Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Xây dựng lối sống theo pháp luật trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 118 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN THỊ BÍCH HỒNG






XÂY DỰNG LỐI SỐNG THEO PHÁP LUẬT
TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2011



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ BÍCH HỒNG






XÂY DỰNG LỐI SỐNG THEO PHÁP LUẬT
TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế






HÀ NỘI - 2011


MỤC LỤC



Trang

Lời cam đoan


Trang phụ bìa


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LỐI SỐNG
THEO PHÁP LUẬT
7
1.1.
Khái niệm lối sống nói chung

7
1.2.
Lối sống theo pháp luật
14
1.2.1.
Khái niệm lối sống theo pháp luật
14
1.2.2.
Đặc điểm của lối sống theo pháp luật
16
1.3.
Nội dung của lối sống theo pháp luật
20
1.4.
Các nhân tố ảnh hưởng tới lối sống theo pháp luật
28
1.5.
Các loại lối sống theo các chuẩn mực xã hội khác và mối
quan hệ với lối sống theo pháp luật
32
1.5.1.
Lối sống theo chính trị
32
1.5.2.
Lối sống theo tôn giáo
33
1.5.3.
Lối sống theo đạo đức
35
1.5.4.

Lối sống theo chuẩn mực phong tục, tập quán
37
1.5.5.
Lối sống theo chuẩn mực thẩm mỹ
40

Chương 2: THỰC TRẠNG LỐI SỐNG THEO PHÁP LUẬT TRONG
XÃ HỘI VIỆT NAM
43
2.1.
Quá trình hình thành và phát triển lối sống theo pháp luật ở
Việt Nam
43
2.1.1.
Lối sống theo pháp luật ở Việt Nam trong thời kỳ phong kiến
43
2.1.2.
Khái quát quá trình hình thành và phát triển của lối sống
theo pháp luật ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay
45
2.2.
Thực trạng lối sống theo pháp luật trong xã hội Việt Nam
hiện nay
49
2.2.1.
Thực trạng chung của lối sống theo pháp luật ở Việt Nam
trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và mở cửa, hội nhập quốc tế
49
2.2.2.

Thực trạng của lối sống theo pháp luật ở Việt Nam hiện nay
của một số đối tượng dân cư
56
2.2.2.1.
Thực trạng lối sống theo pháp luật của đội ngũ công chức
56
2.2.2.2.
Thực trạng lối sống theo pháp luật của đội ngũ thanh thiếu niên
60
2.2.2.3.
Thực trạng lối sống theo pháp luật của người dân nông thôn
63
2.3.
Một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng lối sống theo pháp
luật ở Việt Nam hiện nay
66

Chương 3: CÁC QUAN ĐIỂM, BIỆN PHÁP XÂY DỰNG, PHÁT
TRIỂN LỐI SỐNG THEO PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
69
3.1.
Những yêu cầu, định hướng và mục tiêu xây dựng, phát triển
lối sống theo pháp luật trong điều kiện hiện nay của nước ta
69
3.2.
Những điều kiện và môi trường để xây dựng lối sống theo
pháp luật
72
3.2.1.

Về kinh tế
72
3.2.2.
Về chính trị
73
3.2.3.
Về pháp luật
76
3.2.4.
Về giáo dục - văn hóa - lối sống
84
3.3.
Quan điểm, giải pháp xây dựng, phát triển lối sống theo
pháp luật trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam
87
3.3.1.
Một số quan điểm xây dựng, phát triển lối sống theo pháp
luật trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam
87
3.3.2.
Những giải pháp cơ bản xây dựng lối sống theo pháp luật
trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam
87
3.3.2.1.
Những giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt
động xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống
88
3.3.2.2.
Những giải pháp nhằm xây dựng môi trường văn hóa, lối
sống theo tinh thần pháp quyền

100
3.3.2.3.
Giải pháp củng cố và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết một cách căn bản các
yếu tố: Lao động, nghề nghiệp và lợi ích
104
3.3.2.4.
Giải pháp cải cách thể chế chính trị và định hướng giáo dục
tư tưởng, lối sống của Đảng và Nhà nước ta
105

KẾT LUẬN
108

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
111


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
là điều kiện và môi trường tiên quyết của một quốc gia tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và một xã hội phát triển tiên tiến. Một trong những nhiệm
vụ quan trọng nhất của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền là xây dựng
văn hóa pháp lý, trong đó có xây dựng lối sống theo pháp luật trong nhân dân.
Đây là một nhiệm vụ khó khăn và phức tạp, đặc biệt ở nước ta, một nước xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa từ một nền sản xuất nông nghiệp
lạc hậu, tư duy phong kiến còn đè nặng sau 1000 năm Bắc thuộc, trình độ dân

trí quá thấp lại càng khó khăn và phức tạp hơn. Năm 1945, Việt Nam trở
thành một quốc gia có chủ quyền, mở ra một trang sử mới cho dân tộc ta. Đặc
biệt đến năm 1946 khi bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời đã đánh dấu quá trình hình thành hệ thống pháp luật của nước
ta, đồng thời đó cũng chính là cơ sở pháp lý đầu tiên để nhân dân ta xây dựng
lối sống theo pháp luật. Kể từ đó, lối sống theo pháp luật đã có những bước
tiến mới cùng với những thăng trầm của lịch sử.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với những giá trị xã
hội của nền dân chủ ngày càng được củng cố và mở rộng đang đặt ra đòi hỏi
bức xúc là xây dựng lối sống theo pháp luật. Điều 12, Hiến pháp 1992 của
Nhà nước ta quy định: "…Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa", cùng với đó, Nghị quyết Đại
hội lần thứ IX năm 2001 của Đảng nói đến mục tiêu xây dựng con người mới
với lối sống mới, lối sống văn hóa, lành mạnh đã cho thấy việc xây dựng lối
sống theo pháp luật là một vấn đề có tính pháp lý, khách quan. Và hơn nữa
trong xu hướng hội nhập và phát triển toàn cầu ngày nay thì vấn đề hiểu biết

