Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Vai trò của Trưởng thôn trong tham gia quản lý nhà nước ở cơ sở ( qua thực tiễn tỉnh Bắc Kạn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 142 trang )


đại học quốc gia hà nội
khoa luật




l-ờng thị thu hòa





vai trò của tr-ởng thôn
trong tham gia quản lý nhà n-ớc ở cơ sở
(qua thực tiễn tỉnh bắc kạn)





luận văn thạc sĩ luật học







Hà nội - 2011




đại học quốc gia hà nội
khoa luật



l-ờng thị thu hòa




vai trò của tr-ởng thôn
trong tham gia quản lý nhà n-ớc ở cơ sở
(qua thực tiễn tỉnh bắc kạn)

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà n-ớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01


luận văn thạc sĩ luật học



Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hoàng Anh


Hà nội - 2011



1

2

MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN


Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TRƯỞNG THÔN
TRONG THAM GIA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở CƠ SỞ
4
1.1.
Sự ra đời, phát triển của thôn, người đứng đầu thôn ở nước ta qua các
thời kỳ lịch sử

4
1.2.
Thôn và mối quan hệ của thôn với chính quyền cơ sở
13
1.2.1.
Thôn trong mối quan hệ với chính quyền cơ sở
13
1.2.2.
Khái niệm thôn
17
1.2.3.
Đặc trưng của thôn
20
1.2.4.
Vị trí, vai trò của thôn trong quản lý nhà nước ở cơ sở
24
1.2.5.
Xu hướng hiện nay của một số nước trong tổ chức quản lý đơn vị quần
cư ở cơ sở
25
1.3.
Trưởng thôn và vai trò của trưởng thôn trong tham gia quản lý nhà
nước ở cơ sở
31
1.3.1.
Trưởng thôn: Quy chế tổ chức và hoạt động, những vấn đề chung về
trưởng thôn
31
1.3.1.
1.

Nhiệm vụ của trưởng thôn
33
1.3.1.
2
Quyền hạn của trưởng thôn
34
1.3.1.
3.
Phương pháp hoạt động của trưởng thôn
36
1.3.2.
Sự khẳng định vai trò của người đứng đầu thôn trong tham gia quản lý
nhà nước ở cơ sở hiện nay
38
1.3.3.
Các yêu cầu đặt ra đối với trưởng thôn trong thời kỳ đổi mới hiện nay
41

Chương 2: TRƯỞNG THÔN THAM GIA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Ở CƠ SỞ TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY, QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN (QUA VÍ DỤ
Ở TỈNH BẮC KẠN)
44
2.1.
Sự đổi mới và hoàn thiện của pháp luật Việt Nam về thôn và trưởng
thôn trong thời gian gần đây
44
2.2.
Thực tiễn việc tham gia quản lý nhà nước ở cơ sở của trưởng thôn -
qua ví dụ tỉnh Bắc Kạn

61
2.2.1.
Một vài đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Kạn
61
2.2.2.
Vài nét khái quát và pháp luật điều chỉnh về thôn, trưởng thôn trên địa
bàn tỉnh Bắc Kạn
63
2.2.2.
1.
Vài nét khái quát về thôn và trưởng thôn trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn
63
2.2.2.
Pháp luật điều chỉnh vấn đề thôn và trường thôn trên địa bàn tỉnh Bắc
67
3

4

2.
Kạn
2.2.3.
Trưởng thôn tham gia quản lý nhà nước ở cơ: Những thành tựu đạt
được và nguyên nhân
68
2.2.3.
1.
Những đóng góp của đội ngũ trưởng thôn trong tham gia quản lý nhà
nước ở cơ sở trong thời gian qua
68

2.2.3.
2.
Nguyên nhân của các thành tựu trong tham gia quản lý nhà nước của
trưởng thôn ở cơ sở trong thời gian qua
85
2.2.4.
Một số hạn chế và nguyên nhân dẫn tới các hạn chế của đội ngũ trưởng
thôn trong tham gia quản lý nhà nước ở cơ sở
87
2.2.4.
1.
Những hạn chế điển hình của đội ngũ trưởng thôn trong tham gia quản
lý nhà nước ở cơ sở trong thời gian qua
87
2.4.4.
2.
Nguyên nhân dẫn tới hạn chế của trưởng thôn trong tham gia quản lý
nhà nước ở cơ sở trong thời gian qua
92

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA TRƯỞNG THÔN TRONG THAM GIA QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC Ở CƠ SỞ
99
3.1.
Sự cần thiết phát huy vai trò của trưởng thôn trong tham gia quản lý
nhà nước ở cơ sở hiện nay
99
3.1.1.
Yêu cầu về phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
99
3.1.2.
Yêu cầu phát huy vai trò của chính quyền cơ sở
99
3.1.3.
Yêu cầu khắc phục những hạn chế trong thực trạng tham gia quản lý
nhà nước ở cơ sở của đội ngũ trưởng thôn
100
3.2.
Quan điểm, phương hướng và nguyên tắc phát huy vai trò của trưởng
thôn trong tham gia quản lý nhà nước ở cơ sở hiện nay
102
3.3.
Các giải pháp cụ thể nhằm phát huy vai trò của trưởng thôn trong tham
gia quản lý nhà nước ở cơ sở hiện nay
104
3.3.1.
Văn bản pháp luật về trưởng thôn trong tham gia quản lý nhà nước ở
cơ sở
104
3.3.2.
Công tác quy hoạch trưởng thôn
111
3.3.3.
Chính sách, chế độ đối với trưởng thôn
120
3.3.3.
1.
Chế độ phụ cấp

120
3.3.3.
2.
Chế độ bảo hiểm
121
3.3.4.
Chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với trưởng thôn
124
3.3.5.
Công tác quản lý, kiểm tra đối với trưởng thôn
125

KẾT LUẬN
133

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
135

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thôn, làng, xóm, ấp, bản, sóc, play, tổ dân phố (trong luận văn này
xin được gọi chung là thôn) là nơi cộng đồng dân cư bền vững, liên kết chặt
chẽ với nhau trong quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, họ tộc và huyết
thống. Ở nước ta, thôn được hình thành cách đây hàng nghìn năm. Trong thời
kỳ phong kiến và Pháp thuộc, nhà nước ta luôn lấy thôn làm đơn vị hành
chính cấp cơ sở. Hiện nay, thôn không phải là một cấp chính quyền mà là tổ
chức tự quản của cộng đồng dân cư nằm dưới xã, phường, thị trấn. Trưởng
thôn, trưởng bản vừa là người đại diện cho nhân dân của thôn vừa đại diện cho

chính quyền xã đứng ra tổ chức quản lý mọi mặt hoạt động trong thôn mình.
Tỉnh Bắc Kạn (vốn thuộc tỉnh Bắc Thái trước đây - Năm 1997 tách
thành hai tỉnh là Bắc Kạn và Thái Nguyên), do có sự chỉ đạo thống nhất của
tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh nên cấp thôn được phục hồi và kiện
toàn khá sớm. Trong những năm gần đây, UBND tỉnh Bắc Kạn rất quan tâm
đến việc bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước, chế độ đãi ngộ…cho trưởng
thôn để nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ này. Tuy nhiên, do
đặc thù Bắc Kạn là một tỉnh miền núi, số đông cán bộ thôn có trình độ văn
hóa hạn chế, lại bị ảnh hưởng bởi "Lệ làng" nên trong quá trình hoạt động đã
bộc lộ những non kém về khả năng quản lý như: làm việc tùy tiện, không
đúng thẩm quyền, thiếu công khai, dân chủ, cục bộ, bè phái, mất đoàn kết…
Do đó, việc khắc phục những thiếu sót, non kém của đội ngũ trưởng thôn tỉnh
Bắc Kạn, từ đó nâng cao vai trò của trưởng thôn trong tham gia quản lý nhà
nước là một đòi hỏi bức xúc.
Với những lý do trên đây, tôi chọn vấn đề "Vai trò của trưởng thôn
trong tham gia quản lý nhà nước ở cơ sở (Qua thực tiễn tỉnh Bắc Kạn)"
làm đề tài nghiên cứu khoa học của luận văn.

