Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.99 KB, 77 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







ĐẶNG THỊ KIM NGÂN








VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM ĐỐI VỚI BỘ MÁY NHÀ NƢỚC








LUẬN VĂN THẠC SĨ











Hà Nội - 2010

2
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM ĐỐI VỚI BỘ MÁY NHÀ NƢỚC
6
1.1.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị và vai
trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy
nhà nước
6
1.2.
Khái niệm, mục đích, tính chất giám sát của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam
13

1.3.
Đối tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
17
1.4.
Nội dung và hình thức giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
19

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA
MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI BỘ MÁY
NHÀ NƢỚC
25
2.1.
Hoạt động giám sát trong việc xây dựng bộ máy nhà nước
25
2.2.
Hoạt động giám sát trong việc xây dựng pháp luật và tổ chức
thi hành chính sách, pháp luật
33
2.3.
Hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
47
2.4.
Hoạt động giám sát đại biểu dân cử, cán bộ công chức nhà nước
54
2.5.
Đánh giá thực trạng vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đối với bộ máy nhà nước
62

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG

CƢỜNG VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ
QUỐC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
66
3.1.
Sự cần thiết tăng cường vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đối với bộ máy nhà nước
66
3.2.
Phương hướng tăng cường vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đối với bộ máy nhà nước
69
3.3.
Giải pháp cụ thể nhằm tăng cường vai trò giám sát của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước
73
3.1.1
Cải tiến giám sát việc thành lập cơ quan nhà nước
73
3.3.2.
Cải tiến giám sát việc xây dựng pháp luật và thực thi chính sách
pháp luật
75
3.3.3.
Tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong giám sát việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo
83
3.3.4.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong giám sát đại
biểu dân cử, cán bộ công chức nhà nước
87

3.3.5.
Một số biện pháp khác
88

KẾT LUẬN
103

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
105

3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Là một bộ phận trong hệ thống chính trị của nước ta, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam có vai trò quan trọng trong việc phát huy truyền thống đoàn kết toàn
dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước
tích cực chăm lo, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân. Tổ chức và hoạt
động của Mặt trận chính là một trong những phương thức thực thi quyền lực
chính trị của nhân dân lao động, là một kênh quan trọng trong việc thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Qua thực tiễn 20 năm đổi mới của đất nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã
tích cực đổi mới phương thức hoạt động của mình, tiếp tục làm tốt vai trò là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, xứng đáng là cầu nối giữa nhân dân
với Đảng và Nhà nước, thực sự là nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng của các
tầng lớp nhân dân; thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới mà trước hết là nhiệm vụ tham gia
xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, góp phần làm cho bộ máy nhà
nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Trong nhiệm vụ tham gia xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền nhân dân
thì nhiệm vụ quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát nhân dân

đối với bộ máy nhà nước.
Trước yêu cầu đổi mới của toàn bộ hệ thống chính trị, nhằm đáp ứng yêu cầu
của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; đặc biệt là
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi, bổ sung năm 2001); thì việc tìm hiểu, nghiên cứu về vai trò giám sát
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước là thực sự cần thiết,
rất có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn cho thấy những đóng góp to lớn của Mặt
trận đối với việc xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân.
Thật vậy, quyền giám sát của Mặt trận được chính thức ghi nhận tại điều 9
Hiến pháp năm 1992, đó là: “Mặt trận Tổ quốc giám sát hoạt động của cơ
quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức nhà nước”. Thực hiện
quyền giám sát cũng đồng thời là trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
do Nhà nước quy định. Thực hiện tốt quyền và trách nhiệm này chính là góp
phần củng cố và bảo vệ chính quyền nhân dân, củng cố và bảo vệ Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thể hiện
tiếng nói của nhân dân. Nhân dân ngoài việc thực hiện quyền giám sát trực
tiếp hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước, còn
thông qua Mặt trận và các đoàn thể để thực hiện quyền giám sát của mình.
Sau Hiến pháp 1992, trong nhiều văn bản pháp luật, trong đó có Luật Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Nhà nước đã từng bước thể chế hoá quyền giám sát của
Mặt trận trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, việc thể chế hoá quyền giám sát của

4
Mặt trận đối với bộ máy nhà nước còn thiếu nhiều văn bản và chưa cụ thể,
đầy đủ. Mặt khác, cơ chế giám sát chưa được cụ thể hoá đối với từng đối
tượng và lĩnh vực giám sát nên quá trình thực hiện rất khó khăn, hiệu quả
thấp.
Từ cơ sở pháp lý cũng như thực tiễn về công tác giám sát của Mặt trận, tác giả
đề ra những giải pháp khả thi nhằm tăng cường hơn nữa vai trò giám sát của

Mặt trận Tổ quốc các cấp, góp phần xây dựng chính quyền ngày càng trong
sạch, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thực sự là chính quyền của dân, do dân
và vì dân. Từ những lý do nêu trên và với tâm huyết của mình, tôi quyết định
chọn đề tài: Vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy
nhà nước để làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mặc dù vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong từng lĩnh vực cụ thể như
bầu cử đại biểu Quốc hội hoặc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, hoặc ở
lĩnh vực Mặt trận tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân đã
trở thành đối tượng nghiên cứu của một số công trình khoa học riêng biệt
hoặc trong phạm vi tổng thể chung của một số công trình. Về hoạt động tham
gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân thì có khá nhiều các công
trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các luận án tiến sỹ, thạc sỹ đã nghiên
cứu, như: công trình Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị- xã hội ở nước ta hiện nay do Thang Văn Phúc
và Nguyễn Minh Phương chủ biên, HN. 2007; Đề tài khoa học cấp bộ "Những
căn cứ lý luận và thực tiễn sửa đổi Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam" do Giáo
sư Lưu Văn Đạt làm chủ nhiệm đề tài, HN. 7/2009 "Chuyên đề: Phát huy vai
trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động giám sát và phản biện xã
hội góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh do Nguyễn
Văn Pha là chủ nhiệm, HN. 8/2009; Luân văn thạc sỹ luật học “ Vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân
dân trong giai đoạn hiện nay” của Phạm Thu Hương do PGS.TS Bùi Xuân
Đức hướng dẫn…
Đối với vai trò giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cần thiết được nghiên cứu một cách tổng thể, trực tiếp riêng
biệt và chuyên sâu. Đặc biệt, trước yêu cầu của việc đổi mới hệ thống chính
trị trong đó có đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và yêu cầu của thực tiễn đời sống chính trị xã hội đặt ra; thì việc tìm hiểu,
nghiên cứu một cách có hệ thống về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

trong việc giám sát bộ máy nhà nước là hết sức cần thiết; có giá trị về lý luận
và thực tiễn cao.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích khoa học là: Làm rõ cơ sở lý luận cũng như thực trạng vai trò
giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước, từ đó

5
đánh giá đúng và nghiêm túc về vai trò, ví trí của Mặt trận trong công tác
giám sát bộ máy nhà nước và đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa
vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu về vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối
với bộ máy nhà nước thông qua một số nội dung, lĩnh vực hoạt động chính
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Trong luận văn này, tác giả chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu vai trò giám sát của
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay
(tức là trong giai đoạn đổi mới), đặc biệt là từ khi có Hiến pháp năm 1992 và Luật
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999 đến nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Luận giải hệ thống lý luận về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối
với bộ máy nhà nước.
- Phân tích thực trạng vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đánh
giá những mặt được, chưa được của hoạt động giám sát trên thực tế. Từ đó rút
ra nguyên nhân, kinh nghiệm thực tiễn và những vấn đề cần đưa ra giải pháp
để hoàn thiện, nhằm tăng cường vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc trong
thời gian tới.
- Đề xuất những chủ trương, giải pháp nhằm tăng cường vai trò giám sát của
Mặt trận Tổ quốc đối với bộ máy nhà nước, đáp ứng nhiệm vụ, yêu cầu trong
tình hình mới.

