Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

Viện Kiểm sát nhân dân trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 146 trang )


1































ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





PHẠM THỊ ĐÀO




VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
ĐIỀU KIỆN CẢI CÁCH TƢ PHÁP HIỆN NAY





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







HÀ NỘI – 2011



2































ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





PHẠM THỊ ĐÀO



VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
ĐIỀU KIỆN CẢI CÁCH TƢ PHÁP HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. PHẠM HỒNG THÁI



HÀ NỘI – 2011




MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1 9
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT/CƠ QUAN
CÔNG TỐ 9
1. 1. VIỆN KIỂM SÁT TRONG BỘ MÁY NHÀ NƢỚC 9
1.1.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong bộ máy nhà nước 9
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát 11
1.2. TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN CÔNG TỐ CÁC NƢỚC
TRÊN THỂ GIỚI 25
1.2.1. Cơ quan công tố của một số quốc gia theo truyền thống luật án lệ 25
1.2.2. Cơ quan công tố ở một số nước theo truyền thống pháp luật Châu
Âu lục địa 34
1.2.3. Viện kiểm sát của một số quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi 42
Kết luận chƣơng 1 54
Chƣơng 2 56
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG VỀ
VIỆN KIỂM SÁT/VIỆN CÔNG TỐ Ở VIỆT NAM 56
2.1. KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN/ VIỆN CÔNG TỐ QUA CÁC THỜI KỲ Ở VIỆT NAM 56
2.1.1. Trong thời kỳ phong kiến 56
2.1.2. Trong thời kỳ Pháp thuộc 59
2.1.3. Viện kiểm sát của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – tiền thân của
Viện kiểm sát nhân dân ngày nay (giai đoạn từ năm 1945 – 1960) 63
2.1.4. Viện kiểm sát của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau hòa bình
lập lại (giai đoạn từ năm 1954-1958) 69
2.1.5. Viện kiểm sát nhân dân giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980 74
2.1.6. Viện kiểm sát nhân dân giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992 76



2.2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỪ NĂM 1992 ĐẾN NAY 78
2.2.1. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát từ năm
1992 đến nay. 78
2.2.2. Thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân từ năm 1992 đến nay 84
Kết luận chƣơng 2 96
Chƣơng 3 97
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG ĐIỀU KIỆN CẢI CÁCH TƢ PHÁP 97
3.1. YÊU CẦU ĐỐI VỚI ĐỔI MỚI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ PHÁP 97
3.2. XÂY DỰNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THEO NGHỊ QUYẾT 49 – NQ/TW
VÀ KẾT LUẬN 79 – KL/TW 100
3.2.1. Nội dung về đổi mới Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải
cách tư pháp 100
3.2.2. Mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy và hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân khu vực. 103
3.2.3. Mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương 108
3.2.4. Mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao 112
3.2.5. Mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao 116
3.3. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THEO
YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ PHÁP 121
3.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật để làm cơ sở pháp lý 121
3.3.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung, Viện kiểm sát nhân dân

nói riêng trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình mới 123


3.3.3. Đổi mới Viện kiểm sát phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng
tâm và trọng điểm 124
3.3.4. Tăng cường sự giám sát của các cơ quan dân cử, tổ chức và nhân dân 124
3.3.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị 125
Kết luận chƣơng 4 127
KẾT LUẬN 128
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 130













MỞ ĐẦU

1. Lý do nghiên cứu đề tài
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm cuộc cách mạng thành
công, Cách mạng Tháng Tám năm 1945, từ đó Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà, một Nhà nước kiểu mới, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông
Nam Á ra đời. Trong hơn 60 năm xây dựng và không ngừng hoàn thiện bộ

máy nhà nước kiểu mới, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
Đảng và nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến việc thành lập và kiện toàn các
cơ quan tư pháp, trong đó có Viện Kiểm sát nhân dân. Có thể nói, trong mỗi
giai đoạn của cách mạng nước ta, cùng với các cơ quan khác trong bộ máy nhà
nước, Viện Kiểm sát nhân dân đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ chính
quyền cách mạng của nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp chế xã hội
chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập
thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Trước nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, trước yêu cầu Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng và
chống tội phạm ở nước ta trong tình hình hiện nay thì cải cách Viện kiểm sát
là một trong những nội dung quan trọng trong cải cách bộ máy nhà nước nói
chung và cải cách tư pháp nói riêng. Đồng thời, cải cách Viện kiểm sát nhằm
xây dựng hệ thống cơ quan Viện kiểm sát trong sạch, vững mạnh, nâng cao
chất lượng và hiệu quả hoạt động.
Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản
Việt Nam cũng nêu rõ: “Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh
thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010. Cải cách tư pháp khẩn


trương, đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm, thực hiện cơ
chế công tố gắn với hoạt động điều tra” [2, tr 29]. Bên cạnh đó, Nghị quyết số
49 – NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định nhiều nội dung về đổi mới tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó hoàn thiện về tổ chức và
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, và gần đây nhất là Kết luận số 79 –
KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt
động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49 -

