đạt tới tự do. Trong Nhà nước
pháp quyền, quyền con người, quyền công dân được xác lập về mặt pháp lý,
tạo cơ sở cho việc xây dựng một xã hội bình đẳng và công bằng. Các quyền
đó được mở rộng và nâng cao bao nhiêu thì quyền hạn Nhà nước bị giới hạn
và bị kiểm soát chặt chẽ bấy nhiêu. Cá nhân được sở hữu tất cả những gì
thuộc về mình. Công dân là cái tối đa, Nhà nước là cái tối thiểu. Nhà nước tối
thiểu là Nhà nước của tự do - với nghĩa rộng khả năng tự trị, hưởng thụ cá
nhân, tham dự vào quyền lực xã hội, không ai bị nô dịch và cũng không áp đặt
ý chí của mình cho người khác. Con người được đặt vào vị trí công dân với
các quyền, nghĩa vụ pháp lý, con người trở thành yếu tố cơ bản nhất của sự
phát triển xã hội. Vì vậy bảo vệ quyền con người, quyền công dân là nghĩa vụ
của nhà nước và của chính cá nhân công dân. Nếu quyền lợi của mọi người
dân được bảo đảm và bảo vệ thì nhà nước đó mới chính là nhà nước mà chúng
ta hướng tới. Đặc biệt là những nhóm người yếu thế trong xã hội thì càng phải
được nhà nước, các tổ chức xã hội quan tâm và bảo vệ hơn nữa; đó là trẻ em,
phụ nữ, người già neo đơn, người khuyết tật, người nghèo, người dân tộc
thiểu số… Đây chính là nhóm người dễ bị tổn thương và quyền lợi hay bị
xâm phạm nhất. Do vậy khi xây dựng nhà nước pháp quyền xã hôi chủ nghĩa
thì quyền được tiếp cận pháp luật, quyền được hưởng dịch vụ pháp luật của
tất cả người dân phải được đáp ứng.
Thực tiễn tư pháp và bảo đảm quyền con người trên thế giới đã cho
thấy, hoạt động trợ giúp pháp lý có tầm quan trọng đặc biệt trong việc bảo
đảm và hiện thực hóa các quyền con người. ở Việt Nam, điều này càng cần
thiết, nhất là trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa mà người nghèo, vùng sâu, vùng xa và đối tượng chính sách
chiếm một tỷ lệ tương đối lớn.
Quyền được trợ giúp pháp lý hay quyền tiếp cận trợ giúp pháp lý là
một quyền cơ bản trong hệ thống quyền con người, là một quyền cụ thể của
quyền tiếp cận tư pháp (hay quyền tiếp cận công lý). Nội hàm của nó là những
yêu sách chính đáng của cá nhân hoặc nhóm người nhất định về việc được
tiếp cận hệ thống dịch vụ và tư vấn pháp lý miễn phí dựa trên quy định của pháp
luật. Quyền được trợ giúp pháp lý khác với hoạt động trợ giúp pháp lý ở chỗ, đó
là phạm trù dùng để chỉ khả năng và năng lực của chủ thể thụ hưởng sự trợ giúp
pháp lý được pháp luật bảo đảm; trong khi đó, hoạt động trợ giúp pháp lý chỉ
hệ thống và cách thức cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý. Chủ thể của quyền
trợ giúp pháp lý là cá nhân. Chủ thể của hoạt động trợ giúp pháp lý là nhà
nước và xã hội. Hoạt động trợ giúp pháp lý có hiệu quả hay không tùy thuộc
vào cơ chế thực thi nó và việc xây dựng các kế hoạch, chương trình hành
động dựa trên quyền và lợi ích của đối tượng thụ hưởng làm xuất phát điểm,
đồng thời làm phương tiện và mục đích cho toàn bộ hoạt động trợ giúp pháp lý.
Quyền tiếp cận tư pháp nói chung và tiếp cận trợ giúp pháp lý nói
riêng được quy định tại một số công ước mà Việt Nam đã phê chuẩn như:
Công ước quốc tế về các quyền dân sự - chính trị năm 1966, Công ước về xóa
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và Công ước quốc tế về quyền
trẻ em.