6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là một trong những công trình nghiên cứu một cách tương đối hệ
thống, chuyên sâu về vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với
bộ máy nhà nước.
- Luận văn cũng góp phần đánh giá thực trạng công tác giám sát của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước trong những năm gần đây.
- Luận văn đưa ra một số kiến nghị về phương hướng và giải pháp chủ yếu về
pháp lý, cơ chế, chính sách, phương thức hoạt động nhằm thúc đẩy vai trò
giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước; từ đó là
cơ sở đảm bảo cho công tác giám sát có hiệu quả, góp phần tăng cường hiệu
quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng là phương pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, luật học, phân tích - tổng hợp, logíc - lịch sử, so
sánh, đối chiếu để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu.
Ngoài ra, trong khi nghiên cứu, tác giả còn sử dụng phương pháp khai thác và
sử dụng các tư liệu qua thực tiễn công tác để hoàn chỉnh luận văn.
8. Nguồn tài liệu của luận văn

6
- Các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Ban cấp hành trung ương Đảng, Bộ
Chính trị và Ban Bí thư trung ương Đảng cộng sản Việt Nam từ Đại hội VI
đến Đại hội X.
- Hiến pháp, Luật thanh tra, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các văn bản
quy phạm pháp luật khác có liên quan.
- Các báo cáo về công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Qua một số sách báo, các bài viết của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, của các học giả, nhà khoa học, nhà nghiên cứu .v.v.
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò giám sát của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước.
Chương 2: Thực trạng vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối
với bộ máy nhà nước.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp tăng cường vai trò giám sát của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.


























7
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁM SÁT
CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
ĐỐI VỚI BỘ MÁY NHÀ NƢỚC

1.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị và vai trò giám
sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nƣớc
1.1.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị
Ngày 18 tháng 11 năm 1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam đã ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh – hình thức tổ chức đầu tiên
của Mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp lực lượng nhân dân làm cách mạng giải
phóng dân tộc. Từ đó đến nay, trong lịch sử cách mạng Việt Nam suốt chặng đường
80 năm không bao giờ vắng bóng tổ chức Mặt trận.
Trải qua các thời kỳ cách mạng, với những hình thức tổ chức và tên gọi khác
nhau, Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam không ngừng lớn mạnh, đã có
những đóng góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc, là một trong những
nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là một hình thức tổ chức của Mặt trận Dân tộc thống nhất trong giai
đoạn hiện nay.
Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về công tác Mặt trận trong thời
kỳ phát triển đất nước, tháng 6 năm 1999 Quốc hội đã thông qua Luật Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam. Vị trí, vai trò, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức hoạt
động, mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các thành viên trong
hệ thống chính trị, quyền và trách nhiệm của Mặt trận, những bảo đảm để Mặt
trận hoạt động được quy định trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là
những vấn đề cơ bản về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay.
Tại khoản 1, Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định: “Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức
chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu
biểu trong các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người
Việt Nam định cư ở nước ngoài”[17]. Là một tổ chức liên minh chính trị, hệ
thống tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được tổ chức theo hệ thống tổ
chức của Đảng và theo cấp hành chính của Nhà nước: trung ương, cấp tỉnh,
cấp huyện, cấp xã. Ở mỗi cấp hành chính có Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, dưới cấp xã có Ban công tác Mặt trận ở cộng đồng dân cư (thôn, làng,
ấp bản, khu phố). Mục tiêu chung của tổ chức liên minh chính trị này trong
giai đoạn cách mạng hiện nay là đại đoàn kết toàn dân, giữ vững độc lập
thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm đưa nước
ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được quy định tại khoản 2, điều
1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận

8
của hệ thống chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất
hành động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền
quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh” [17].
Theo Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/8/1999, Hội nghị lần thứ bảy Ban
chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, thì hệ thống chính trị nước ta bao
gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Theo quy định tại khoản 2 điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hoà xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, sự quy định này xuất phát từ thực tiễn và yêu cầu
khách quan của sự nghiệp cách mạng, xuất phát từ thể chế chính trị: Việt Nam
ta là nước dân chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Đây còn là vấn đề lịch
sử, vấn đề truyền thống từ khi có Đảng cộng sản là có Mặt trận. Sau khi giành
được chính quyền, Đảng, chính quyền, Mặt trận là những bộ phận hợp thành
hệ thống chính trị. Tuy vai trò, vị trí, chức năng và phương thức hoạt động có
khác nhau nhưng đều có công cụ để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân và cùng có chung một mục đích là phấn đấu xây dựng một nước
Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, có vị trí xứng
đáng trên trường quốc tế.
Vị trí của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị được quy định rõ: Với
Đảng, Mặt trận Tổ quốc do Đảng lãnh đạo; với chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; với các đoàn thể
nhân dân, Mặt trận là nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của
các thành viên.
Mặt trận Tổ quốc được coi là một bộ phận cấu thành và có vai trò quan trọng
trong hệ thống chính trị Việt Nam, điều này phản ánh tính đặc thù, riêng biệt,
thể hiện tính sáng tạo, đặc sắc của cách mạng và đời sống chính trị xã hội
nước ta. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không phải tự Mặt trận
khẳng định mà do chính nhân dân và lịch sử thừa nhận; đã được thể hiện
trong nhiều văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Trong hệ thống chính trị nước ta, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò to lớn
trong việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, là trung tâm
trong việc đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp, các giới, các tôn giáo .v.v. ở cả
trong và ngoài nước, góp phần tạo nên sự đồng thuận trong xã hội. Mặt trận là
nơi trực tiếp để nhân dân phản ánh tâm tư, nguyện vọng của mình, là cầu nối
giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Đồng thời, Mặt trận còn tích cực tuyên
truyền và động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, hăng hái tham gia các