2
về pháp luật, xây dựng lối sống theo pháp luật ở mỗi quốc gia là một vấn đề
hết sức quan trọng và cũng được quan tâm đặc biệt.
Thực tế trong xã hội Việt Nam ngày nay, khi mà nền kinh tế thị
trường bung ra, sự hội nhập với thế giới sâu rộng hơn bao hết thì lối sống của
người Việt Nam nói chung và lối sống theo pháp luật nói riêng có những thay
đổi lớn, bên cạnh lối sống tích cực của một bộ phận người dân thì cũng không
ít những trào lưu sống thực dụng tàn nhẫn, thói quen sinh hoạt xấu, không có
ý thức pháp luật tối thiểu, tư tưởng chống đối pháp luật, tư tưởng lách luật…,
điều này đã gây nên những hiện tượng không đẹp trong xã hội, làm suy giảm
môi trường sống, làm cản trở tiến trình xây dựng một nhà nước pháp quyền,
một nhà nước văn minh, tiên tiến, sánh vai cùng các nước phát triển trên thế
giới. Các trào lưu sống đó diễn biến hết sức phức tạp đòi hỏi phải được xây

dựng lại với những chuẩn mực, những giải pháp hiệu quả thiết thực nhất.
Để có thể hạn chế lối sống tiêu cực, lối sống phạm pháp, để xây dựng
lối sống lành mạnh, lối sống theo chuẩn mực pháp luật và góp phần hoàn
thành nhiệm vụ lịch sử của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền; công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta cần có những chính sách đồng bộ, thiết thực, quyết đoán và những những
biện pháp cấp bách trong việc xây dựng lối sống theo pháp luật ở Việt Nam
hiện nay.
Vì tính chất và ý nghĩa cấp thiết của quá trình xây dựng lối sống theo
pháp luật như trên, tôi đã chọn đề tài "Xây dựng lối sống theo pháp luật
trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam" làm đề tài viết luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu
Cùng với các công trình nghiên cứu khoa học về xây dựng văn hóa
pháp lý thì vấn đề "xây dựng lối sống theo pháp luật" cũng là một trong
những vấn đề được các nhà khoa học, các giảng viên, những người tâm huyết

3
với việc đưa pháp luật vào thực tiễn đời sống quan tâm nghiên cứu. Liên quan
đến đề tài này, từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu có thể nói
đến một số công trình nghiên cứu sau:
- "Xây dựng lối sống theo pháp luật những vấn đề cần quan tâm", của
Lê Vương Long, Tạp chí Luật học, số 4, năm 1997;
- "Tác động của nhân tố phi kinh tế trong đời sống pháp luật ở nước ta",
của GS.TS Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8, năm 2001;
- "Đa dạng hành vi pháp luật và xây dựng môi trường xã hội - pháp lý
cho những hành vi hợp pháp", của GS.TS Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 8, năm 2005;
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Lối sống theo pháp luật ở Việt Nam hiện
nay", của Phí Thị Thanh Tuyền;
- "Xây dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật", của Nguyễn

Khắc Bộ, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10, năm 2006;
- Đề tài khoa học công nghệ cấp nhà nước: "Cơ sở khoa học của việc xây
dựng ý thức và lối sống theo pháp luật", do GS.TS Đào Trí Úc làm chủ nhiệm.
Vấn đề lối sống theo pháp luật cũng được các tác giả nước ngoài quan
tâm nghiên cứu. Chẳng hạn, sách tham khảo "Lối sống - khái niệm, hiện thực,
các vấn đề", Nxb Matsxcơva, 1997 của V.I.Tolstukl (tiếng Nga) bàn về khái
niệm lối sống và các biểu hiện cụ thể của lối sống trong đời sống hiện thực
cũng như các vấn đề đặt ra cần nghiên cứu, giải quyết; sách tham khảo "Lối
sống xã hội chủ nghĩa - Những vấn đề nhà nước pháp luật", Nxb Văn hóa
pháp lý, Matsxcơva 1980 (tiếng Nga) đề cập tới lối sống xã hội chủ nghĩa và
ảnh hưởng của nhà nước và pháp luật tới lối sống.
Các công trình nói trên đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của lối
sống nói chung, trong đó có lối sống theo pháp luật, song chưa có một công
trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về lối sống theo pháp luật ở

4
Việt Nam. Do vậy, việc nghiên cứu lối sống theo pháp luật ở Việt Nam hiện
nay vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện về lý luận cũng như về thực
tiễn một cách toàn diện và đầy đủ hơn.
3. Mục đích, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, qúa trình hình thành lối sống
theo pháp luật, nguyên nhân từ thực tiễn dẫn đến yêu cầu phải xây dựng lối
sống theo pháp luật. Từ đó đưa ra các biện pháp cụ thể cho việc xây dựng lối
sống theo pháp luật của người Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần hoàn thiện và phát triển hơn lý luận
về lối sống theo pháp luật, giúp cho việc giảng dạy về lối sống theo pháp luật
ở Việt Nam được chính xác và khoa học, đầy đủ hơn. Đồng thời kết quả
nghiên cứu còn có tác dụng góp phần xây dựng và hình thành lối sống theo
pháp luật ở cán bộ, nhân dân Việt Nam trong quá trình xây dựng, bảo vệ đất

nước, đặc biệt trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, mở cửa, hội
nhập quốc tế trên các lĩnh vực khác nhau.
Phạm vi nghiên cứu
- Phân tích làm rõ quan niệm, đặc điểm, nội dung của lối sống theo
pháp luật nói chung, lối sống theo pháp luật ở Việt Nam nói riêng; những yếu
tố có ảnh hưởng tới lối sống theo pháp luật; so sánh với các dạng lối sống
theo các chuẩn mực xã hội khác;
- Tìm hiểu khái quát thực trạng lối sống theo pháp luật ở Việt Nam,
trong đó đi sâu tìm hiểu lối sống theo pháp luật của các đối tượng điển hình
trong xã hội;
- Nêu lên các yêu cầu, điều kiện, môi trường để xây dựng lối sống theo
pháp luật, từ đó đề xuất những giải pháp cần thiết, có tính khả thi để xây dựng
và hoàn thiện lối sống theo pháp luật ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.

