Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty công nghệ và truyền thông B.I.T

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.85 KB, 63 trang )

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
LỜI MỞ ĐẦU
Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị
trường. Vì vậy, nền kinh tế thị trường khi vận hành cũng phải theo những quy
luật cạnh tranh. Các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau, phải không
ngừng tiến bộ để đạt được ưu thế tương đối so với đối thủ cạnh tranh của
mình.
Công ty công nghệ và truyền thông B.I.T là một doanh nghiệp tư nhân
nên cũng phải đối mặt với thực tế như trên. Trong thời gian qua, bằng nhiều
kế hoạch và biện pháp hiệu quả, công ty đã đạt được một số thành công đáng
kích lệ. Mặc dù vậy, công ty vẫn đang tiếp tục tìm hướng đi đúng đắn để phát
triển lên tầm cao mới.
Với nhận thức như vậy, sau thời gian thực tập tại công ty công nghệ và
truyền thông B.I.T, tìm hiểu hoạt động kinh doanh của công ty, cùng với sự
hướng dẫn tận tình của thầy giáo hướng dẫn thực tập Lê Huy Đức, em xin
trình bày đề tài: "Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty công nghệ và
truyền thông B.I.T" để viết chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề là kết hợp những hiểu biết thực tế
về tình hình sản xuất, kinh doanh của công ty công nghệ và truyền thông
B.I.T và những kiến thức đã đọc để đóng góp một số biện pháp nâng cao khả
năng cạnh tranh của công ty B.I.T Corp.
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là khả năng cạnh tranh của một
công ty sản xuất và cung ứng phần mềm công nghệ. Theo đó, khả năng cạnh
tranh là năng lực duy trì được lợi nhuận và thị phần trên các thị trường trong
và ngoài nước. Nó được tác động bởi các yếu tố từ đầu vào đến đầu ra của
quá trình sản xuất.
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong ngành sản xuất, kinh doanh
phần mềm công nghệ ở Việt Nam và hoạt động sản xuất, kinh doanh cụ thể
của B.I.T Corp trong các năm gần đây.


Chuyên đề được chia thành 3 chương:
Chương I. Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty công
nghệ và truyền thông B.I.T
Chương II. Thực trạng sản xuất kinh doanh của công ty công nghệ và
truyền thông B.I.T.
Chương III. Một số giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của công
nghệ và truyền thông B.I.T
Do thời gian và trình độ có hạn, chuyên đề không tránh khỏi thiếu sót,
em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và sự giúp đỡ của các
bạn để em có thể hoàn thiện hơn chuyên đề này.
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
CHƯƠNG 1:
SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA CÔNG TY CÔNG NGHỆ VÀ TRUYỀN THÔNG B.I.T
1. LÝ LUẬN CƠ HỘI VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH.
1.1. Khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh.
1.1.1. Cạnh tranh là gì?
Doanh nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế thị trường nên chịu sự chi
phối hoạt động của các quy luật kinh tế: quy luật giá trị, quy luật cung cầu và
quy luật cạnh tranh. Trong nền kinh tế này mọi người đều được tự do kinh
doanh, đây chính là nguồn gốc dẫn tới cạnh tranh. Cạnh tranh trên thị trường
rất đa dạng và phức tạp giữa các chủ thể có lợi ích đối lập nhau như cạnh
tranh giữa những người mua, giữa những người bán, giữa những người bán
với người mua, giữa các nhà sản xuất, giữa các doanh nghiệp nội địa với
doanh nghiệp nước ngoài, Cạnh tranh phát triển cùng với sự phát triển của
nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa.
Vậy cạnh tranh là gì?
Xét dưới giác độ các quốc gia thì cạnh tranh có thể được hiểu là quá
trình đương đầu của các quốc gia này với các quốc gia khác trong quá trình