NQ/TW thì chức năng của Viện kiểm sát trong thời gian tới vẫn được tiếp tục
xác định chắc chắn đó là: “Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay”. Theo đó, vấn
đề cải cách tư pháp đã được quán triệt và trở thành nhiệm vụ quan trọng, cấp
bách của toàn Đảng, toàn dân, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận
thức cũng như hành động, đồng thời phù hợp với quá trình đổi mới công tác
lập pháp và chương trình cải cách hành chính.
Trong hơn 60 năm qua, tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân ở
nước ta đã đạt được nhiều kết quả, góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, bảo vệ pháp chế XHCN, đồng thời tạo môi trường ổn định
cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bên
cạnh những kết quả đạt được như đã nêu thì tổ chức và hoạt động Viện kiểm
sát nhân dân đã bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế, bất cập như: chất lượng và hiệu
quả trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm chưa cao, tình trạng bỏ lọt
tội phạm và người phạm tội vẫn còn xảy ra nhiều, tình trạng oan, sai trong
điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn xảy ra… đòi hỏi phải nhanh chóng cải cách
mạnh mẽ, toàn diện về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình mới.


Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: Viện kiểm sát nhân dân trong
điều kiện cải cách tư pháp hiện nay làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Trong những năm gần đây đã có một số công trình khoa học, các bài viết
trên các tạp chí liên quan đến nội dung về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân trong điều kiện cải cách tư pháp. Có thể chia các công trình theo
các nhóm sau:
- Nhóm thứ nhất: Các công trình nghiên cứu về tổ chức bộ máy nhà nước
và hệ thống cơ quan tư pháp có liên quan đến Viện kiểm sát nhân dân và nổi

bật trong số này gồm có: Đề tài khoa học cấp Nhà nước mã số KX.04.06 “Cải
cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao
hiệu quả”; và “Hệ thống tư pháp và và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”
của tập thể các tác giả do GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Khoa học xã
hội năm 2002; “Góp bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện nay” của TS
Ngô Huy Cương, Nxb Tư pháp 2005; “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp
quyền” của Nguyễn Đăng Dung (2004), Nxb Tư pháp, Hà Nội; “Xây dựng
nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng” của Luật sư Nguyễn Văn
Thảo, Nxb Tư pháp năm 2006. Liên quan đến nhóm vấn đề này còn có kỷ yếu
các cuộc hội thảo về lịch sử Viện kiểm sát nhân dân.
- Nhóm thứ hai: Các công trình nghiên cứu về Viện kiểm sát ở dưới những
góc độ khác nhau, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau đây: Vị trí,
vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước CHXHCN Việt
Nam, Khuất Văn Nga (1993); Luận án phó tiến sỹ Luật học; Viện kiểm sát
nhân dân trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền, Nguyễn Đăng Dung
(2007); Cơ quan công tố một số nước: Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Úc, Nga, Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Thái Lan, chủ nhiệm : TS Lê Hữu Thể
(2006); Nguyễn Tất Viễn: Một số suy nghĩ về cơ quan Công tố ở Việt Nam


trong thời kỳ cải cách tư pháp. Tạp chí Kiểm sát số 14 (7/2007), tr. 55;
Nguyễn Thái Phúc: Viện kiểm sát hay Viện công tố. Tạp chí kiểm sát số 14
(7-2007), tr. 37-48; Phạm Hồng Hải: Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ
quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp. Tạp chí kiểm sát số 14 (7/2007), tr. 51; Thông tin khoa học kiểm sát,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao….
Nghiên cứu nội dung các tác phẩm và các công trình trên cho thấy các tác
phẩm hoặc các công trình chưa đề cập sâu, mới chỉ dừng lại ở phạm vi khái
quát và nghiên cứu ở một mức độ nhất định, chưa đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu
ở một mức độ nhất định, chưa đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu một cách hệ thống,