9

phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động cách mạng nhằm thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đề ra.
Đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò quan trọng. Ngay từ
khi chưa có chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận đã đảm nhiệm
một số chức năng của chính quyền (như Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Dân tộc
giải phóng miền Nam trước đây). Khi cách mạng thành công và chính quyền
ra đời, với tư cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; nên Mặt trận
có vai trò to lớn trong việc tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân
dân, như: xây dựng, bảo vệ và giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, đại
biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước; tham gia xây dựng và tuyên
truyền pháp luật; tiếp dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân;
tham gia một số quan hệ tố tụng, tuyển chọn Thẩm phán, giới thiệu Hội thẩm
nhân dân, tuyển chọn Kiểm sát viên; tham gia thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở; tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân để phản ánh với Nhà
nước; tham gia công tác đặc xá .v.v.
Để quản lý đất nước và xã hội, Nhà nước phải xây dựng và tổ chức thực hiện
pháp luật. Muốn cho pháp luật đi vào thực tế cuộc sống, thì một nhiệm vụ
quan trọng là phải tổ chức tuyên truyền để cho nhân dân - là người trực tiếp
thực hiện pháp luật của nhà nước hiểu và thực hiện đúng các quy định của
pháp luật. Do có cơ sở xã hội rộng lớn, nên Mặt trận có vai trò quan trọng trong
việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân; động viên nhân dân thực
hiện nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật do Nhà nước ban hành.
Nhà nước và Mặt trận đều là thành viên của hệ thống chính trị. Tuy chức
năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động có khác nhau, nhưng đều là các
công cụ, các "kênh" để nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm chủ của
mình. Nhà nước và Mặt trận đều có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của nhân dân. Vì vậy, việc phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước với Mặt
trận để thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và
pháp luật là một yêu cầu tất yếu. Mọi chủ trương, chính sách và pháp luật
cũng như các hoạt động của nhà nước, nếu nhận được sự tham gia, ủng hộ của

Mặt trận sẽ là nhân tố quan trọng để thực hiện thành công.
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, Đảng ta luôn coi trọng vai trò
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tập hợp, xây dựng phát huy sức
mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tham gia xây dựng và củng cố chính
quyền nhân dân, trong đó có vai trò giám sát, Nghị quyết Đại hội X của Đảng
nêu rõ "Hoạt động của Đảng và Nhà nước phải chịu sự giám sát của nhân
dân"[6]. Giám sát bộ máy nhà nước vừa là quyền, vừa là nhiệm vụ quan trọng
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Thực hiện tốt quyền và trách nhiệm này
chính là góp phần củng cố và bảo vệ chính quyền nhân dân, củng cố và bảo vệ
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam thể hiện tiếng nói của nhân dân, nhân dân thực hiện quyền giám sát trực

10
tiếp hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước, đồng
thời, nhân dân còn thông qua Mặt trận và các đoàn thể để thực hiện quyền
giám sát của mình.
1.1.2. Vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà
nước
1.1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giám sát nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nước ta là dân chủ; bao nhiêu lợi ích đều vì
dân; bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách
nhiệm của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra,
đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân.
Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh không nói trực tiếp về quyền giám sát của
nhân dân đối với chính quyền. Song, Người đã khẳng định hệ thống chính
quyền từ xã đến trung ương đều do dân cử ra, tức là chính quyền của nhân
dân, bao gồm những người có đức, có tài được nhân dân cử ra để đại diện cho
mình thực thi quyền lực của nhân dân, nếu người đại diện đó không còn xứng
đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì nhân dân có quyền bãi nhiệm. Nhưng

để phát hiện được những người đại diện cho mình thực thi quyền lực không
còn xứng đáng nữa (không đủ tư cách đại diện) thì nhân dân phải theo dõi
hoạt động của họ để xem xét việc bãi nhiệm. Như vậy, thực chất đã là hoạt
động giám sát của nhân đối với hoạt động của chính quyền, của cán bộ
chính quyền.
Từ sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta không chỉ nhấn mạnh
nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân tham gia
xây dựng chính quyền nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội,
mà còn nêu rõ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên có nhiệm
vụ giám sát và bảo vệ Nhà nước, đó là: "cải cách bộ máy nhà nước còn bao
hàm một nội dung quan trọng là tăng cương mối quan hệ mật thiết giữa Nhà
nước với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và các đoàn
thể tham xây dựng, quản lý, giám sát và bảo vệ Nhà nước. Nhà nước dựa vào
Mặt trận và các đoàn thể để phát huy quyền làm chủ và sức mạnh có tổ chức
của nhân dân. Đó cũng chính là sức mạnh của bản thân Nhà nước"[2].
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX đều nhấn mạnh
nhiệm vụ giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đặc biệt Nghị quyết Đại
hội X của Đảng đặt ra yêu cầu cụ thể hơn đó là "Nhà nước ban hành cơ chế
để mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản
biện xã hội”; "xây dựng Qui chế Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định
đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức
thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ”, "hoạt động của Đảng và
Nhà nước phải chịu sự giám sát của nhân dân" [6].

11
Như vậy, đến Đại hội X của Đảng thì Đảng ta không chỉ khẳng định nhiệm vụ
giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với hoạt động của cơ quan nhà
nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước mà còn giám sát đối với
hoạt động của tổ chức, đảng viên trong việc thực hiện chủ trương, đường lối

chính sách và quyết định của Đảng, kể công tác tổ chức và cán bộ.
1.1.2.2. Cơ sở pháp lý về vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Điều 9 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát
huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân, tham gia xây dựng và củng cố chính
quyền nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh
thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước,
đại biểu dân cư và cán bộ, viên chức nhà nước" [14].
- Điều 12 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định "hoạt động giám sát của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công
tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước, nhằm góp phần xây dựng và
bảo vệ Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch vững mạnh,
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân
dân”[17].
Thực hiện tốt quyền và trách nhiệm này chính là góp phần củng cố và bảo vệ
chính quyền nhân dân, củng cố và bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thể hiện tiếng nói của nhân dân,
nhân dân thực hiện quyền giám sát trực tiếp hoạt động của các cơ quan nhà
nước, cán bộ, viên chức nhà nước, còn thông qua Mặt trận và các đoàn thể để
thực hiện quyền giám sát của mình.
Sau Hiến pháp năm 1992, trong nhiều văn bản pháp luật như Luật khiếu nại,
tố cáo; Luật phòng, chống tham nhũng; Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí và nhiều đạo luật, pháp lệnh khác có liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân; đến tổ chức bộ máy nhà nước; đến quyền và trách nhiệm
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều dành riêng một chương hoặc một điều để
quy định về nhiệm vụ giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Như vậy có
thể nói Nhà nước đã từng thể chế hoá quyền giám sát của Mặt trận trên nhiều
lĩnh vực.
1.2 Khái niệm, mục đích, tính chất giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam.

1.2.1 Khái niệm giám sát
Giám sát là một hoạt động đặc biệt quan trọng của bộ máy nhà nước và cả hệ
thống chính trị. Chức năng giám sát của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống
chính trị của nước ta có thể được hiểu như là một trong những chức năng,
nhiệm vụ quan trọng trong quá trình thực thi quyền lực chính trị của nhân
dân; nhằm làm cho các đối tượng chịu sự giám sát thực hiện đúng yêu cầu,
mục đích, quy trình, quy định .v.v. mà các chủ thể quyền lực đã đề ra. Như

12
vậy, giám sát không chỉ đơn thuần là một sự quan sát thụ động, mà giám sát là
hoạt động mang tính chủ động của tổ chức, con người trong mối quan hệ với
đối tượng cần giám sát.
Về mặt khái niệm, hiện nay trong nhiều văn bản của Đảng, pháp luật Nhà
nước đã sử dụng thuật ngữ giám sát, nhưng giám sát là gì còn nhiều ý kiến
khác nhau. Từ điển tiếng Việt năm 1995 của Viện ngôn ngữ học nêu khái
niệm “giám sát là theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy
định không?”[33], từ điển tiếng Nga “giám sát là một nhóm hoặc một tổ chức
để theo dõi người, việc nào đấy”.
Qua việc sử dụng thuật ngữ giám sát trong cuộc sống hàng ngày và
những quy định trong các văn bản của Nhà nước, của các tổ chức chính trị,
chính trị - xã hội, một số nhà khoa học đưa ra khái niệm giám sát như sau:
“Giám sát là theo dõi, quan sát hành động mang tính chủ động, thường
xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động để buộc và hướng hoạt động của đối
tượng chịu sự giám sát đi vào đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục
đích, hiệu quả đã được xác định”.
Ở một số nước phương Tây, ví dụ như Anh, Pháp, Mỹ, Đức họ chỉ có một chế
định giám sát của công quyền, giám sát theo nghĩa chung là một hoạt động
chủ động phòng ngừa, tích cực theo dõi với một sự quan tâm sâu sắc một hoạt
động hay một người nào đó vì quyền ích của người đó, hoặc nhằm bảo vệ
những quyền ích khác hữu quan.