5
Nhiệm vụ của luận văn
Với mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Cơ sở lý luận về việc xây dựng lối sống theo pháp luật ở nước ta
hiện nay.
- Thực trạng lối sống trong xã hội Việt Nam hiện nay.
- Những biện pháp xây dựng lối sống theo pháp luật của người Việt
Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được triển khai nghiên cứu trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về lối sống và lối sống theo pháp luật. Lý luận và thực
tiễn xây dựng lối sống theo pháp luật trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, đặc biệt là thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, trong điều kiện
xây dựng nền kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân…
Các phương pháp nghiên cứu được chú ý hơn là: Phương pháp phân

tích được dùng để nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến lối sống theo
pháp luật như quan niệm lối sống theo pháp luật, đặc điểm, nội dung… của
lối sống theo pháp luật; phương pháp tổng hợp, phương pháp xã hội học dùng
để khảo sát, đánh giá thực trạng lối sống theo pháp luật của một số đối tượng
và đề xuất các giải pháp xây dựng, hoàn thiện lối sống theo pháp luật ở Việt
Nam hiện nay…
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã tổng hợp, phân tích một cách có hệ thống các vấn đề lý
luận cơ bản về lối sống theo pháp luật, đặc biệt là làm sáng tỏ bản chất của lối
sống nói chung và lối sống theo pháp luật nói riêng, so sánh với các dạng lối
sống khác theo các chuẩn mực xã hội, tìm ra các yếu tố ảnh hưởng tới lối

6
sống theo pháp luật để từ đó có cái nhìn sâu sắc hơn về lối sống theo pháp
luật. Những kết quả nghiên cứu theo hướng này của luận văn góp phần nhất
định cho việc bổ sung và phát triển những vấn đề lý luận về lối sống theo
pháp luật, tạo cơ sở cho việc tiếp tục nghiên cứu lối sống theo pháp luật ở
nước ta.
Qua việc phân tích và đánh giá quá trình hình thành lối sống theo pháp
luật và thực trạng lối sống theo pháp luật ở nước ta hiện nay, luận văn đã tìm
ra những điều kiện và đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng phát triển lối sống
theo pháp luật một cách có hiệu quả trong điều kiện hiện nay của nước ta.
Những kết quả đó có giá trị tham khảo phục vụ cho thực tiễn xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật nhất là quá trình tổ chức và thực hiện pháp luật
trong thực tế ở nước ta. Ngoài ra, luận văn cũng có giá trị là tài liệu tham
khảo phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về lối sống theo pháp luật.

Chương 2: Thực trạng lối sống theo pháp luật trong xã hội Việt Nam.
Chương 3: Các quan điểm, biện pháp xây dựng lối sống theo pháp luật
ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.



7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ LỐI SỐNG THEO PHÁP LUẬT

1.1. Khái niệm lối sống nói chung
Khi nghiên cứu về lối sống theo pháp luật thì chúng ta không thể
không nghiên cứu về lối sống nói chung. Bởi lẽ thông qua việc phân tích các
khía cạnh của lối sống nói chung thì chúng ta mới có thể nhận diện, giải mã
và phân tích những khía cạnh đầy đủ nhất của lối sống theo pháp luật. Tuy
nhiên, nghiên cứu về lối sống con người trước hết và nhất thiết phải bắt đầu từ
cách hiểu, cách định nghĩa về phạm trù "lối sống".
Về mặt ngữ nghĩa trong tiếng Việt, lối sống là một danh từ ghép gồm
"lối" và "sống": "Lối là lề lối, thể thức, kiểu cách, phương thức" [30, tr. 17];
"sống là sinh hoạt, là quá trình hoạt động sinh vật và xã hội của mỗi con
người và xã hội loài người" [30, tr. 17]. Từ hai thuật ngữ trên ghép lại cho
thấy, lối sống được hiểu là thể thức, phương thức, cách thức sinh hoạt, quá
trình hoạt động sống, ứng xử của mỗi con người, cộng đồng hoặc cả xã hội
loài người với nhau trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định của môi
trường sống xung quanh con người.
Hiện nay có rất nhiều công trình của các nhà khoa học Việt Nam và
nước ngoài nghiên cứu về lối sống, tiếp cận đối tượng nghiên cứu dưới góc độ
khác nhau và vì thế đã từng xuất hiện nhiều cách định nghĩa khác nhau về
lối sống.

Định nghĩa của Đôbơrianốp: "Lối sống là sinh hoạt cá nhân, chủ quan
hoá của hệ thống những quan hệ xã hội, của toàn bộ tổng thể những điều kiện
sống, thể hiện trong hoạt động của con người" [11, tr. 213].

8
Định nghĩa của Sôrôkhôva: "Lối sống là toàn bộ những hình thức hoạt
động sinh sống tiêu biểu, là phương thức hoạt động đã được xác định" [12, tr. 12].
Định nghĩa của Daxêpin: "Lối sống là tập hợp những hình thức hoạt
động của con người trong một thể thống nhất với môi trường hoạt động của
xã hội và cá nhân" [12, tr. 13]. Tác giả này còn nêu ra 5 dạng hoạt động của
lối sống là: hoạt động cải tạo, hoạt động định hướng, hoạt động giao tiếp và
hoạt động nghệ thuật.
Gần đây, một số nhà khoa học người Việt Nam cũng nghiên cứu và
đưa ra các định nghĩa với nội hàm và ngoại diên không tương đồng nhau về
lối sống.
Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.06-13 nêu khái quát trong Báo cáo
tổng kết chương trình KX- 06 (1993-1995) như sau:
Lối sống, trong một chừng mực nhất định, là cách ứng xử của
những người cụ thể trước những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của môi
trường sống. Môi trường là cái khách quan quy định, là điều kiện khách
quan trực tiếp tác động và ảnh hưởng đến lối sống của con người,
của các nhóm xã hội và cộng đồng dân cư [Dẫn theo: 15, tr. 45].
Dưới góc độ kinh tế chính trị học thì một số nhà nghiên cứu cho rằng:
"Lối sống được hiểu là phương thức sinh hoạt (tồn tại) trong xã hội của con
người, của các tập đoàn xã hội, các cộng đồng người (gia đình, dân tộc). Các
tầng lớp và các giai cấp, tương ứng với một xã hội nhất định" [26, tr. 253].
Trong tập bài giảng Văn hóa xã hội chủ nghĩa của Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh thì:
Lối sống là một phạm trù xã hội khái quát toàn bộ hoạt động
sống của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân

trong những điều kiện của một hình thái kinh tế xã hội nhất định, và
biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong lao động và hưởng

9
thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong sinh hoạt tinh thần
và văn hóa [1, tr. 211].
Nhà nghiên cứu Thành Lê lại cho rằng:
Nói một cách đơn giản, lối sống nói rõ con người sống như thế
nào, để làm gì, họ làm những gì, cuộc sống của họ chứa đựng những
hành vi nào. Vì thế, về thực chất, lối sống không chỉ bao quát những
điều kiện sống mà là toàn bộ những hình thức hoạt động sống của con
người trong quá trình sản xuất của cải vật chất và tinh thần, cũng
như trong lĩnh vực xã hội - chính trị và gia đình - sinh hoạt [15, tr. 45].
Tất cả các định nghĩa được dẫn ra trên đây, dù hoàn toàn chưa đủ tính
đại diện cao cho hàng trăm định nghĩa về lối sống từng được nêu ra, cũng
phần nào phản ánh được tính chất phức tạp của phạm trù này. Các định nghĩa
đó không khả dĩ và khó có thể được chấp nhận bởi lẽ mỗi định nghĩa thường
được đề xuất từ cách tiếp cận của một môn khoa học nào đó: xã hội học, tâm
lý học, văn hóa học hay triết học… hoặc trong khi một số nhà khoa học này
nhấn mạnh vào bình diện cá nhân của lối sống, thì người khác lại đề cao bình
diện cộng đồng, thậm chí còn có người muốn nêu ra định nghĩa chung cho lối
sống toàn nhân loại (kiểu như "lối sống công nghiệp", "lối sống toàn cầu
hóa"). Nhìn chung các định nghĩa của các nhà nghiên cứu còn thiếu công cụ
tối cần thiết cho công việc hết sức gian nan của mình là nghiên cứu về lối
sống và xu hướng biến đổi lối sống của các nhóm và các cộng đồng người. Và
như vậy, định nghĩa về lối sống còn khá mơ hồ, không ít trường hợp người ta
đã đồng nhất "lối sống" với "thói quen" với "ý thức" hay đồng nhất với "văn
hóa". Nghiên cứu trường hợp điển hình hay đồng nhất, chồng lấn khi phân
tích "lối sống" với "văn hóa" để từ đó chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về
"lối sống".

Có thể khẳng định chắc chắn rằng "lối sống" có liên quan mật thiết với
"văn hóa" và có thể coi "lối sống" như một bộ phận hợp thành của văn hóa,

10
hay là một phương thức tồn tại và biểu hiện của "văn hóa". Tuy nhiên, chúng
ta không nên và không thể đồng nhất hai phạm trù lối sống và văn hóa. Cho
đến nay đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về các phạm trù "văn hóa"
và "lối sống", nhưng dù tiếp cận và định nghĩa các phạm trù trên theo cách
nào thì người ta đều có thể nhận ra có phần chồng lấn, nhưng cũng có phần
không trùng khớp giữa nội hàm và do đó, cả ngoại diên của hai phạm trù trên.
Xin chỉ ra một số phạm vi không trùng khớp giữa nội hàm của hai phạm trù
trên theo một cách chung nhất:
* "Văn hóa" dù định nghĩa theo cách nào thì phạm trù này cũng dùng
để chỉ một thực thể phức hợp mà xét theo chiều thẳng đứng luôn có nhiều cấp
độ, nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó ở "tầng đáy" hay nền tảng của văn hóa
bao giờ cũng là các giá trị và hệ giá trị, còn ở "tầng ngọn" hay "các cấu trúc
thượng tầng" là các hình thức biểu hiện cụ thể của văn hóa, như các biểu
tượng, các hình thức nghệ thuật, các ứng xử văn hóa, trong đó có lối sống của
các cá nhân và các nhóm, các cộng đồng người.
Trong khi đó, "lối sống", dù được định nghĩa theo cách nào, thì phạm
trù này cũng chỉ dùng để chỉ những quá trình hiện thực hóa các giá trị và hệ
giá trị văn hóa trong thực tiễn cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, xét theo chiều
thẳng đứng thì thực thể lối sống không có nhiều tầng lớp và cấp độ như văn
hóa, đồng thời, xét về lý thuyết, chỉ có giá trị và hệ giá trị nào được hiện thực
hóa trong thực tiễn cuộc sống của con người thì mới được coi là chiều sâu văn
hóa của lối sống. Điều này cũng có nghĩa là khi nghiên cứu về lối sống con
người ta bắt buộc phải nghiên cứu các chiều sâu văn hóa của nó, phải khám
phá xem lối sống đó dựa trên hay là sự hiện thực hóa trong thực tiễn của
những giá trị và hệ giá trị nào. Hơn nữa, các giá trị và hệ giá trị lại không bao
giờ đứng độc lập hay tác động đến lối sống một cách đơn lẻ theo những tuyến

tính xác định, mà thường chúng luôn tương tác với nhau, đan xen với nhau và
do đó có những hình thức hiện thực hóa đa dạng và phức hợp. Vì vậy, nghiên