toàn diện, sâu sắc về yếu tố tình thế cấp thiết. Vì vậy đề tài “Viện kiểm sát
nhân dân trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay” không trùng lắp với
bất kỳ đề tài khoa học, Luận văn, Luận án nào.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
3.1. Mục tiêu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là dưới góc độ lý luận và lịch sử Nhà
nước và pháp luật làm rõ cơ sở lý luận đồng thời nghiên cứu một cách có hệ
thống về quá trình hình thành và phát triển của tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát/Cơ quan công tố ở nước qua tất cả các thời kỳ cho đến nay, đặc biệt
là đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động từ năm 2002 đến nay; nghiên cứu
các tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố một số nước trên thế giới, từ đó
rút ra một số kinh nghiệm; nghiên cứu và làm rõ các nội dung cải cách tư
pháp có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, đồng thời phân
tích những quan điểm, những ý kiến khác nhau về chế định Viện kiểm sát. Từ
việc nghiên cứu này, cùng với quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư
pháp trong đó có Viện kiểm sát nhân dân để xây dựng phương hướng, giải
pháp và mô hình thực hiện đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát


nhân dân đạt hiệu quả, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc cải cách tư
pháp ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục tiêu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ về mặt lý luận về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
- Phân tích, đánh giá quá trình hình thành, phát triển của cơ quan công tố
trên thế giới cũng như ở Việt Nam, từ đó rút ra những kinh nghiệm nhằm làm
luận cứ khoa học trong việc xây dựng phương hướng cải cách Viện kiểm sát
nhân dân trong thời gian tới.
- Xem xét một cách toàn diện cơ quan công tố của các nước trên thế giới và

trong khu vực nhằm vận dụng những tinh hoa, những giá trị khoa học pháp lý
vào công cuộc cải cách tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát.
- Trên cơ sở lý luận, thực tiễn, những yêu cầu khách quan, những quan
điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp, xây dựng những phương hướng và
những giải pháp cơ bản của cơ quan tư pháp nói chung và Viện kiểm sát nhân
dân nói riêng trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về vị trí, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát.
- Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của Viện kiểm sát các nước
trên thế giới, trong khu vực và ở Việt Nam.
- Nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát ở nước ta.
- Cùng với những quan điểm của Đảng và những yêu cầu đổi mới Viện kiểm
sát, xây dựng mô hình và giải pháp thực hiện việc đổi mới Viện kiểm sát.


4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Quá trình hình thành, phát triển và đổi mới Viện kiểm sát theo yêu cầu cải
cách tư pháp là một vấn đề rất rộng và liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều
ngành khoa học xã hội. Do vậy, phạm vi nghiên cứu luận văn đuợc giới hạn:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về Viện kiểm sát trong bộ máy nhà nước nói
chung và bộ máy nhà nước ta nói riêng.
- Quá trình hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nước ta và Viện
kiểm sát các nước trên thế giới nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm để vận
dụng trong đổi mới Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp. Trên cơ sở
pháp luật hiện hành, luận văn đánh giá đúng thực trạng về tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát từ năm 1992 đến nay.
- Nghiên cứu xây dựng mô hình Viện kiểm sát và giải pháp tổ chức thực
hiện.

5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng về từng bước
hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Luận văn cũng được trình bày trên cơ sở nghiên cứu Hiến
pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát, Pháp lệnh Kiểm sát viên và các văn bản
pháp luật khác quy định về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp kết hợp
lý luận với thực tiễn; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp hệ
thống; phương pháp luật học so sánh để làm sáng tỏ những nội dung cần
nghiên cứu của luận văn.


6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và luận cứ khoa
học về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát
đồng thời trên cơ sở này luận văn làm rõ khái niệm, đối tượng, phạm vi của
quyền công tố và thực hành quyền công tố; mối quan hệ giữa quyền công tố
và thực hành quyền công tố; hoạt động tư pháp và kiểm sát các hoạt động tư
pháp.
- Khái quát quá trình hình thành, phát triển, tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát các nước trên thế giới, trong khu vực và ở nước ta để từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm nhằm vận dụng trong việc đổi mới Viện kiểm sát
theo yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
- Trên cơ sở tổng hợp số liệu qua nhiều nguồn xác thực, luận văn đánh giá
đúng thực trạng tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát trong những năm qua
để rút ra những mặt mạnh, những mặt yếu, nguyên nhân để làm cơ sở thực
tiễn cho việc đổi mới Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp.
- Trên cơ sở lý luận, thực tiễn, những yêu cầu đổi mới, những quan điểm

chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp, luận văn xây dựng mô hình Viện kiểm
sát và những giải pháp đổi mới Viện kiểm sát có căn cứ khoa học, có tính khả
thi, phù hợp điều kiện thực tiễn nhằm góp phần đổi mới Viện kiểm sát theo
yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ quan điểm của
Đảng và Nhà nước về vai trò của các cơ quan tư pháp, trong đó có Viện kiểm
sát nhằm nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của Viện kiểm sát trong tiến
trình cải cách tư pháp hiện nay.
Qua phân tích cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng của Viện kiểm sát hiện
nay, luận văn góp phần khẳng định tính tất yếu của chủ trương cải cách tư


