Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với các cơ quan hành chính Nhà nước từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.42 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN XUÂN HIỂN

GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

UẬN V N TH C S

UẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN XUÂN HIỂN

GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: uật Hiến pháp và luật hành chính
Mã số: 60 38 01 02

UẬN V N TH C S


UẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS-TS ĐINH NGỌC VƢỢNG

HÀ NỘI - 2017


ỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu trích dẫn trong luận văn dựa trên số liệu bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả

Nguyễn Xuân Hiển


MỤC ỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ Ý UẬN VỀ GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ
QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC ..9
1.1. Khái niệm, tính chất, mục đích và nguyên tắc giám sát của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam ....................................................................................................9
1.2. Đối tượng, nội dung, phạm vi và hình thức giám sát của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam ..........................................................................................................20
1.3. Quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động
giám sát .............................................................................................................31
Chƣơng 2 THỰC TR NG VỀ GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC TỪ

THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH......................................................35
2.1. Thực trạng về quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
hoạt động giám sát cơ quan hành chính Nhà nước...........................................35
2.2. Thực trạng về quyền và trách nhiệm của cơ quan hành chính Nhà nước
trong việc phối hợp giám sát ............................................................................48
2.3. Nguyên nhân của kết quả đạt được và những tồn tại hạn chế ...................50
Chƣơng 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT HUY VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA
MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN HÀNH
CHÍNH NHÀ NƢỚC ..............................................................................................58
3.1. Sự cần thiết phải phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam đối với các cơ quan hành chính Nhà nước ..............................................58
3.2. Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
đối với các cơ quan hành chính Nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh..........62
KẾT UẬN ..............................................................................................................73
DANH MỤC TÀI IỆU THAM KHẢO ...............................................................75


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CT-XH

Chính trị - xã hội

GSĐTCCĐ

Giám sát đầu tư của cộng đồng

HĐND

Hội đồng nhân dân


MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

MTTQVN TP

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố

NXB

Nhà xuất bản

TTND

Thanh tra nhân dân

TP Hồ Chí Minh

Thành phố Hồ Chí Minh

UBTVQH

Ủy ban Thường vụ Quốc hội

VBQPPL

Văn bản quy phạm pháp luật

XHCN


Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Điều 9 của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 đã
khẳng định vai trò, địa vị của MTTQVN trong hệ thống chính trị của nước ta. Theo
quy định của Hiến pháp, MTTQVN là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức CT-XH, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu
biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định
cư ở nước ngoài. MTTQVN là cơ sở chính trị của chính quyền Nhân dân; đại diện,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội;
giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối
ngoại Nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quyền giám sát, phản biện của người dân được thể hiện ở Hiến pháp năm
2013: người dân có quyền giám sát các cơ quan công quyền, giám sát cán bộ, công
chức, viên chức, các đại biểu dân cử; giám sát việc giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu
nại thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn; giám sát
thực hiện quy chế dân chủ cơ sở... thông qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức CTXH. Trong đó MTTQ được xem như là cầu nối giữa Đảng, chính quyền với nhân
dân, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân, đồng thời
cũng là nơi tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện các quyền cơ bản của công
dân, được Hiến pháp quy định, nhất là quyền giám sát, phản biện.
Một số chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước nhất là ở cơ sở chưa được
tổ chức, thực hiện tốt, trong khi đó người dân chưa quan tâm giám sát, kiến nghị.
Ngoại trừ trường hợp bị vi phạm quyền và lợi ích của bản thân, gia đình thì họ mới
kiến nghị, khiếu nại đến các cơ quan Nhà nước yêu cầu giải quyết.
Vấn đề quan trọng là nhận thức của phần lớn người dân. Có nhiều người
chưa hiểu được mình có các quyền, trong đó có quyền giám sát, kiểm tra, kiến nghị,

phản biện. Trong khi đó, chính quyền và cấp ủy địa phương cũng chưa thực sự quan
tâm tới việc tuyên truyền giải thích cho người dân để họ biết có các quyền này. Bên
1


