Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Giáo dục lịch sử dân tộc cho học sinh THPT tại Hưng Yên hiện nay qua khảo sát một số trường - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.83 KB, 50 trang )

Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ: Giáo dục lịch sử dân tộc cho học sinh THPT
tại Hưng Yên hiện nay qua khảo sát một số trường - thực trạng và giải pháp.
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
ĐHQG. HN Đại học Quốc gia
ĐHSP. HN Đại học Sư phạm Hà Nội
GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
GS.TS Giáo sư. Tiến sĩ
HS Học sinh
KHXH&NV Khoa học Xã hội và Nhân văn
KHTN Khoa học Tự nhiên
LSDT Lịch sử dân tộc
NXB Nhà xuất bản
PGS.TS Phó giáo sư. Tiến sĩ
TC. NCLS Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử
THPT Trung học phổ thông

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 4
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 8
I. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC LSDT CHO HỌC SINH THPT TẠI HƯNG
YÊN HIỆN NAY QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƯỜNG
1. Thực trạng 8
1.1. Thực trạng giáo dục nhà trường 8
1.2. Thực trạng giáo dục gia đình 13
1.3. Thực trạng giáo dục xã hội 15
2. Nguyên nhân 19
2.1. Về mặt khách quan 19
2.1.1. Sự khó khăn của ngành học Lịch sử trong định hướng, tạo cơ
hội việc làm và thu nhập 19
2.1.2. Môn Lịch sử không được coi trọng trong xã hội 20
2.1.3. Sự thiếu quan tâm từ phía gia đình trong việc giáo dục kiến


thức lịch sử - văn hóa cho học sinh 22
2.2. Về mặt chủ quan 23
2.2.1. Sự hạn chế của sách giáo khoa Lịch sử 23
2.2.2. Sự hạn chế về mặt phương pháp dạy học, về phía người dạy và
trong tổ chức kiểm tra, đánh giá 24
2.2.3. Sự hạn chế về cơ sở vật chất trường học 27
2.2.4. Sự hạn chế trong quản lý giáo dục đối với môn Lịch sử 27
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO
DỤC LSDT CHO HỌC SINH THPT TẠI HƯNG YÊN HIỆN NAY
1. Nhóm giải pháp tổng thể và mang tính lâu dài 29
1.1. Yêu cầu từ vai trò lãnh đạo và định hướng của Đảng và Nhà nước 29
1.2. Đổi mới sách giáo khoa, phương pháp - chương trình dạy học và tổ
chức kiểm tra, đánh giá 30
1.3. Đưa vấn đề đào tạo đội ngũ giáo viên dạy Sử đi vào chiều sâu chất
lượng 32
1.4. Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào giáo dục lịch sử 33
1.5. Phát huy vai trò của giáo dục gia đình và dòng họ 37
1.6. Đẩy mạnh vai trò giáo dục của xã hội, tăng cường các loại hình truyền
bá lịch sử 38
1.7. Tổ chức các cuộc vận động chính trị sâu rộng đưa tri thức LSDT vào
trong nhân dân 41
2 Nhóm giải pháp cụ thể và mang tính trước mắt cho các nhà trường 43
2.1. Xác định đúng tầm quan trọng của việc giáo dục LSDT cho học
sinhTHPT trong nhà trường hiện nay 43
2.2. Những cố gắng, chủ động của riêng từng nhà trường 45
2.3. Thay đổi tư duy, cách làm góp phần phát huy tính tích cực của học
sinh THPT 46
KẾT LUẬN 49
PHỤ LỤC 54
MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài
Hiện nay, khi đất nước đang vững bước trên con đường công nghiệp hóa -
hiện đại hóa đất nước, đổi mới và hội nhập; bên cạnh mặt tích cực như kinh tế
phát triển, đời sống vật chất của nhân nhân không ngừng được nâng cao thì cũng
nãy sinh không ít những tiêu cực: nổi cộm trong đó là thực trạng các ngành
KHXH&NV nói chung và Lịch sử nói riêng không được xã hội xem trọng.
Bài nghiên cứu của tôi về ý nghĩa lý thuyết góp phần vào việc tìm hiểu
thực trạng cũng như nguyên nhân và giải pháp của vấn đề giáo dục LSDT cho
học sinh THPT tại Hưng Yên hiện nay qua khảo sát một số trường; còn về ý
nghĩa thực tiễn nó góp một phần nhỏ vào việc giải quyết những vấn đề còn hạn
chế, tồn tại của việc giáo dục LSDT cho học sinh THPT tại Hưng Yên cũng như
“vực dậy” vị trí hàng đầu của Sử học trong đời sống xã hội hiện tại và tương lai.
Hưng Yên là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa – giáo dục của đồng bằng
Sông Hồng, đây cũng là nơi giàu truyền thống đấu tranh cách mạng xứng đáng
là quê hương “văn hiến” của đất nước. Bởi vậy nên việc nghiên cứu vấn đề trở
nên thật sự cấp thiết đối với yêu cầu của thực tiễn xã hội trong tình hình hiện
nay, có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển bền vững của dân tộc.
Thiết nghĩ với những lý do như vậy nên tôi đã quyết định chọn đề tài này.
2. Lịch sử nghiên cứu
Trong những năm vừa qua đã có không ít những công trình, đề tài, hội
thảo khoa học, bài báo khoa học (đăng trên các tạp chí như: NCLS, Xưa & Nay
v.v…, các báo: Tuổi trẻ, Dân trí, Giáo dục Việt Nam v.v…) đề cập đến vấn đề
thực trạng, nguyên nhân và giải pháp của giáo dục lịch sử ở nhà trường phổ
thông hiện nay. Xin dẫn ra một số ví dụ tiêu biểu như:
- Hội thảo khoa học về "Thực trạng việc dạy và học Lịch sử trong trường
Phổ thông - nguyên nhân và giải pháp" do Hội Khoa học lịch sử, Bộ
GD&ĐT, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Trường Đại học KHXH&NV
(ĐHQG TP. Hồ Chí Minh), Đại học Hồng Bàng phối hợp tổ chức ngày
27/3/2008
- Phương pháp dạy học Lịch sử. Tập I +Tập II do GS.TS Phan Ngọc Liên,