pháp hiện nay của Đảng; đổi mới Viện kiểm sát nhằm bảo đảm các nhu cầu
khách quan của tình hình kinh tế - xã hội, của nền dân chủ và nhu cầu đấu
tranh chống vi phạm và tội phạm hiện nay nhằm góp phần xây dựng nhà nứoc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Luận văn khẳng định vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
Viện kiểm sát trong bộ máy nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc
đổi mới đất nước. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
các giáo viên, sinh viên và các nhà nghiên cứu về luật.
8. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm có 03 chương được kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về Viện kiểm sát/Cơ quan công tố
Chương 2: Quá trình hình thành, phát triển và thực trạng về Viện kiểm
sát/Viện công tố ở Việt Nam
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp đổi mới Viện kiểm sát nhân dân trong điều
kiện cải cách tư pháp














Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ VIỆN KIỂM SÁT/CƠ QUAN CÔNG TỐ

1. 1. VIỆN KIỂM SÁT TRONG BỘ MÁY NHÀ NƢỚC
1.1.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong bộ máy nhà nƣớc
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước kiểu mới, nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân. Với bản chất nhà nước xã
hội chủ nghĩa, nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là quyền lực nhà
nước là thống nhất và tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Từ bản chất của
nhà nước ta, tổ chức theo nguyên tắc tập quyền, khác với nguyên tắc phân
quyền trong nhà nước tư bản. Do vậy, nhân dân thực hiện quyền lực của mình
thông qua cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, do nhân dân bầu ra, do vậy
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất. Song, Quốc hội không thể nắm giữ
và làm tất cả các quyền lực đó mà có sự phân công, phân nhiệm rạch rồi giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Tất cả những vấn đề nêu trên đều được ghi nhận trong tất cả Hiến
pháp, mà cụ thể tại Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)

quy định: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả
quyền lực thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”
Xuất phát từ bản chất và đặc điểm cơ bản nhất của nhà nước ta, phải đảm
bảo nguyên tắc tập trung thống nhất quyền lực, kết hợp với nguyên tắc tập
trung dân chủ để phân công, phân nhiệm cho từng cơ quan trong bộ máy nhà


nước nhằm đảm bảo tính tập trung nhưng cũng phát huy tính tự chủ để để
thực hiện tốt quyền lực của nhân dân. Như vậy, lập pháp, hành pháp và tư
pháp là ba phạm vi quyền lực thống nhất trong nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Viện kiểm sát nhân dân là một bộ phận quan trọng trong bộ
máy nhà nước ta, tổ chức và hoạt động cũng chi phối bởi các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Viện kiểm sát nhân dân là một trong bốn hệ thống cơ quan nhà nước do
Quốc hội bầu ra, thuộc hệ thống các cơ quan tư pháp và là một thiết chế đặc
thù trong tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Kể từ khi thành lập đến nay, Viện kiểm sát nhân dân luôn khẳng định được
vị trí, vai trò của mình trong bộ máy nhà nước ta. Ngay từ những ngày đầu
thành lập nước đến Hiến pháp năm 1959, mặc dù tổ chức của Viện kiểm sát
vẫn tồn tại trong hệ thống tòa án nên chưa hình thành một hệ thống Viện kiểm
sát nhân dân độc lập như ngày nay, song về hoạt động luôn đã thể hiện tính
độc lập. Sau khi hệ thống Viện công tố chuyển thành hệ thống Viện kiểm sát
nhân dân theo Hiến pháp năm 1959, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 1960 đến nay, vị trí của Viện kiểm sát nhân dân không hề thay đổi và
luôn khẳng định vị trí độc lập trong bộ máy nhà nước; đặc biệt trong thời đổi
mới đất nước thì vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân càng được nâng cao

nhằm đặt ra trong tình hình mới. Do vậy, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân là
một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập, thống nhất từ trung ương đến địa
phương. Viện kiểm sát nhân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
cấp trên, đồng thời Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Viện
trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao do Quốc hội bầu, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.


Với vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước thì
Viện kiểm sát là một trong những cơ quan thể hiện trực tiếp bản chất của Nhà
nước ta, là một bộ phận quan trọng và không thể thiếu trong bộ máy Nhà
nước. Điều 126 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định
nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân là: “Bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản tập
thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân”.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát
Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Điều 1 Luật
Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định chức năng Viện kiểm sát
nhân dân: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp theo Hiến pháp và pháp luật”. Như vậy, so với trước đây
thì chức năng của Viện kiểm sát nhân dân theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2002 có sự điều chỉnh theo hướng xác định chức năng thực
hành quyền công tố là trọng tâm đồng thời thu hẹp phạm vi chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật. Theo quy định, Viện kiểm sát nhân dân không
thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành
chính, kinh tế, xã hội nữa mà tập trung kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đối
với kiểm sát các hoạt động tư pháp, các cơ quan, đơn vị và cá nhân có liên
quan trong lĩnh vực tư pháp.