2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thôn và trưởng thôn là vấn đề được Đảng, Nhà nước ta và nhiều nhà
khoa học nghiên cứu. Cho đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về
vấn đề này được công bố dưới dạng các sách chuyên khảo khoa học, các bài
báo, điển hình như sách: Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay do Tiến sĩ
Nguyễn Văn Sáu và Giáo sư Hồ Văn Thông chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội. 2001; sách: Tài liệu bồi dưỡng trưởng thôn về quản lý nhà nước do
Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Mậu chủ biên, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
2010 (tái bản lần thứ hai); Nguyễn Quang Ngọc (2009), Một số vấn đề làng
xã Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội; Phan Đại Doãn (2010), Từ làng
đến nước: một cách tiếp cận lịch sử, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

Các công trình trên đề cập đến các vấn đề ở nhiều khía cạnh khác
nhau của thôn và trưởng thôn, về cả lý luận và thực tiễn. Nhưng cho tới nay,
chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập riêng đến đội ngũ trưởng thôn
dưới góc độ luật Hành chính và đặc biệt nghiên cứu ở địa bàn một tỉnh miền
núi đặc thù như Bắc Kạn.
3. Mục đích nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu đề tài tác giả mong muốn:
Thứ nhất, làm rõ các vấn đề lý luận liên quan tới đội ngũ trưởng thôn,
tổng hợp lại các chế định pháp luật điều chỉnh về hoạt động của trưởng thôn.
Thứ hai, phân tích thực trạng hoạt động hiện hành của đội ngũ trưởng
thôn, đặc biệt nêu ra các vấn đề bất cập (đặt trong bối cảnh một tỉnh miền núi
như Bắc Kạn).
Cuối cùng, nêu một số lý giải và kiến nghị nhằm phát huy vai trò quản lý
của trưởng thôn trong thời kỳ hiện nay, đặc biệt tại các tỉnh miền núi ở nước ta.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Luận văn lấy thôn, trưởng thôn làm đối tượng nghiên cứu và tập trung
giải quyết một số vấn đề sau:

3
- Xem xét hệ thống văn bản pháp luật về thôn, trưởng thôn nói chung
và đặc biệt ở tỉnh Bắc Kạn nói riêng.
- Xem xét thực trạng hoạt động của Trưởng thôn (thông qua địa bàn
nghiên cứu ở tỉnh Bắc Kạn), từ đó nêu ra những đóng góp to lớn của đội ngũ
trưởng thôn trong sự phát triển chung của tỉnh. Đặc biệt, luận văn nêu ra
những nét hạn chế và bất cập của đội ngũ trưởng thôn - so với yêu cầu tham
gia vào quản lý nhà nước ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay, trong địa bàn một
đơn vị miền núi đặc thù.
- Kiến nghị một số biện pháp nhằm tăng cường vai trò của trưởng thôn
trong hoạt động quản lý nhà nước ở cấp cơ sở.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp thu thập tổng hợp tài liệu, phân
tích, so sánh, đánh giá theo phương pháp lịch sử về vai trò của thôn và trưởng
thôn, qua các thời kỳ và đặc biệt trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát kết hợp
với các nguyên lý chung của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng và dựa trên tình hình thực tiễn để giải quyết vấn đề.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, nội dung và kết luận. Phần nội dung bao
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của trưởng thôn trong tham gia
quản lý nhà nước ở cơ sở.
Chương 2: Trưởng thôn tham gia quản lý nhà nước ở cơ sở trong điều
kiện hiện nay: quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn (Qua ví dụ ở tỉnh
Bắc Kạn).
Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của trưởng thôn
trong tham gia quản lý nhà nước ở cơ sở.

4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TRƢỞNG THÔN
TRONG THAM GIA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC Ở CƠ SỞ

1.1. Sự ra đời, phát triển của thôn, ngƣời đứng đầu thôn ở nƣớc ta
qua các thời kỳ lịch sử
Vào thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên (cách đây khoảng 4000 năm), trên
đất nước ta đã diễn ra quá trình tan rã của công xã thị tộc và hình thành nên
công xã nông thôn - đó chính là xuất phát điểm của quá trình hình thành làng
(thôn) Việt.
Mỗi công xã nông thôn bao gồm một số gia đình sống quây quần
trong một khu vực địa lý nhất định và bên cạnh quan hệ địa lý - láng giềng,

quan hệ huyết thống vẫn được bảo tồn và củng cố tạo thành kết cấu làng - họ
rất đặc trưng ở Việt Nam. Người đứng đầu công xã nông thôn là già làng,
trưởng bản - những người đàn ông cao tuổi và có uy tín với nhân dân trong
công xã được hình thành tự phát do mọi người tự suy tôn. Các công việc
chung trong công xã đều thực hiện theo ý của già làng, trưởng bản và họ hoạt
động như một vị thủ lĩnh, trung thành tuyệt đối với lợi ích chung của cộng
đồng. Công xã nông thôn Việt Nam là một loại hình của công xã phương
Đông, trong đó nông nghiệp gắn liền với thủ công nghiệp, làng xóm gắn liền
với ruộng đất, nên tự nó mang tính ổn định rất cao. Tính ổn định cao này đã
hóa thân thành tinh thần công xã, thành truyền thống xóm làng nên nó trở
thành nguồn sức mạnh diệu kỳ của người Việt Nam trong cuộc đọ sức với các
mưu đồ nô dịch và đồng hóa của giặc ngoại xâm trong suốt chiều dài lịch sử
dân tộc. Đến thời kỳ Văn Lang, nhà nước được chia thành các Bộ lạc, đứng
đầu là các Lạc tướng. Mỗi bộ lạc gồm nhiều công xã với người đứng đầu là
các bồ chính (giống như các già làng, trưởng bản ngày nay)- người đại diện
cho công xã nhiều hơn là nhà nước.