ĐHSP. HN chủ biên, xuất bản năm 2008.
- Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học Lịch sử ở trường phổ thông do
GS.TS Phan Ngọc Liên Chủ biên, 2008.
- “Hiệu quả dạy học Lịch sử ở trường phổ thông thực trạng và giải pháp”
của PGS.TS Nguyễn Thị Côi, trường ĐHSP. HN, TC. NCLS, số 7.2007
Tuy nhiên phần lớn mới chỉ dừng lại ở mô hình “giáo dục nhà trường”
như về nội dung và phương pháp dạy học Lịch sử theo các mô tiếp sư phạm mà
chưa hoặc ít đề cập đến “giáo dục gia đình” và “giáo dục xã hội”. Mặc dù đánh
giá cao về những thành tựu nghiên cứu vấn đề mà các tác giả đã đạt được, với tư
cách là những người đi trước “khai phá mở đường”. Tuy nhiên cũng phải khẳng
định rằng: vấn đề nghiên cứu mà tôi hướng tới là nghiên cứu trường hợp; bởi thế
nên ngoài việc kế thừa và phát huy những thành tựu nghiên cứu đã đạt được
trong thời gian qua của các thế hệ học giả đồng nghiệp thì tôi tất yếu phải dụng
công để hướng tới những tri thức mới, sâu sắc và cụ thể.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là thực trạng giáo dục LSDT cho học sinh THPT tại
Hưng Yên qua khảo sát tại một số trường trên địa bàn tỉnh; kể cả quan điểm
nhìn nhận, đánh giá về vai trò của môn lịch sử trong đời sống, trong lập thân, lập
nghiệp của giáo viên – học sinh tại một số trường và trong gia đình, xã hội hiện
nay
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về quy mô: giới hạn ở việc nghiên cứu, khảo sát tại một số trường
THPT trên địa bàn tỉnh.
Phạm vi về nội dung: giới hạn ở việc tìm hiểu, đánh giá thực trạng giáo
dục LSDT cho học sinh THPT tại Hưng Yên qua việc khảo sát ở một số trường;
dẫn giải và phân tích nguyên nhân của thực trạng đó cũng như suy nghĩ về một
số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục LSDT cho học sinh THPT
tại Hưng Yên hiện nay.
Phạm vi về thời gian nghiên cứu: giới hạn phạm vi thời gian nghiên cứu

của đề tài từ 1 năm trở lại đây.
Một vài chỉ số cần điều tra: kết quả sự đánh giá của học sinh THPT về vai
trò môn Lịch sử trong chương trình giáo dục phổ thông, mục đích, động lực học
tập môn Sử, thời gian dành cho việc học môn này trong tuần của học sinh v.v…
3.3.Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
Được thể hiện dưới dạng cây mục tiêu sau:
4.Các khái niệm, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Các khái niệm
Các khái niệm bao gồm:
- Giáo dục ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm giáo dục nhà
trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Trong đó giáo dục nhà trường
phải đi đầu và đóng vai trò chủ đạo.
- Lịch sử dân tộc Việt Nam bao gồm lịch sử của 54 dân tộc sinh sống trên
lãnh thổ Việt Nam hợp thành (trong đó dân tộc Kinh đóng vai trò chủ thể) trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. LSVN là một bộ phận có quan hệ hữu
cơ, khăng khít và không tách rời của Lịch sử thế giới. Bởi vậy LSDT luôn phải
được trong bối cảnh tác động qua lại với Lịch sử thế giới. Tuy nhiên trong vấn
đề giáo dục lịch sử ở nước ta thì bao giờ LSDT cũng được đặt ở vị trí trung
tâm, có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
4.2. Nguồn tư liệu chủ yếu
- Các công trình nghiên cứu (in thành sách), các bài báo khoa học trên các
trang báo và tạp chí.
- Nguồn tư liệu thu được từ điều tra xã hội học (quan sát, phỏng vấn).
Thực trạng giáo dục
Giáo dục LSDT cho học sinh THPT tại Hưng Yên qua khảo sát một số trường –
thực trạng và giải pháp
Thực trạng
Nguyên nhân
Giải pháp
Giáo

dục nhà
trường
Giáo
dục gia
đình
Giáo
dục xã
hội
Nguyên
nhân
khách
quan
Nguyên
nhân chủ
quan
Giải pháp
cụ thể,
trước mắt
cho các nhà
trường
Giải pháp
tổng thể và
mang tính
lâu dài
- Tài liệu internet, tuy nhiên đối với nguồn tài liệu này, tôi cũng đặc biệt lựa
chọn, cân nhắc, cẩn trọng trong việc sử dụng (chủ yếu là thông tin trên các
trang báo điện tử như Dân trí, Tuổi trẻ online).
4.3.Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lôgic
- Phương pháp mô tả, phân tích

- Phương pháp định tính, định lượng
- Phương pháp liên ngành.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC LSDT CHO HỌC SINH THPT TẠI HƯNG
YÊN QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
HIỆN NAY
1. Thực trạng
1.1. Thực trạng giáo dục nhà trường
Bảng 1: Kết quả thống kê 7/14 tiêu chí khảo sát về thực trạng giáo dục
cho học sinh THPT tại một số trường trên địa bàn Hưng Yên hiện nay:
(Đơn vị: %)
STT



Tên
trường
Trường
THPT
Mỹ Hào
Trường
THPT
Nguyễ
n
Thiện
Thuật
Trườn
g
THPT

Minh
Châu
Trường
THPT
Yên Mỹ
Tổng
số
137 HS
128
HS)
122
HS
115 HS
502
HS
1
Đánh giá
về vai
trò của
môn Sử
cúa HS
Quan trọng
13,15
10,49 9,47 10,31 43,42
Không quan
trọng
14,14 15,01 14,83 12,60 57,58
2
Mục
đích học

tập của
HS trong
môn Sử
Vì yêu thích,
để hiểu biết
hơn LSDT
14,21 8,17 8,73 11,02 42,13
Đơn thuần
chỉ để qua
các kỳ thi
11,08 17,33 15,57 9,89 57,87
3
Thời
gian
Dưới 1 h 8,31 9,47 9,64 6,21 33,63
Từ 1-2 h 5,95 7,73 6,77 4,16 24,61
Từ 2-3 h 8,34 4,94 5,31 7,37 25,96
Trên 3 h 4,68 3.36 2.59 4,17 14,80
4
Tình
trạng
học lệch
giữa các
học phần
Có, nhưng
không đáng
kể
12,52
9,27 8,34 10,82 40,95
Lệch tương

đối lớn
14,76 16,23 15,97 12,09 69,05
5
Tổ chức
hoạt
động
ngoại
khóa
Tương đối
thường xuyên
×
Ít và không
thường xuyên
× × ×
6
Đánh giá
về dung
lượng
Nhiều, quá tải 15,63 17,21 16,80 13,93 63,57
Ít đến vừa
phải
11,65 8,29 7,52 8,97 36,43
7 TV, Radio 7,73 7,29 6,55 6,22 27,79
Sách, báo, tạp
chí tham
6,48 4,86 4,52 6,46 22,32
Kênh
thông tin
khác
ngoài