1.1.2.1. Chức năng của Viện kiểm sát
a, Quyền công tố và thực hành quyền công tố
Ở nước ta, thuật ngữ “quyền công tố” và “thực hành quyền công tố” lần
đầu tiên chính thức được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980 và kế đến là
Điều 23 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 1988. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn tồn
tại rất nhiều quan điểm quan điểm khác nhau về khái niệm, đối tượng, phạm
vi của quyền công tố, thực hành quyền công tố.


- Về quyền công tố:
Khái niệm quyền công tố không phải là vấn đề mới, nhưng hiện nay ở nước ta
có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố. Nhìn chung các quan điểm ít
nhiều đều có những nội dung hợp lý, có những điểm tương đồng. Song nếu xét
một cách toàn diện, ở nhiều góc độ thì nước ta nổi lên một số quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, tất cả các hoạt động của kiểm sát việc tuân
theo pháp luật là thực hành quyền công tố [22, tr.17-20]. Chúng tôi cho rằng
quan điểm này đã đánh đồng chức năng thực hành quyền công tố với chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát, đồng thời không
xem chức năng công tố là một chức năng độc lập của Viện kiểm sát mà chỉ là
một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật hoàn toàn không đúng. Bởi vì, Viện kiểm sát có 02 chức năng (chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật). Thật vậy,
Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Điều
1, Điều 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 thì Viện kiểm sát
có hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Tuy nhiên, tùy theo từng đoạn nào thì chức năng công tố và chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật là hoàn toàn độc lập và song song tồn tại;
hai chức năng này có mối quan hệ biện chứng với nhau. Do vậy, không phải
mọi hoạt động của Kiểm sát viên lúc nào cũng thực hiện hai chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố. Mặt khác, xuất phát

từ quan điểm xem tất cả hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật là thực
hành quyền công tố và thực hành quyền công tố giống nhau. Theo chúng tôi,
nếu hiểu quyền công tố như trên là quá rộng và chưa chính xác. Bởi vì đối
tượng và phạm vi của kiểm sát việc tuân theo pháp luật hầu hết tất cả các lĩnh
vực nên rất rộng, trong khi đó đối tượng, phạm vi của quyền công tố chỉ thực
hiện trong lĩnh vực hình sự.


Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền công tố là quyền của Nhà nước giao
cho Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc
tội tại phiên tòa sơ thẩm [23, tr 75 - 76]. Quan điểm này cho rằng chỉ có Viện
kiểm sát mới có quyền này và chỉ diễn ra trong tố tụng hình sự (cũng chỉ có ở
một giai đoạn xét xử sơ thẩm). Quan điểm này còn đồng nhất quyền công tố
với quyền buộc tội của Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm. Theo chúng tôi,
truy tố và buộc tội chỉ là một trong số quyền năng của Viện kiểm sát khi thực
hành quyền công tố chứ không nói lên được bản chất của quyền này. Buộc tội
và sự bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa chỉ là những hoạt động cụ thể trong hệ
thống các hoạt động của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố. Mặt
khác, chúng ta biết rằng quyền công tố là quyền của nhà nước không chỉ giao
cho Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố mà ngay khi khởi tố vụ án. Do vậy,
nếu hiểu quyền công tố quan điểm này dẫn đến phạm vi của quyền công tố
quá hẹp, đồng thời tạo nên nhầm lẫn giữa quyền công tố và thực hành quyền
công tố.
Quan điểm thứ ba cho rằng, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước
đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra Tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, bảo vệ lợi ích chung, bảo vệ lợi ích cá nhân [15, tr.62 – 67].
Quan điểm này cho rằng quyền công tố xuất hiện từ khi có nhà nước và pháp
luật được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực tố tụng hình sự, song cùng với sự
phát triển của thời gian và xã hội cho nên quyền công tố mở rộng sang các
lĩnh vực khác như tố tụng dân sự, tố tụng lao động, tố tụng hành chính Mặt

khác, không phải bất cứ vụ án hành chính, dân sự, lao động nào cũng bắt buộc
Viện kiểm sát tham gia phien tòa với tư cách là chủ thể quyền lực công để sử
dụng quyền công tố. Theo chúng tôi, quyền công tố được xác định là quyền
của nhà nước, nhằm truy tố người phạm tội ra trước Tòa án. Do vậy, đối
tượng quyền công tố là tội phạm và người phạm tội cho nên quyền công tố chỉ