5
Có thể nói, thôn ở Việt Nam được hình thành trên cơ sở công xã nông
thôn vào cuối thời kỳ Hùng Vương.
Thời kỳ Bắc thuộc
Nhà nước phong kiến Trung Hoa đã chính thức biến nước ta trở thành
thuộc địa của chúng từ sau thất bại của An Dương Vương vào năm 179 trước
công nguyên. Mặc dù tìm mọi cách vươn xuống tận cơ sở để nắm lấy và sử dụng
làng Việt truyền thống như một công cụ phục vụ cho mưu đồ thống trị và đồng
hóa dân tộc ta nhưng chúng đã không thành công. Tuy từ đầu công nguyên, chế
độ lạc tướng đã bị xóa bỏ và chính quyền đô hộ phương Bắc đã nắm giữ được
cấp huyện, nhưng vẫn không thể khống chế nổi cơ sở hạ tầng của xã hội Việt
Nam là các công xã (thôn ngày nay). Có thể nói lúc bấy giờ, người Việt đã mất
nước nhưng trong thực tế chưa thật sự bị mất công xã. Trong suốt thời kỳ này,

người Việt đã không ngừng bảo tồn và củng cố, biến công xã của mình thành
những pháo đài chống Bắc thuộc, chống đồng hóa, dựa vào công xã và xuất phát
từ đó mà đấu tranh giành lại đất nước. Có thể thấy, công xã nông thôn Việt Nam
với kết cấu bền chặt không những không bị giải thể mà trái lại có mặt còn được
hoàn thiện và phát triển trong nghìn năm chống Bắc thuộc. Đó là việc xóa bỏ bộ
lạc, giữ lại cơ cấu thôn, tăng cường sự cố kết dân tộc, thích ứng với cơ cấu quận,
huyện là một tổ chức có tính chất hành chính - địa vực… Như vậy, công xã nông
thôn của người Việt vẫn giữ được tính tự trị của mình. Đến thời kỳ này, người
đứng đầu các công xã vẫn là các già làng, trưởng bản và nhiều trong số họ đã trở
thành thủ lĩnh của các phong trào đấu tranh giành độc lập, do họ có nhiều mâu
thuẫn với chính quyền đô hộ ngoại bang và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của phong
trào đấu tranh giành độc lập của nhân dân. Có thể nói, trong giai đoạn bấy giờ,
công xã giữ vai trò quyết định trong việc bảo tồn văn hóa, dân tộc Việt Nam.
Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX
Đến khi dân tộc ta giành quyền tự chủ vào đầu thế kỷ X, vai trò của
các công xã lại càng được coi trọng và củng cố. Khúc Thừa Dụ đã xác nhận

6
lại vai trò và truyền thống công xã và thi hành một phương thức bóc lột phù
hợp với trình độ kinh tế - xã hội nước ta lúc đó. Một mặt, chính quyền họ
Khúc bước đầu xác lập quyền sở hữu trên danh nghĩa của Nhà nước đối với
ruộng đất công xã, mặt khác tích cực thi hành chính sách cải cách hành chính,
trong đó có việc biến công xã thành đơn vị hành chính cấp cơ sở của Nhà
nước, gọi là "xã". Khái niệm "làng xã" như một đơn vị tụ cư, đơn vị kinh tế,
đơn vị tín ngưỡng và sinh hoạt văn hóa cộng đồng, đơn vị hành chính cấp cơ
sở như ta hằng quan niệm xưa nay được hình thành trong thời điểm lịch sử
này. Cũng trong buổi đầu của thời kỳ độc lập, khi cấp xã được nhà nước chính
thống hóa trở thành đơn vị hành chính cấp cơ sở ở nông thôn thì cấp thôn
cũng dường như đồng thời xuất hiện, tuy rằng thôn ở đây phải được hiểu là
đơn vị hành chính cấp cơ sở tương đương với xã. Lúc bấy giờ, xuất hiện thêm

một thiết chế tổ chức mới do Nhà nước phong kiến áp đặt là chánh lệnh
trưởng và tá lệnh trưởng cầm đầu các xã (tương đương cấp thôn) nhằm đảm
bảo các nguồn thu thuế, phu và lính.
Qua các triều phong kiến thời Ngô, Đinh, Tiền Lê vẫn duy trì cấp xã
giống như thời họ Khúc. Mối quan hệ giữa nhà nước và công xã nông thôn là
mối quan hệ tương đối dân chủ, người nông dân vừa có nghĩa vụ với chính
công xã mình, vừa có nghĩa vụ với Nhà nước thông qua công xã.
Mãi đến thời Lý, vẫn theo sử cũ, tên thôn mới xuất hiện với tư cách là
một đơn vị tụ cư dưới ấp (mà ấp ở đây là hương ấp). Như thế có nghĩa là thôn
cũng là làng hay chí ít cũng là đơn vị tụ cư tương đương với làng.
Qua các triều Trần - Hồ - Lê, thôn không bị giải thể, song dần dần phụ
thuộc và trở thành đơn vị kinh tế - xã hội cơ sở của Nhà nước phong kiến, vừa
cung cấp lương thực, thực phẩm, lao dịch, binh dịch cho Nhà nước vừa cung
cấp đất đai để Nhà nước ban cho những viên chức của mình. Giai đoạn này,
Nhà nước ban hành nhiều chính sách để kiểm soát các hoạt động của cư dân
như: lập sổ đinh, sổ hộ khẩu, đặt ra các chức quan trong ngạch nhà nước để
nắm thôn. Các viên xã quan (gồm đại tư xã và tiểu tư xã) dưới thời Lý - Trần

7
có trách nhiệm điều tra nắm bắt quân số của thôn rồi báo cáo lên cấp trên.
Còn dưới dưới thời nhà Hồ có các chức Lý trưởng, Giáp thủ. Triều đình
phong kiến cho phép các thôn có quyền tự bầu chọn các chức quan này, họ
đều phải là dân "chính cư", tức là có ít nhất ba đời sinh sống tại thôn đó.
Sau khi chiến thắng quân xâm lược Minh, đến tháng 11 năm 1428 Lê
Lợi tiến hành tổ chức lại làng xã, tùy theo số đinh mà phân thành ba loại xã
cơ bản là lớn, trung bình và nhỏ. Theo cách phân loại này thì những xã loại
vừa và nhỏ trên thực tế chỉ là thôn, trong đó thôn cũng được chia ra thành hai
loại là thôn phụ thuộc xã và thôn độc lập. Các xã quan trên nguyên tắc vẫn là
các viên chức của Nhà nước được cử ra để quản lý làng, xã, nhưng thực tế vào
đầu thời Lê sơ, họ đã là người quản lý trực tiếp từng làng, xã thậm chí là từng

thôn, xóm nhỏ. Với cách tổ chức như vậy, việc quản lý xã, thôn được quy
định cụ thể hơn trên cơ sở quản lý dân đinh chứ không phải là quản lý hộ như
dưới thời Minh thuộc.
Đến năm 1466 Lê Thánh Tông tiến hành cải cách lại bộ máy nhà
nước, trong đó có việc đổi chức xã quan thành xã trưởng và quy định tư cách,
đạo đức, năng lực của xã trưởng cũng như việc bầu xã trưởng rất chặt chẽ.
Vào giữa năm 1490, Lê Thánh Tông lại ban hành thể lệ tách xã cũ, lập
xã mới, lúc bấy giờ, trong xã hội tồn tại phổ biến loại hình một xã có nhiều
thôn phụ thuộc và bên cạnh chức danh xã trưởng cũng đã thấy xuất hiện chức
danh thôn trưởng - người chịu trách nhiệm về vấn đề trị an, tổ chức thu thuế,
đắp dựng mốc giới ruộng đất công tư và là người làm chứng cho chúc thư,
văn khế trong thôn. Điều luật 260 trong Hồng Đức thiện chính thư đã khẳng
định: "nếu làng xã nào có những tục khác lạ thì được phép lập khoán ước
nhưng phải nhờ viên chức nho giả là người đứng tuổi, có đức hạnh, ngay
thẳng giúp cho việc soạn thảo và phải trình lên quan chức các nha môn xem
xét rõ các điều để phê chuẩn hay bác bỏ". Đây là lần đầu tiên trong lịch sử
Việt Nam có điều luật cho phép các làng xã được lập hương ước riêng. Điều