sách
giáo
khoa
khảo
Internet 8,43 9,65 9,26 6,71 34,05
Kết hợp 4,64 3,70 3,98 3,52 15,84
(Dấu × đánh dấu ô thông tin đã được lựa chọn)
Về mặt thuận lợi và tích cực: trong vấn đề dạy và học môn Lịch sử hiện nay, các
trường THPT trên địa bàn Hưng Yên có nhiều thuận lợi: sách tham khảo, báo và
tạp chí rất phong phú, đa dạng; các kênh phương tiện thông tin hỗ trợ khác như
tivi, radio và đặc biệt là internet được phổ biến; cơ sở vật chất hạ tầng và trang
thiết bị phục vụ dạy – học cũng tương đối đầy đủ; nơi đây cũng là địa bàn có
nhiều di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng cả nước. Nhờ đó mặt bằng chất lượng
giáo dục nói chung và giáo dục Lịch sử nói riêng của Hưng Yên đạt ở mức
tương đối cao. Một số học sinh của tỉnh đã đạt thành tích cao trong kỳ thi chọn
học sinh giỏi Quốc gia hằng năm đối với môn Lịch sử.
Tuy nhiên, hiện nay, việc dạy học môn Lịch sử cho học sinh THPT qua khảo sát
tại một số trường trên địa bàn tỉnh như: THPT Mỹ Hào, THPT Nguyễn Thiện
Thuật, THPT Minh Châu, THPT Yên Mỹ đang nổi cộm lên một số vấn đề sau:
1 –Một bộ phận không nhỏ học sinh không coi trọng môn học Lịch sử,
chỉ xem nó là môn học phụ trong chương trình giáo dục phổ thông. Tâm lý, thái
độ xem môn Lịch sử là môn phụ trong hệ thống chương trình giáo dục của học
sinh THPT. Có tới 55,58 % học sinh trong tổng số 502 học sinh được hỏi cho
rằng môn lịch sử là “môn phụ” hay không quan trọng. Lý do của sự sai lầm mà
học sinh (kể cả phụ huynh và một bộ phận giáo viên) căn cứ vào đó là thời
lượng giảng dạy của môn học trên lớp và nó không phải là môn thi Tốt nghiệp
bắt buộc hay không (hiện nay, môn lịch sử ở các trường trên thời lượng 1,5-2
tiết/tuần và môn Sử không phải là môn thi Tốt nghiệp THPT bắt buộc). Đi liền
với đó, mục đích học môn Lịch sử của không ít học sinh (57,87% số sinh viên
trong mẫu khảo sát) chủ yếu chỉ để nhằm đối phó với kiểm tra, thi cử nhiều hơn

là sự yêu thích, tìm tòi về LSDT. Thời gian dành cho môn học của học sinh
THPT trong tuần nằm trong phổ từ 1-3 tiếng, chiếm 85,2%. Riêng loại dưới 1
tiếng chiếm tỷ lệ cao nhất (33,63%). Qua đó có thể thấy sự tự giác của học sinh
đối với môn học này còn chưa cao.
Biểu đồ 1: Đánh giá về vai trò của môn Sử trong học sinh THPT tại một số
trường trên địa bàn Hưng Yên hiện nay
2 - “Sách áp đặt, thầy dạy nhàm, trò chán!” Đó là những nội dung đã
được đề cập tại hội thảo khoa học về "Thực trạng việc dạy và học Lịch sử trong
trường phổ thông - nguyên nhân và giải pháp" do Hội Khoa học Lịch sử, Bộ
GD&ĐT, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Trường Đại học KHXH&NV (ĐHQG
TP.Hồ Chí Minh), Đại học Hồng Bàng phối hợp tổ chức ngày 27/3/2008. Theo
GS.TS Vũ Dương Ninh, PGS.TS Vũ Quang Hiển (ĐHQG Hà Nội), thời lượng
1,5-2 tiết Lịch sử/tuần ở bậc phổ thông không phải là ít. Nhưng như PGS.TS Vũ
Dương Ninh phát biểu: việc coi nhẹ môn Sử thể hiện ở chỉ đạo của các trường,
Sở trong việc cắt xén giờ học môn Lịch sử và một số môn học khác, học dồn giờ
để tập trung thời gian chuyên sâu các môn "quan trọng hơn". Nó cũng thể hiện ở
chỗ có năm thi tốt nghiệp THPT môn Sử, có năm không. Môn Sử còn được xếp
vào môn thi thay thế cho học sinh không được học Ngoại ngữ [15].
3 - Tình trạng học lệch của học sinh THPT. Sự học lệch đó không chỉ
dừng lại giữa các ban (như giữa ban KHXH&NV và ban KHTN), giữa các bộ
môn (như Văn, Sử, Địa) mà trên thực tế còn có sự học lệch giữa các học phần
trong cùng bộ môn (như giữa Lịch sử Cổ trung đại và Lịch sử Cận hiện đại). Tỷ
lệ 56,01 % học sinh thuộc mẫu khảo sát rơi vào trường hợp mức độ học lệch
tương đối lớn. Hiện nay có một thực trạng là nội dung thi Tốt nghiệp, Đại học –
Cao đẳng môn Lịch Sử được giới hạn đến đâu thì công tác dạy và học của các
trường Trung học phổ thông thường triển khai trọng tâm theo hướng đó. Còn
phần Lịch sử Cổ trung đại, vì không nằm trong phạm vi nội dung thi; thêm vào
đó nhiều thầy cô dạy Sử ở các trường THPT cho rằng học phần này tương đối
khó với học sinh khi trình độ nhận thức của các em còn đang còn hạn chế, trong
khi đối với phần này đã phải học từ năm đầu cấp III (lớp 10). Do vậy, giáo viên

chỉ dạy sơ lược, đại khái và học sinh cũng ít chú tâm. Sự lơi lỏng kiến thức về
học phần này tương đối phổ biến đối với học sinh lớp 12. Phần Lịch sử Cổ trung
vô cùng quan trọng và ý nghĩa kéo dài ngót mấy ngàn năm của dân tộc chưa
nhận được sự quan tâm đúng mức trong chương trình giáo dục môn Sử ở các
trường THPT. Nếu để cho tình trạng học lệch diễn ra quá mức và sự phân biệt
môn chính môn phụ trong nhà trường phổ thông thì về mặt lâu dài sẽ dẫn đến
những hậu quả nghiêm trọng, làm suy giảm chất lượng giáo dục, chất lượng con
người.
Biểu đồ 2: Tình trạng học lệch ở môn Sử của học sinh THPT tại một số trường
trên địa bàn Hưng yên hiện nay
4 - Nhiều nhóm học tập và câu lạc bộ Sử học trong trường được lập nên
nhưng hoạt động không mấy hiệu quả, còn các hoạt động ngoại khóa tuy có
nhưng thường ít và không được tổ chức, duy trì thường xuyên và liên tục. Cô
Phan Thị Hương– giáo viên dạy Sử của trường THPT Mỹ Hào còn cho biết
“Hiện nay tại một số trường, phương tiện – trang thiết bị phục vụ cho việc dạy
và học, nhất là những thiết bị hiện đại như máy chiếu vẫn còn thiếu thốn. Sách
giáo khoa thì nội dung chưa được thực sự khách quan và khoa học: nhiều thông
tin sử liệu không được trích dẫn nguồn; nặng về lịch sử chính trị - quân sự mà
nhẹ về lịch sử kinh tế - xã hội và khoa học – kỹ thuật, cũng như còn ít đề cập
đến tình hình kinh tế - chính trị xã hội phía bên kia chiến tuyến trong giai đoạn
lịch sử hiện đại 1954-1975 v.v… Những hạn chế đó khiến cho học sinh cảm thấy
môn Sử tương đối khô khan và nhàm chán.”
Biểu đồ 3: Đánh giá về dung lượng chương trình học môn Sử của học sinh
THPT tại một số trường trên địa bàn Hưng Yên hiện nay
1.2. Thực trạng giáo dục gia đình
Bảng 2: Kết quả thống kê 1/ 14 tiêu chí khảo sát về thực trạng giáo dục gia
LSDT trong gia đình qua sự nhìn nhận của học sinh tại một số trường THPT
trên địa bàn tỉnh hiện nay:
(Đơn vị: %)
ST