11
cứu về lối sống lại phải nghiên cứu cả các cách ứng xử văn hóa, các chế định
văn hóa và các biểu tượng văn hóa. Đây là những bộ phận hợp thành, những
tầng lớp văn hóa rất gần gũi với lối sống và thậm chí trùng khớp với lối sống,
chính là lối sống. Nhưng dù sao đi nữa thì cũng không thể được quên rằng:
nghiên cứu các chiều sâu văn hóa của lối sống là nhằm để khám phá lối sống,
để hiểu rõ bản chất và xu hướng biến đổi của lối sống, nhưng không được vì
vậy mà đồng nhất hai phạm trù lối sống và văn hóa.
* Khi xét theo chiều ngang thì vấn đề còn trở nên phức tạp hơn. Khi
tiếp cận theo chiều này dường như lối sống hoàn toàn trùng khớp với văn hóa,
bởi lẽ bất cứ hoạt động sống nào của con người cùng là sự hiện thực hóa các
giá trị văn hóa. Tuy nhiên, ở đây có ba điểm cần làm rõ để có thể ít nhiều chỉ
ra cái ranh giới vô hình, mong manh giữa lối sống và văn hóa:
Thứ nhất, hoạt động sống và lối sống của con người chỉ có thể được
hiểu là những khía cạnh chủ quan của văn hóa mà thôi. Những giá trị văn hóa
vật thể và phi vật thể được con người sáng tạo ra từ hàng nghìn năm nay và
được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thì vô cùng phong phú và đa
dạng. Tuy nhiên, không phải tất cả những giá trị đó đều được tiếp nhận theo
những mức độ và phương thức giống nhau, và không phải tất cả chúng đều
được hiện thực hóa như trong cuộc sống thực tiễn cuộc sống của con người.
Vì vậy, chỉ những giá trị nào được con người chấp nhận và đang hiện thực
hóa nó trong cuộc sống mới tạo nên hoạt động sống và góp phần tạo nên lối
sống của con người hiện nay. Những giá trị văn hóa đó và sự hiện thực những
giá trị đó trong hiện tại chính là các khía cạnh chủ quan của văn hóa, và trùng
khớp với hoạt động sống và lối sống. Còn những giá trị văn hóa khác không
được hiện thực hóa thông qua hoạt động sống, thì dù có tồn tại (thông qua tục
ngữ, ca dao, qua tín điều tôn giáo, học thuyết chính trị hay qua các biểu tượng

văn hóa) cũng không thể được coi là bộ phận, một yếu tố của hoạt động sống
hay lối sống. Chúng tồn tại và tạo nên khía cạnh khách quan của văn hóa.

12
Hơn nữa cần chú ý là văn hóa hay lối sống luôn luôn tồn tại gắn với và
được xác định bởi các nhân tố, các nhóm, các cộng đồng người. Vì vậy, có thể
giá trị hay hệ giá trị văn hóa nào đó được hiện thực trong thực tiễn của cá
nhân hay nhóm, cộng đồng này mà lại không được biết đến và hiện thực hóa
trong thực tiễn cuộc sống bởi cá nhân hay cộng đồng người khác. Do đó mà
xét theo bề ngang thì văn hóa và lối sống không phải và không thể lúc nào
cũng trùng khớp với nhau và nhất loạt như nhau đối với tất cả các nhóm và
các cộng đồng người.
Thứ hai, hoạt động sống và lối sống không đồng nhất với nhau. Ở đây
chính là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái đặc thù và cái phổ
biến. Hoạt động sống của con người thì vô cùng phong phú, đa dạng, đa chiều
nhưng chỉ những hoạt động sống nào được diễn ra lặp đi, lặp lại nhiều lần
trong cuộc đời một cá thể thì mới có thể được coi là bộ phận cấu thành nên lối
sống của cá thể ấy. Tương tự, chỉ những hoạt động sống nào lặp đi lặp lại và
phổ biến trong đa số cá thể của một cộng đồng xác định nào đó thì những hoạt
động sống đó mới được coi là yếu tố cấu thành nên lối sống của cộng đồng
đó. Vả lại, lối sống không chủ yếu chỉ là tập hợp các hoạt động sống quen
thuộc của các cộng đồng người mà chủ yếu là những cách thức mà các cộng
đồng người đó tiến hành những hoạt động sống nói trên.
Thứ ba, lối sống chỉ là cái hiện hữu, còn văn hóa thì có tính lịch sử.
Khi nghiên cứu văn hóa của một cộng đồng người nào đó thì thường người ta
phải nghiên cứu toàn bộ nền văn hóa đó trong cả chiều sâu lịch sử của nó. Chỉ
có như vậy người ta mới có thể nắm được những đặc trưng lớn, khám phá
được những hệ giá trị căn bản tạo nên bản sắc của nền văn hóa đó. Trong khi
đó, nghiên cứu về lối sống, tức là nghiên cứu sự hiện thực hóa các giá trị
trong thực tiễn cuộc sống, và do vậy, mối quan tâm của nhà nghiên cứu chủ

yếu là dành cho những cái đang diễn ra, chứ không phải là cho những gì đã
diễn ra, tức là chủ yếu cho thời hiện tại chứ không phải thời quá khứ của hoạt
động sống và lối sống.