hội nhập kinh tế.
Xét dưới giác độ ngành kinh tế - kỹ thuật, từ trước đến nay, cạnh tranh được
chia thành 2 loại là cạnh tranh giữa các ngành và cạnh tranh nội bộ ngành.
- Cạnh tranh giữa các ngành là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong mọi lĩnh vực khác nhau nhằm thu được lợi nhuận lớn và có tỷ suất lợi
nhuận cao hơn so với vốn đã bỏ ra, cùng đó là việc đầu tư vốn vào ngành có
lợi nhất cho sự phát triển. Sự cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến việc các
doanh nghiệp luôn tìm kiếm những ngành đầu tư có lợi nhất nên đã chuyển
vốn đầu tư từ ngành có lợi nhuận cao hơn. Điều này, vô hình chung đã hình
thành nên sự phân phối vốn hợp lý giữa các ngành khác nhau và giúp các
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
doanh nghiệp ở các ngành khác nhau có số vốn bằng nhau thì thu được lợi
nhuận ngang nhau.
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản
xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm hàng hoá - dịch vụ nào đó. Cạnh tranh
trong nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành nên giá cả thị trường trên cơ sở giá
trị xã hội của loại hàng hoá dịch vụ đó. Trong cuộc cạnh tranh này, các doanh
nghiệp đấu tranh với nhau để giành chiến thắng. Những doanh nghiệp giành
chiến thắng sẽ mở rộng quy mô hoạt động của mình trên thị trường, còn
những doanh nghiệp nào thua cuộc sẽ phải thu hẹp phạm vi kinh doanh, thậm
chí các doanh nghiệp này còn có thể dẫn đến giải thể, phá sản.
Đề cập tới cạnh tranh trong điều kiện nền kinh tế TBCN, K. Mark đã đưa
ra khái niệm cạnh tranh như sau: "Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay
gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất và tiêu thụ hàng hoá nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch".
Như vậy, khi nghiên cứu cạnh tranh trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm,
Mark đã coi cạnh tranh là cuộc giành giật các lợi thế để thu được lợi nhuận
siêu ngạch.
Tuy nhiên, cũng trong nền kinh tế TBCN, cuốn sách "Từ điển kinh

doanh" (Xuất bản năm 1992, Anh) lại đưa ra khái niệm cạnh tranh như sau:
"cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh
giành tài nguyên sản xuất cùng một loại về phía mình" để đề cập đến sự cạnh
tranh ở thị trường các yếu tố đầu vào của các doanh nghiệp.
Nói tóm lại, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các ngành kinh tế, giữa các
quốc gia trong việc giành giật các lợi thế để thực hiện các mục tiêu khác nhau
trong từng giai đoạn cạnh tranh nhất định.
Nếu xét cạnh tranh dưới góc độ các doanh nghiệp thì thực chất cạnh
tranh là sự ganh đua về lợi ích kinh tế, về chủ thể tham gia thị trường. Đối với
khách hàng, bao giờ họ cũng muốn mua được hàng hoá có chất lượng cao mà
giá lại rẻ, còn các doanh nghiệp lại muốn được tối đa hoá lợi nhuận của mình.
Với mục tiêu là lợi nhuận, các doanh nghiệp phải tìm cách giảm chi phí, giành
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
giật khách hàng về phía mình. Từ đó, cạnh tranh đã xảy ra.
Cạnh tranh là quy luật của nền kinh tế thị trường, nó là động lực thúc đẩy
sản xuất, lưu thông hàng hoá phát triển. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải
nhận thức đúng đắn về cạnh tranh để từ đó luôn phát huy nội lực, nâng cao
chất lượng phục vụ khách hàng. Mặt khác, tránh cạnh tranh bất hợp pháp dẫn
đến làm tổn hại lợi ích của cộng đồng cũng như làm suy yếu chính mình.
Trong nền kinh tế thị trường, mong muốn tồn tại và phát triển trong cạnh
tranh luôn là mục đích tự thân của mỗi doanh nghiệp. Cũng trong nền kinh tế
đó, khách hàng là người tự do lựa chọn nhà cung ứng, là nhân tố quyết định
sự tồn tại của các doanh nghiệp. Họ không phải tự tìm kiếm đến các doanh
nghiệp như trước đây mà buộc các doanh nghiệp phải tìm kiếm khách hàng
cho mình và khai thác nhu cầu nơi họ. Nghĩa là, muốn khách hàng tiêu thụ
sản phẩm thì các doanh nghiệp nên đưa sản phẩm của mình tới khách hàng để
họ biết, cảm nhận được và có quyết định dùng hay không dùng. Với cơ chế
thị trường, có được một khách hàng là rất khó khăn, các doanh nghiệp phải
giữ từng khách hàng, giành giật từng khách hàng, doanh nghiệp nào cũng