T


Tên
trường
Trường
THPT
Mỹ
Hào
Trường
THPT
Nguyễn
Thiện
Thuật
Trườn
g
THPT
Minh
Châu
Trường
THPT
Yên Mĩ
Tổng
số
137 HS 128 HS
122
HS
115 HS
502
HS

1
(8)
Sự quan tâm
của gia đình
tới việc giáo
dục tri thức
lịch sử-văn
hóa dân tộc
của HS
Tương
đối
thường
xuyên
9,11 7,25 9,69 9,5 35,82
Rất hiếm
khi
18,17 17,98 14,62 13,41 64,18
Một số hình
thức quan tâm
cụ thể
Cùng đi tham quan du lịch; hay kể các câu chuyện lịch
sử để noi gương; mua, sưu tầm sách hay về lịch sử văn
hóa cho HS, tạo điều kiện học thêm v.v…
Mặc dù không phải không có những điểm sáng đáng được nêu gương, khích lệ
như việc một số gia đình nếu khi có thời gian, điều kiện thường cùng với con em
– học sinh đi du lịch, thăm quan các viện bảo tàng, di tích lịch sử - văn hóa,
những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của đất nước; thường hay kể cho con, cho
cháu nghe những câu chuyện lịch sử lý thú mà mình từng được chứng kiến hay
được nghe kể lại, những câu chuyện về các vị anh hùng có công đánh giặc bảo
vệ đất nước quê hương, cậu bé nhà nghèo hiếu học mà đỗ Trạng v.v… Những

câu chuyện góp phần nuôi dưỡng tâm hồn và những ước mơ của con em họ, để
ngày sau, những ước mơ đó của tuổi trẻ có thể sẽ trở thành hiện thực. Đây là
hình thức giáo dục kiến thức lịch sử - văn hóa cho con em trong gia đình mang
tính tự nhiên, nhuần nhuyễn nhất mà một số ít gia đình ở tỉnh cho đến ngày nay
vẫn còn bảo lưu được.
Tuy nhiên phần lớn các gia đình của tỉnh, trong “guồng quay” của cơ chế
kinh tế thị trường hiện nay, giữa bộn bề lo toan của cuộc sống, hầu hết họ phó
mặc việc giáo dục con em mình cho nhà trường. Qua nhìn nhận của học sinh,
sự thường xuyên quan tâm tới việc giáo dục các giá trị lịch sử - văn hóa truyền
thống của dân tộc cũng như sự quan tâm tới việc học nói chung tới học sinh –
con em trong các gia đình mà tôi khảo sát được chỉ đạt ở mức thấp 13,61%; còn
phần lớn là rất ít quan tâm (chiếm tới 64,18%).
Biểu đồ 4: Sự quan tâm của gia đình trong giáo dục LSDT cho học sinh THPT
tại một số trường trên địa bàn tỉnh hiện nay
1.3. Thực trạng giáo dục xã hội
. Nhà sử học tư sản Việt Nam Trần Trọng Kim nhân khi viết cuốn “ Việt
Nam sử lược” (cuốn sách quốc ngữ đầu tiên về lịch sử nước nhà, xuất bản trước
Cách mạng Tháng Tám 1945) đã phải từng phàn nàn rằng dưới chế độ phong
kiến, người nước ta “bất kỳ lớn nhỏ hễ ai cắp quyển sách đi học chỉ học sử Tàu,
chứ không học sử nước nhà. Rồi thơ phú văn chương gì cũng lấy điển tích ở sử
Tàu, chứ chuyện nước mình nhất thiết không nói đến” [6, 6]. Câu chuyện về
việc giáo dục lịch sử ở nước ta từ hơn một thế kỷ trở về trước là như vậy. Hiện
nay, chúng ta đang xây dựng nền văn hóa – giáo dục nước nhà theo hướng “dân
tộc, khoa học, và đại chúng”. Đó là tư tưởng chân lý và cách mạng vô cùng sáng
suốt của Đảng, là kim chỉ nam soi đường dẫn lối cho dân tộc Việt Nam trên con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, “xã hội dân chủ, công bằng, văn mình” Tuy
nhiên với hoàn cảnh thực trạng việc giáo dục LSDT cho các em học sinh THPT
như hiện nay, thì chắc chắn nó chưa thể khiến cho những người tâm huyết với
lịch sử nước nhà, với sự thịnh suy của dân tộc có thể an tâm được.
1 - Về phim ảnh đề tài lịch sử, nếu chúng ta khá thành công với những bộ

phim tư liệu, lịch sử thời hiện đại, tiêu biểu như: Sao tháng Tám, Lễ Tuyên ngôn
Độc lập, Hà Nội mùa đông 46, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Nguyễn Ái Quốc ở
Hồng Kông, Hồ Chí Minh chân dung một con người v.v… thì do rất nhiều khó
khăn việc làm phim về mảng đề tài Lịch sử Cổ trung đại dân tộc hầu như còn rất
hạn chế cả về số lượng và chất lượng, liệt kê ra chỉ có số ít bộ phim tiêu biểu
như: Khát vọng Thăng Long, Tây sơn hào kiệt, Mười đội quân kiệt xuất của Việt
Nam
Một thực tế hiện nay các phim kiếm hiệp, cổ trang Trung Quốc, và kể cả Hàn
Quốc tràn ngập trên các kênh truyền hình trong nước thay vì những bộ phim sử
“thuần Việt” để giới thiệu, giáo dục về những đặc điểm lịch sử - văn hóa truyền
thống của dân tộc cho giới trẻ, học sinh phổ thông. Để không ít người trong giới
trí thức phàn nàn rằng: “dường như chúng ta đang tuyên truyền cho họ”. Về
mảng đề tài này, số phim truyện rất hữu hạn và cũng có rất ít bộ phim tạo được
sự quan tâm lâu bền của giới trong nghề cũng như công chúng, mặc dù tiền của
đầu tư cho nó không phải là ít. Có những bộ phim làm xong rồi phải cất vào kho
thay vì được công chiếu, gây lãng phí lớn về tiền bạc của nhà nước và nhân dân.
Vẫn biết rằng nhận thức của chúng ta về nhiều phương diện, lĩnh vực trong lịch
sử xa xưa của dân tộc còn chưa sáng tỏ, chúng ta không biết tìm đâu bối cảnh cổ
xưa (đường xá, thành quách, cung vua phủ chúa, trang phục, v.v…) để dựng
phim. Nhưng cũng phải suy xét cho thật nghiêm túc khi nhiều nhà đạo diễn
phim Việt Nam đã không tìm ra phương pháp nào khác hay hơn ngoài việc khai
thác đến “lạm dụng” các yếu tố lịch sử - văn hóa của nước ngoài. Có biến cố, sự
kiện lịch sử được dựng lại bằng nghệ thuật điện ảnh kiểu như thế này hoàn toàn
khác xa so với sự thực lịch sử.
Có nhiều ý kiến cho rằng, do ham mê phim ảnh kiếm hiệp, cổ trang Trung Quốc
mà học sinh phổ thông nước ta bây giờ còn thông thạo Sử Tàu hơn cả Sử nước
mình. Thật ra ý kiến đó có phần chưa xác đáng. Do những phim về đề tài lịch sử
của Trung Quốc như: “Tam Quốc diễn nghĩa”, “Hán Sở tranh hùng”, phim về
các vị vua nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa như Tần Thủy Hoàng, Đường
Huyền Tông, Võ Tắc Thiên, Khang Hy, Càn Long v.v… phần lớn được chuyển