8
luật trên được ban hành là cơ sở xác nhận sự ra đời của loại hình hương ước
với tư cách là một bộ luật thành văn của làng, xã.
Đến thế kỷ XVII, XVIII (Vua Lê, Chúa Trịnh ở đàng ngoài và Chúa
Nguyễn ở Đàng trong), khi mà nhà nước phong kiến trung ương tập quyền
suy yếu, mô hình quản lý tập trung thống nhất không còn hiệu quả, ở nhiều
địa phương, xu hướng thôn trưởng tự ý đặt ra các luật rồi thông qua đó mà
lũng đoạn làng xã, gây bè kéo cánh, tách lập thôn riêng, bất chấp pháp luật
của nhà nước ngày một nhiều. Tình hình đó càng trở nên nghiêm trọng vào
thời kỳ suy yếu của chế độ phong kiến khi Nhà nước hoàn toàn bất lực trong
việc quản lý các xã trưởng, bỏ mặc cho bọn cường hào hoành hành, gây ra
muôn vàn tệ nạn ở thôn. Dưới thời Cảnh Trị, vua Lê Huyền Tông phải định

lại việc bầu xã trưởng nhằm kiểm tra chặt chẽ hơn người lãnh đạo làng, xã:
"chọn các con em nhà lương thiện là Xã trưởng để dạy bảo xã dân hữu biết lễ
nghĩa". Đến năm 1726, vua Lê Dụ Tông định lại phép khảo công xã trưởng về
nhiệm vụ coi giữ xóm, làng, thu nộp thuế.
Nhà Nguyễn, ngay khi mới bắt tay vào tổ chức vương triều cho tới khi
để đất nước ta rơi vào tay thực dân Pháp, luôn tìm cách giải quyết mối quan
hệ giữa xã và thôn, cũng như khắc phục những mặt hạn chế tiêu cực của
người đứng đầu đại diện các xã, thôn ấy. Dưới thời Gia Long, ông đặc biệt đề
cao vai trò của làng, xã trong quốc sách trị nước của mình. Nung nấu ý định
cải tổ làng, xã, song trên thực tế ông vẫn phải thừa nhận tổ chức làng, xã cũ,
vẫn chấp nhận việc bầu xã trưởng và sự tự trị trong phạm vi nhất định của
làng, xã, vẫn xếp các xã trưởng (thậm chí cả thôn trưởng) vào hàng quan chức
với hạng phẩm cấp thấp nhất.
Đến thời Minh Mạng đã có sự cải tổ lại bộ máy quản lý xã, thôn: bỏ
chức xã trưởng và thay vào đó chức lý trưởng và phó lý giúp việc cho lý
trưởng. Những chức danh này phải do dân làng bầu cử, được phủ, huyện xét
kỹ lại và bẩm lên trấn để cấp văn bằng, mộc triện. Mặc dù phải chịu trách

9
nhiệm mọi công việc trong thôn, từ việc binh lương, thuế khóa, phu phen, tạp
dịch đến việc an ninh, xử những vụ kiện cáo lặt vặt, nhưng lý trưởng đến lúc
này lại không được nằm trong hàng quan chức nữa. Đây xét về hình thức là
biện pháp hạn chế quyền hành của lý trưởng, nhưng trong thực tế lại chính là
cơ hội tốt để bọn cường hào đứng sau lý trưởng mà thao túng thôn. Một trong
những cơ sở quan trọng mà bọn cường hào có thể dựa vào đó mà lũng đoạn
chính là sự không đồng nhất của hệ thống quản lý thôn, xã.
Như vậy có thể nói, ngay từ khi mới thoát khỏi ách đô hộ của Trung
Hoa, các chính quyền tự chủ của người Việt lấy làng truyền thống làm đơn vị
hành chính cấp cơ sở của Nhà nước (tức là cấp xã) thì cấp thôn cũng xuất hiện
ở trong các làng, xã đó. Nền độc lập dân tộc đã thúc đẩy quá trình phát triển

về mọi mặt của thôn. Cấp thôn ra đời chính là do nhu cầu quản lý hành chính
của bản thân cấp xã. Nhà nước thông qua xã để quản lý dân làng, nhưng xã
khó có thể làm tốt chức năng quản lý của mình nếu như không thông qua một
cấp trung gian khác là thôn. Thôn vì thế đã trở thành đầu mối giáp nối, gắn
kết và điều hòa hai hệ thống quản lý: hành chính và tự trị, luật pháp và tục lệ,
chính trị và xã hội. Chính quyền quân chủ trung ương Việt Nam luôn chú ý
tới vấn đề tổ chức bộ máy quản lý thôn. Trong đó vấn đề lựa chọn người đứng
đầu được đặt ra thường xuyên như một yếu tố quyết định sự ổn định của thôn.
Một mặt, đảm bảo cho nhân dân có cuộc sống bình yên, mặt khác tạo điều
kiện thuận lợi để nhà nước trung ương có thể thu được đầy đủ các khoản tô
thuế, binh dịch và lao dịch mà thôn phải đóng góp theo nghĩa vụ.
Thời kỳ thực dân Pháp đô hộ nước ta.
Tháng 9 năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta và sau gần 100
năm đô hộ, chính quyền thực dân vẫn phải chấp nhận cơ chế truyền thống của
thôn Việt Nam. Chúng đã thực hiện nhiều cuộc "cải lương hương chính" với
mục đích xóa bỏ hương ước và loại bỏ tính tự trị - tự quản của thôn nhưng
không thành công. Chính quyền thực dân Pháp chuyển sang thực hiện kiểm

10
soát, giám sát việc thành lập bộ máy quản lý thôn, coi đó là những "nước cộng
hòa nhỏ" và định ra mức cống nạp. Chúng duy trì tổ chức thôn cổ truyền qua
hệ thống quản lý ở đây bằng cách thực hiện "viên chức hóa" các chức dịch, kỳ
hào để kiểm soát các hoạt động của thôn. Lúc đầu, họ là người đại diện cho thôn
là chính, nhưng sau này do Nhà nước chỉ biết khoán trắng các khoản thu cho Lý
trưởng và thông qua Lý trưởng để quản lý thôn trong khi không có trách
nhiệm đầy đủ với họ nên họ dễ bề nhân danh phép nước để ức hiếp dân làng
và nhân danh thôn để hoãn thi hành việc nước. Đồng thời, chính quyền đô hộ
quản lý bằng cách đưa pháp luật của chúng vào hương ước của thôn.
Trong thời kỳ này, thôn là lực lượng chính góp sức vào công cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc. Nhiều thôn chống lại chính sách cai trị của thực dân