cạnh đó cũng có một số người dân biết mình có các quyền này nhưng lại không dám
giám sát, không dám kiến nghị vì sợ va chạm, sợ bị trù dập. Tuy nhiên cũng có
người muốn đóng góp, kiến nghị nhưng không biết kiến nghị ở đâu, có cơ quan nào
giải quyết kiến nghị của mình hay không.
Thực tế cho thấy, thời gian qua Mặt trận Tổ quốc các cấp thực hiện giám sát
phản biện ở một số lĩnh vực nhưng hiệu quả cũng chưa đạt yêu cầu, cụ thể chỉ giám
sát các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức, đại biểu dân cử trong việc thực thi
chính sách pháp luật địa phương; giám sát việc giữ gìn phẩm chất đạo đức lối sống
của cán bộ công chức, đại biểu dân cử...Còn việc giám sát các lĩnh vực nhạy cảm
như quản lý đất đai, quản lý các dự án đầu tư, tài chính...hoặc giám sát việc kê khai
tài sản, nhà đất, thu nhập cá nhân thì vô cùng khó khăn. Đối với Mặt trận Tổ quốc
còn gặp khó như vậy thì người dân thực hiện quyền giám sát, phản biện còn khó
biết chừng nào...
Nhưng việc để người dân thực hiện quyền giám sát phản biện là một trong
những điều kiện tiên quyết làm trong sạch đội ngũ cán bộ công bộc, góp phần xây
dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân do dân và vì dân. Việc
đầu tiên cần phải làm là thay đổi nhận thức của cấp ủy, chính quyền, các ngành các
cấp về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc nhất là cấp cơ sở. Cấp ủy cần quan tâm
hơn nữa trong việc lãnh đạo. Chính quyền tích cực phối hợp tạo điều kiện cho Mặt
trận hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, nâng cao vị trí, vai trò địa vị pháp lý
trong hệ thống chính trị, từ đó Mặt trận Tổ quốc thực hiện có hiệu quả công tác
tuyên truyền cho người dân hiểu và thực hiện tốt các quyền cơ bản của mình, trong
đó có quyền được giám sát. Chính quyền địa phương các cấp phải thực sự tôn trọng
lắng nghe và giải quyết các ý kiến, kiến nghị của người dân và công khai cho người
dân biết kết quả giải quyết các kiến nghị đó.

Để người dân thực hiện tốt quyền giám sát, phản biện, Nhà nước cần sớm
ban hành cơ chế để Mặt trận Tổ quốc nói chung và nhân dân nói riêng thực hiện
quyền giám sát phản biện. Bên cạnh đó, cũng cần có cơ chế bảo vệ những người
dám giám sát, kiến nghị đấu tranh. Như vậy mới khuyến khích được người dân, để
2


người dân an tâm giám sát, kiến nghị xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền ngày
một hoàn thiện hơn.
Đảng và Nhà nước mong muốn Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể thực hiện
tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Muốn thực hiện được chức năng đó có hiệu
quả thiết thực, cần phải có cơ chế, tổ chức hệ thống Mặt trận Tổ quốc hợp lý, chặt
chẽ và có chế độ đãi ngộ phù hợp để khuyến khích người làm. Cụ thể là: Mỗi khu
phố có 1 Chi bộ, 1 Ban công tác Mặt trận, tập hợp các tổ chức: Tổ dân phố, Chi hội
Người cao tuổi, Chi hội Cựu chiến binh, Chi hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên. Không
nên để nhiều chi bộ lãnh đạo một Ban công tác Mặt trận; Chi uỷ giới thiệu người để
nhân dân khu phố bầu vào chức Trưởng ban công tác Mặt trận khu phố. Người giữ
chức vụ này cũng được hưởng phụ cấp hàng tháng. Nhà nước cũng cần có quy định
về chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn, quyền lợi của chức danh Trưởng ban công tác
Mặt trận khu phố.
Hội nghị Trung ương 10 (khóa XI) diễn ra vào tháng 01 năm 2015 đã tổng
kết 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam. Hội nghị khẳng định đất nước ta đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn trên
mọi lĩnh vực và dần thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Trong bối cảnh và xu thế phát
triển đó chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng là bước thay đổi mới trong tư duy
chính trị của Đảng. Với sự thay đổi này, Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển mới
về chất, đây là một nhà nước dân chủ và là một nền dân chủ kiểu mới. Trong quá
trình đổi mới, với xu thế hội nhập Việt Nam rất cần sự cải cách, sự thay đổi về tư
duy, nhận thức dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ tệ quan liêu, tham nhũng,

lãng phí, cửa quyền, khắc phục những bất hợp lý trong hệ thống chính quyền các
cấp. Để làm được điều đó cần có sự chung tay, góp sức của các tầng lớp trí thức,
các chuyên gia và mọi tầng lớp nhân dân. Vì vậy, giám sát và phản biện xã hội là
một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm khơi dậy tính dân chủ, công khai, minh
bạch đặc biệt trong bối cảnh hiện nay của nước ta về thể chế chính trị chỉ có một
đảng duy nhất cầm quyền.
3


Xuất phát từ những lý do trên tác giả đã chọn đề tài: “Giám sát của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam đối với các cơ quan hành chính Nhà nước từ thực tiễn thành phố
Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình với hy vọng sẽ góp
một phần công sức nhằm hoàn thiện VBQPPL điều chỉnh về vai trò của MTTQVN
trong việc thực hiện chức năng giám sát của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các công trình nghiên cứu về MTTQVN bắt đầu được chú trọng kể từ sau
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991). Đáng chú ý trong các đề tài nghiên cứu
về Mặt trận gần đây là đề tài KX.10.03: “Mô hình đổi mới, hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị
giai đoạn 2010 - 2015” do Tiến sĩ Thang Văn Phúc (Bộ Nội Vụ) làm chủ nhiệm
nghiệm thu vào tháng 8/2009.
Về giám sát của nhân dân đối với cơ quan nhà nước được đề cập nhiều trong
các công trình và diễn đàn khoa học, trên các sách, báo, tạp chí và được phổ biến
khá rộng rãi trong xã hội. Những nghiên cứu sớm nhất là các tham luận tại Hội thảo
về giám sát của MTTQVN năm 1997. Từ sau năm 2000, một số công trình tiêu biểu
phải kể đến là:
- Đề tài nghiên cứu khoa học KX.10 – 07 (2006): “Xây dựng cơ chế pháp lý
đảm bảo sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng,
Nhà nước và các thiết chế tổ chức trong hệ thống chính trị” (do Giáo sư – Tiến sĩ
khoa học Đào Trí Úc làm chủ nhiệm) ; Đề tài khoa học cấp Bộ (2006): “Vấn đề

nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở nước ta hiện nay” (do TS Đặng Đình Tân
– Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm).
- Sách chuyên khảo: “Tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của
một số nước trên thế giới”, sách tham khảo (2001) Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
“Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước của Đào Trí Úc và
Võ Khánh Vinh (đồng chủ biên) (2003), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; “Sự hạn
chế quyền lực Nhà nước” của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (2005), “Cơ chế giám

4


sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước – Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn” của GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên (2010).
- Luận án Tiến sĩ và luận văn Thạc sĩ: Luận án Tiến sĩ Chính trị học: “Thực
hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của MTTQVN hiện nay”, của Nguyễn
Thọ Ánh (2010); Luận văn Thạc sĩ Luật: Luận văn Thạc sĩ Chính trị học: “Thực
hiện chức năng giám sát của MTTQVN đối với hoạt động của các cơ quan nhà
nước ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Văn Thanh (2003);
Bên cạnh đó có một số bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như:
“Quan niệm về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước và các cơ chế thực hiện
giám sát” của GS.TSKH Đào Trí Úc, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2003; “Về
giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước” của PGS.TS Võ Khánh Vinh, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật số 6/2003; “Giám sát xã hội và phản biện xã hội” của TS
Hoàng Thị Ngân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 9(269)/2010; “Tăng cường hoạt
động giám sát của MTTQVN Việt Nam, của các đoàn thể nhân dân và nhân dân đối
với Bộ máy nhà nước” của PGS.TS Bùi Xuân Đức, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
số 03/2004; “Phát huy vai trò của MTTQVN vận động nhân dân thực hiện giám sát
việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” của Trần Thanh Bình, Tạp chí Nhà nước số
9/2003; “Phát huy vai trò của MTTQVN trong việc thực hiện giám sát đối với cán
bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư" của Đỗ Huy Thường, Tạp chí Mặt trận, số

22; “Thiếu một cơ chế giám sát hoàn thiện” của Nguyễn Khanh, Báo Pháp luật số
222 ngày 16/9/2005; “Cần tăng cường hơn nữa sự kiểm tra, giám sát của nhân dân
đối với việc phòng chống quan liêu, tham nhũng hiện nay” của Bùi Thành Phần,
Tạp chí Dân vận số 01/2005; “Lênin nói về kiểm tra giám sát để xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên trong sạch” của Lê Trọng Hanh, Tạp chí Tư tưởng văn hoá, số
4/2005; “Tăng cường hoạt động giám sát của MTTQVN đối với hoạt động của cơ
quan nhà nước, cán bộ, công chức” của GS Lưu Văn Đạt, Tạp chí Mặt trận số
31/2006; “Suy nghĩ về mục đích giám sát của MTTQVN đối với quyền lực nhà nước
ở nước ta” của Nguyễn Văn Thanh, Tạp chí Mặt trận, số 37/2006…

5


Nhìn chung các công trình, đề tài, bài viết nêu trên đều đề cập đến vấn đề
giám sát xã hội, giám sát của nhân dân, hoạt động giám sát của MTTQVN, các đoàn
thể nhân dân đối với Đảng và Bộ máy Nhà nước. Nhưng chưa có công trình nào đề
cập chuyên sâu, có hệ thống về giám sát của MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh
cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát đó. Tiếp thu những kết quả nghiên
cứu trên, luận văn này cũng phát triển trên cơ sở kế thừa các công trình đi trước ở
một số vấn đề, chẳng hạn phát triển trên cơ sở kế thừa những công trình trước tập
trung nghiên cứu giám sát của MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay đặc biệt
là đối với các cơ quan hành chính Nhà nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 . Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn giám sát của MTTQVN TP Hồ Chí
Minh đối với các cơ quan hành chính Nhà nước; trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả giám sát của MTTQVN TP Hồ Chí Minh đối với các cơ quan
hành chính Nhà nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:

Một là, nghiên cứu làm rõ khái niệm, nội dung, vai trò giám sát của
MTTQVN đối với các cơ quan hành chính Nhà nước.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của MTTQVN
Thành phố Hồ Chí Minh; làm rõ những hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt
ra cần phải giải quyết đối với các cơ quan hành chính Nhà nước.
Ba là, đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát
của MTTQVN đối với các cơ quan hành chính Nhà nước.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các cơ quan hành chính nhà nước, là
một phận cấu thành bộ máy nhà nước thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà

6


nước, thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trên mọi lĩnh vực đời sống xã
hội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu việc giám sát của MTTQVN đối với các cơ quan hành chính
Nhà nước nhằm vào các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng quản lý hành chính
nhà nước, thực hiện việc chấp hành và điều hành trên các lĩnh vực đời sống xã hội
đối với phạm vi toàn địa bàn cấp tỉnh là Thành phố Hồ Chí Minh được nghiên cứu
qua việc giám sát của Ban TTND và Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng. Trên cơ
sở phân tích, đánh giá thực trạng giám sát của MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh
tác giả luận chứng quan điểm, giải pháp để phát huy việc giám sát của MTTQVN
Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm tới.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 . Cơ sở lý luận
Luận văn đã sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền

làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân cũng như tư tưởng của Người về sức mạnh của nhân dân trong khối đại
đoàn kết dân tộc; bên cạnh đó tác giả cũng bám sát vào chủ trương, đường lối của
Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm bảo đảm tính khoa học của đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài luận văn tác giả đã dùng các phương pháp tổng hợp,
phân tích, xã hội hội cụ thể và phương pháp luật học so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho
việc đổi mới nhận thức về vai trò và phương thức hoạt động của MTTQVN Thành
phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là hoạt động giám sát đối với các cơ quan hành chính
Nhà nước, giám sát cộng đồng dân cư và giám sát đầu tư công của cộng đồng.
Đồng thời luận văn có thể dùng làm nguồn tài liệu tham khảo phục vụ nghiên
cứu, công tác giảng dạy, làm tài liệu cho cán bộ dân vận, cán bộ Mặt trận và các
7


đoàn thể trong việc thực hiện hoạt động giám sát xã hội; tổng kết thực tiễn liên quan
đến giám sát của nhân dân các mặt của đời sống xã hội và Nhà nước
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương, 9 tiết.
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam đối với các cơ quan hành chính Nhà nước.
Chƣơng 2. Thực trạng về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với
các cơ quan hành chính Nhà nước từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh.
Chƣơng 3. Một số giải pháp để phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam đối với các cơ quan hành chính Nhà nước.

8



Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ Ý UẬN VỀ GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
1.1. Khái niệm, tính chất, mục đích và nguyên tắc giám sát của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam
Trong hệ thống chính trị nước ta, theo quy định hiện hành thì Đảng, Nhà
nước và Mặt trận đều có vai trò giám sát theo vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ
chức. Nhân dân vừa có quyền giám sát trực tiếp vừa giám sát thông qua MTTQVN
Việt Nam.
Trước hết cần phải xem xét khái niệm giám sát. Theo từ điển luật học: "Giám
sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục
và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của
đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu
quả đã xác định từ trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh".
Trong cuốn Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội X của Đảng
Cộng sản Việt Nam (NXB Chính trị Quốc gia, trang 184) nêu khái niệm giám sát
như sau: “Giám sát là theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức
cộng đồng người đối với cá nhân, tổ chức, cộng đồng khác trong các lĩnh vực hoạt
động kinh tế - xã hội, trong việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, đường lối, quan
điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước, các quyền lợi, nghĩa vụ của công dân,
của các tổ chức chính trị - xã hội và kiến nghị phát huy ưu điểm, thành tựu, xử lý
đối với cá nhân, tổ chức có những hành vi sai trái ”.
Qua thực tiễn hoạt động, giám sát của MTTQVN Việt Nam, các tổ chức CTXH và nhân dân được hiểu là việc xem xét, phát hiện, kiến nghị với cơ quan tổ chức
Đảng, Nhà nước có thẩm quyền xem xét, xử lý.
TS Hoàng Thị Ngân cho rằng, "“Giám sát” và “phản biện” là những khái
niệm đã từng được cắt nghĩa dưới giác độ ngôn ngữ. Cùng với sự hiện diện trong
các Từ điển tiếng Việt, giám sát còn có mặt trong các Từ điển giải thích thuật ngữ
khoa học chuyên ngành và được chú ý với tính chất là một khái niệm mang tính

9


pháp lý. Chẳng hạn như, theo Từ điển luật học, giám sát là sự theo dõi, quan sát
mang tính chủ động thường xuyên của cơ quan, tổ chức hoặc nhân dân đối với hoạt
động của các đối tượng chịu sự giám sát và tác động bằng các biện pháp tích cực để
buộc và hướng các hoạt động đó đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích,
hiệu quả đã được xác định từ trước, bảo đảm cho hiến pháp và pháp luật được tuân
thủ nghiêm chỉnh. “Giám sát xã hội” và “phản biện xã hội” là những cụm từ đã từng
xuất hiện trên các ấn phẩm chính thức. Để đi đến nhận thức chung về hai thuật ngữ
nói trên, cần khám phá nội dung và đặc trưng của giám sát xã hội và phản biện xã
hội [39, tr.32].
Trong thực tiễn hoạt động, cần có sự phân biệt giữa giám sát với kiểm tra,
thanh tra và kiểm sát, sự khác nhau đó được thể hiện ở quan hệ pháp lý, về đối
tượng, chủ thể, phạm vi, phương pháp thực hiện và biện pháp xử lý.
Ở nước ta, mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp, đồng thời nhân dân còn thực hiện quyền làm chủ của mình thông
qua MTTQVN Việt Nam. Pháp luật ghi nhận quyền và trách nhiệm của Mặt trận và
các tổ chức thành viên Mặt trận trong giám sát là thực hiện mở rộng nền dân chủ
XHCN theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng.
Mục đích giám sát của MTTQVN Việt Nam, các tổ chức CT-XH và nhân
dân nhằm góp phần thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh tế, xã hội, văn
hóa, an ninh, quốc phòng và đối ngoại; kiến nghị khắc phục những sai sót, yếu kém
và sửa đổi, bổ sung những quy định không còn phù hợp; phát hiện những nhân tố
mới, những mặt tích cực; phát huy dân chủ, động viên nhân dân tích cực tham gia
xây dựng Đảng, Nhà nước.
Hoạt động giám sát được thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm phát huy dân
chủ, sự tham gia của Nhân dân, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; xuất