thể từ các tiểu thuyết lịch sử. Mà theo như đánh giá của các học giả, cốt truyện
tình tiết chủ yếu được hư cấu nên, cốt lõi lịch sử chỉ chiếm một phần rất nhỏ
trong đó. Thế nên chúng ta không thể cho đó là lịch sử một cách nghiêm túc,
khách quan được. Việc các tác giả thêm thắt những chi tiết về cốt chuyện, nhân
vật đã làm những tác phẩm của mình mang đậm tính văn học, nghệ thuật hơn là
một tác phẩm sử học thuần túy với tính chân thực và khách quan. Bởi vậy, có
hay chăng chỉ có thể nói giới trẻ nước ta hiện nay tương đối hứng thú đối với bối
cảnh lịch sử - văn hóa xã hội truyền thống của Trung Hoa, Hàn Quốc v.v….
Nhưng cũng chỉ cần bấy nhiêu đó thôi cũng đã chứng tỏ được sự thành công của
nền điện ảnh nói riêng và nền văn hóa - giáo dục, nghệ thuật của họ nói chung.
Bảng 3: Kết quả thống kê 3/14 tiêu chí khảo sát về thực trạng giáo dục xã hội
qua khảo sát học sinh tại một số trường THPT trên địa bàn tỉnh hiện nay như
sau: (Đơn vị: %)
STT


Tên
trường
Nội dung khảo sát
Trường
THPT
chuyên
Mỹ Hào
Trường
THPT
Nguyễ
n
Thiện
Thuật
Trườn

g
THPT
Minh
Châu
Trường
THPT
Yên
Mỹ
Tổng
số
137 HS 128 HS
122
HS
115 HS
502
HS
1
(9)
Loại phim dã
sử, cổ trang
yêu thích
Phim Việt
Nam
1,31 2,03 2,16 1,83 7,33
Phim Hàn
Quốc
7,39 6,47 7,58 7,24 28,68
Phim
Trung
Quốc

16,53 15,22 13,05 12,91 57,71
Phim
nước khác
2,05 1,78 1,52 0,93 6,28
2
(10)
Thời lượng
của việc đi
tham quan
các di tích,
bảo tàng
Tương đối
thường
xuyên
10,86 8,39 10,32 10,76 40,33
Hiếm khi
đi
16,42 17,11 14,00 12,14 59,67
Nếu
rất ít
khi thì
lý do
vì sao?
Do không có thời gian, nhà xa, không hứng
thú, v.v…
3
(11)
Loại sách
yêu thích
nhất

Sách lịch
sử - văn
học
4,25 2,97 3,52 3,19 13,93
Sách tiểu
thuyết ái
tình “hot”
9,36 10,24 7,33 8,76 35,79
Sách khác 13,67 12,28 13,47 10,96 50,38
Sự quan tâm,
Thường
xuyên
4,28 3,16 2,69 3,46 13,60
Thỉnh
thoảng
7,39 5,04 4,72 5,68 22,83
4
(12)
theo dõi đối
với chương
trình “Theo
dòng lịch
sử”
Rất ít,
không
hứng thú
15,61 17,29 16,91 13,76 63,57
Biểu đồ 5: Loại phim dã sử, cổ trang được học sinh THPT tại một số trường
trên địa bàn tỉnh hiện nay thích nhất
2 - Về mảng sách báo, truyện tranh; hiện nay trên thị trường, có không ít những

đầu sách và truyện về chủ đề lịch sử dân tộc hay dành cho đối tượng thanh, thiếu
niên và nhi đồng. Tuy nhiên, trên thực tế nó cũng chưa đủ tạo được sức quan
tâm của độc giả là các bạn học sinh THPT (tỷ lệ học sinh yêu thích kết quả khảo
sát chỉ chiếm 13,93%). Thay vào đó là sự “chạy hàng” của các loại tranh truyện
nước ngoài hay những cuốn tiểu thuyết tình ái “ướt át”, lãng mạn thời đương đại
(phổ tỷ lệ học sinh THPT yêu thích những sách này đạt ở mức cao 86,07%).
Nguyên nhân của thực trạng trên một phần do không ít sách trong nước viết về
chủ đề lịch sử nhưng nội dung còn nghèo nàn đơn điệu. Nhiều loại tranh truyện
về chủ đề lịch sử, tiêu biểu như Thần đồng đất Việt thì chỉ phù hợp với sở thích
và tâm lý của thiếu nhi, nhi đồng. Hơn thế nữa, trong thời đại ngày nay, sức hút
của các thiết bị nghe nhìn (như TV, radio, máy nghe nhạc, internet v.v…) rất
lớn. Bởi vậy nên học sinh THPT thường có thói quen “lướt web”, vào mạng xem
tin tức hơn là sở thích đọc sách. “Văn hóa đọc sách” của giới trẻ hiện nay rơi
xuống mức thấp. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu của thực trạng “thừa thông
tin, thiếu kiến thức” (thông tin ở đây được hiểu là những tin tức thời sự, còn kiến
thức là những tri thức về lịch sử - văn hóa – xã hội nói chung) ở học sinh phổ
thông hiện nay.
Biểu đồ 7: Loại sách được học sinh THPT ở một số trường trên địa bàn tỉnh hiện
nay thích nhất
4 - Bên cạnh đó là những trò chơi truyền hình có truyền tải những kiến thức lịch
sử - văn hóa như: “Ai là triệu Phú, “Đấu trường 100”, “Rung chuông vàng”.
Đặc biệt là chương trình “Theo dòng lịch sử” phát trên kênh VTV2 của Đài
truyền hình Việt Nam; tuy nhiên hiệu quả, tác động xã hội của nó đến học sinh
THPT chưa cao (có tới 63,57% học sinh rất ít theo dõi hoặc không có hứng thú
quan tâm đến chương trình này – xem bảng thống kê ở trên). Một kênh thông tin
khá mới mẻ là internet được phần lớn học sinh THPT khai thác và thường xuyên
sử dụng. Nó có ưu điểm là tốc độ tra cứu nhanh, nguồn thông tin phong phú, đa
dạng. Tuy nhiên mặt hạn chế của nó là những thông tin thường không được
kiểm định, không rõ nguồn gốc xuất xứ; có nhiều thông tin lịch sử bị các thế lực
phản động “bóp méo”, xuyên tạc rồi tung lên mạng để nhằm thực hiện những