Pháp dưới nhiều hình thức khác nhau và cho đến khi Đảng cộng sản Đông
Dương ra đời, các thôn đó lại trở thành những cơ sở cho Đảng gây dựng lực
lượng chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Tám và phong trào cách mạng
sau này.
Sau Cách mạng tháng Tám
Đảng và Nhà nước ta chủ trương duy trì và củng cố hoạt động của
thôn, phát huy ưu thế của cộng đồng này để xây dựng các đoàn thể quần
chúng và hỗ trợ chính quyền địa phương trong việc động viên nhân dân tăng
gia sản xuất, thanh toán nạn mù chữ và chống giặc ngoại xâm. Sau cuộc bầu
cử Hội đồng nhân dân xã vào tháng 4 năm 1946, nhà nước bỏ cấp tổng, nhiều
thôn làng cũ có quan hệ về nguồn gốc lịch sử, văn hóa, có sự gần gũi về địa
vực cư trú, sự gắn bó tự nhiên về kinh tế, xã hội…bắt đầu được sáp nhập
thành những xã tương đối lớn. Do phạm vi quản lý của chính quyền xã lúc đó
quá rộng nên vai trò và tác dụng của thôn được đề cao, phát huy tốt và tồn tại
cho đến những năm cuối của cuộc kháng chiến. Về người đứng đầu thôn
trong thời kỳ này, mỗi thôn có một trưởng thôn (nhiều nơi gọi là ủy nhiệm
hành chính thôn); ở Nam Bộ có ấp gọi là trưởng ấp; ở miền núi có bản gọi là

11
trưởng bản. Trưởng thôn thường là người đứng tuổi, được nhân dân bầu và
Ủy ban hành chính xã cử, là người đại diện cho nhân dân địa phương mình,
đồng thời cũng là người thay mặt chính quyền xã chăm lo công việc hành
chính của thôn theo đúng pháp luật của Nhà nước và tập tục của thôn.
Ở Miền Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954
Chính quyền Ngô Đình Diệm đã quyết định xóa bỏ Hội đồng hương
chính là mô hình xã, ấp của chính quyền thân Pháp trước, xóa sạch cơ chế địa
phương tự trị còn lại và xây dựng mới toàn bộ hệ thống chính quyền ở nông
thôn nhằm đảm bảo sự quản lý, can thiệp chính thức của chính quyền trung
ương vào các làng, ấp. Chúng tăng cường xây dựng cấp thôn ấp, đặt ra chức
vụ ấp trưởng phụ trách chung và ấp phó phụ trách an ninh. Chúng còn cho lập

các "khu trù mật", "ấp chiến lược" phát triển tổ chức "ngũ gia liên bảo" nhằm
can thiệp sâu hơn nữa vào các thôn, ấp ở Miền Nam, gây xáo trộn trong cơ
cấu thôn truyền thống.
Trong thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp cho tới khi đất nước thống nhất

Sau cải cách ruộng đất và hợp tác hóa nông nghiệp (1955-1956), đã có
sự thay đổi cách quản lý thôn. Thôn ở miền Bắc được tổ chức phù hợp với các
đơn vị sản xuất, mỗi thôn là một hợp tác xã (HTX), HTX lại được chia thành
các đội sản xuất theo các xóm nhỏ. Thời gian này, các Ban quản trị HTX đã
thay thế dần toàn bộ máy tự quản của làng, xã. Theo đó, một đơn vị kinh tế
HTX kiêm cả chức năng quản lý các mặt sản xuất, văn hóa, xã hội trên địa
bàn, hoạt động theo sự điều hành của Ban quản trị HTX. Trước tình hình đó,
ngày 9-5-1962 Chính phủ ra Thông tri 61/CP về cải tiến tổ chức, sửa đổi lề lối
làm việc của cơ quan cấp xã và công văn số 30/CV ngày 25-2-1962 của Bộ
Nội vụ quy định bỏ chức danh trưởng thôn, trưởng xóm, sắp xếp ủy viên Ủy
ban hành chính xã phụ trách thôn, xóm thông qua đội trưởng sản xuất. Do
HTX phát triển lên quy mô toàn thôn, có một số ít lên quy mô toàn xã, mọi
công việc của chính quyền xã đưa về thôn, xóm đều do Ủy viên Ủy ban hành

12
chính xã phụ trách thôn, xóm đôn đốc giải quyết nên chức danh trưởng thôn,
xóm không còn cần thiết nữa, cơ chế quản lý thôn như trước đây coi như bị
giải thể. Tuy thế, một số yếu tố của thôn truyền thống cũng không dễ dàng
biến mất ngay. Một phần, vì bản tính bền chặt của nó đã được thử thách qua
thời gian, mặt khác, ngay trong mô hình HTX nông nghiệp, thôn, làng ít nhiều
vẫn giữ lại cái bóng một đơn vị kinh tế nông nghiệp công điền, độc canh với
cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém, một đơn vị tụ cư và phần nào là một đơn vị
văn hóa xã hội trong quy mô đội sản xuất.
Khi mô hình tập thể hóa nông nghiệp được đẩy lên đỉnh cao thì cuộc
sống vật chất và tinh thần của người nông dân khắp nông thôn miền Bắc cũng

đang dấn sâu vào cảnh nghèo nàn đơn điệu. Cá biệt một số xã có điều kiện tốt
để thừa hưởng và biết khai thác những giá trị truyền thống trong tổ chức quản
lý thôn, làng trước đây nên họ phần nào khắc phục được những vướng mắc
của cơ chế và vẫn có những bước tiến. Nhìn chung các xã này vẫn giữ được
nhịp độ phát triển và trở thành những điển hình về quản lý kinh tế - xã hội.
Thời kỳ đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Sau khi có Chỉ thị 100 của Ban Bí thư khóa IV tháng 1-1981, đặc biệt
là sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khóa VI ban hành ngày 5-4-1988 về
khoán sản phẩm trong nông nghiệp nông nghiệp, các HTX đã thực hiện chế
độ khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động và hộ gia đình được coi là
một đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ. Lúc này, tư cách tự quản của HTX đã có
nhiều biến đổi, vai trò của đội sản xuất và HTX đã không còn như trước nữa.
Công việc trong thôn nảy sinh nhu cầu hình thành tổ chức tự quản địa phương
bên cạnh tổ chức HTX hoạt động theo Luật HTX mới ban hành. Việc khôi
phục hoạt động tự quản tách biệt với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh
của đơn vị kinh tế trở thành yêu cầu khách quan, tất yếu trong các thôn. Các hoạt
động của thôn thời gian này đã dần trở lại theo quỹ đạo của nó. Việc tái lập chức
danh trưởng thôn, việc xây dựng Hương ước của các thôn đã có tác dụng tích