có trong tố tụng hình sự mà không có trong các lĩnh vực khác như: tố tụng
dân sự, hành chính, lao động…
Qua xem xét các quan điểm trên, chúng ta nhận thấy nguyên nhân khác
nhau về quyền công tố của các quan điểm trên là do chưa xác định đúng đối
tượng, nội dung và phạm vi của quyền công tố. Cụ thể:
+ Xem quyền công tố là quyền năng, hình thức thực hiện chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật hoặc đánh đồng quyền công tố với kiểm sát việc
tuân theo pháp luật, từ đó mở rộng phạm vi quyền công tố không chỉ trong tố
tụng hình sự mà còn sang các lĩnh vực khác
+ Chỉ xem quyền công tố là quyền truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án để xét xử
và bảo vệ buộc tội tại phiên tòa sơ thẩm. Điều đó cho thấy, quyền công tố chỉ có
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm mà không có trong giai đoạn điều tra cũng như
trong giai đoạn xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Xuất phát từ các căn của khoa học, các quy định pháp luật, thực tiễn hoạt
động và bản chất Nhà nước chúng tôi cho rằng: Quyền công tố ở Việt Nam là
quyền của Nhà nước mà Viện kiểm sát nhân danh công quyền nhằm thực hiện
việc truy cứu trách nhiệm hình sự (buộc tội) đối với người phạm tội và bảo vệ
việc buộc tội trước phiên tòa nhằm bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội
và đúng quy định pháp luật.
- Thực hành quyền công tố:
Việc quy định cơ quan thực hành quyền công tố ở mỗi nước khác nhau, tùy
thuộc vào bản chất nhà nước, điều kiện và hoàn cảnh của từng quốc gia. Ở
nước ta, thực hành quyền công tố được nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực

hiện chức năng này, cho nên chỉ có Viện kiểm sát mới có chức năng thực
hành quyền công tố mà không cơ quan nào có được. Thực tế cho thấy, có rất
nhiều người nhầm lẫn hoặc nhận thức sai lầm giữa quyền công tố và thực
hành quyền công tố, giữa thẩm quyền của Viện kiểm sát với các quyền năng


pháp lý để thực hiện thẩm quyền đó, hay hành vi nào là thực hành quyền công
tố hay hành vi nào là thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Như vậy, vấn đề đặt ra là các Cơ quan điều tra và Tòa án cũng có quyền khởi
tố vụ án hình sự hoặc bắt người phạm tội để điều tra, thu thập chứng cứ, thì
các cơ quan này có phải là thực hành quyền công tố hay không? [18, tr.75-
80]. Chúng tôi cho rằng, các Cơ quan điều tra, Tòa án hay một số cơ quan
khác có chức năng khởi tố vụ án, điều tra, thu thập chứng cứ nhưng không
nhân danh công quyền truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử và
bảo vệ việc truy tố trước Tòa cho nên các cơ quan nay không có chức năng
thực hành quyền công tố. Mặt khác, phạm vi quyền công tố là từ khi tội phạm
xảy ra và kết thúc bản án có hiệu lực pháp luật. Để đảm bảo việc thực hiện
quyền đó, nhà nước quy định các quyền năng pháp lý mà cơ quan có thẩm
quyền đưa vụ án ra tòa để xét xử và bảo vệ buộc tội đó goi là cơ quan thực
hành quyền công tố.
Như vậy, từ lý luận cũng như thực tiễn có thể khẳng định rằng, chỉ có Viện
kiểm sát mới có chức năng thực hành quyền công tố. Chúng tôi cho rằng, thực
hành quyền công tố là: Việc cơ quan Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các biện
pháp do luật định để truy cứu trách nhiệm hình sự (buộc tội) đối với người
phạm tội trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử.
*Nội dung thực hành quyền công tố:
Hiện nay, trong lý luận cũng như thực tiễn nhận thấy thường có sự nhầm
lẫn giữa chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát các hoạt
động tư pháp của Viện kiểm sát.
- Trong giai đoạn điều tra:

+ Khởi tố vụ án, khởi tố bị can là những biện pháp khởi động quyền công
tố và mở đầu cho các hoạt động tiếp theo để làm rõ tội phạm đã xảy ra, vạch
trần động cơ, mục đích của người phạm tội. Những quyền năng pháp lý trên


có Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm
lâm…thực hiện. Tuy nhiên, quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự một cách
độc lập và không chịu sự giám sát của cơ quan nào thì chỉ có cơ quan Viện
kiểm sát mà thôi. Viện kiểm sát còn có quyền hủy bỏ quyết định khởi tố
không có căn cứ và trái pháp luật đối với những cơ quan trên, đề ra yêu cầu
điều tra, yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra và trực tiếp tiến hành một
số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật.
+ Phê chuẩn, không phê chuẩn việc áp dụng hoặc hủy bỏ, các biện pháp
ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam, gia hạn tạm giữ, gia hạn tạm giam của
Cơ quan điều tra. Ngoài ra, Viện kiểm sát còn trực tiếp áp dụng, thay đổi các
biện pháp ngăn chặn như ra lệnh bắt, ra lệnh tạm giam bị can và phê chuẩn
khám xét của Cơ quan Điều tra.
+ Quyết định việc truy tố hay không truy tố bị can ra tòa hoặc quyết định
chấm dứt việc thi hành quyền công tố bằng việc đưa ra các quyết định như
đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án (cơ quan điều tra cũng có quyền này nhưng
đặt dưới sự kiểm sát của Viện kiểm sát).
- Trong giai đoạn xét xử:
+ Duy trì thực hành quyền công tố bằng các hoạt động như công bố cáo
trạng, trình bày những ý kiến bổ sung nếu có, tham gia thẩm vấn đối với bị
cáo và những người tham gia tố tụng khác như người bị hại, người làm chứng,
giám định viên, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Khi kết thúc thẩm vấn, Kiểm sát viên trình bày luận tội; luận tội là đề nghị kết
tội toàn bộ hay một phần hoặc rút toàn bộ cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét
xử tuyên bố bị cáo không phạm tội. Việc tranh luận giữa Kiểm sát viên với
Luật sư và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa nhằm mục đích

bảo vệ tính có căn cứ và tính hợp pháp của cáo trạng, làm rõ thêm các tình tiết
khác có liên quan đến vụ án và tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Qua đó,


giúp Hội đồng xét xử đánh giá chứng cứ một cách khách quan để ra những
bản án đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
+ Kháng nghị bản án của Tòa án khi có vi phạm về nội dung như: chứng cứ
buộc tội, kết tội không đúng với quy định pháp luật, áp dụng không đúng các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, mức hình phạt, xuất hiện những tình tiết mới
của vụ án. Phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên phúc thẩm, giám
đốc thẩm và tái thẩm…
Do vậy, nội dung thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng
tổng hợp các quyền năng tố tụng độc lập để truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội nhằm bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng
quy định pháp luật và thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án đến khi bản án có
hiệu lực pháp luật.
b, Hoạt động tƣ pháp và kiểm sát hoạt động tƣ pháp
- Hoạt động tư pháp
Để thực hiện quyền tư pháp, các nhà nước đều không ngừng xây dựng và
hoàn thiện cơ quan tư pháp để thực hiện quyền tư pháp. Ở nước ta, khi đề cập
đến cơ quan tư pháp cũng có nhiều quan điểm khác nhau: Có quan điểm cho
rằng cơ quan tư pháp chỉ là những cơ quan tài phán; có quan điểm cho rằng
cơ quan tư pháp bao gồm cơ quan tài phán và cơ quan công tố; quan điểm
khác cho rằng cơ quan tư pháp là bao gồm tất cả các cơ quan bảo vệ pháp luật
như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Thanh tra, các cơ quan bổ trợ tư
pháp như: Luật sư, giám định, công chứng. Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi, bổ sung năm 2001) quy định hệ thống cơ quan tư pháp gồm có: Tòa án,
Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức
hỗ trợ cho hoạt động xét xử như: Tổ chức luật sư, tổ chức giám định tư pháp,
cơ quan công chứng; trong các cơ quan tư pháp nói trên thì Tòa án là nơi biểu

hiện tập trung của quyền tư pháp.


Mặt khác, kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng đến
nay, vấn đề cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách tư pháp (công tác
tư pháp và cơ quan tư pháp) nói riêng rất được quan tâm. Đặc biệt, các Nghị
quyết Hội nghị lần thứ ba và lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII; Chỉ thị 53 - CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị “Về một số
công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000”;
Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết 49 -
NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020. Như vậy, qua thực tiễn hoạt động cũng như nghiên cứu các văn
bản pháp luật của Nhà nước và văn kiện, nghị quyết của Đảng nhận thấy thuật
ngữ cơ quan tư pháp ở nước ta đã xuất hiện từ lâu và cơ quan tư pháp được
hiểu theo nghĩa rộng gồm: Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan
thi hành án. Do vậy, cơ quan tư pháp có 04 dấu hiệu đặc trưng cơ bản: Thứ
nhất, cơ quan tư pháp là tổ chức quyền lực nhà nước trong bộ máy công
quyền; Thứ hai, cơ quan tư pháp tạo thành hệ thống các cơ quan độc lập có
thẩm quyền riêng biệt do luật định để giải quyết sự xung đột các mối quan hệ
xã hội; Thứ ba, cơ quan tư pháp chuyên thực hiện quyền xét xử bằng hoạt
động tố tụng tư pháp (tài phán); Thứ tư, hoạt động cơ quan tư pháp nhằm mục
đích bảo vệ chế độ hiến định, nhân thân, các quyền tự do của con người và
công dân [5, tr.35 -36].
Tuy nhiên, qua nhận thức về tư pháp của các cơ quan tư pháp, hoạt động
thực tiễn và các quy định của pháp luật thì hoạt động tư pháp như sau: Hoạt
động tư pháp là hoạt động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia vào
việc giải quyết các tranh chấp pháp lý, các vi phạm pháp luật thuộc thẩm
quyền phán quyết của Tòa án và thi hành các phán quyết đó theo thủ tục tố
tụng mà pháp luật quy định. Như vậy, ngoài Tòa án là cơ quan được giao