muốn đưa sản phẩm của mình tới tay khách hàng. Nếu doanh nghiệp nào
nhanh hơn thì doanh nghiệp đó sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Quy luật chọn
lọc nghiệt ngã này đã chia doanh nghiệp thành hai nhóm chính, đó là nhóm
doanh nghiệp năng động và nhóm doanh nghiệp trì trệ. Chính điều đó đã
khiến các doanh nghiệp yếu phải nhanh chóng thích nghi, nếu không sẽ không
có cơ hội phát triển và dẫn tới tình trạnh bị phá sản. Vì vậy, trong quá trình
chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường thì cạnh tranh là con đường cơ bản để các doanh nghiệp thích nghi và
tồn tại được.
Có thể nói, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường là một tất yếu xảy ra và nó đóng vai trò quan trọng với tất cả các
doanh nghiệp đó. Trong phạm vi giới hạn luận văn của mình, em chủ yếu tập
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
trung nghiên cứu và phân tích loại hình cạnh tranh này.
1.1.2. Năng lực cạnh tranh là gì?
1.1.2.1. Khái niệm về sức cạnh tranh và năng lực cạnh tranh.
- Về sức cạnh tranh
Sức cạnh tranh là khái niệm được dựng cho phạm vi doanh nghiệp trong
lý thuyết tổ chức các doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là có sức
cạnh tranh (hay năng lực cạnh tranh) và được đánh giá là có thể đứng vững
cùng các nhà sản xuất khác, khi các sản phẩm thay thế hoặc các sản phẩm
tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn các sản phẩm cùng loại; hoặc
cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng và dịch vụ
ngang bằng hay cao hơn. Nhìn chung, khi xác định sức cạnh tranh của một
doanh nghiệp hay một ngành cần xem xét đến tiềm năng sản xuất kinh doanh
một hàng hoá hay một dịch vụ ở mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá
phổ biến mà không phải trợ cấp.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và
Phát triển kinh tế (OECD) đó lựa chọn một định nghĩa cố gắng kết hợp cho cả

doanh nghiệp, ngành và quốc gia như sau: .Sức cạnh tranh là khả năng của
các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu
nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế Định nghĩa này theo em là
phù hợp và phản ánh được khái niệm cạnh tranh quốc gia trong mối liên hệ
gắn kết với hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo việc làm, tăng thu
nhập và mức sống nhân dân.
- Về năng lực cạnh tranh:
Năng lực cạnh tranh (còn gọi là sức cạnh tranh; Anh: Competitive
Power; Nga: Cancurentia; Pháp: Capacitooj de Concurrence), khả năng giành
được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng
giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp (Từ điển thuật ngữ
kinh tế học, 2001, NXB Từ điển Bách khoa Hà nội, trang 349). Theo định
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
nghĩa này, có thể thống nhất bốn thuật ngữ hiện đang được sử dụng: năng lực
cạnh tranh, sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và tính cạnh tranh đều có nội
dung tương tự nhau và hiểu tên của chúng một cách nhất quán trong đề tài này
là "năng lực cạnh tranh".
1.1.2.2. Các cấp độ của năng lực cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh có thể được phân biệt thành bốn cấp độ:
 Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
 Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành
 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
 Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá
Năng lực cạnh tranh ở bốn cấp độ phân biệt trên đây có mối tương quan
mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét, đánh giá và đề ra
giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung cần
thiết phải đặt nó trong mối tương quan chung giữa các cấp độ năng lực cạnh
tranh nêu trên. Một mặt, tổng số năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp của
một nước tạo thành năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia đó. Năng lực