13
Từ sự phân tích như trên có thể hiểu lối sống của con người chính là
các khía cạnh chủ quan của văn hóa, là quá trình hiện thực hóa các giá trị văn
hóa thông qua hoạt động sống của con người trong những điều kiện sống xác
định. Đó là cấp độ thứ nhất trong định nghĩa về lối sống.
Ở cấp độ thứ hai, có thể hiểu lối sống là tất cả những hoạt động sống
và phương thức tiến hành các hoạt động sống được một bộ phận lớn hoặc toàn
thể các nhóm, các cộng đồng người chấp nhận và thực hành trong một khoảng
thời gian tương đối ổn định.
Và cuối cùng, như đã nói ở trên, nhà nghiên cứu sẽ không thể hiểu đầy
đủ các khía cạnh văn hóa chủ quan của lối sống nếu tách rời nó khỏi mối
tương tác biện chứng với các khía cạnh khách quan; họ cũng sẽ không thể
khám phá được các hoạt động sống nếu tách rời những hoạt động sống,
phương thức tiến hành những hoạt động ấy khỏi môi trường sống và những
mối liên hệ lịch đại và đồng đại của nó.
Tóm lại, từ cách tiếp cận đa chiều như vậy, chúng ta có thể hiểu về
phạm trù lối sống như sau: Lối sống là một thói quen có định hướng, có chất
lượng lý tưởng. Nó là phương cách thể hiện tổng hợp tất cả các cấu trúc, nền
văn hóa, đặc trưng văn hóa, là các khía cạnh chủ quan của văn hóa, là quá
trình hiện thực hóa các giá trị văn hóa thông qua hoạt động sống của con
người, là một yếu tố xã hội. Nó là tiêu chí đầu tiên, tổng hợp nhất thể hiện
chất lượng văn hóa và trí tuệ của một con người. Và như vậy, lối sống là một
phạm trù xã hội khái quát toàn bộ hoạt động sống của các dân tộc, các giai
cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái
kinh tế - xã hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong
lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa con người với con người, trong

sinh hoạt tinh thần và văn hóa. Lối sống là phức hợp những mẫu hình nhận
thức và hành động biểu hiện như là sự lặp lại, phổ biến, ổn định dưới các dạng
thức hoạt động đặc trưng cho một dân tộc, một quốc gia, một giai cấp, một tập

14
đoàn xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định. Ở đây, những chuẩn mực, giá
trị, những truyền thống, tập quán có tác động hết sức lớn đến phương thức
hoạt động, tư duy, cách ứng xử của con người trong xã hội. Tất cả tạo thành
cơ sở của khuôn mẫu hành vi của mỗi người, mỗi nhóm và tập đoàn người
khác nhau trong xã hội. Nói cách khác, lối sống là tổng thể các nét căn bản
đặc trưng cho hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội trong
những điều kiện xã hội nhất định về mặt lịch sử. Nó là những cách thức, phép
tắc tổ chức và điều khiển đời sống cá nhân, cộng đồng đã được thừa nhận
rộng rãi và trở thành thói quen.
1.2. Lối sống theo pháp luật
1.2.1. Khái niệm lối sống theo pháp luật
Để đưa ra được khái niệm toàn diện về "lối sống theo pháp luật" sau
khi đã có được cái nhìn sâu sắc về "lối sống" như đã phân tích ở phần trên thì
điều hết sức quan trọng nữa là chúng ta phải hiểu thế nào là "pháp luật".
"Pháp luật" là hệ thống các quy tắc xử sự thể hiện ý chí, lợi ích của nhân dân
lao động, do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận), có tính bắt buộc chung,
được nhà nước đảm bảo thực hiện trên cơ sở kết hợp giáo dục, thuyết phục và
cưỡng chế; thu hút sự tham gia tích cực của toàn xã hội vào hoạt động xây
dựng và thực hiện pháp luật, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Tuy nhiên, đưa
ra khái niệm "lối sống theo pháp luật" không có nghĩa là ghép hai phần định
nghĩa về "lối sống" và "pháp luật" với nhau. Mà chúng ta phải đưa ra những
nhận định dưới các góc độ khác nhau để từ đó phân tích làm rõ các khía cạnh
cơ bản nhất của "lối sống theo pháp luật".
Như chúng ta đã biết, lối sống luôn vận hành theo một bảng giá trị xã

hội nào đó, nói cách khác, mỗi loại hình lối sống đều dựa trên các chuẩn mực
nhất định. Các chuẩn mực xã hội mà con người hiện nay theo đuổi rất phong

15
phú, đa dạng và một trong những giá trị xã hội mà con người phấn đấu đạt tới
là các chuẩn mực pháp luật, sự tôn trọng, thực hiện các chuẩn mực pháp luật
một cách nghiêm minh, chính xác, hiệu quả. Khi pháp luật được coi là chuẩn
mực giá trị xã hội cho lối sống của con người trong xã hội thì sống theo pháp
luật được hình thành.
Lập luận này cũng cho thấy lối sống theo pháp luật là phạm trù có tính
xã hội - lịch sử nhất định, nó sẽ chuyển hóa và hoàn thiện dần thành lối sống
cộng đồng khi không còn nhà nước và pháp luật. Lối sống theo pháp luật
được coi là những hành vi thực tế của con người dựa trên cơ sở những chuẩn
mực pháp luật trong các lĩnh vực lao động sản xuất, sinh hoạt tiêu dùng các
giá trị vật chất, tinh thần và các hoạt động chính trị - xã hội khác. Không phải
mọi hành vi xã hội đều phải chịu và được điều chỉnh bằng pháp luật nhưng
mọi hành vi khi có pháp luật điều chỉnh đều được kiểm soát, đánh giá là hợp
pháp hoặc bất hợp pháp. Như vậy, thực chất đòi hỏi của lối sống theo pháp
luật là mong muốn các chủ thể xác lập các hành vi hợp pháp và không xác lập
các hành vi mà pháp luật ngăn cấm hoặc không cho phép trong bất kỳ điều
kiện, hoàn cảnh nào.
Có thể nói, lối sống theo pháp luật được hình thành, tồn tại dựa trên
các chuẩn mực của pháp luật và có tính ổn định, trật tự tương đối. Lối sống
theo pháp luật là một phạm trù xã hội, không có tính định lượng cụ thể mà được
định tính bởi những tiêu chuẩn của pháp luật được quy định trong hệ thống
pháp luật với các nguyên tắc của pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật
được ban hành. Các nguyên tắc và các văn bản pháp luật này sẽ điều chỉnh,
kiểm soát và đánh giá các quan hệ xã hội cũng như các hoạt động xã hội.
Lối sống theo pháp luật là tổng thể các hoạt động xã hội được hình
thành dựa trên các chuẩn mực pháp luật và có tính lặp lại, tái diễn. Xã hội -

một thực thể tập hợp các thành viên trong mối quan hệ đa chiều, tất yếu, vì
vậy lối sống theo pháp luật bao giờ cũng mang tính cá thể - tự nhiên và tính