phát từ yêu cầu, nguyện vọng của Nhân dân; thực hiện công khai, minh bạch, không
chồng chéo; không làm cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám
10


sát. Trong hoạt động giám sát của MTTQVN phải bảo đảm những nguyên tắc về sự
lãnh đạo của Đảng, đúng pháp luật, thực sự khách quan, mang tính xây dựng cùng
hướng tới mục đích của giám sát là hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra
của Nhà nước và của Đảng, nhằm góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng và
bảo vệ Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ việc đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm
tra, giám sát: "Các cấp uỷ, tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực
hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng. Tập trung kiểm tra,
giám sát việc chấp hành Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, luật pháp,
chính sách của Nhà nước; việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế
làm việc, chế độ công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ;
việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, rèn luyện phẩm chất
đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện cải cách
hành chính, cải cách tư pháp; việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, nhất là
những vụ án nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận xã hội; kiểm tra, giám sát
việc tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ.
Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu tổ chức đảng, nhà nước, mặt trận và
các đoàn thể nhân dân các cấp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải phối hợp chặt chẽ với công tác thanh
tra của Chính phủ, công tác giám sát của Quốc hội và các cơ quan hành pháp, tư
pháp, MTTQVN và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và thẩm quyền của
mỗi cơ quan.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và hoạt động của hệ thống uỷ ban kiểm
tra các cấp. Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa uỷ ban kiểm tra đảng với các tổ chức
đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý

kỷ luật cán bộ, đảng viên".
- Có thể khái quát đặc trưng của giám sát của MTTQVN như sau:

11


Thứ nhất, giám sát của MTTQVN là hoạt động theo dõi, xem xét, phát hiện,
đánh giá việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu
dân cử, cán bộ, công chức Nhà nước.
Thứ hai, giám sát của MTTQVN mang tính chủ động, thường xuyên, liên
tục.
Thứ ba, nội dung, phương thức giám sát của Mặt trận; quyền và trách nhiệm
của MTTQVN và các cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức Nhà
nước trong giám sát được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Giám sát cùng với kiểm tra, thanh tra, kiểm sát là những hoạt động mang
tính tất yếu khách quan của tất cả các Nhà nước ở mọi thời đại lịch sử; là một nhiệm
vụ trong quá trình thực thi quyền lực chính trị nhằm làm cho các đối tượng của
giám sát thực hiện đúng yêu cầu, mục đích, chức năng, mục tiêu đã đặt ra.
Thuật ngữ giám sát hiện nay được dùng rất phổ biến trong khoa học chính
trị, pháp lý và được đề cập nhiều trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước và các tổ
chức CT-XH, tổ chức xã hội cũng như trong các mối quan hệ đời sống xã hội.
Thuật ngữ giám sát có thể được sử dụng một cách riêng rẽ, độc lập như:
“Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà
nước” (Điều 83 Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001); Hội Nông
dân “giám sát việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước ở nông thôn” (Điều 19 Điều lệ Hội Nông dân Việt Nam); Ủy ban Thường vụ
Quốc hội “giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân…” (Điều 91
Hiến pháp); Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam “kiểm tra, giám sát việc thực hiện Hiến
pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước có liên quan đến quyền lợi, đời sống của
phụ nữ, tr em…” (Điều 2 Điều lệ của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam).

Theo quan điểm của Học viện hành chính quốc gia: “Giám sát là sự tác động
quyền lực nhằm chấn chỉnh những lệch lạc, trái pháp luật, sai trái mục tiêu của một
hệ thống đối với một hệ thống khác nằm ngoài quan hệ trực thuộc theo chiều dọc”
[27, tr.202].