13
cực, là bước tiến đổi mới thể chế quản lý kinh tế - xã hội, đưa thôn Việt Nam
trở lại đúng vị trí là "cánh tay với dài" của chính quyền cơ sở. Trong thời gian
qua, các trưởng thôn đã phát huy tác dụng ngày càng rõ rệt trong quản lý cộng
đồng dân cư trên địa bàn; động viên nhân dân thực hiện các nghĩa vụ và
quyền lợi chính đáng của mình, hỗ trợ đắc lực cho chính quyền xã.
1.2. Thôn và mối quan hệ của thôn với chính quyền cơ sở
1.2.1. Thôn trong mối quan hệ với chính quyền cơ sở
"Chính quyền địa phương" là khái niệm được phái sinh từ khái niệm
hệ thống các cơ quan nhà nước ở địa phương, được sử dụng khá phổ biến
trong các văn bản pháp luật của nhà nước. Hiểu một cách khá chung chung,

thì đó là một thiết chế quyền lực nhà nước được xây dựng trên một phạm vi
lãnh thổ nhất định của quốc gia, nhằm tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước
và chức năng cai trị.
Theo quy định của Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, chính quyền địa phương được tổ chức ở 3
cấp tương ứng đối với các đơn vị hành chính sau đây:
Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh).
1. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện)
2. Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã)
Như vậy, chính quyền địa phương ở nước ta là một bộ phận hợp thành
của chính quyền Nhà nước thống nhất của nhân dân, bao gồm các cơ quan đại
diện quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương trực tiếp bầu
ra Hội đồng nhân dân (HĐND), các bộ phận giúp HĐND thực hiện các chức
năng ra nghị quyết, giám sát như: thường trực HĐND, các ban của HĐND…
Và Ủy ban nhân dân (UBND) là cơ quan chấp hành của HĐND, là cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương, thực hiện hoạt động quản lý nhà

14
nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội trong phạm vi lãnh thổ nhất định,
được thành lập trên cơ sở các cơ quan đại diện quyền lực nhà nước theo quy
định của pháp luật. Ở các cấp hành chính có các cơ quan chuyên môn: Sở,
phòng, ban giúp UBND thực hiện nhiệm vụ quản lý.
Ngoài ra, người ta còn hay sử dụng khái niệm chính quyền địa phương
cấp cơ sở (hay còn gọi là chính quyền cơ sở) để chỉ chính quyền gần dân nhất,
quản lý đơn vị hành chính nhỏ nhất trong hệ thống hành chính địa phương 3
cấp ở nước ta, đó chính là chính quyền cấp xã. Nghị quyết hội nghị lần thứ 5
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa IX đã chỉ rõ:
Cấp cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân
dân cư trú sinh sống. Hệ thống chính trị cơ sở có vai trò rất quan
trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối,

chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, tăng cường đại đoàn
kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân, huy động mọi khả
năng phát triển kinh tế - xã hội tổ chức cộng đồng dân cư [17].
Chính quyền cấp cơ sở là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân địa phương, trực tiếp tổ chức thực hiện đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và các quyết
định, chỉ thị của cơ quan nhà nước cấp trên. Vì vậy, chính quyền cấp cơ sở
phải thực sự trong sạch, vững mạnh, phải thể hiện đúng bản chất Nhà nước
Việt Nam: của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trên thực tế, trong quá
trình hoạt động của mình, chứ không chỉ thể hiện bản chất nhà nước về lý
thuyết. Mọi chủ trương, quyết định quản lý hành chính do chính quyền cấp cơ
sở ban hành phải phù hợp với pháp luật, phù hợp với ý chí và nguyện vọng
của nhân dân, đáp ứng được các yêu cầu, nhu cầu chính đáng, hợp pháp, hợp
lý của nhân dân. Vì vậy, chính quyền cấp cơ sở phải thực sự gắn bó mật thiết
với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát, kiểm tra của nhân dân với
phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".

15
Để thực hiện tốt các vấn đề trên đây, dưới phường, xã, thị trấn đã
thành lập tổ dân phố, ấp, thôn, làng, bản, buôn, sóc, phum (dưới đây gọi tắt là
thôn). Tổ chức này là hệ thống "chân rết" giúp chính quyền cấp cơ sở thực
hiện đúng và có hiệu quả công tác quản lý hành chính nhà nước ở địa phương.
Đảng và Nhà nước ta đã xác định vị trí pháp lý của các tổ chức này trong các
văn bản cấp nhà nước, khẳng định sự tồn tại và hoạt động của thôn là tất yếu,
không thể thiếu trong quá trình hoạt động của chính quyền cơ sở. Đó là hình
thức tổ chức dưới phường, xã, thị trấn, tập hợp một số hộ liền kề trên cùng
một địa bàn dân cư với quy mô hợp lý do nhân dân thành lập dưới sự hướng
dẫn, công nhận và quản lý của UBND cấp xã, phường, thị trấn.
Như vậy, thôn không phải là cơ quan nhà nước, không phải là một cấp
hành chính mà là một tổ chức mang tính tự quản, là cầu nối giữa UBND cấp

cơ sở với từng hộ dân, người dân, giúp UBND thực hiện có hiệu quả công tác
quản lý Nhà nước ở địa phương.
Thôn còn gọi là làng, một cách phổ biến, thôn, làng là những phân thể
của xã, trừ một số rất ít ngoại lệ còn di tồn mô hình "nhất thôn (làng) nhất
xã". Xã do đó là một tập hợp của các thôn. Nếu xã là một không gian lớn,
định hình, nó cố định với vị thế của một cấp quản lý hành chính, thì thôn là
một khái niệm rất năng động, nó cũng là một thực thể, một bản thể nhưng sinh
động hơn nhiều, ít tính chất quan liêu, hành chính hóa hơn nhiều so với xã.
Thôn, làng gắn bó máu thịt với từng người dân ở nông thôn, kể cả
người dân ở đô thị, trong tận chiều sâu tâm lý, tiềm thức của mỗi người. Thôn
biểu đạt một ý nghĩa kép. Với sắc thái quản lý, nói đúng hơn là khi thôn nhận
quản lý của xã thì gọi là thôn. Thôn, theo đó mang ý nghĩa của lối định danh
hành chính. Song mặt khác và đây là chủ yếu, thôn là một cộng đồng dân cư
vừa theo địa vực vừa có cả tính huyết thống. Thôn là tự quản cộng đồng, đây
là thuộc tính điển hình về chức năng, vai trò của thôn. Thôn có đời sống riêng
của nó, của sự gắn kết cộng đồng tự nhiên và bền vững trong lịch sử. Đó là
cộng đồng xã hội mà cũng là một cộng đồng văn hóa.