16
cộng đồng. Lối sống theo pháp luật chi phối lối sống của từng cá nhân. Ngược
lại lối sống của các cá nhân thành viên trong xã hội sẽ làm lối sống theo pháp
luật có hướng biểu hiện đa chiều.
Lối sống theo pháp luật phù hợp với lối sống công nghiệp, giải phóng
năng lực, trí tuệ và khả năng sáng tạo của con người. Trong chủ nghĩa xã hội,
lối sống theo pháp luật là đòi hỏi khách quan xuất phát từ tính tổ chức cao của
một xã hội văn minh, dân chủ, đa dạng hóa các quan hệ xã hội. Sống theo
pháp luật phù hợp với trạng thái pháp chế, là biểu hiện sinh động nhất của
thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay. Xét về mặt bản chất, sống
theo pháp luật không tách rời nội dung củng cố nền dân chủ, tăng cường pháp
chế, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, phát huy quyền lực nhân dân, bảo
đảm công bằng xã hội. Khi nói tới lối sống theo pháp luật, ta thấy có hai loại
chủ thể cơ bản có quan hệ hữu cơ với nhau là con người (cá nhân) và nhà
nước. Con người tiến hành các hoạt động tạo ra nội dung vật chất của lối
sống. Nhà nước ban hành pháp luật tạo lập hành lang pháp lý cho hoạt động
xã hội và kiểm soát đánh giá nó. Con người với tư cách là công dân trong nhà
nước thì sống theo pháp luật là bổn phận, là nghĩa vụ và trách nhiệm.
Tóm lại, lối sống theo pháp luật là một trạng thái mà ở đó các hoạt
động của con người tuân theo chuẩn mực pháp luật, có mục đích trở thành ổn
định và mang đặc điểm riêng. Lối sống theo pháp luật của mỗi con người vừa
mang tính cá nhân và tính xã hội sâu sắc. Lối sống theo pháp luật bị chi phối,
quy định trước tiên bởi chính sách, hệ thống pháp luật, sau đó bị chi phối bởi
thực trạng kinh tế, xã hội, ý thức hệ giai cấp, nhu cầu của con người, phong
tục, truyền thống dân tộc…
1.2.2. Đặc điểm của lối sống theo pháp luật
Lối sống theo pháp luật có những đặc điểm cơ bản là:

- Luôn bộc lộ thông qua hành vi của cá nhân, hoạt động của cộng đồng
và được đo bằng chuẩn mực giá trị xã hội là các quy định pháp luật. Hành vi

17
của con người rất đa dạng thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau từ sản xuất, lao
động, tiêu dùng, sinh hoạt, các hoạt động riêng tư… Mỗi cộng đồng, mỗi cá
nhân, thường hướng tới những giá trị nhất định trong đó pháp luật được coi là
chuẩn mực xã hội quan trọng nhất, được cả cộng đồng, cũng như mỗi thành
viên trong xã hội thừa nhận và hướng tới;
- Lối sống theo pháp luật không chỉ tuân theo các quy phạm pháp luật
hiện hành mà nó còn được định hướng theo các nguyên tắc và tinh thần của
pháp luật, đó là:
Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nguyên tắc
này đòi hỏi nội dung của pháp luật cũng như hoạt động tổ chức thực hiện, áp
dụng pháp luật phải thể hiện tính toàn quyền nhân dân, quán triệt tư tưởng
nhân dân là chủ thể cao nhất của quyền lực nhà nước.
Nguyên tắc xã hội chủ nghĩa: Pháp luật xã hội chủ nghĩa phải thể hiện
các phương diện của nền dân chủ như mở rộng quyền tự do, dân chủ cho công
dân; định ra những hình thức và biện pháp hữu hiệu để nhân dân tham gia
quản lý các công việc của nhà nước; trừng trị nghiêm khắc những hành vi vi
phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân.
Nguyên tắc nhân đạo: Thể hiện ở chỗ tất cả hệ thống pháp luật phải
thấm nhuần sự quan tâm đối với con người. Con người là trung tâm của mọi
đường lối chính sách và pháp luật.
Nguyên tắc thống nhất giữa các quyền và nghĩa vụ: Nguyên tắc này
xuất phát từ chỗ trong xã hội ta không thừa nhận đặc quyền của bất kỳ ai,
không ai có đặc ân được hưởng nhiều quyền mà lại không phải thực hiện
nghĩa vụ.
Nguyên tắc công bằng: Đây là nguyên tắc bao trùm của pháp luật bởi
pháp luật theo nghĩa chân chính và công lý. Công bằng xã hội là sự công bằng

trong quan hệ của các thành viên xã hội mà tiêu chuẩn cơ bản của nó là lợi ích
của con người.

18
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Nguyên tắc này đòi hỏi mọi
chủ thể đều có trách nhiệm phải đưa những yêu cầu của pháp luật vào thực tế
cuộc sống; phải xử sự phù hợp với pháp luật. Mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật, bất cứ chủ thể nào có hành vi vi phạm pháp luật đều bị truy cứu
trách nhiệm pháp lý.
Nguyên tắc tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và các đạo luật.
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Chỉ khi các hoạt động sống, các hành vi của mỗi cá nhân đều dựa theo
các nguyên tắc trên thì khi đó lối sống theo pháp luật mới thực sự hiện hữu
trong xã hội.
- Lối sống theo pháp luật là một trong những yêu cầu của quá trình
xây dựng nhà nước pháp quyền. Khi nói đến Nhà nước pháp quyền là chúng
ta nói đến một mô hình tổ chức quyền lực hợp lý. Trong đó, nhà nước bị ràng
buộc bởi một hệ thống pháp luật hoàn thiện, được xây dựng trên cơ sở kinh tế,
xã hội phù hợp; Nhà nước pháp quyền phải thực hiện và bảo đảm một cách
hữu hiệu nhất mục tiêu thực hiện quyền con người trong những điều kiện kinh
tế xã hội mà nó đang tồn tại. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
thực chất là làm cho việc tổ chức và hoạt động của nhà nước Việt Nam đáp
ứng những đòi hỏi nhất định đối với một nhà nước của xã hội hiện đại. Đó là
đề cao pháp luật và những giá trị của pháp luật, pháp luật phải có chất lượng,
phải phù hợp với quy luật khách quan, với tiến bộ xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội,
đáp ứng nhu cầu của con người. Mọi tổ chức và cá nhân, đặc biệt là nhà nước
phải thực hiện pháp luật nghiêm minh, chính xác, triệt để. Để xây dựng được
một nhà nước pháp quyền, xã hội chủ nghĩa cần phải đáp ứng được rất nhiều yêu
cầu, trên nhiều phương diện của đời sống. Ngoài những phương diện như kinh
tế, chính trị…thì lối sống theo pháp luật cũng là một yêu cầu rất quan trọng.