Quyền được trợ giúp pháp lý được ghi nhận đầy đủ trong hệ thống
pháp luật Việt Nam. Điều 50 của Hiến pháp năm 1992 khẳng định ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được tôn trọng và bảo đảm.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Chương IV về người tham gia tố
tụng có những quy định về bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của công
dân. Chẳng hạn, Khoản 2, Điều 57 của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định
quyền được có người bào chữa; Điều 62 nhấn mạnh rằng cơ quan, người tiến
hành tố tụng có trách nhiệm giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này. Đặc biệt,
Bộ luật Tố tụng hình sự đã có quy định về việc các cơ quan tố tụng cần phải
bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho những đối tượng cụ thể, như người
bị khởi tố, xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được
quy định tại Bộ luật Hình sự, người chưa thành niên, người có nhược điểm về
tâm thần hay thể chất. Chẳng hạn, Khoản 2, Điều 305 của Bộ luật khẳng định:
Trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên
hoặc người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn được người
bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu
Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho
họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành
viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức
mình [50].
Với sự ra đời của Luật trợ giúp pháp lý và Luật Luật sư năm 2006,
quyền tiếp cận trợ giúp pháp lý được nêu trong các công ước quốc tế về quyền
con người mà Việt Nam là thành viên một lần nữa đã được nội luật hóa và
được bảo đảm tương đối đầy đủ trong hệ thống pháp luật quốc gia.
Thêm nữa, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, theo tinh thần
của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị, đã đặc biệt
nhấn mạnh đến việc tăng cường vai trò và chất lượng của hệ thống tư pháp
trong việc bảo đảm quyền con người ở nước ta. Chiến lược này cũng chú
trọng vào việc tăng cường năng lực của cán bộ tư pháp, xây dựng nền tư pháp
độc lập, vững mạnh và nâng cao vai trò của luật sư như là một điều kiện quan
trọng cho việc bảo đảm tốt quyền tiếp cận công lý và trợ giúp pháp lý của
người dân.
Để có thể bảo vệ, bảo đảm quyền lợi của người dân đặc biệt là những
nhóm người dễ bị tổn thương thì nhà nước cần phải có hệ thống pháp luật
toàn diện và đầy đủ. Pháp luật là hệ thống quy phạm pháp luật thể chế hoá
toàng lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân lao động, được
Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc
biệt là phải có những luật, văn bản dưới luật quy định cụ thể và hướng dẫn chi
tiết về tất cả các lĩnh vực để giúp người dân có thể hiểu về quyền lợi và nghĩa
vụ qua đó có thể tự thực hiện nghĩa vụ và tự bảo vệ quyền lợi cho mình. Nếu
như người dân không thể tự bảo vệ mình thì có thể được trợ giúp pháp lý từ
những người có kiến thức về pháp luật, có chuyên môn về luật; đó là những
người thực hiện trợ giúp pháp lý.
Trợ giúp pháp lý nhằm giúp đỡ các đối tượng hiểu rõ nội dung bản
chất các quy phạm pháp luật để họ lựa chọn phương pháp xử sự đúng theo
pháp luật và có lợi.
Trợ giúp pháp lý nhằm cảnh báo họ để họ hiểu biết pháp luật mà
không thực hiện các hành vi trái pháp luật, tránh được các vi phạm pháp luật
và các trách nhiệm pháp lý dẫn đến hậu quả bất lợi cho họ.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÖP PHÁP LÝ
1.2.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý
Khái niệm trợ giúp pháp lý là vấn đề rất quan trọng trong thực hiện
pháp luật. Chính vì vậy, từ khái niệm trợ giúp pháp lý cho ta cơ sở để nghiên
cứu những vấn đề về lý luận cũng như về thực tiễn thực hiện pháp luật trợ
giúp pháp lý.