cạnh tranh của doanh nghiệp bị hạn chế khi năng lực cạnh tranh cấp quốc gia
và của sản phẩm doanh nghiệp đó đều thấp. Mặt khác, năng lực cạnh tranh
quốc gia thể hiện qua môi trường kinh doanh, cạnh tranh quốc tế và trong
nước (đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế). Trong đó, các cam
kết về hợp tác kinh tế quốc tế, các chính sách kinh tế vĩ mô và hệ thống luật
pháp có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của
ngành và của sản phẩm hàng hoá trong quốc gia đó. Vì vậy, trước khi đề cập đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, em xin được sơ lược về năng lực cạnh
tranh cấp độ quốc gia và của sản phẩm. Còn năng lực cạnh tranh cấp ngành có
mối quan hệ và chịu ảnh hưởng của năng lực cạnh tranh quốc gia và của sản
phẩm tương tự như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nên không đề cập đến.
a. Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Trong một báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể của Diễn đàn kinh tế thế
giới (WEF) năm 1997 đó nêu ra: "năng lực cạnh tranh của một quốc gia là
năng lực của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng
cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối và các đặc trưng
kinh tế khác". Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể được hiểu là
việc xây dựng một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bố có
hiệu quả các nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững. Môi
trường cạnh tranh kinh tế chung có ý nghĩa rất lớn đối với việc thúc đẩy quá
trình đầu tư, tự điều chỉnh, lựa chọn của các nhà kinh doanh, các doanh
nghiệp theo các tín hiệu thị trường được thông tin đầy đủ. Mặt khác, môi
trường cạnh tranh thuận lợi sẽ tạo khả năng cho chính phủ hoạch định chính
sách phát triển, cải thiện đầu tư, tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập ngày
càng có hiệu quả, sẽ ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Ngoài những yếu tố về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý kinh tế
có 8 yếu tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh quốc gia, bao gồm:
 Độ mở cửa kinh tế

 Vai trò của chính phủ: vai trò và mức độ can thiệp của nhà
nước vào hoạt động cạnh tranh
 Tài chính ngân hàng
 Công nghệ: là mức độ đầu tư cho nghiên cứu triển khai (R&D);
trình độ công nghệ và tích luỹ kiến thức công nghệ
 Cơ sở hạ tầng
 Hệ thống quản lý, chất lượng quản lý nói chung
 Lao động: là số lượng và chất lượng lao động, hiệu lực và tính
linh hoạt của thị trường lao động
 Thể chế, hiệu lực của pháp luật và thể chế xã hội đặt nền móng
cho nền kinh tế hiện đại mang tính cạnh tranh, bao gồm quy
định của luật pháp và quyền sở hữu.
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Từ năm 2000, WEF điều chỉnh lại các nhóm tiêu chí, gộp thành ba nhóm
lớn để đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia là: Sáng tạo kinh tế, khoa học
công nghệ, tài chính, quốc tế hoá. Trong đó, trọng số của sáng tạo kinh tế,
khoa học công nghệ đó tăng mạnh từ 1/9 lờn 1/3. Theo phân tích và đánh giá
của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) thì sức vươn lên trong hội nhập, cạnh
tranh của nền kinh tế nước ta chưa mạnh, trong khi xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế đang đặt ra yêu cầu rất cao tới năng lực cạnh tranh của các quốc gia
và năng lực cạnh tranh của cấp quốc gia ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
b. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá
Một sản phẩm hàng hoá được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp
ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng,
tính độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì hơn hẳn so với những
sản phẩm hàng hoá cùng loại. Nhưng năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng
hoá lại được định đoạt bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Sẽ không
có những năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá cao khi năng lực cạnh

tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó thấp.
Ở đây cũng cần phân biệt năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá và
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là hai phạm trù khác nhau nhưng có
quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có được do năng
lực cạnh tranh của chủ thể (doanh nghiệp) tạo ra; nhưng năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh của hàng hoá mà có, năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa.
Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá có ảnh hưởng lớn và
thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
c. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong cơ chế thị trường, một doanh nghiệp muốn có một chỗ đứng vững
chắc, ngày càng mở rộng quy mô hoạt động thì cần phải có một tiềm lực đủ
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
mạnh để có thể cạnh tranh trên thị trường. Tiềm lực đó chính là năng lực cạnh
tranh của một doanh nghiệp.
"Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà
doanh nghiệp nhờ vào đó có thể tự duy trì vị trì của mình trên thị trường cạnh
tranh cũng như đảm bảo thực hiện một mức lợi nhuận ít nhất là bằng tỷ lệ cho
việc thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp".
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở 4 yếu tố chính: giá cả,
chất lượng sản phẩm, các dịch vụ kèm theo và yếu tố thời gian.
Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải tìm ra các phương
án tối ưu để giảm chi phí, hạ thấp giá thành, áp dụng khoa học kỹ thuật vào
sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, tổ chức tốt mạng lưới bán hàng và
biết chọn thời điểm bán hàng hợp lý nhằm thu hút khách hàng và mở rộng thị
trường.
Tăng năng lực cạnh tranh là điều tất yếu của mỗi doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường.
1.2. Các chỉ tiêu đo lường năng lực cạnh tranh.