12


Cùng với sự giải thích trong các Từ điển tiếng Việt, “giám sát” còn được các
từ điển thuật ngữ chuyên ngành đề cập tới như là một khái niệm mang tính pháp lý.
Cụ thể, theo Từ điển Luật học: "Giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang
tính chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sáng tác động bằng các biện pháp tích
cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo,
quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã xác định từ trước, đảm bảo cho pháp
luật được tuân theo nghiêm chỉnh".[41, tr.292].
Đến nay, nhiều nhà khoa học cũng đưa ra khái niệm giám sát là một hoạt
động quan sát một cách chủ động, thường xuyên, liên tục hoạt động của khách thể
và sẵn sàng tác động để hướng các hoạt động của khách thể đi vào đúng quỹ đạo
nhằm đạt mục tiêu đã được xác định.
Trong cuốn tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội X của Đảng
Cộng sản Việt Nam [13, tr.184] khái niệm giám sát được nêu như sau: “Giám sát là
theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức cộng đồng người đối
với cá nhân, tổ chức, cộng đồng khác trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế – xã hội,
trong việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, đường lối, quan điểm của Đảng, chính
sách của Nhà nước, các quyền lợi, nghĩa vụ của công dân, của các tổ chức chính trị
- xã hội và kiến nghị phát huy ưu điểm, thành tựu, xử lý đối với cá nhân, tổ chức có
những hành vi sai trái”.
Từ các định nghĩa và cách hiểu như trên, có thể chỉ ra một số đặc trưng của
giám sát đó là:
Thứ nhất, giám sát là hành vi của chủ thể biểu hiện qua theo dõi, kiểm tra,

phát hiện, đánh giá hoạt động của đối tượng giám sát.
Thứ hai, mục đích của giám sát là xem xét, đánh giá việc làm, hoạt động của
đối tượng giám sát có thực hiện đúng những điều quy định, những định hướng đã
đặt ra hay không để cho phép kịp thời có những biện pháp xử lý nhằm khắc phục sai
sót.
Thứ ba, giám sát được tiến hành chủ động, thường xuyên, liên tục trong suốt
quá trình hoạt động của đối tượng giám sát.
13


Thứ tư, sự tác động qua lại giữa chủ thể giám sát và đối tượng bị giám sát có
mối quan hệ pháp lý, gắn quyền và trách nhiệm của mỗi bên. Khách thể giám sát mà
các bên trong quan hệ giám sát cùng hướng tới là trạng thái hoạt động bình thường,
thông suốt, đúng pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Chủ thể giám sát phải
là “khách quan, bên ngoài” độc lập tương đối với đối tượng giám sát.
Thứ năm, giám sát bảo đảm cho cán bộ, công chức, đảng viên luôn kiên định
về lập trường chính trị, có trách nhiệm công vụ, phẩm chất cách mạng tốt đẹp, ngăn
ngừa những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống và trong thực thi
nhiệm vụ được giao.
Thứ sáu, giám sát là công việc khó khăn, phức tạp đòi hỏi chủ thể giám sát
phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có quyết tâm cao, có kiến thức chuyên môn và
hiểu biết về luật pháp nhất định.
Trong hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước, giám sát việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật là một khâu không thể thiếu, là một bộ phận không thể tách rời
của quyền lực nhà nước, bởi lẽ:
Một là, thông qua hoạt động giám sát, Nhà nước khẳng định được pháp luật
đã ban hành có phản ánh đúng thực tiễn hay không, có tính khả thi hay không từ đó
kịp thời bổ sung, sửa đổi hoặc huỷ bỏ những quy định của pháp luật không còn phù
hợp với thực tiễn của xã hội nữa.
Hai là, thông qua hoạt động giám sát, Nhà nước phát hiện được những cá

nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xử lý, trừng phạt và như vậy pháp luật mới
được xã hội tôn trọng, tuân theo.
Từ sự phân tích trên, có thể rút ra một kết luận: Bất kỳ nhà nước nào, khi
thực hiện quyền lực nhà nước, tức là khi lãnh đạo và quản lý xã hội để duy trì sự tồn
tại của Nhà nước trong xã hội đó thì đều phải thực hiện quyền giám sát việc tuân
theo Hiến pháp và pháp luật do Nhà nước đặt ra. Đây chính là tư tưởng kiểm soát
quyền lực mà đã hình thành từ trong lịch sử tư tưởng của loài người, trong lịch sử tư
tưởng chính trị phương Tây và và phương Đông. Từ tư tưởng của Hàn Phi Tử ở
phương Đông đến tư tưởng kiểm soát quyền lực trong nền chính trị Aten cổ đại,từ
14


tư tưởng của Aritxtốt đến J. Lốccơ, Môngtétxkiơ thời cận đại, từ di sản lý luận của
C.Mác và Ph. ngghen đến tư tưởng Hồ Chí Minh thời hiện đại… đều thấy toát lên
tư tưởng cần thiết phải kiểm soát quyền lực. Trong cộng đồng xã hội, con người liên
kết lại với nhau theo cách ủy nhiệm một phần quyền lực của mình cho những người
lãnh đạo, quản lý. Khi đó, quyền lực nhà nước trở thành cư ng chế đối với nhân
dân. Nhưng mặt khác, quyền lực nhà nước là do nhân dân ủy thác, nên quyền đó
phải được người dân giám sát để không đi quá giới hạn mà nó được phép [56, tr.
243]. Mỗi kiểu nhà nước lại có kiểu tổ chức và phân công quyền lực nhà nước khác
nhau do đó có phương thức thực hiện giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp
luật khác nhau. Trong Nhà nước tư sản có sự phân chia rạch ròi giữa các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp; trên cơ sở này, Nhà nước tư sản dùng các quyền đó để
kiềm chế, đối trọng nhau. Sự đối trọng này chính là cơ chế “giám sát” của nhà nước
tư sản. Bên cạnh đó, trong Nhà nước tư sản còn tồn tại chế độ đa nguyên, đa đảng,
các đảng phái chính trị đóng vai trò to lớn trong việc giám sát hoạt động của Đảng
cầm quyền, của các cơ quan nhà nước. Còn trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa với
đặc điểm cơ chế quyền lực nhà nước tập quyền không tổ chức theo nguyên tắc “tam
quyền phân lập” và với đặc điểm một Đảng duy nhất cầm quyền trong hệ thống
chính trị nước ta, yếu tố “kềm chế” thay cho cơ chế đối trọng đã được xác lập: Các