Khái niệm trợ giúp pháp lý, diễn đạt và vận dụng vào từng lĩnh vực khác
nhau, có cách giải thích khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học,
Nxb Đà Nẵng, 2001, thì khái niệm "trợ giúp" được hiểu là "giúp đỡ" [62, tr.767],
pháp lý tức là "nguyên lý về pháp luật " [62, tr. 1045]. Theo Từ điển Từ và Ngữ
Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Lân, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2005
thì "trợ giúp " là giúp đỡ" như nông dân bị mất mùa do lũ lụt, Nhà nước cấp lúa
giống, con giống cho nông dân để tiếp tục sản xuất không thu tiền [37, tr. 1923],
còn về "pháp lý" là "nguyên lý của pháp luật" [37, tr. 1431]. Theo Đại từ điển
Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý, Nxb Văn hóa - Thông tin, 1998, thì "trợ giúp"
hiểu là "sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem lại cho ai cái gì,
đang lúc khó khăn, đang lúc cần đến", thuật ngữ "pháp lý " được hiểu là lý lẽ,
lẽ phải theo pháp luật, nói một cách khái quát pháp lý là lí luận [63]; theo Từ
điển Luật học, Nxb Tư pháp - Nxb Từ điển Bách khoa, 2006, thì pháp lý:
"những khía cạnh, phương diện khác nhau của đời sống pháp luật của một
quốc gia, "pháp lý" chỉ những lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, giá trị pháp lý bắt
buộc từ một sự việc, hiện tượng xã hội, những nguyên lý, phạm trù, khái niệm
lý luận về pháp luật" [55, tr. 606]. Do vậy, dù là "giúp đỡ", "bảo trợ" hay là
hỗ trợ cũng có thể được hiểu là "trợ giúp". Ở đây trợ giúp được hiểu là sự
giúp đỡ cho ai đó đang gặp khó khăn, nhằm làm giảm bớt khó khăn về một
vấn đề mà họ đang cần, cái họ đang cần ở đây là "pháp lý".
Nghiên cứu một số nước trên thế giới về khái niệm trợ giúp pháp lý
như: Vương quốc Anh, Hà Lan, Thụy Điển, Trung Quốc xét thấy, các nhà
khoa học pháp lý đều lấy lí luận về dân chủ, nhân quyền làm nền tảng, họ đánh
giá trợ giúp pháp lý là một đảm bảo cho công dân có hoàn cảnh khó khăn, không
có điều kiện tiếp cận và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và
chính đáng của mình theo quy định của pháp luật. Mặc dù hình thức diễn đạt
khác nhau về khái niệm trợ giúp pháp lý, nhưng các khái niệm này đều thể hiện
rõ 4 nội dung trợ giúp cơ bản, đó là: pháp lý, kinh tế, xã hội và nhân đạo. Về
kinh tế, giúp đỡ tất cả hoặc một phần tài chính chi trả cho công dân có hoàn cảnh
khó khăn khi tiếp cận với pháp luật và dịch vụ pháp lý thu phí của Luật sư; về
pháp lý giúp đỡ công dân giải quyết các vụ liên quan đến pháp luật đụng chạm
đến quyền, lợi ích thiết thực của họ; tạo ra sự công bằng khi công dân có hoàn
cảnh khó khăn tiếp cận với pháp luật; về xã hội hoạt động trợ giúp pháp lý
mang tính xã hội rộng rãi, thể hiện cụ thể là luôn có sự tham gia đông đảo của
các lực lượng trong xã hội trong việc phổ biến pháp luật, tạo điều kiện cho
người nghèo không ngừng nâng cao nhận thức về pháp luật; về nhân đạo trợ
giúp pháp lý đã thể hiện đậm nét tính nhân đạo và nhân văn sâu sắc.
Ở Việt Nam, thuật ngữ "Trợ giúp pháp lý" chính thức được quy định
trong Quyết định 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc
thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách.
Theo đó thuật ngữ "Trợ giúp pháp lý" xuất hiện phổ biến trên các văn bản
pháp luật, sách báo và tạp chí. Trong quá trình xây dựng "Luật trợ giúp pháp
lý" các nhà khoa học nghiên cứu về trợ giúp pháp lý trên cơ sở tham khảo
khái niệm "trợ giúp pháp lý" của một số nước trên thế giới và các quan niệm
về "trợ giúp pháp lý" ở Việt Nam để đưa ra một số khái niệm về "trợ giúp
pháp lý". Theo đó khái niệm "trợ giúp pháp lý" được hiểu theo nghĩa rộng và
nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, trợ giúp pháp lý được hiểu là việc thực hiện các dịch vụ
pháp lý miễn phí của Nhà nước và xã hội cho người nghèo, người được hưởng
chính sách ưu đãi và một số đối tượng khác do pháp luật quy định. Bằng các
hoạt động tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa, kiến nghị giải quyết vụ việc và
tham gia thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi công
dân bình đẳng trong tiếp cận pháp luật, góp phần thực hiện công bằng xã hội.
Theo nghĩa hẹp, trợ giúp pháp lý được hiểu là việc thực hiện các dịch
vụ pháp lý miễn phí của các tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước cho người
nghèo và người được hưởng chính sách ưu đãi thông qua hình thức tư vấn
pháp luật, đại diện, bào chữa, kiến nghị giải quyết vụ việc và tham gia thực
hiện phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi công dân bình đẳng
trong tiếp cận pháp luật, góp phần thực hiện công bằng xã hội.