mưu đồ chính trị đen tối, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ . Chúng có thể
gây ra tâm lý hoang mang, dao động cho một bộ phận bộ phận giới trẻ, trong đó
có các em học sinh THPT.
2. Nguyên nhân
2.1. Về mặt khách quan
2.1.1. Sự khó khăn của ngành học Lịch sử trong định hướng, tạo cơ hội việc
làm và thu nhập
Có một thực tế là, hiện nay ngành Sử chưa được xã hội đề cao, sinh viên ngành
Sử (cũng các ngành Xã hội nói chung) ra trường họ luôn đối mặt với nguy cơ
không tìm được việc làm. Nhiều người muốn có việc thì phải làm trái ngành, trái
nghề với chi phí "lót tay" xin việc hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đồng.
Nếu xin được việc đúng chuyên ngành thì mức thu nhập cũng tương đối thấp.
THPT THPT THPT THPT TỔNG SỐ
MỸ HÀO NGUYỄN THIỆN MINH CHÂU YÊN MỸ
THUẬT
Đảng và Nhà nước cũng chưa đề ra được cơ chế, chính sách phù hợp để có thể
cải thiện được tình hình.
Hiện nay số lượng hồ sơ đăng ký dự thi khối C của tỉnh đã ít nhất so với các
khối khác,
Tại sao lại có tình trạng ngày càng ít thí sinh dự thi vào khối C? Nguyên nhân do
hiện nay số học sinh đăng ký nguyện vọng vào học ban Khoa học Xã hội và
Nhân văn rất ít ỏi. Khi phân ban, nhiều trường THPT tuyển không đủ một lớp,
thậm chí nhiều trường THPT không có ban C. Nhiều trường có đủ 3 ban nhưng
thay vì có ban xã hội như truyền thống, các trường mở ban Cơ bản A, Cơ bản D,
ban Khoa học Tự nhiên và học theo chương trình chuẩn. Tại trường THPT Yên
Mỹ, với điểm chuẩn là 26,5, tuyển 430 chỉ tiêu, chia làm 10 lớp nhưng không có
lớp cơ bản C, hoặc ban KHXH&NV (trong khi trường vẫn có lớp cơ bản A, D,
ban khoa học tự nhiên). Các học sinh hiện nay chỉ tập trung vào các môn tự
nhiên vì nhiều trường, nhiều ngành dự thi, cơ hội việc làm cao hơn. Học sinh
Nguyễn Thị Cách trường THPT Yên Mỹ tâm sự: "Lớp em chỉ có vài bạn đăng

ký dự thi khối C. Hơn nữa, chúng em thấy học khối C hiện nay ra trường khó
tìm việc làm mà lương không cao". Học sinh nhiều trường THPT cũng có cùng
quan điểm như vậy.
2.1.2. Môn Lịch sử không được coi trọng trong xã hội
Môn có ý nghĩa “cội rễ”, đóng vai trò là nền tảng tri thức, tinh thần của dân tộc
này đang bị không ít người trong xã hội hiện tại thờ ơ, coi thường. Vấn đề này
hiện chưa được nhìn nhận một cách khách quan và thấu đáo. Còn có những quan
điểm cách nhìn như “Học sinh giờ bị hô hào phải học ngoại ngữ, học tiếng Anh,
học tin học… thì có những môn như Lịch sử và cả Văn học bị xem nhẹ hơn chút
thì cũng dễ hiểu” (Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Vũ Luận) . Việc môn lịch sử bị
xem nhẹ lại có thể trở thành một việc bình thường. Người ta có thể giải thích
“trơn tuột”, đó là vấn đề của thời đại: “Môn Lịch sử kém thu hút, điểm lịch sử
thấp không phải chỉ ở Việt Nam, ở châu Á. Đó là chuyện của thời đại, của thế
hệ này, do cách mạng khoa học công nghệ, do sự biến đổi, đòi hỏi của thị
trường lao động…” [18]
Có thể khẳng định thái độ lạnh nhạt, xem thường môn Lịch sử trong xã hội hiện
nay chính là sự quay lưng lại với các giá trị làm người về truyền thống văn hóa,
tâm hồn, nhân cách, là sự coi rẻ hoặc gạch bỏ các giá trị lịch - văn hóa, tinh thần
của dân tộc và nhân loại. Tầm quan trọng của môn Lịch sử, nhất là phần LSDT
hiện nay chưa được xã hội nhìn nhận một cách khách quan, công bằng và thấu
đáo.
Giải thích về nguyên nhân sâu xa của vấn đề này, do trong bối cảnh hiện nay của
đất nước, công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa – hiện đại hóa với cơ chế kinh tế
thị trường đang từng bước được đẩy mạnh thì một trong những mặt trái của nó
là những giá trị xã hội - nhân văn trong đó có khoa học Lịch sử - thứ thiết yếu
cho sự phát triển bền vững của dân tộc lại chưa được xã hội thừa nhận và đề cao.
Hệ quả của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng công nghệ thông
tin, của nền kinh tế hàng hóa thị trường có sức tác động ghê gớm, dễ khiến cho
con người ta trở nên thực dụng, bị cuốn theo lợi ích vật chất mà quên đi các giá
trị tinh thần.

Tuy vậy, không thể vì thế mà vấn đề giáo dục LSDT cho thế hệ trẻ học
sinh ngày càng bị buông xuôi, thả nổi được. Hơn thế nữa, trong bối cảnh như
hiện nay chúng ta càng phải nhận thức được vai trò lớn lao, “chân giá trị” của
lịch sử - văn hóa truyền thống của dân tộc cũng như các KHXH&NV khác. Bởi
vậy “nếu không sớm cải cách môn Lịch sử cấp phổ thông, khắc phục tình trạng
sa sút đến mức báo động như hiện nay thì sẽ tạo ra những hẫng hụt trong kiến
thức về lịch sử Việt Nam và thế giới, để lại những hệ quả rất đáng lo ngại trong
kế thừa các giá trị di sản lịch sử và văn hóa dân tộc, trong giữ gìn bản sắc dân
tộc, trong định hướng phát triển nhân cách, bản lĩnh con người Việt Nam, nhất
là khi giao lưu và đối thoại với các nền văn minh, văn hóa thế giới ” (giáo sư
Phan Huy Lê) [19]
2.1.3. Sự thiếu quan tâm từ phía gia đình trong việc giáo dục kiến thức lịch
sử - văn hóa cho học sinh
(Xem “Bảng 2: Kết quả thống kê khảo sát về thực trạng giáo dục gia LSDT
trong gia đình (1/14 nội chí khảo sát) qua sự nhìn nhận của học sinh THPT tại
một số trường trên địa bàn tỉnh hiện nay”, phần “Thực trạng giáo dục gia
đình”.
Một bộ phận giới trẻ học sinh tỏ ra kém hiểu biết về lịch sử - văn hóa của dân
tộc. Các em chưa được hiểu biết và lĩnh hội đầy đủ những phẩm chất truyền
thống tốt đẹp của con người Việt Nam: từ trong mất mát, đau thương mà vươn
lên, vượt qua bao thăng trầm bể dâu của lịch sử, hết giặc ngoại xâm, lại đến nạn
cát cứ phân tranh, cùng bao nhiêu tai ương: lũ lụt, hạn hán, sâu keo, mất mùa,
dịch bệnh v.v… Cuộc đấu tranh không ngừng với các thế lực xâm lăng ngoại
bang, với tự nhiên khắc nghiệt đã góp phần định hình nên những phẩm chất tốt
đẹp của nhân dân ta: bất khuất, kiên cường nhưng cũng thật thuần hậu, yêu
chuộng hòa bình; ghét sự chiến tranh; cần cù, chất phác nhưng cũng rất đỗi
thông minh sáng tạo v.v… Dân tộc Việt Nam vốn đã có nền văn hiến từ lâu đời
với truyền thống hiếu học, trọng đạo, hết lòng phụng dưỡng ông bà cha mẹ, tinh
thần đoàn kết cộng đồng, thương yêu gắn bó giữa những người trong cùng một
nước v.v Hiện nay tuy điều kiện vật chất đầy đủ, cuộc sống sung túc nhưng