thiết chế chính trị và quyền lực của chúng ta đều tự đặt mình dưới sự giám sát của
nhân dân [63, tr. 35]. Khẳng định mọi quyền lực là thuộc về nhân dân, Chủ tịch Hồ
Chí Minh coi việc kiểm soát quyền lực trước hết là thuộc về nhân dân, đó là trách
nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của người dân. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa năm 1946 đã ghi rõ: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân
dân Việt Nam” (Điều 1). Hiến pháp năm 1959 cũng xác định: “Tất cả quyền lực
trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân” (Điều 4) và “Tất cả
các cơ quan Nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân,
lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân” (Điều 6). Hiến pháp năm 1980
quy định: “Tất cả các cơ quan Nhà nước và nhân viên Nhà nước phải hết lòng hết
sức phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự
15


giám sát của nhân dân” (Điều 8). Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm
2001 quy định rõ tính nhân dân của bộ máy nhà nước với cụm từ: “Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” và “phải chịu sự giám sát của nhân dân; kiên
quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng”
(Điều 8).
Khái niệm giám sát của nhân dân được sử dụng để phân biệt với giám sát
mang tính quyền lực nhà nước và được coi là một chủ thể quan trọng của giám sát
xã hội. Thực tế ở nước ta, trong khoa học chính trị, pháp lý và các tài liệu, sách,
báo, tạp chí có cách hiểu khác nhau về giám sát xã hội. “Giám sát xã hội” với tính
chất là thuật ngữ được sử dụng tại văn kiện Đại hội X của Đảng được tiếp cận theo
hướng: Giám sát xã hội là giám sát của ba lực lượng cơ bản: Đảng Cộng sản Việt
Nam; các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và các cá nhân, tổ chức của xã hội
giám sát lực lượng lãnh đạo chính trị, lực lượng thực hiện quyền lực của nhân dân,
cán bộ công chức, đảng viên và các thành viên của xã hội trong việc thực hiện Điều
lệ, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước và quyền làm chủ,
quyền con người của nhân dân. Trong đó, giám sát xã hội của “các cá nhân, tổ chức

xã hội” đã được khái quát hóa thành giám sát của nhân dân.
Trong điều kiện cụ thể hiện nay ở Việt Nam, với chủ trương củng cố và mở
rộng dân chủ XHCN, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, các chủ thể
giám sát của nhân dân bao gồm: Cá nhân (nhà khoa học, chuyên gia, nhân sỹ, trí
thức…); Tổ chức đoàn thể nhân dân, MTTQVN và các tổ chức thành viên của Mặt
trận; Tổ chức kinh tế (doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế ); Tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp; hội, hiệp hội, liên hiệp hội, tổ chức phi Chính phủ.
Hệ thống chính trị của nước ta về mặt tổ chức bao gồm: Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam, MTTQVN và các tổ chức CT-XH.
Trong hệ thống đó, thực tiễn lịch sử và pháp lý đã khẳng định vị trí quan trọng của
MTTQVN Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đã nêu rõ:

16


Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức CT-XH, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu
biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại
diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã
hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối
ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng Cộng sản Việt Nam
vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt động theo phương
thức hiệp thương dân chủ, phối hợp thống nhất hành động giữa các thành viên theo
chương trình hành động chung.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với vai trò nòng cốt của xã hội dân sự, đại diện
cho lợi ích của nhân dân sẽ tạo ra yếu tố “kiềm chế” thay cho cơ chế “đối trọng”
trong hệ thống chính trị một Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội

ở nước ta. Để thực hiện vai trò của yếu tố “kiềm chế” nhằm kiểm soát quyền lực,
tránh xu hướng lạm quyền, vi phạm nền dân chủ, đòi hỏi MTTQVN phải thực hiện
tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội của mình.
Với những chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được quy định cụ thể như vậy,
có thể khẳng định MTTQVN là hình thức tổ chức thích hợp nhất để thực hiện quyền
giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử
và cán bộ, công chức nhà nước.
Theo Quy chế Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW,
ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị) thì khái niệm “Giám sát” là việc theo dõi, phát
hiện, xem xét; đánh giá kiến nghị nhằm tác động đối với cơ quan, tổ chức và cán bộ,
đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước về việc thực hiện các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tại Điều 2
Quy chế đã quy định về mục đích, tính chất của giám sát: Giám sát nhằm góp phần
17