Giám sát không chỉ đơn thuần là sự quan sát một cách thụ động, mà giám sát
là sự chủ động của cá nhân, tổ chức, cộng đồng người trong mối quan hệ với
đối tượng giám sát.
Trong cuốn Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội X của
Đảng Cộng Sản Việt Nam nêu ra như sau: “Giám sát là theo dõi, kiểm tra,
phát hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức, cộng đồng người đối với cá nhân,
tổ chức, cộng đồng khác trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội, trong
việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, đường lối, quan điểm của Đảng, chính
sách của Nhà nước, các quyền lợi, nghĩa vụ của công dân, của các tổ chức
chính trị xã hội và kiến nghị phát huy ưu điểm, thành tựu, xử lý đối với cá
nhân, tổ chức có những hành vi sai trái”[7].
Vậy, có thể định nghĩa: "Giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang
tính chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện
pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi
vào đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác
định từ trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh".
Qua những khái niệm trên có thể nhận thấy, quá trình thực hiện chức năng giám
sát bao gồm ba giai đoạn: giai đoạn xác nhận, tức là xác định trạng thái thực tế
của vụ việc; giai đoạn phân tích, tức là đối chiếu tình trạng thực tế đã được đưa
ra và đánh giá các sai lệch đã có; giai đoạn soạn thảo các biện pháp nhằm cải

13
thiện và chỉnh sửa quá trình quản lý, đưa ra các biện pháp để thực hiện chúng.
Việc phân tích khái niệm sẽ cho ta thấy cơ cấu bên trong của chức năng giám
sát, giúp chúng ta làm sáng tỏ một cách sâu sắc hơn nội dung, chức năng giám
sát.
Tuy cách diễn đạt có thể không đồng nhất, những giám sát đều có một số đặc
trưng chủ yếu sau đây:
- Giám sát là hành vi của chủ thể biểu hiện qua theo dõi, quan sát, xem xét,
nhận định về việc làm của đối tượng bị giám sát.

- Giám sát mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục.
- Sự tác động qua lại giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát có mối quan
hệ pháp lý, gắn với quyền và trách nhiệm của mỗi bên.
Đối với việc giám sát bộ máy nhà nước thì giám sát là điều kiện, tiền đề cần thiết
của việc củng cố kỷ luật, kỷ cương, pháp chế, trật tự và tính có tổ chức của việc
bảo vệ các quyền, tự do của công dân trong quá trình hoạt động của Nhà nước
nói chung, của các bộ phận cấu thành nó nói riêng – hoạt động của cơ quan đại
diện quyền lực, hoạt động của cơ quan chấp hành - điều hành, hoạt động của các
cơ quan tư pháp trong đời sống xã hội.
- Giám sát là một trong những thành phần của sự quản lý có cơ sở khoa học đối
với các công việc của Nhà nước và xã hội, đảm bảo cho sự vận hành không bị
ngắt đoạn của cơ chế quản lý xã hội. Bản chất của chức năng giám sát với tư
cách một bộ phận riêng biệt tương đối của hoạt động quản lý thể hiện ở việc làm
sáng tỏ sự phù hợp với hoạt động của cơ quan này hay cơ quan khác, của người
này hay người khác với các nhiệm vụ đã được đặt ra đối với các cơ quan và
những người đó, của các kết quả tác động của các chủ thể quản lý đối với các
khách thể bị quản lý, làm sáng tỏ các sai lệch khỏi các mục đích đã được đặt ra
và các phương thức đạt được các mục đích đó, cũng như các nguyên nhân của
chúng.
- Tạo tiền đề cho sự hiểu biết sâu sắc và cản trở sự hoạt động tối ưu của hệ
thống, là chất xúc tác cho việc nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý. Với tư
cách là chức năng quản lý xã hội, giám sát là hoạt động tổ chức tích cực mang
tính sáng tạo, nội dung, hình thức và phương pháp của nó thường xuyên được
hoàn thiện.
Ở nước ta có các loại chủ thể cơ bản thực hiện giám sát đối với hoạt động
của các cơ quan thực thi quyền lực gồm: Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị,
các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, tập thể lao động và công dân với tư
cách là người riêng biệt. Dựa vào các chủ thể nói trên, có thể phân giám sát
thành: giám sát của Nhà nước, giám sát của các tổ chức chính trị, của các tổ chức
chính trị xã hội, của các tổ chức xã hội, giám sát của tập thể lao động, giám sát

do công dân trực tiếp thực hiện.
Giám sát do các cơ quan nhà nước thực hiện đối với tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước được gọi là giám sát Nhà nước; giám sát do các tổ chức chính trị,

14
tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội và công dân trực tiếp thực hiện được gọi
là giám sát của xã hội hoặc giám sát của nhân dân.
Vậy, giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không mang tính quyền lực, là
giám sát mang tính nhân dân. Mặt trận là nơi thể hiện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vận động nhân dân
giám sát, tham gia giám sát hoặc độc lập giám sát theo nhiệm vụ, quyền hạn
do pháp luật quy định với cơ chế là “theo dõi, phát hiện, kiến nghị” cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết và giám sát việc giải quyết kiến
nghị đó.
1.2.2 Mục đích giám sát
Mục đích của giám sát nói chung là xem xét việc làm của đối tượng bị giám
sát có đúng với những điều quy định, những định hướng đã đặt ra hay không
để từ đó có những biện pháp xử lý nhằm khắc phục những sai sót.
Theo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thì hoạt động giám sát của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam với mục đích là “hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra,
thanh tra của Nhà nước nhằm góp phần xây dựng và củng cố chính quyền
nhân dân, làm cho bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh,hoạt
động ngày càng có hiệu lực, hiệu quả”[17] để quản lý tốt mọi mặt của đời
sống xã hội theo pháp luật Nhà nước, thể hiện được quyền lực của nhân dân;
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Cần tránh khuynh hướng
lệch lạc cho rằng giám sát chỉ đi tìm những khuyết điểm, sai sót, những việc
làm sai trái của cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, đại biểu dân cử.
1.2.3 Tính chất của giám sát
Về tính chất, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát
xã hội, mang tính nhân dân của một tổ chức nhân dân, có tác dụng hỗ trợ cho

công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước. Đặc trưng cơ bản của
hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
của Mặt trận đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước là giám sát không
mang tính quyền lực Nhà nước; không có quyền xử lý đối với các cơ quan
nhà nước khác hay các cá nhân chịu trách nhiệm. Nó khác về tính chất và
phương pháp giám sát so với các cơ quan nhà nước. Bởi lẽ giám sát của các
cơ quan nhà nước là mang tính quyền lực Nhà nước, khi các cơ quan nhà
nước thực hiện quyền giám sát thì các cơ quan, tổ chức và công dân có trách
nhiệm đáp ứng mọi yêu cầu thực hiện nội dung giám sát. Nếu trong quá trình
thực hiện giám sát mà phát hiện có vi phạm pháp luật thì cơ quan nhà nước có
quyền ra quyết định yêu cầu đối tượng bị giám sát phải chấm dứt hành vi vi
phạm pháp luật (dù đã xảy ra hoặc có thể xảy ra); quyết định đó mang tính bắt
buộc, nếu các đối tượng bị giám sát không tuân thủ thì sẽ bị cưỡng chế bằng
quyền lực của Nhà nước.
1.3 Đối tƣợng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