Khái niệm "trợ giúp pháp lý" nêu trên đã chỉ rõ mục đích của hoạt
động trợ giúp pháp lý là nhằm hướng tới bảo đảm thực hiện công bằng xã hội,
phù hợp với điều kiện ngân sách Nhà nước phải chi trả cho hoạt động trợ giúp
pháp lý. Tại Điều 3 Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2006 quy
định: Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người
được trợ giúp pháp lý theo quy định của luật này, giúp người được trợ giúp
pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp
luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến,
giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa,
hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật.
Từ phân tích trên, xác định nội dung trợ giúp pháp lý bao gồm:
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý của Trung trâm Trợ
giúp pháp lý nhà nước; tổ chức hành nghề luật sư; tổ chức tư vấn pháp luật và
cá nhân.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý miễn phí, tức là
không thu tiền với các hình thức trợ giúp pháp lý như: Tư vấn pháp lý; làm
văn bản như làm đơn khiếu nại, tố cáo, các văn bản pháp lý khác cho đối
tượng được trợ giúp pháp lý; bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
chính đáng của đối tượng được trợ giúp pháp lý
Thứ ba, đối tượng được trợ giúp pháp lý là người nghèo và đối tượng
chính sách xã hội trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số.
1.2.2. Chủ thể thực hiện và đối tƣợng trợ giúp pháp lý
Trong hoạt động trợ giúp pháp lý những người (cá nhân, tổ chức) theo
chức năng của mình tham gia vào việc hướng dẫn, tư vấn pháp luật, bào chữa,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của đối tượng được trợ giúp
pháp lý… là chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý, những người được hưởng các
dịch vụ tư vấn pháp luật, được bào chữa, được hướng dẫn làm các thủ tục,
giấy tờ liên quan… gọi là (đối tượng).
1.2.2.1. Chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý
Theo Từ điển Tiếng Việt: Chủ thể nói chung được hiểu "là đối tượng
gây ra hành động mang tính tác động trong quan hệ đối lập với đối tượng bị chi
phối bởi hành động tác động, gọi là khách thể" [62, tr. 130]. Vận dụng vào trợ
giúp pháp lý, có thể hiểu chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý là những người hoạt
động tư vấn pháp luật, bào chữa, giúp đỡ thực hiện các hoạt động liên quan tới
pháp luật. Hay nói khác đi thì chủ thể trợ giúp pháp lý được hiểu là tất cả
những người, mà theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội đã tham gia
góp phần vào việc thực hiện các hoạt động trợ giúp pháp lý. Việc xác định chủ
thể, đối tượng trợ giúp pháp lý có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn. Trong mối quan
hệ và sự tác động qua lại giữa chủ thể và đối tượng trợ giúp pháp lý trong quá
trình trợ giúp pháp lý, chủ thể khi tiến hành mọi hoạt động trợ giúp pháp lý
thì sự tác động đó có ý thức, có mục đích, có kế hoạch đến đối tượng được trợ
giúp. Trên cơ sở đó, chủ thể xác định những nhu cầu, khả năng và điều kiện tiếp
nhận pháp luật của đối tượng cũng như các yêu cầu đòi hỏi khách quan đối với
các chủ thể trợ giúp pháp lý trong việc xác định nội dung, hình thức, phương
pháp phù hợp để trợ giúp pháp lý và tiến hành trợ giúp có hiệu quả cao nhất.
Điều 13 Luật trợ giúp pháp lý năm 2006 quy định các tổ chức thực
hiện trợ giúp pháp lý là Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước và các tổ chức
tham gia trợ giúp pháp lý. Trong đó các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý
gồm có: Tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật, thuộc tổ chức
chính trị, xã hội, tổ chức chính trị, xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề
nghiệp thực hiện đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý.
Theo quy định tại Điều 20, Luật trợ giúp pháp lý năm 2006, người
thực hiện trợ giúp pháp lý trợ giúp viên pháp lý và người tham gia trợ giúp
pháp lý là cộng tác viên của Trung tâm; Luật sư, tư vấn viên pháp luật làm
việc trong các tổ chức tư vấn pháp luật thuộc tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức
chính trị, xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp.