một bộ phận không nhỏ giới học sinh THPT của tỉnh hiện nay lại ít được quan
tâm, vun đắp về mặt tinh thần; các em đã không được lĩnh hội một cách đầy đủ
những giá trị truyền thống tốt đẹp, vững bền của gia đình, quê hương, đất nước.
Từ không có được thế giới quan, nhân sinh quan hài hòa, khoa học về tự nhiên,
con người, về các mối quan hệ xã hội; không được giáo dục một cách nhuần
nhụy về tình yêu quê hương, Tổ quốc, về đức tính hiếu học, chăm làm v.v…
Cùng với cuộc sống theo lối “hưởng thụ”, tất cả những điều đó rất dễ khiến cho
giới trẻ học sinh có những hành động nông nổi, sai lệch. Hiện nay, có một thực
trạng là tội ác trong xã hội ngày càng gia tăng, tội phạm có xu hướng ngày càng
trẻ hóa, một phần lớn trong số đó đang còn ở tuổi vị thành niên, còn ngồi trên
ghế nhà trường. Những điều đau lòng đó, nguyên nhân không hề nhỏ xuất phát
từ việc người lớn đã và đang xem nhẹ vấn đề giáo dục những giá trị lịch sử - văn
hóa truyền thống của dân tộc cho giới trẻ; mãi lo chạy theo lợi ích vật chất mà
phó mặc trách nhiệm giáo dục con em mình cho nhà trường; thiếu quan tâm đến
những tâm tư tình cảm, nguyện vọng và sự phát triển toàn diện của các em.
Người xưa có câu “con hư tại mẹ, cháu hư tại bà” (“bà” và “mẹ” ở đây được
hiểu theo nghĩa rộng là sự trách nhiệm chung của gia đình trong việc giáo dục
con em họ), không phải hoàn toàn không có lý.
2.2. Về mặt chủ quan
2.2.1. Sự hạn chế của sách giáo khoa Lịch sử
Về sách giáo khoa Lịch sử trong nhà trường hiện nay, tiêu biểu như cuốn sách
giáo khoa Lịch sử lớp 12 (cả chương trình cơ bản và nâng cao). Nhìn chung các
tác giả dù đã cố gắng biên soạn theo tinh thần của chương trình đổi mới giáo
dục, thời lượng giữa phần Lịch sử thế giới và Lịch sử Việt Nam đã được cân đối
lại, kênh hình ảnh minh họa cũng phong phú đa dạng hơn so với chương trình
sách giáo khoa cũ. Tuy nhiên chương trình sách giáo khoa lịch sử ban hành năm
2006 của Bộ GD&ĐT vẫn còn tồn tại không ít những hạn chế như: quá thiên về
sự kiện với những ngày tháng và số liệu có mật độ khá dày buộc học sinh phải
nhớ. Điều này dẫn đến hệ quả không mong muốn là nhiều em học sinh THPT
hiện nay đã phải cố gắng ghi nhớ những con số và sự kiện theo lối học vẹt,

nhanh nhớ mà cũng nhanh quên, hoặc học theo kiểu “nhồi nhét”, “học tủ" nhằm
chủ yếu đối phó với thi cử mà không hiểu được mối quan hệ nhân quả và sự liên
hệ, tác động lẫn nhau giữa các sự kiện cũng như quá trình và quy luật phát triển
của lịch sử.
Thêm vào đó Chương trình và sách giáo khoa chưa cập nhật được với những kết
quả nghiên cứu mới. Phần lịch sử Việt Nam cận, hiện đại ở lớp 11 và lớp 12
được viết còn tương đối thiếu toàn diện, nặng về quân sự và chính trị. Trong
sách giáo khoa Lịch sử lớp 12, phần viết về lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến
nay còn có quá nhiều nội dung trùng lặp với lịch sử Đảng v.v…
2.2.2. Sự hạn chế về mặt phương pháp dạy, về phía người dạy và trong tổ
chức kiểm tra, đánh giá
1 - Phương pháp giảng dạy ở phổ thông hiện nay chủ yếu vẫn theo mô típ sư
phạm truyền thống: “thầy đọc, trò chép” và học thuộc lòng. Cách dạy và học này
rất hạn chế, bất cập như: không tạo được hứng thú cho người học; tính chủ động,
sáng tạo của học sinh chưa được khuyến khích, phát huy; học sinh tiếp thu kiến
thức một cách khá thụ động v.v… Xin dẫn theo lời của giáo sư Đinh Xuân Lâm
trên báo Tuổi trẻ online, ngày 1/8/2011 như sau: “lâu nay chúng ta vẫn sử dụng
phương pháp giảng dạy theo lối áp đặt. Cả Bộ Giáo dục lẫn người dạy sử đều
quan niệm Sử là môn học thuộc lòng. Thầy vào lớp không có không gian sáng
tạo, hoàn toàn phụ thuộc sách giáo khoa, đến câu hỏi trên lớp cũng được ấn
định sẵn theo sách giáo khoa. Kiến thức được truyền thụ theo lối từ trên xuống
dưới. Học sinh tiếp thu một cách bị động nên không có chút hào hứng. Việc dạy
và học Sử trên lớp đã trở thành công việc thụ động cả hai chiều” [20].
Bảng 4: Kết quả thống kê khảo sát học sinh THPT tại một số trường trên địa
bàn tỉnh về những hạn chế hiện nay của chương trình giáo dục Lịch sử trong
nhà trường phổ thông (2/14 tiêu chí khảo sát):
(Đơn vị: %)
STT



Tên
trường
Nội dung khảo sát
Trườn
g
THPT
Mỹ
Hào
Trường
THPT
Nguyễn
Thiện
Thuật
Trườn
g
THPT
Minh
Châu
Trường
THPT
Yên
Mỹ
Tổn
g số
137
HS
128 HS
122
HS
115 HS

502
HS
1
(13)
Yếu tố quan
trọng nhất tác
động tới việc
HS chưa
thích Sử
Cách dạy
của thầy cô
chưa hay
9,65 10,27 12,49 9,88
42,2
9
Gia đình
không
khuyến
khích
5,34 6,87 5,73 4,91
22,8
5
Ngành Sử
khó tạo việc
làm và thu
nhập
12,29 8,36 6.09 8,12
34,8
6
2

(14)
Hướng đổi
mới môn học
theo ý kiến
của HS
Đổi mới
sách giáo
khoavà
chương trình
giảng dạy
3,42 4,25 3,57 5,19
16,4
3
Nâng cao
chất lượng
của người
dạy
7,56 8,61 9,32 6,55
32,0
4
Kết hợp 16,3 12,64 11,43 11,16
51,5
3
2 - Qua bảng thống kê trên có thể thấy, người làm nhiệm vụ giảng dạy
Lịch sử có tác động đặc biệt quan trọng đến tâm lý, thái độ của học sinh đối với
môn học. Có 42,29 % tổng số học sinh trong diện khảo sát cho rằng yếu tố quan
trọng nhất khiến học sinh phổ thông chưa thích môn Sử là do cách dạy của thầy
cô chưa hay. Việc đổi mới sách giáo khoa, chương trình giảng dạy, đi kèm với
việc nâng cao của người giảng dạy được học sinh đề xuất chiếm tỷ lệ 51,53%.
Thực tế ở nhiều trường THPT cho thấy, không ít giáo viên môn Sử chưa đáp