16
Xã và thôn đều có chung vị trí, vai trò của cơ sở nhưng xã và thôn là
những dạng cơ sở có chức năng, vị thế khác nhau. Xã là cấp cơ sở của quản lý
hành chính nhà nước. Chính quyền xã là hình ảnh đại diện của Nhà nước, của
Chính phủ ở cơ sở, tức là ở xã. Chức năng, quyền hạn quản lý đó thể hiện trên
phạm vi xã, do đó quyền quản lý của xã xuống tận thôn, xóm ở tất cả mọi
ngõ, mọi nhà, mọi hộ gia đình. Xã có quyền chỉ thị cho thôn, chỉ đạo thôn, ủy
quyền cho thôn theo chức trách, thẩm quyền nhưng có giới hạn.
Trong khi đó, thôn là một cộng đồng tự quản, không có chức trách,
thẩm quyền quản lý, không phải là một cấp hành chính, không có tư cách
pháp nhân, không có con dấu. Bộ máy của xã hình thành nên theo Luật tổ
chức chính quyền, theo Hiến pháp và các đạo luật khác của Nhà nước có liên

quan. Bộ máy đó do dân bầu nhưng theo phương thức dân chủ đại diện. Các
thành viên HĐND xã, những đại biểu của dân thay mặt dân bầu ra chủ tịch và
các chức danh trong UBND như là một cơ quan chấp hành của Hội đồng.
Trong khi đó, ở thôn, toàn dân, thực chất là toàn thể các chủ hộ trực tiếp bầu
ra trưởng thôn. Đây là người đại diện cho tinh thần tự quản của dân, cùng với
dân trong thôn tự quản lý công việc của mình. Đó là dân chủ trực tiếp. Thôn
tự quản đồng thời phải thực hiện một số nghĩa vụ quản lý do xã ủy quyền.
Xã quản lý bằng pháp luật, chính sách, chế độ, cơ chế, có bộ máy
hoàn chỉnh, có quyền, và là một cấp ngân sách. Trong khi đó, trưởng thôn
cùng với dân thôn tự quản bằng hương ước như một thỏa ước tập thể, không
được trái pháp luật, phải tuân thủ luật nhưng vẫn có một "không gian quyền
lực" của mình qua hương ước, do dân cùng tự nguyện cho phép, tự nguyện
thực hiện. Xã và các cấp trên cho phép thôn dùng hương ước để tự quản, đồng
thời cũng thông qua hương ước mà quản lý thôn. Quản lý không dừng ở xã
mà xuống tới thôn, cũng như tự quản không chỉ diễn ra ở thôn, trong phạm vi
thôn mà còn ở xã nữa, trên những việc, những hoạt động cụ thể. Quản lý
mang tính pháp lý chính thống có cả cưỡng chế, cưỡng bức theo pháp luật, lý

17
trí, trong khi tự quản ở thôn lại dùng thuyết phục, phân công hợp tác tự nguyện
giao lưu, khế ước, tự nguyện theo "tập quán pháp", theo thỏa ước.
Quản lý và tự quản ở xã - thôn và trong thôn - xã không đối lập loại
trừ nhau, không chia cắt nhau mà dựa vào nhau, hỗ trợ, thúc đẩy, chi phối lẫn
nhau. Thôn tự quản theo sợi dây liên kết giữa các chủ thể nhân cách: cá nhân -
chủ hộ - trưởng thôn - trưởng họ - theo những điều khoản của hương ước, quy
ước đồng thời tuân thủ pháp luật. Dư luận xã hội trong cộng đồng thôn là một
sức mạnh điều chỉnh của tự quản cộng đồng. Tự quản còn có sức hỗ trợ của
đạo đức, kinh tế, tâm lý, lối sống.Còn quản lý luôn quy chiếu theo quyền và
nghĩa vụ do luật định, quản lý ứng xử với con người theo luật, theo các thiết
chế, bộ máy, phương tiện, công cụ đã có. Quản lý chặt chẽ, nghiêm minh, có

hiệu lực sẽ tạo ra môi trường, điều kiện để thúc đẩy tự quản. Tự quản hỗ trợ
mạnh mẽ cho quản lý, làm giảm bớt gánh nặng và sự quá tải của quản lý.
Quản lý không thu hẹp, kìm hãm, gò bó, can thiệp vào tự quản nhưng tự quản
cũng không vượt qua quản lý, không coi thường quản lý.
Quản lý kiểm soát tự quản và điều chỉnh những điều tự quản sai trái.
Tự quản cung cấp cho quản lý những thông tin và kết quả để thúc đẩy quản
lý tốt hơn, nhanh hơn và hiệu quả hơn, đồng thời tự quản giám sát quản lý,
tham gia vào quản lý. Đây chính là quan hệ dân chủ và tập trung dân chủ và
kỷ luật, kỷ cương, là quan hệ giữa pháp luật và hương ước, quy chế thôn - xã
hiện nay.
Đó cũng chính là những biểu hiện chủ yếu của sự tác động qua lại
giữa quản lý và tự quản, của quan hệ giữa xã và thôn mà mọi nỗ lực đổi mới
của hệ thống chính trị ở cơ sở hướng tới nhằm thực hiện quyền dân chủ và
làm chủ của nhân dân.
1.2.2. Khái niệm thôn
Theo như tài liệu Bồi dưỡng trưởng thôn về quản lý nhà nước của Học
viện Hành chính Quốc gia do GS.TS Đinh Văn Mậu chủ biên thì:

18
Thôn, ấp là một cộng đồng dân cư gồm nhiều hộ gia đình
cùng chung sống, gắn bó với nhau trên một địa bàn nhất định. Cộng
đồng dân cư này có mối quan hệ liên kết chặt chẽ trong lao động
sản xuất và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần, phòng chống thiên
tai, địch họa, bảo vệ khu vực lãnh thổ địa giới được xác định hoặc
được quy ước. Ngoài sự hình thành theo địa lý tự nhiên, thôn, ấp
còn có mối quan hệ về huyết tộc (dòng họ), về phong tục, tập quán,
truyền thống văn hóa và tôn giáo… [30, tr. 86-87].
Còn tại "Quy chế tổ chức và hoạt động của thôn và tổ dân phố" (Ban
hành kèm theo Quyết định số 13/2002/QĐ-BNV ngày 06 tháng 12 năm 2002
của Bộ trưởng Bộ Nội vụ) khẳng định:

Thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc (gọi chung là thôn);
tổ dân phố, khu phố, khóm (gọi chung là tổ dân phố) không phải là
một cấp hành chính mà là tổ chức tự quản của cộng đồng dân cư,
nơi thực hiện dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi để phát huy các
hình thức hoạt động tự quản và tổ chức nhân dân thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
nhiệm vụ cấp trên giao.
Dưới xã là thôn. Dưới phường, thị trấn là tổ dân phố.
Thôn và tổ dân phố chịu sự quản lý trực tiếp của chính
quyền xã, phường, thị trấn [3].
Như vậy có thể hiểu: Thôn là nơi sinh sống của người dân Việt Nam,
được hình thành một cách tự nhiên do quá trình phát triển của xã hội; là tổ
chức tự quản của cộng đồng dân cư; là đơn vị cấu thành chính quyền cơ sở, là
nơi trực tiếp thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước.
Để hiểu rõ thêm về khái niệm này, cần phân biệt thôn với một số các
thuật ngữ có nội hàm tương tự sau:

19
Làng (hay còn gọi là thôn) là những đơn vị tụ cư sinh sống của một
cộng đồng nông dân Việt Nam (đặc biệt là người Việt - kinh), có khu vực sinh
sống, cơ sở hạ tầng, tục lệ riêng
Bản hay Mường là đơn vị cư trú, đồng thời là đơn vị xã hội cơ sở
duy nhất tồn tại ở các dân tộc Tày, Thái, Mường, tập trung đa số vùng núi
phía Bắc, tương đương với làng của người Việt. Số dân không đồng đều,
thường chỉ tập trung vài ba trăm người với mấy chục nóc nhà và ở rải rác
cách nhau vài km.
Ấp là đơn vị cấu thành chính quyền cơ sở ở các tỉnh phía Nam, tương
đương với làng ở các tỉnh phía Bắc.
Tổ dân phố, khu phố, cụm dân cư là thuật ngữ tương đương làng,

được dùng ở đô thị.
Buôn, hay Plây, hay kon: là đơn vị cư trú của các tộc người thuộc
nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer (như người Mạ, Chil, Cơ Ho ở Lâm Đồng) và
các dân tộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo (như Ê Đê, Gia Rai, Chăm), tập
trung chủ yếu ở Tây Nguyên và dọc Trường Sơn.
Như vậy, thực chất các thuật ngữ trên là một, chúng đồng nghĩa với
nhau, đều chỉ một tổ chức dân cư tự quản nằm dưới chính quyền cấp xã,
nhưng khác nhau trong cách sử dụng ở các vùng miền khác nhau ở nước ta.
Thông thường thuật ngữ làng, bản, phum, sóc… được sử dụng trong ngôn ngữ
hàng ngày, mang nghĩa phổ thông, dân dã, biểu thị sắc thái tình cảm nhiều
hơn. Để thuận tiện trong việc sử dụng người ta đã quy ước gọi chung tất cả
các thuật ngữ trên là thôn (ở nông thôn) và tổ dân phố (ở thành thị) trong các
văn bản hành chính, mang tính chất pháp lý, mang tính khái quát, sử dụng
chung trên phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Trong phạm vi luận văn, tác giả sẽ sử dụng thuật ngữ chung là thôn và
trưởng thôn (ngoại trừ có những vấn đề cần tách biệt thôn và tổ dân phố).

20
1.2.3. Đặc trưng của thôn
Thôn những đặc điểm riêng mà chúng ta cần phải nhận ra để có
phương pháp quản lý phù hợp và tạo những điều kiện thuận lợi về vật chất lẫn
tinh thần để thôn hoạt động mang lại hiệu quả cao nhất:
Thứ nhất, thôn không phải là một cấp hành chính đặt dưới sự quản lý
của UBND xã xét về mặt tổ chức hành chính. Do vậy, quan hệ giữa UBND xã
với thôn là quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với một tổ chức tự
quản của cộng đồng dân cư ở nông thôn, chứ không phải quan hệ giữa cơ
quan hành chính nhà nước với nhau. Vì vậy, trong quá trình hoạt động của
mình UBND xã không được biến thôn thành một cấp quản lý, thành một bộ
phận quản lý của mình.
Thứ hai, thôn không phải là cơ quan nhà nước nên tổ chức và hoạt

động của nó không thể hiện tính chất Nhà nước, tức là không có quyền nhân
danh Nhà nước hay sử dụng quyền lực nhà nước nếu không được ủy quyền
đặc biệt. Nói cách khác, không có quyền ban hành các quyết định quản lý Nhà
nước mang tính cưỡng chế và tính bắt buộc thi hành.
Thứ ba, vì thôn không phải là cơ quan nhà nước, không phải là một
cấp hành chính nên tổ chức của nó rất gọn nhẹ và linh hoạt. Một thôn có một
trưởng thôn và một hoặc hai phó thôn giúp việc cho trưởng thôn.
Thứ tư, thôn có tính cộng đồng. Tính cộng đồng là sự liên kết các
thành viên trong thôn với nhau trên cơ sở các mối quan tâm chung của họ đối
với các vấn đề có liên quan đến đời sống; cuộc sống về kinh tế, văn hóa, xã
hội. Tính cộng đồng đòi hỏi mọi thành viên trong thôn trong quá trình chăm
lo cho lợi ích của bản thân và gia đình mình còn phải chú ý đảm bảo lợi ích
chung của các thành viên khác trong thôn. Sự liên kết giữa các thành viên
trong thôn là sự liên kết của những người cùng cư trú trên một địa bàn liền kề,
gần nhau theo không gian, không phân biệt giới tính, lứa tuổi, tôn giáo, nghề
nghiệp, địa vị, xã hội. Tính cộng đồng của con người Việt Nam được hình

21
thành từ xa xưa theo tập quán, truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam và được duy trì cho đến ngày nay. Tính cộng đồng là nền tảng cho các
quan hệ dân chủ, bình đẳng ở thôn, là cái gốc của "tình làng, nghĩa xóm", "tối
lửa tắt đèn có nhau", là "bán anh em xa mua láng giềng gần".
Tính cộng đồng đem lại cho mỗi cá nhân và cho cả làng xã một sức
mạnh như vậy, tuy nhiên bên cạnh đó nó cũng có tính hạn chế của nó:
Một là, vì quá đề cao tính tập thể nên nó thủ tiêu vai trò của cá nhân.
Cách giải quyết xung đột theo lối "hòa cả làng" là hết sức phổ biến. Điều này
khác hẳn với truyền thống văn hóa phương Tây, nơi con người được rèn luyện
ý thức về cá nhân ngay từ khi còn nhỏ.
Hai là, tính cộng đồng dẫn đến thói quen dựa dẫm của người dân, ỷ lại
vào tập thể, là tư tưởng cầu an và cả nể.

Ba là, tính cộng đồng, khi đứng trước khó khăn lớn nguy cơ đe dọa sự
sống còn của cả cộng đồng thì cái nổi lên sẽ là tinh thần đoàn kết, tính tập thể
(mà chống giặc ngoại xâm bảo vệ tổ quốc, xóm làng là ví dụ điển hình) nhưng
khi nguy cơ ấy qua rồi thì có thể thói tư hữu, óc bè phái cục bộ địa phương lại
nổi lên.
Thứ năm, song hành với sự gắn kết cộng đồng chặt chẽ của cư dân
thôn là tính tự quản. Thôn là một tổ chức có tính tự quản của cộng đồng dân
cư ở nông thôn, tức là người dân trong thôn tự quản với nhau, tự mình quản
lý các công việc của mình mà không cần người khác, tổ chức khác can thiệp
bằng hành vi chỉ huy điều khiển. Tính tự quản được hình thành do yêu cầu
khách quan của cuộc sống cộng đồng trong thôn vì không phải bất kỳ hành
vi nào của con người, bất kỳ quan hệ xã hội nào cũng do pháp luật điều
chỉnh. Ngoài sự điều chỉnh của pháp luật, con người còn tự điều chỉnh hành
vi của mình theo quy phạm tập quán, đạo đức, tôn giáo Tự điều chỉnh
hành vi của mỗi người chính là cơ sở tự quản. thôn tự quản một số công
việc như: tự chăm lo nhu cầu rèn luyện sức khỏe, tự giải quyết những mâu

×