Luật trợ giúp pháp lý đã xác định người thực hiện trợ giúp pháp lý
phải đáp ứng đầy đủ những điều kiện, tiêu chuẩn nhất định. Trợ giúp viên
pháp lý theo Điều 21, Luật trợ giúp pháp lý năm 2006 quy định: là công dân
Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có đủ tiêu chuẩn sau đây: có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt; có bằng cử nhân luật; có Chứng
chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý; có thời gian làm công tác pháp luật
từ hai năm trở lên; có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Trợ giúp viên pháp lý là viên chức nhà nước, làm việc tại Trung tâm
trợ giúp pháp lý nhà nước, được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương cấp thẻ Trợ giúp viên pháp lý theo đề nghị của Giám
đốc Sở Tư pháp.
Người tham gia trợ giúp pháp lý bao gồm: cộng tác viên của Trung
tâm trợ giúp pháp lý nhà nước; luật sư; tư vấn viên pháp luật làm việc trong tổ
chức tư vấn pháp luật. Nhận thấy vai trò của người thực hiện trợ giúp pháp lý
nên Luật trợ giúp pháp lý chú trọng xây dựng đội ngũ trợ giúp viên pháp lý và
đội ngũ cộng tác viên, đồng thời huy động các luật sư, tư vấn viên pháp luật
tham gia trợ giúp pháp lý. Đa dạng hóa người thực hiện trợ giúp pháp lý và
phù hợp với nguồn lực hiện có của Việt Nam. Luật Trợ giúp pháp lý đã pháp
điển hóa các quy định pháp luật hiện hành về chế độ cộng tác viên theo hướng
mở rộng thêm những người có bằng đại học khác. Điều 22 Luật Trợ giúp
pháp lý đã quy định: công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, có đủ sức khỏe bảo đảm
hoàn thành nhiệm vụ được giao, tự nguyện tham gia trợ giúp pháp lý mà
không thuộc các trường hợp cấm theo quy định tại Điều 20 Luật Trợ giúp
pháp lý thì được Giám đốc Sở Tư pháp xem xét, công nhận và cấp thẻ cộng
tác viên. Để phù hợp với trình độ chuyên môn, thực hiện việc phân công chủ
thể thực hiện trợ giúp pháp lý căn cứ vào tính chất phức tạp của từng vụ việc,
Luật Trợ giúp pháp lý quy định cộng tác viên không phải là luật sư chỉ tham
gia trợ giúp pháp lý bằng hình thức tư vấn pháp luật.
1.2.2.2. Đối tượng trợ giúp pháp lý
Vấn đề đối tượng của trợ giúp pháp lý có quan hệ chặt chẽ với chủ thể,
bởi lẽ chủ thể khi tiến hành hoạt động trợ giúp pháp lý thì phải xác định đối tượng
là ai, cơ quan, tổ chức hay cá nhân, công dân nào, trình độ, tuổi tác, giới tính, nghề
nghiệp… Trên cơ sở xác định đúng đắn đối tượng cần trợ giúp pháp lý thì chủ
thể mới lựa chọn hình thức và phương pháp thích hợp. Chẳng hạn đối tượng là
đồng bào các dân tộc ít người thì phải trợ giúp thế nào để có hiệu quả cao nhất,
vừa đảm bảo quyền lợi cho họ, vừa giúp họ có những kiến thức pháp luật nhất định.
Theo quy định tại Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và Điều 2
Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý thì người
được trợ giúp pháp lý gồm:
1. Người nghèo.
2. Người có công với cách mạng:
a) Người hoạt động cách mạng trước Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945;
b) Bà mẹ Việt Nam anh hùng;
c) Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; Anh hùng Lao động;
d) Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh;
đ) Bệnh binh;
e) Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học;
g) Người hoạt động cách mạng; người hoạt động kháng chiến bị địch
bắt, tù đày;
h) Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc; bảo vệ Tổ quốc
và làm nghĩa vụ quốc tế;
i) Người có công giúp đỡ cách mạng;
k) Cha, mẹ, vợ, chồng của liệt sỹ; con của liệt sỹ chưa đủ 18 tuổi;
người có công nuôi dưỡng liệt sỹ.
3. Người già được trợ giúp pháp lý quy định tại khoản 3 Điều 10 Luật
Trợ giúp pháp lý là người từ đủ 60 tuổi trở lên sống độc thân hoặc không có
nơi nương tựa.