ứng được yêu cầu đổi mới dạy học, vẫn thực hiện cách dạy đơn điệu, một chiều,
áp đặt, ghi chép nhiều mà ít khơi dậy được tư duy sáng tạo của học sinh.
Biểu đồ 8: Yếu tố quan trọng nhất khiến học sinh THPT tại một số trường hiện
nay chưa thích môn Sử
2 - Trên thực tế hiện nay, nội dung chương trình học còn nặng về lý thuyết trên
lớp, mà hạn chế trong việc tổ chức những buổi học ngoại khóa, tham quan các
viện bảo tàng, di tích lịch sử - văn hóa,… Nội dung kiểm tra đánh giá cũng còn
chưa toàn diện, khoa học, nặng về học thuộc lòng, nhẹ về tư duy, phân tích, khái
quát.
3 - Việc học tập và thi cử lâu nay còn ảnh hưởng nặng bởi lối “tầm chương trích
cú” truyền thống. Khi mà tri thức còn ít, cách thức trang bị tri thức còn thô sơ,
những lượng kiến thức cụ thể được coi là tiêu chuẩn đánh giá trình độ. Chính vì
vậy mà trong các kỳ thi đều đưa ra những câu hỏi kiểm tra nặng về tái hiện kiến
thức, buộc học sinh phải nhớ rất nhiều thông tin, sự kiện, số liệu. Đấy không
phải chỉ là vấn đề của sử học mà còn là hạn chế chung của khoa học xã hội mà
chúng ta chưa thoát ra được. Cách dụng này không còn phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại ngày nay và đang tỏ ra bất cập, làm cho người học ngao ngán,
chán nản, việc học tập ở một môn học, đặc biệt như môn Sử, điều cốt yếu không
phải là ở những kiến thức cụ thể, nhất là ở trong thời đại tin học như hiện nay,
tri thức cụ thể của nhân loại là vô tận. Nếu chúng ta yêu cầu người học phải ghi
nhớ trong đầu tất cả những kiến thức đó đều là sự không tưởng. Điều quan trọng
bậc nhất là truyền cho người học niềm ham mê học tập môn học, dạy cho người
học công cụ để có thể tự tìm hiểu, nghiên cứu những tri thức liên quan tới môn
học ấy [1, 26-27]. Như vậy mấu chốt của vấn đề nằm ở việc phải đổi mới
phương pháp dạy và học, đặc biệt đối với môn sử trong nhà trường phổ thông
hiện nay.
2.2.3. Sự hạn chế về cơ sở vật chất trường học
Đối với các trường THPT mà tôi đã khảo sát ở trên. Cơ sở về vật chất trường
học phục vụ việc học tập nói chung tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, cụ thể đối với
việc dạy - học môn Sử, nó còn tồn tại một số hạn chế sau:

1 - Thư viện nhà trường tuy có mở và đi vào hoạt động nhưng số lượng đầu
sách, tài liệu còn hạn chế, chưa đáp ứng đủ nhu cầu học tập, tìm tòi kiến thức
của học sinh. Việc học môn Lịch sử của các em thường bị “bó buộc” vào kiến
thức trong sách giáo khoa. Có một số sách tham khảo chủ yếu phục vụ cho việc
ôn thi Đại học, nhiều quyển nội dung sơ lược và kiến thức thì lặp lại, chằng chéo
lên nhau.
2 - Phương tiện, dụng cụ hỗ trợ học tập. Không những chỉ các phương tiện
hỗ trợ học tập hiện đại như máy chiếu, máy tính, đầu VCD, các đĩa phim tư liệu
v.v… mà ngay cả những phương tiện, dụng cụ giảng dạy truyền thống như bản
đồ, mô hình, hiện vật v.v… ở không ít trường hiện nay cũng còn đang thiếu và
chưa đồng bộ. Những tồn tại trên khiến cho môn lịch sử vốn vô cùng phong
phú, sinh động, cách tiếp cận đa chiều lại trở thành một môn học khô khan,
nhàm chán đối với các em học sinh phổ thông
2.2.4. Sự hạn chế trong quản lý giáo dục đối với môn Lịch sử
Việc môn Sử năm cho thi Tốt nghiệp, năm không càng khiến cho bộ môn
Khoa học Xã hội căn bản này bị xem nhẹ trong chương trình giáo dục phổ
thông. Từ lâu vốn đã có nhiều nguyên nhân khiến học sinh ngán ngẫm, không
thích học môn Sử. Thêm vào đó, việc môn Lịch sử không phải là môn thi Tốt
nghiệp bắt buộc càng khiến cho học sinh được thể lơ là, chểnh mảng đối với nó.
Dẫn đến tình trạng trống rỗng kiến thức về lịch sử văn hóa đất nước, quê hương
mình. “Nước Mỹ chỉ có lịch sử 200 năm nhưng trong số 5 môn thi Tốt nghiệp
của họ không bao giờ thiếu môn sử, trong khi lịch sử đất nước ta hàng ngàn
năm thì môn Sử lại bị xem như môn thứ yếu” (Tiến sĩ Nguyễn Văn Khoan) [21].
Năm nào buộc phải thi Tốt nghiệp môn Sử thì học sinh cũng chủ yếu học hành
theo kiểu đối phó, chiếu lệ; bởi vì chỉ cần “chống liệt” môn Sử cộng với những
môn còn lại được từ điểm trung bình khá trở lên là các em đã có thể Tốt nghiệp
THPT. Chưa kể những hiện tượng tiêu cực trong thi cử hiện nay như: gà bài,
chép bài, quay phao v.v… vẫn chưa được khắc phục triệt để. Như vậy, rõ ràng
việc dạy - học, tổ chức thi và nhất là định vị trí môn Sử trong hệ thống các môn
học của chương trình giáo dục phổ thông hiện nay ở nước ta đang tồn tại không

ít vấn đề; lại chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của các cơ quan ban ngành
chức năng, nhà trường và xã hội.
Cho đến nay đã có rất nhiều bài phân tích đăng trên các báo, tạp chí; rồi
các cuộc hội thảo về việc dạy và học môn Sử ở nhà trường phổ thông. Nhưng
kết quả thi môn Lịch sử những năm qua vẫn chưa có gì thay đổi. Tiêu biểu như
tình trạng phần lớn thí sinh có điểm Sử dưới trung bình với hàng ngàn điểm
không trong cuộc thi tuyển sinh Đại học – Cao đẳng năm 2011 vừa qua. Mà như
“đến hẹn lại lên”, sau mỗi kỳ thi Tốt nghiệp THPT, Tuyển sinh Đại học – Cao
đẳng hằng năm là người ta lại bàn nhiều đến vấn đề này. Để rồi sau đó, tất cả lại
rơi vào “khoảng không” im lặng. Việc làm ngơ, biết bệnh mà không chạy chữa
đối với một cơ thể con người đã là nguy hiểm, hậu quả có thể khôn lường biết
chừng nào chừng nào. Huống gì đối với một quốc gia – dân tộc, thì chứng bệnh

×