xây dựng và thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh và đối ngoại; kịp thời phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém và kiến
nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp; phát hiện, phổ biến những nhân
tố mới, những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây
dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Giám sát của MTTQVN được thực hiện theo những nguyên tắc sau: 1) Bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật, Điều lệ Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và Điều lệ các đoàn thể CT-XH; 2) Có sự phối hợp chặt chẽ giữa
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể CT-XH với các cơ quan, tổ chức có
liên quan; không làm trở ngại các hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được
giám sát và phản biện xã hội; 3) Bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan và mang
tính xây dựng; 4) Tôn trọng các ý kiến khác nhau, nhưng không trái với quyền và

lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, đoàn viên, hội viên, lợi ích quốc gia,
dân tộc.
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về giám sát của MTTQVN như
sau: “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam các cấp trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam theo dõi, xem xét, đánh giá, kiến nghị đối với hoạt động của cơ
quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện
chính sách, pháp luật”.
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mang tính xã hội; đại diện, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, kịp thời phát hiện và kiến
nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật;
phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích
cực; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước trong
sạch, vững mạnh. Tính nhân dân trong giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ
sở chính trị của chính quyền nhân dân, do đó hoạt động giám sát của Mặt trận phải
18


mang tính nhân dân sâu sắc; mà trước hết là vai trò nhân dân - chủ nhân của đất
nước - không những chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia vào việc hoạch
định chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tính nhân dân trong
hoạt động giám sát xã hội của Mặt trận thể hiện ở những mục đích hết sức cụ thể,
đó là:
- Hoạt động giám sát phải đảm bảo dân chủ và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân; tôn trọng và
bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, của công dân, của cộng đồng xã hội
vì mục tiêu dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Hoạt động giám sát phải bảo đảm nguyên tắc xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm giải quyết

tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, một mặt tránh nguy cơ tuỳ tiện, độc
đoán, quan liêu, hách dịch, cửa quyền..., chuyển dịch thái độ từ "cai trị" sang "phục
vụ" của cơ quan nhà nước; làm cho cán bộ, công chức, đảng viên, đại biểu dân cử
phải tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân,
lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; đồng thời nhân dân - những
người làm chủ xã hội phải có ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật.
Đơn cử về chế định giám sát của MTTQVN Việt Nam, tại khoản 1, Điều 12
Luật MTTQVN quy định: Hoạt động giám sát của MTTQVN là giám sát mang tính
nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước, nhằm góp
phần xây dựng và bảo vệ Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam trong sạch, vững
mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân
dân.
Tính nhân dân còn thể hiện rõ qua việc Mặt trận sử dụng các phương thức
thích hợp để vận động được đông đảo nhân dân tham gia giám sát, dựa vào tai, mắt
của nhân dân theo dõi, phát hiện và cung cấp thông tin, tư liệu rất cụ thể về những
hành vi trái pháp luật, trái đạo đức của cán bộ, đảng viên sống ở khu dân cư hoặc
trong quan hệ làm việc giữa công chức với người dân. Thông qua các hoạt động của
mình, MTTQVN tập hợp ý kiến, kiến nghị các tấng lớp nhân dân, các dân tộc, các
19


tôn giáo, các vị tiêu biểu là thành viên của Mặt trận; tập hợp kiến nghị của các tổ
chức thành viên, đó là kho trí tuệ to lớn trong Mặt trận để thực hiện giám sát xã hội.
Trong hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tính nhân dân còn
thể hiện: Sau khi xem xét, đánh giá các sai sót, khuyết điểm, các hành vi vi phạm
pháp luật và đạo đức, Mặt trận kiến nghị khắc phục, sửa chữa, xử lý, nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của công dân, tổ chức bị xâm hại, bảo vệ sự
đúng đắn của chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
1.2. Đối tƣợng, nội dung, phạm vi và hình thức giám sát của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam

1.2.1. Đối tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Giám sát cũng luôn luôn gắn với một đối tượng cụ thể, tức là phải trả lời
được câu hỏi: giám sát ai, giám sát việc gì. Điều này có ý nghĩa quan trọng là nó
giúp phân việt giữa “giám sát” và “kiểm tra”. “Kiểm tra” là hoạt động tự tiến hành
xem xét của chủ thể hoạt động. Nói một cách khác, tự chủ thể hoạt động xem xét để
đánh giá tình trạng tốt, xấu của công việc mình đang thực hiện. Nhưng “giám sát”
thì không phải hoạt động tự theo dõi, xem xét mà là việc chủ thể giám sát tiến hành
theo dõi, kiểm tra, xem xét, đánh giá đối với chủ thể hoạt động và đưa ra những
nhận định về một hay nhiều việc làm nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai những
điều đã quy định trong Hiến pháp và pháp luật.
Điều 9, Hiến pháp năm 2013 quy định về địa vị chính trị pháp lý và nhiệm
vụ giám sát của MTTQVN và các tổ chức thành viên:
"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá
nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt
Nam định cư ở nước ngoài. MTTQVN là cơ sở chính trị của chính quyền Nhân dân;
đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng
thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt
động đối ngoại Nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
20


×