- Lối sống theo pháp luật chịu sự quy định bởi phương thức sản xuất
và các điều kiện sống của con người (mặc dù trong cùng một phương thức sản

19
xuất, song lối sống theo pháp luật của mỗi giai cấp có thể có khác nhau). Mỗi
phương thức sản xuất đòi hỏi những chuẩn mực pháp luật khác nhau và lối
sống theo pháp luật cũng có những điểm khác nhau. Ngược lại, lối sống theo
pháp luật cũng có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của kinh tế, nó có thể tác
động tích cực, thúc đẩy tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, song cũng có thể
tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của kinh tế.
- Lối sống theo pháp luật có tính linh hoạt và cơ động cao, lối sống
của mỗi người có đặc trưng riêng về nội dung và hình thức biểu hiện. Lối
sống theo pháp luật luôn thay đổi theo lãnh thổ, theo thời gian và đối với
những chủ thể sống nhất định. Con người và các cộng đồng người luôn có sự
thích nghi nhanh với môi trường và điều kiện sống cụ thể. Lối sống theo pháp
luật cũng luôn có tính mở, luôn có sự giao lưu và tiếp biến giữa các cá nhân,
các cộng đồng, dân tộc…;
- Lối sống theo pháp luật vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội
nên tồn tại lối sống theo pháp luật chung của cả một cộng đồng (quốc gia, dân
tộc, vùng lãnh thổ, khu vực văn hóa, giai cấp, tầng lớp xã hội) tồn tại cả lối
sống theo pháp luật của từng gia đình, mỗi cá nhân. Lối sống theo pháp luật biểu
hiện mối quan hệ biện chứng giữa cái phổ biến với cái đặc thù và cái đơn nhất
theo hệ thống giá trị xã hội mà các chuẩn mực pháp luật giữ vai trò chủ đạo;
- Lối sống theo pháp luật là một biểu hiện của văn hóa, mang tính chất
văn hóa sâu rộng, nó gắn với hệ thống giá trị văn hóa, "lối sống theo đúng
nghĩa và đầy đủ của nó là lối sống có văn hóa hay văn hóa lối sống" [30, tr. 34].
Lối sống theo pháp luật được hình thành và phát triển trên cơ sở các chuẩn
mực pháp luật, biểu hiện thông qua các hoạt động thực hiện và áp dụng pháp
luật, các chuẩn mực pháp luật hình thành và phát triển dần từ chưa hoàn thiện
đến hoàn thiện. Khi các chuẩn mực pháp luật (quy định pháp luật) thay đổi thì

lối sống cũng ít nhiều thay đổi. Đương nhiên trong cuộc sống con người
không chỉ chịu sự tác động của pháp luật, mà còn chịu sự tác động của nhiều

20
yếu tố khác nữa như truyền thống, tập quán, văn hóa…Tuy vậy, các chuẩn
mực pháp luật thường được coi là những chuẩn mực có ưu thế hơn so với các
chuẩn mực xã hội khác, đồng thời cũng là những chuẩn mực có sự phù hợp
khá cao với các chuẩn mực xã hội khác như đạo đức, phong tục tập quán…
trong xã hội hiện tại.
- Lối sống theo pháp luật có tính lịch sử, nó hình thành và phát triển là
cả một quá trình lâu dài. Không phải ngay một lúc mà có được lối sống văn
minh, phù hợp pháp luật, lối sống theo pháp luật hoàn thiện dần một cách có ý
thức của mỗi người dân và của cả cộng đồng. Cùng với thời gian, lối sống
theo pháp luật được lặp đi, lặp lại một cách thường xuyên, hành vi tuân theo
pháp luật của những cá nhân, tập thể, tổ chức, nhóm xã hội, giai cấp và cả xã
hội nói chung dần trở thành thói quen của mỗi người trong xã hội.
Cũng giống như pháp luật, lối sống theo pháp luật vừa mang những
đặc điểm chung của nhân loại vừa mang những đặc điểm riêng của từng quốc
gia, trong từng giai đoạn phát triển. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc có những quan
niệm riêng về cách ứng xử, giải quyết những vấn đề khác nhau của cuộc sống
nên họ thường xây dựng cho mình những quy tắc ứng xử (hệ thống pháp luật)
khác nhau và do vậy, họ xây dựng và phát triển cho mình lối sống theo pháp
luật ít nhiều khác nhau.
1.3. Nội dung của lối sống theo pháp luật
Nội dung của lối sống bao gồm các yếu tố cấu thành như phong cách
tư duy, trạng thái tình cảm, đặc điểm của quan hệ xã hội và thói quen biểu
hiện qua hành vi. Thêm vào đó, hoạt động của con người là hoạt động có mục
đích nên lối sống phụ thuộc vào giá trị xã hội mà con người hướng tới, phụ
thuộc vào sự kết hợp các giá trị vật chất và giá trị tinh thần trong chính bản
thân hoạt động của con người. Nội dung của lối sống theo pháp luật được biểu

hiện trên các mặt sau đây:

×