 Thị phần thị trường của doanh nghiệp / Toàn bộ thị phần thị trường
Chỉ tiêu này thường để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Khi xem xét chỉ tiêu này người ta thường nghiên cứu các loại thị phần sau:
+ Thị phần của công ty so với toàn bộ thị trường. Đó là tỷ lệ % giữa doanh
số của doanh nghiệp so với doanh số của toàn bộ các doanh nghiệp khác.
+ Thị phần của công ty so với phân khúc mà nó phục vụ. Là tỷ lệ % giữa
doanh số của công ty so với doanh số của toàn phân khúc.
+ Thị phần tương đối là tỷ lệ % giữa doanh số của công ty so với doanh
nghiệp đứng đầu.
Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu này mà doanh nghiệp biết mình
đang ở đâu trong các doanh nghiệp cùng ngành, thị trường của mình nhiều
hay ít, su hướng về phát triển thị trường của doanh nghiệp mình diễn ra như
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
thế nào. Từ đó doanh nghiệp sẽ có cái nhìn chính xác và đặt ra các mục tiêu
cũng như chiến lược phù hợp.
Ưu điểm: Đơn giản dễ tính.
Nhược điểm: Độ chính sác không cao, khó thu thập được doanh số chính
xác của các doanh nghiệp.
 Tỷ suất lợi nhuận
Chỉ tiêu này được tính = lợi nhuận / giá bán
Đây là chỉ tiêu tổng hợp, nó không chỉ phản ánh tiềm năng cạnh tranh
mà còn thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Nếu chỉ tiêu này thấp chứng tỏ doanh doanh nghiệp gặp phải sự cạnh
tranh gay gắt trên thị trường nhưng một phần nào cũng chứng tỏ doanh nghiệp
cũng có khả năng cạnh tranh không kém gì các đối thủ của nó. Ngược lại nếu
chỉ tiêu này cao nghĩa là đang kinh doanh đang rất thuận lợi.
 Chi phí marketing / Tổng doanh thu
Thông qua chỉ tiêu này mà doanh nghiệp thấy được hiệu quả hoạt động
của mình trong lĩnh vực marketing đồng thời có các quyết định chính xác hơn

cho hoạt động này trong tương lai.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh.
1.3.1. Môi trường vĩ mô.
Đây là các nhân tố tác động mạnh mẽ tói khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp nhưng doanh nghiệp chỉ có thể chấp nhận chứ không thể tác động trở lại.
a. Nhóm nhân tố kinh tế.
Đây là những nhân tố quan trọng nhất của môi trường hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Khi một nền kinh tế phát triển với tốc độ cao sẽ kéo
theo sự tăng thu nhập cũng như khả năng thanh toán của người dân cũng tăng
lên do vậy nhu cầu hay sức mua của nhân dân cũng sẽ tăng lên. Mặt khác nền
kinh tế phát triển mạnh có nghĩa là khả năng tích tụ và tập trung tư bản lớn
như vậy tốc độ đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh sẽ tăng lên. Đây chính là
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
cơ hội tốt cho các doanh nghiệp phát triển. Doanh nghiệp nào có khả năng
nắm bắt được những cơ hội này thì chắc chắn sẽ thành công và khả năng cạnh
tranh cũng tăng lên.
b. Nhân tố chính trị và pháp luật.
Chính trị và pháp luật là nền tảng cho phát triển kinh tế cũng như là cơ
sở pháp lý để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường.
Luật pháp rõ ràng, chính trị ổn định là môi trường thuận lợi đảm bảo sự bình
đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả.
Mặt khác chúng cũng có thể đem lại những trở ngại, khó khăn thậm chí là rủi
ro cho các doanh nghiệp. Ta có thể lấy ví dụ như các chính sách về xuất nhập
khẩu về thuế, các khoản nộp ngân sách, quảng cáo, giá là những yếu tố tác
động trực tiếp kìm hãm hay tạo điều kiện để nâng cao khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp.
c. Tốc độ tăng trưởng của ngành.
Tốc độ tăng trưởng của ngành sẽ quyết định mức độ cạnh tranh của
ngành đó. Khi tốc độ phát triển của ngành chậm thì mức độ cạnh tranh giữa