15
Theo quy định Hiến pháp năm 1992, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
thì đối tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên bao
gồm: giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước; giám sát cán bộ, công chức
nhà nước; giám sát đại biểu dân cử.
1.3.1 Hoạt động của cơ quan nhà nước là một phạm trù pháp lý rộng. Hoạt
động của mỗi cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) theo chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Ví dụ, Quốc hội là cơ quan
lập pháp duy nhất ở nước ta, tổ chức và hoạt động của Quốc hội do Hiến pháp
quy định. Cơ quan hành chính Nhà nước ở nước ta được tổ chức thành một hệ
thống hành chính thống nhất từ Trung ương đến cơ sở, do cơ quan quyền lực
Nhà nước lập ra và chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước cơ quan đại diện
đó, đó là Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Chính phủ có những nhiệm
vụ, quyền hạn được quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ. Hội đồng nhân

dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có những nhiệm vụ và quyền
hạn được quy định tại Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.
1.3.2 Cán bộ, công chức nhà nước bao gồm:
- Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức
vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước.
- Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan,
đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân
mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội (gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập),
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được
bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp
luật.
- Cán bộ xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam,
được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức
chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng
giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

16
1.3.3 Đại biểu dân cử là những người do dân bầu ra theo nhiệm kỳ,

bao gồm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Nhiệm vụ,
quyền hạn của đại biểu dân cử do pháp luật quy định.
1.4 Nội dung và hình thức giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
1.4.1 Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước.
1.4.1.1 Nội dung giám sát:
Như đã nêu trên, phạm vi nội dung hoạt động của cơ quan nhà nước rất rộng,
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chưa quy định cụ thể phạm vi giám sát đến
đâu, nhất là giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, thì giám sát những cơ
quan nào? thứ hai là, những tổ chức thành viên nào có quyền giám sát ? từ
thực tiễn hoạt động và điều kiện của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, nội dung giám
sát hoạt động của cơ quan nhà nước chủ yếu tập trung vào: giám sát việc thi
hành pháp luật của cơ quan nhà nước, tập trung vào những pháp luật liên quan
đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, liên quan đến các tầng lớp xã hội
do Mặt trận trực tiếp vận động, liên quan đến tổ chức và hoạt động của Uỷ
ban Mặt trận và tổ chức thành viên.
Tuỳ đặc điểm địa phương và chương trình công tác Mặt trận hàng năm nên
xây dựng kế hoạch giám sát việc thực hiện pháp luật, pháp quy của chính
quyền địa phương như: giám sát thực hiện Luật đất đai, Luật thuế, Luật nghĩa
vụ quân sự, Luật bảo vệ môi trường, các pháp luật về chính sách đối với
người có công, chính sách xã hội, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân
1.4.1.2 . Hình thức giám sát:
Theo quy định của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam có ba hình thức giám sát như sau: Mặt trận Tổ quốc tham gia với cơ
quan quyền lực Nhà nước; Mặt trận Tổ quốc vận động nhân dân giám sát;
Mặt trận Tổ quốc tự mình thực hiện quyền giám sát.
Giám sát của Mặt trận chủ yếu thông qua những hoạt động sau đây:
* Ở Trung ương
- Thông qua hoạt động các Hội đồng tư vấn của Mặt trận, để góp ý kiến vào
các dự thảo văn bản Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Nghị quyết của cơ quan có
thẩm quyền soạn thảo và ban hành (Chính phủ, các Bộ, ngành, của Uỷ ban

Thường vụ Quốc hội). Tham gia với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Văn phòng Chủ tịch nước, với Hội đồng nhân dân hoặc Uỷ ban nhân dân
trong các đoàn kiểm tra, giám sát theo chương trình hàng quý, hàng năm,
hoặc giám sát, kiểm tra vụ việc nào đó theo quyết định của người đứng đầu cơ
quan nhà nước Trung ương, địa phương. Thông qua việc tổ chức các phong
trào, các cuộc vận động nhân dân như: phong trào xoá đói giảm nghèo, giúp
nhau làm kinh tế, đền ơn đáp nghĩa, dân số kế hoạch hoá gia đình v v Cuộc
vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” mà
phát hiện những vi phạm trong việc thực hiện pháp luật.

17
- Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ do pháp luật quy định như: tiếp dân,
xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Tham gia giải quyết khiếu nại tố
cáo mà phát hiện những vi phạm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
người, cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
* Ở địa phương:
- Thông qua báo cáo của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân, Toà án nhân dân tại các kỳ họp thường lệ của Hội đồng nhân dân,
hoặc khi nhận được các thông báo từ phía các cơ quan nhà nước, nhất là việc
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Khi phát hiện có vi phạm, Ban
Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc kiến nghị cơ quan nhà nước xem xét,
giải quyết và trả lời những kiến nghị và giám sát việc trả lời kiến nghị đó.
- Giám sát thông qua việc cử đại diện của Mặt trận tham gia các Hội đồng
hoặc Ban chỉ đạo ở địa phương, đây là hoạt động trực tiếp giám sát hoạt động
của cơ quan nhà nước trên một số công việc cụ thể. Mặt trận có cơ hội góp ý
trực tiếp trong quá trình hoạt động của Hội đồng, Ban chỉ đạo.
- Giám sát thông qua việc trực tiếp tổ chức, chỉ đạo hoạt động của Ban thanh
tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn theo pháp luật Thanh tra và Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở cấp xã.
- Giám sát thông qua theo dõi, nhận xét hoạt động hàng năm của đại biểu dân

cử.
- Giám sát thông qua việc bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt do Hội
đông nhân dân cấp xã bầu theo quy định của pháp luật.
- Giám sát thông qua các cơ chế ở các lĩnh vực cụ thể do Chính phủ ban hành
như: Giám sát đầu tư tại cộng đồng (theo QĐ số 80/TTg ngày 18/4/2005 của
Thủ tướng chính phủ); Giám sát cán bộ, công chức ở khu dân cư theo Nghị
quyết liên tịch giữa Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Chính
phủ (số 05/2006/NQLT-CP-UBTWMTTQVN ngày 21/04/2006).
Thông qua các hoạt động giám sát nêu trên, điều cốt yếu là Mặt trận tổ quốc
góp ý kiến cụ thể vào một hoạt động cụ thể của cơ quan nhà nước để thực
hiện tốt chính sách, pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Phát hiện những quy định pháp luật không phù hợp với thực tế, trái Hiến
pháp, pháp luật để kiến nghị sửa đổi, bổ sung, đình chỉ thi hành hoặc bãi bỏ
một phần hay toàn bộ văn bản đó (điều 81 Luật thẩm quyền ban hành văn bản
pháp luật). Phát hiện cán bộ, công chức vi phạm pháp luật để kiến nghị xử lý.
1.4.2. Giám sát cán bộ, công chức nhà nước
1.4.2.1 Phạm vi của nội dung giám sát cán bộ, công chức nhà nước là công
chức làm việc trong các cơ quan hành pháp, tư pháp và lập pháp. Phạm vi nội
dung giám sát bao gồm: nghĩa vụ và chức trách của công chức nhà nước;
những việc cán bộ, công chức không được làm; phẩm chất, đạo đức, lối sống
của cán bộ, công chức.