chức năng thay mặt nhà nước ra các phán quyết, còn có sự tham gia của nhiều
cơ quan, thậm chí tổ chức và cá nhân. Không có quyết định khởi tố vụ án của
cơ quan điều tra, không có quyết định truy tố của Viện kiểm sát thì không có
xét xử vụ án hình sự; không có khởi kiện của nguyên đơn dân sự thì không có
vụ án dân sự… Theo quan niệm này, hoạt động tư pháp có một số đặc trưng
sau: Thứ nhất, hoạt động tư pháp gắn liền với xung đột pháp lý, tranh chấp
hoặc vi phạm pháp luật. Hoạt động tư pháp cụ thể chỉ phát sinh khi có xung
đột pháp lý hay vi phạm pháp luật; Thứ hai, hoạt động tư pháp có tính độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật; Thứ ba, hoạt động tư pháp phải được điều chỉnh
bằng thủ tục tố tụng công khai, rõ ràng, minh bạch [9, tr.28-29].
Qua nghiên cứu các văn kiện của Đảng, các quy định của pháp luật và thực
tiễn hoạt động cho thấy khái niệm tư pháp, cơ quan tư pháp được hiểu theo
nghĩa rộng nên hoạt động tư pháp cũng được xác định theo nghĩa rộng. Thật
vậy, Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị là nghị quyết
đầu tiên về cải cách tư pháp ở nước ta nhằm củng cố, sắp xếp, kiện toàn bộ
máy cơ quan tư pháp và công tác tư pháp trong tình hình mới. Trong nghị
quyết này, các hình thức hoạt động tư pháp cũng thể hiện rất rõ: Thứ nhất: các
hoạt động tư pháp – hoạt động tố tụng tư pháp gồm: hoạt động điều tra, hoạt
động công tố, hoạt động xét xử và hoạt động thi hành án; Thứ hai: các hoạt
động bổ trợ tư pháp gồm: hoạt động của luật sư, hoạt động giám định tư pháp,
hoạt động công chứng, hoạt động của lực lượng cảnh sát hỗ trợ tư pháp.
- Kiểm sát hoạt động tư pháp:
Trong những năm gần đây, một số công trình, bài viết của nhiều tập thể,
của nhiều tác giả về kiểm sát hoạt động tư pháp có nhiều quan điểm khác
nhau nhưng tựu trung có một quan điểm sau:
Một là, kiểm sát hoạt động tư pháp chỉ bao gồm nội dung kiểm sát các hoạt
động tố tụng như điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Như vậy là phù hợp



với tinh thần và nội dung của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002. Điều 1 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: “Viện
kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật”. Theo quy định tại Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định kiểm sát hoạt động tư pháp
bằng các hoạt động sau:
1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của các cơ quan
điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra.
2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của Tòa án nhân dân.
3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân.
4. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ và cải tạo.
5. Điều tra tội phạm trong những trường hợp do pháp luật tố tụng hình sự
quy định.
6. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý
và giáo dục người chấp hành án phạt tù.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, trong hoạt động thi hành án không hẳn đã là
hoạt động tư pháp. Trong hoạt động thi hành án có cả hành chính - tư pháp.
Do vậy, vấn đề đặt ra là kiểm sát hoạt động thi hành án có phải là kiểm sát
hoạt động tư pháp hay không? Nếu xem việc kiểm sát hoạt động tư pháp bao
gồm tất cả hoạt động thi hành án có đúng với đối tượng kiểm sát hoạt động thi
hành án hay không?
Hai là, kiểm sát các hoạt động tư pháp bao gồm kiểm sát hoạt động khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử (cả các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình,
lao động, kinh tế, hành chính) và phần tư pháp trong thi hành án. Lý giải cho
quan điểm này, tác giả đã đưa ra ba lập luận sau: 1) thi hành án là bước tiếp

×