các doanh nghiệp trên thị trường đó sẽ cao và gay gắt hơn do chỉ cần một biến
động như sự mở rộng thị trường của doanh nghiệp này sẽ ảnh hưởng tới phần
thị trường của các doanh nghiệp khác. Các doanh nghiệp phải cạnh tranh
quyết liệt do vậy mỗi doanh nghiệp phải luôn luôn tìm cách bảo vệ phần thị
trưởng của mình.
d. Số lượng các doanh nghiệp trong ngành.
Thêm vào đó số lượng các doanh nghiệp cạnh tranh và các đối thủ tiềm
ẩn cũng là một nhân tố tác động đến khả năng cạnh tranh của một doanh
nghiệp. Khi xem xét nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp phải đánh giá
nghiên cứu kỹ lưỡng từng đối thủ của mình : Quy mô khả năng tài chính,
trình độ công nghệ, đặc điểm sản phẩm để từ đó định ra mức độ cạnh tranh
trên thị trường và đánh giá khả năng cạnh tranh của đối thủ cũng như của
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
doanh nghiệp mình. Từ những đánh giá đó để có thể có các chính sách thích
hợp với từng giai đoạn từng thị trường.
e. Nguồn nhân lực.
Đây chính là những người tạo ra dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp. Đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp sẽ là những người quyết định các
hoạt động kinh doanh : Kinh doanh cái gì, sản phẩm nào tốt cho ai, khối
lượng bao nhiêu. Mỗi một quyết định của họ có một ý nghĩa hết sức quan
trọng liên quan tới sự tồn tại phát triển hay diệt vong của doanh nghiệp. Chính
họ là những người quyết định cạnh tranh như thế nào, khả năng cạnh tranh
của công ty sẽ tới mức bao nhiêu bằng những cách nào
f. Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp.
Một hệ thống cơ sở vật chất kỹ khang trang cùng với đội ngũ nhân viên
kinh nghiệm phù hợp với quy mô của doanh nghiệp chắc chắn sẽ làm tăng
khả năng cạnh tranh của công ty lên rất nhiều. Với một cơ sở vật chất tốt thì
chất lượng dịch vụ được đảm bảo. Chất lượng dịch vụ hợp lý giúp cho doanh
nghiệp tận dụng được công xuất tối đa qua đó hạ giá thành sản phẩm kéo theo