18
Các nội dung trên được quy định trong Luật Cán bộ - công chức và các văn
bản hướng dẫn của Chính phủ, Luật phòng chống tham nhũng, Luật thực hành
tiết kiệm chống lãng phí và văn bản pháp luật có liên quan.
1.4.2.2 Hình thức, cơ chế giám sát cán bộ, công chức ở khu dân cư.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát cán bộ, công chức ở khu dân cư được cụ
thể hoá ở Nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ và Uỷ ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam (số 05, ngày 21/04/2006) ban hành bằng hình thức

Quy chế, trong đó quy định rõ mục đích giám sát, nguyên tắc giám sát, đối
tượng giám sát, quyền trách nhiệm của chủ thể giám sát và đối tượng bị giám
sát, nội dung giám sát, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức khi trả lời kiến nghị
giám sát.
Đây là văn bản pháp luật quy định cơ chế cụ thể giám sát cán bộ, công chức,
đảng viên ở khu dân cư của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát cán bộ, công chức còn được quy định cụ
thể trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn với hình thức lấy
phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt do Hội đồng nhân dân cấp xã bầu, đó
là Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân do Ban Thường trực Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc cấp xã chủ trì tổ chức việc lấy phiếu tín nhiệm. Giám sát
cán bộ, công chức theo quy định của Luật phòng chống tham nhũng; Luật
thực hành tiệt kiệm, chống lãng phí.

1.4.3 Giám sát hoạt động của đại biểu dân cử
1.4.3.1 Nội dung giám sát
Nội dung giám sát hoạt động của đại biểu dân cử, mà trước hết là đại biểu Hội
đồng nhân dân cùng cấp (Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân và Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân) bao gồm: giám sát tiêu
chuẩn đại biểu và việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu Hội đồng nhân dân, cụ
thể là:
- Có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu chấp hành chính sách pháp luật của
Nhà nước, tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân thực hiện chính sách,
pháp luật.
- Việc tham dự đầy đủ các kỳ họp, các phiên họp của Hội đồng nhân dân,
tham gia thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ quyền hạn của
Hội đồng nhân dân.
- Việc đại biểu Hội đồng nhân dân phải liên hệ chặt chẽ với cử tri bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri.

Thực hiện chế độ, sau mỗi kỳ họp Hội đồng nhân dân, các đại biểu Hội đồng
nhân dân phải báo cáo với cử tri về kết quả của kỳ họp, phổ biến và giải thích
các nghị quyết của Hội đồng nhân dân, vận động và cùng với nhân dân thực
hiện nghị quyết đó.

19
Thực hiện chế độ, ít nhất mỗi năm một lần báo cáo với cử tri về hoạt động của
mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri.
- Việc đại biểu Hội đồng nhân dân phải tiếp dân theo lịch đã được phân công.
Khi nhận được khiếu nại, tố cáo của công dân, đại biểu Hội đồng nhân dân có
trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết
và theo dõi, đôn đốc việc giải quyết đồng thời thông báo cho người khiếu nại,
tố cáo biết.

1.4.3.2 Hình thức giám sát
Hiện chưa có văn bản pháp luật cụ thể hoá hình thức giám sát của Mặt trận
đối với đại biểu dân cử (đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân). Do
vậy Mặt trận Tổ quốc một số tỉnh phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân
dân cùng cấp tổ chức hoạt động nhận xét của đại biểu Hội đồng nhân dân theo
trách nhiệm và tiêu chuẩn người đại biểu như đã nêu ở phần trên về nội dung
giám sát. Cách làm này nhằm góp ý kiến với đại biểu để khắc phục những
điểm yếu, thiếu sót trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn người đại biểu
nhân dân.
Hình thức thứ hai hiện đang thực hiện là giám sát chức danh chủ chốt của Hội
đồng nhân dân (Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân) với hình thức bỏ
phiếu tín nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã theo quy định tại Pháp
lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Qua giám sát, nếu thấy đại biểu dân cử nào phạm sai lầm, không còn xứng
đáng với tín nhiệm của nhân dân, thì tuỳ mức độ sai phạm mà Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc cùng cấp có văn bản kiến nghị lên Hội đồng nhân dân cùng cấp,

Uỷ ban nhân dân, Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp trên trực
tiếp và tổ chức đảng có thẩm quyền quản lý người được lấy phiếu tín nhiệm
để xem xét, quyết định theo thẩm quyền. Đối với đại biểu hoạt động xuất sắc
thì đề nghị Nhà nước hoặc Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc khen thưởng.
Có thể khẳng định rằng: giám sát của Mặt trận Tổ quốc đối với hoạt động của
các cơ quan nhà nước là hình thức giám sát đặc thù ở nước ta; qua thực tiễn
kiểm nghiệm đã khẳng định hình thức giám sát này đã và đang đóng vai trò
quan trọng trong việc bảo đảm thực thi quyền lực Nhà nước của nhân dân.


20
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM ĐỐI VỚI BỘ MÁY NHÀ NƢỚC

Với trách nhiệm và quyền hạn của mình đã được quy định trong những văn
bản quy phạm pháp luật, trong những năm qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã
tích cực thực hiện hoạt động giám sát và động viên nhân dân thực hiện quyền
giám sát đối với bộ máy nhà nước, cụ thể là giám sát hoạt động của cơ quan
nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước theo quy
định của pháp luật như: giám sát thông qua việc lấy phiếu tín nhiệm các chức
danh chủ chốt do Hội đồng nhân dân bầu; thông qua việc chỉ đạo hoạt động
giám sát của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng; thông
qua việc tiếp dân và tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; thông
qua việc thực hiện quy chế Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt động
của cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư v v. Hoạt động giám sát của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thời gian qua đã đạt được một số kết quả nhất
định, có nhiều nguyên nhân trong đó có việc quan trọng là Nhà nước đã từng
bước thể chế hóa quan điểm của Đảng về vai trò giám sát của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và nhân dân trong các văn bản pháp luật, nhất là đối với cấp

cơ sở và đã từng bước đi vào đời sống xã hội. Sau đây là thực trạng giám sát
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với bộ máy nhà nước thông qua những
mặt hoạt động sau:
2.1. Hoạt động giám sát trong việc xây dựng bộ máy nhà nƣớc
2.1.1 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát trong công tác bầu cử đại biểu
quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Theo quy định của pháp luật về bầu cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có
quyền và trách nhiệm thực hiện năm nhiệm vụ trong các cuộc bầu cử; trong
đó có một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng có tính chất cốt lõi trong tất cả các
cuộc bầu cử, đó là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hiệp thương dân chủ
để lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân, lập danh sách chính thức để cử tri bầu làm đại biểu, đại diện
cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước trong
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Việc tổ chức hiệp thương, lựa chọn, giới thiệu người ứng cử được thực
hiện năm bước theo quy trình cụ thể do Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành bằng nghị quyết liên tịch
(đối với bầu cử đại biểu Quốc hội) và do Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và Chính phủ ra nghị quyết liên tịch (đối với cuộc bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp), gồm các bước như sau:
Trên cơ sở dự kiến của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (bầu cử đại biểu
Quốc hội), Thường trực Hội đồng nhân dân các cấp (bầu cử đại biểu Hội đồng

21
nhân dân các cấp) về cơ cấu, thành phần số lượng người của cơ quan, tổ chức,
đơn vị được bầu làm đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân, Ban
Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp tiến hành tổ chức hội nghị
hiệp thương lần thứ nhất để thỏa thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng người
của cơ quan, tổ chức, đơn vị được bầu và được giới thiệu người của cơ quan,
tổ chức, đơn vị mình ra ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân

các cấp. Trên cơ sở kết quả hội nghị hiệp thương này, Ban Thường trực Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc cấp tổ chức hiệp thương gửi văn bản phân bổ số lượng
người ra ứng cử của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đảm bảo số lượng người
giới thiệu ứng cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu của cơ quan, tổ chức,
đơn vị đó, nhằm có số dư cần thiết ở mỗi đơn vị bầu cử theo quy định của
pháp luật về bầu cử. Sau khi nhận được danh sách những người ứng cử đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân do cơ quan, tổ chức, đơn vị gửi
đến, Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp tiến hành tổ chức hội
nghị hiệp thương lần thứ hai.
Hội nghị hiệp thương lần thứ hai thỏa thuận danh sách sơ bộ những
người ứng cử và gửi đến Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn nơi
người ứng cử cư trú thường xuyên để tổ chức hội nghị lấy ý kiến nhận xét và
tín nhiệm của cử tri nơi cư trú đối với những người ứng cử (bao gồm những
người được cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu và những người tự ứng cử).
Quá trình tổ chức hội nghị cử tri nơi cư trú của những người ứng cử
nếu có ý kiến, kiến nghị hoặc tố cáo đối với người ứng cử nào đó thì Ban
Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tổ chức hiệp thương lập danh sách
gửi đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền quản lý người ứng cử đó
phải xác minh rõ đúng sai và gửi đến Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tổ chức
hiệp thương.
Sau khi nhận được văn bản xác minh của cơ quan, tổ chức, đơn vị có
thẩm quyền đối với người ứng cử, Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
cấp tổ chức hiệp thương tiến hành tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ ba.
Hội nghị hiệp thương lần thứ ba thỏa thuận lập danh sách chính thức
những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và gửi
ngay đến Hội đồng bầu cử để Hội đồng bầu cử xem xét phân bổ người ứng cử
về các đơn vị bầu cử, khu vực bỏ phiếu và công bố danh sách người ứng cử ở
từng đơn vị bầu cử.
Kết thúc hội nghị hiệp thương lần thứ ba lập danh sách chính thức
những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp

cũng là kết thúc quy trình hiệp thương khá chặt chẽ theo quy định của pháp luật.
Đó là khái quát quy trình hiệp thương dân chủ để sàng lọc, lựa chọn, giới thiệu
những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Trong quá trình thực hiện các bước của quy trình hiệp thương thì bước tổ
chức lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm cử tri nơi cư trú của những người ứng

22
cử là quan trọng nhất, bởi lẽ đây là những người có thể trúng cử làm đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của
nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực của nhân dân trong cơ quan
quyền lực Nhà nước. Mặt khác, trên cơ sở nhận xét và tín nhiệm của cử tri,
hội nghị hiệp thương của Mặt trận có cơ sở quan trọng cho việc lựa chọn lập
danh sách chính thức để nhân dân bầu làm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp.
Có thể thấy trong các cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn có vai trò đặc biệt quan trọng trong
công tác hiệp thương dân chủ lựa chọn, giới thiệu người để cử tri bầu làm đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Quá trình hiệp thương là quá
trình kết hợp nhuần nhuyễn việc thực hiện chế độ tập trung, dân chủ và chế độ
hiệp thương dân chủ làm phong phú thêm nền dân chủ ở nước ta. Nghĩa là
quá trình tổ chức thực hiện các bước của quy trình hiệp thương phải đảm bảo
sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phải đạt được sự đồng thuận của các thành
viên trong Mặt trận về cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ
chức, đơn vị được giới thiệu người để cử tri bầu làm đại biểu Quốc hội, đại
biểu Hội đồng nhân dân.
Trong cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004 - 2009
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp đã loại khỏi danh sách hiệp thương chính
thức 2.709 người do đã phát hiện vi phạm chính sách, pháp luật, tham nhũng,
tiêu cực, vi phạm đạo đức, lối sống và không được cử tri nơi công tác, nơi cư
trú tín nhiệm, trong đó cấp tỉnh 36 người, cấp huyện 202 người, cấp xã 2.471

người (trong đó có 640 người có đơn tố cáo sau khi được xác minh là đúng,
2.069 người không được cử tri nơi công tác, nơi cư trú tín nhiệm). Trong cuộc
bầu cử địa biểu Quốc hội khoá XII năm 2007, tất cả những người ứng cử Đại
biểu Quốc hội sau khi Mặt trận Tổ quốc tổ chức lấy ý kiến cử tri nơi cư trú
của người ứng cử mà có số phiếu tín nhiệm thấp đều không đưa vào danh
sách hiệp thương chính thức (loại khỏi danh sách ứng cử viên Đại biểu Quốc
hội).
Ngoài ra Ủy ban Mặt trận Tổ quốc còn cử đại diện tham gia các đoàn giám sát
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoặc tự mình tổ chức
các đoàn giám sát thực hiện các công việc bầu cử như: giám sát việc giải
quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của cử tri trong cuộc bầu cử; giám sát thủ tục,
trình tự tổ chức bỏ phiếu, kiểm phiếu, bầu lại, bầu thêm và những công việc
liên quan đến bầu cử theo quy định của Luật bầu cử và hướng dẫn của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam; chỉ đạo hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân giám sát thực hiện các
quy trình bầu cử, công tác hiệp thương của Mặt trận Tổ quốc cùng cấp trong
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.

23
Như vậy, có thể thấy trong quá trình tổ chức lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm
của cử tri nơi cư trú đối với những người được giới thiệu ứng cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và quá trình giám sát bầu cử, Mặt trận
Tổ quốc kiên quyết loại khỏi danh sách hiệp thương đối với những người đã
phát hiện có vi phạm chính sách, pháp luật, tham nhũng, vi phạm đạo đức, lối
sống và những người không được cử tri nơi công tác, nơi cư trú tín nhiệm.
2.1.2 Giám sát trong công tác tham gia tuyển chọn Thẩm phán, Kiểm sát
viên.
* Tham gia tuyển chọn thẩm phán Toà án
- Đại diện Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là Ủy viên Hội
đồng tuyển chọn thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, thẩm phán Toà án Quân

sự Trung ương. Danh sách Ủy viên Hội đồng tuyển chọn thẩm phán do Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao (điều 26 Pháp lệnh thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân). Hội
đồng này có 5 thành viên gồm: Chánh án Toà án nhân dân tối cao làm Chủ
tịch; Đại diện lãnh đạo Bộ quốc phòng; Bộ nội vụ; Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và Hội luật gia Việt Nam.
- Đại diện Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là uỷ viên
Hội đồng tuyển chọn thẩm phán Toà án Quân sự cấp Quân khu, thẩm phán
Toà án Quân sự khu vực. Danh sách Ủy viên Hội đồng tuyển chọn thẩm phán
nêu trên do Chánh Toà án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh
án Toà án Quân sự Trung ương (theo điều 28 Pháp lệnh thẩm phán và Hội
thẩm Toà án nhân dân). Hội đồng này có 5 thành viên bao gồm Chánh án Toà
án Quân sự Trung ương làm Chủ tịch; Đại diện lãnh đạo Bộ quốc phòng;
Bộ nội vụ; Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội luật gia
Việt Nam.
- Đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh là Ủy viên Hội đồng tuyển
chọn thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, thẩm phán Toà án nhân dân cấp
huyện. Danh sách uỷ viên Hội đồng tuyển chọn thẩm phán cấp tỉnh, do Chánh
án Toà án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng
nhân dân tỉnh (điều 27 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân).
Hội đồng này có 5 thành viên bao gồm Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Hội đồng
nhân dân tỉnh làm Chủ tịch; Đại diện lãnh đạo Sở nội vụ; Chánh án Toà án
nhân dân cấp tỉnh; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội luật gia tỉnh.
* Tham gia tuyển chọn kiểm sát viên
- Đại diện Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là Ủy viên
Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; kiểm sát
viên Viện kiểm sát Quân sự Trung ương. Danh sách uỷ viên Hội đồng này do
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao (điều 23 Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao (số 01/2002/PL-


24
UBTVQH11 ngày 04/10/2002). Hội đồng này có 5 thành viên bao gồm: Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm Chủ tịch; Đại diện lãnh đạo Bộ
quốc phòng; Bộ nội vụ; Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
Hội luật gia Việt Nam.
- Đại diện Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là uỷ viên
Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên Viện kiểm sát Quân sự cấp Quân khu,
kiểm sát viên Viện kiểm sát khu vực. Danh sách ủy viên Hội đồng này do
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát Quân sự Trung ương (điều 25 Pháp lệnh về kiểm sát
viên của Uỷ ban thường vụ Quốc hội số 03/2002/PL-UBTVQH11, ngày
04/10/2002). Hội đồng này có 5 thành viên bao gồm: Viện trưởng Viện kiểm sát
Quân sự Trung ương làm Chủ tịch; Đại diện lãnh đạo Bộ quốc phòng; Bộ nội
vụ; Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội luật gia Việt Nam.
- Đại diện Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh là uỷ viên Hội
đồng tuyển chọn kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện. Danh sách uỷ viên Hội đồng này do Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Chủ tịch
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh (điều 24 Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân số 03/2002/PL-UBTVQH11
ngày 04/10/2002). Hội đồng này có 5 thành viên bao gồm: Chủ tịch hoặc Phó
Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh làm Chủ tịch; Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh; Đại diện Sở nội vụ; Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội
luật gia tỉnh.
Theo quy định của pháp luật thì thẩm phán Tòa án nhân dân, kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân các cấp là công chức nhà nước và thực hiện theo
chế độ bổ nhiệm, nhiệm kỳ là 5 năm thay cho chế độ bầu trước đây. Để cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm có cơ sở vững
chắc khi quyết định, pháp luật cho phép thành lập Hội đồng tuyển chọn thẩm

phán, kiểm sát viên (bao gồm cả thẩm phán Tòa án quân sự, kiểm sát viên
Viện kiểm sát quân sự các cấp). Hội đồng tuyển chọn được xác lập ở hai cấp
Trung ương và cấp tỉnh. Cấp Trung ương có Hội đồng tuyển chọn thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân tối cao; Hội đồng tuyển chọn thẩm phán Tòa án quân sự quân khu
và khu vực; Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự cấp
quân khu và cấp khu vực. Ở cấp tỉnh có Hội đồng tuyển chọn thẩm phán Tòa
án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện.
Để có cơ sở tham gia hoạt động trong các Hội đồng tuyển chọn thẩm
phán, kiểm sát viên một cách thiết thực, có hiệu quả. Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cấp tham gia Hội đồng cử một người trong Ban Thường trực
có năng lực, có trình độ về pháp luật, có phẩm chất đạo đức, trung thực và

25
công tâm. Đồng thời có các chuyên viên giỏi tham mưu trong việc nghiên cứu
hồ sơ giới thiệu những người để bổ nhiệm làm thẩm phán, kiểm sát viên đảm
bảo các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật. Vấn đề quan trọng hơn đó là
Mặt trận cần xin ý kiến nhận xét của nhân dân nơi người được giới thiệu làm
thẩm phán, hoặc kiểm sát viên về phẩm chất, đạo đức, phong cách, lối sống
và mối quan hệ của bản thân người được giới thiệu bổ nhiệm và gia đình họ
với cộng đồng dân cư nơi họ và gia đình cư trú thường xuyên. Trên cơ sở đó
để có nhận xét, đánh giá một cách chính xác, khách quan đối với người được
đề nghị bổ nhiệm khi tham gia tuyển chọn trong Hội đồng. Như vậy, yếu tố
dựa vào nhân dân để tham gia tuyển chọn là quan trọng nhất.
Thực tiễn hoạt động của các Hội đồng tuyển chọn cho thấy nếu đại diện Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc có ý kiến không tán thành trường hợp nào đó thì cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm thẩm phán, kiểm
sát viên vẫn xem xét thận trọng và có thể không bổ nhiệm nếu ý kiến đó là
đúng sự thật.

2.1.3 Giám sát trong công tác bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân
dân
Theo quy định tại điều 129, điều 130 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001 và Luật tổ
chức Tòa án thì việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân. Khi
xét xử Hội thẩm ngang quyền với thẩm phán.
Điều 38 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân quy định: “Hội
thẩm nhân dân Toà án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp
bầu theo sự giới thiệu của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp”. Như vậy, Hội
thẩm nhân dân là những công dân bình thường nhưng có đủ tiêu chuẩn theo
quy định của pháp luật, do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh, cấp huyện lựa
chọn, giới thiệu để Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu và họ là những người
thay mặt nhân dân tham gia Hội đồng xét xử của Tòa án nhân dân các cấp ở
địa phương.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp có trách nhiệm giúp đỡ, hướng dẫn
và tạo điều kiện thuận lợi để Hội thẩm hoàn thành nhiệm vụ. Thông qua hoạt
động xét xử của Hội thẩm để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt động
xét xử của Toà án nhân dân các cấp. Vì vậy, khi hiệp thương, lựa chọn giới
thiệu người để Hội đồng nhân dân bầu làm Hội thẩm, Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc cấp tỉnh, cấp huyện luôn xem xét kỹ lưỡng về tiêu chuẩn, về phẩm chất,
đạo đức, năng lực thực hiện nhiệm vụ và đặc biệt là bản lĩnh để Hội đồng
nhân dân bầu, xứng đáng là người đại diện cho nhân dân tham gia xét xử tại
Tòa án nhân dân, góp phần xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo và đương sự.
2.2 Hoạt động giám sát trong việc xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành
chính sách, pháp luật

×