sự giảm giá bán trên thị trường, khả năng chiến thắng trong cạnh tranh của
doanh nghiệp sẽ là rất lớn. Ngược lại không một doanh nghiệp nào lại có khả
năng cạnh tranh cao khi mà cơ sở vật chất kém, chất lượng dịch vụ không phù
hợp vì chính nó sẽ làm giảm chất lượng dịch vụ tăng chi phí kinh doanh.
g. Khả năng tài chính của doanh nghiệp.
Đây là yếu tố quan trọng quyết định khả năng kinh doanh cũng như là
chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá quy mô của doanh nghiệp. Bất cứ một hoạt
động đầu tư, mua sắm trang thiết bị hay phân phối, quảng cáo đều phải được
tính toán dựa trên thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp
có tiềm lực tài chính mạnh sẽ có khả năng trang bị các dịch vụ hoàn hảo, đảm
bảo chất lượng, hạ giá thành, giá bán sản phẩm, tổ chức các hoạt động quảng
cáo khuyến mại mạnh mẽ nâng cao sức cạnh tranh.
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
h. Khả năng tổ chức quản lý.
Điều này được thể hiện thông qua cơ cấu tổ chức, tác phong làm việc của
các thành viên, mối quan hệ của các bộ phận… Một bộ máy được vận hành
một cách nhịp nhàng, thông suốt chắc chắn sẽ góp phần nâng cao khả năng
cạnh tranh và ngược lại. Để có được sự tổ chức quản lý tốt doanh nghiệp cần
phải tạo ra được quy chế làm việc. Các quy định về trách nhiệm và quyền lợi
cho các cá nhân, mối quan hệ giữa các bộ phận trong doanh nghiệp một cách
rõ ràng và được sự nhất trí của các thành viên trong doanh nghiệp. Khả năng
tổ chức quản lý còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng quản lý,tổ chức của
những người làm công tác quản lý trong doanh nghiệp. Do đó, đội ngũ quản
trị viên phải được đào tạo một cách có hệ thống, phù hợp với các đặc điểm
của doanh nghiệp.
1.3.2. Môi trường ngành: 5 áp lực cạnh tranh.
Cạnh tranh giữa các hãng trong ngành (5), là một nhóm các hãng, công
ty sản xuất kinh doanh các sản phẩm là những sản phẩm thay thế gần gũi
nhau.

NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Mô hình 2: Mô hình năm lực lượng cạnh tranh.
Năm lực lượng cạnh tranh: Nguy cơ nhập cuộc của các đối thủ mới, mối
đe doạ của sản phẩm thay thế, quyền lực của người mua, quyền lực của người
cung ứng và cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại. Phản ánh thực tế là
cạnh tranh trong một ngành không chỉ liên quan đến các bên đã xác định;
Khách hàng, người cung ứng, các doanh nghiệp đang kinh doanh khác đều có
thể trở thành đối thủ cạnh tranh trong tương lai. Các công ty trong ngành tuỳ
trường hợp cụ thể mà có thể nổi trội hoặc kém hơn một chút so với đối thủ
cạnh tranh ngoài ngành. Toàn bộ năng lực cạnh tranh này kết hợp với nhau
xác định cường độ cạnh tranh và mức lợi nhuận của ngành, lực lượng mạnh
nhất sẽ thống trị và trở thành trọng yếu theo quan điểm xây dựng chiến lược.
Cường độ cạnh tranh phụ thuộc rất nhiều vào cơ cấu ngành: Số người
bán và mức độ khác biệt của sản phẩm, những rào cản nhập và cơ động
của ngành, những rào cản thấp và thu hẹp, cơ cấu chi phí, nhất thể hoá
dọc và vươn ra toàn cầu.
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Đối thủ
cạnh tranh
tiềm ẩn
Đối thủ
cạnh tranh
tiềm ẩn
Cạnh tranh giữa các
hãng trong ngành
Cạnh tranh giữa các
hãng trong ngành
Cạnh tranh giữa
các sản phẩm

thay thế
Cạnh tranh giữa
các sản phẩm
thay thế
Nhà cung cấp
Nhà cung cấp
Khách hàng
Khách hàng
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
1.3.3. Môi trường doanh nghiệp.
1.3.3.1. Nhân tố giá cả hàng hóa, dịch vụ.
Giá cả của một sản phẩm trên thị trường được hình thành và thông qua
quan hệ cung cầu. Người bán hay người mua thoả thuận hay mặc cả với nhau
để tiến hành mức giá cuối cùng để đảm bảo về lợi ích của cả hai bên. Giá cả
đóng vai trò quan trọng trong quyết định mua hay không mua của khách hàng.
Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh của công cuộc cách mạng
doanh nghiệp, khách hàng có quyền lựa chọn sản phẩm có giá thấp hơn, khi
đó sản lượng tiêu thụ của doanh nghiệp sẽ tăng lên.
Giá cả được thể hiện như một vũ khí để giành chiến thắng trong cạnh tranh
thông qua việc định giá: Định giá thấp, định giá ngang bằng hoặc định giá cao.
Với mức giá ngang bằng với mức giá thị trường giúp cho doanh nghiệp
giữ được khách hàng, nếu doanh nghiệp tìm ra được những biện pháp nhằm
làm giảm giá thành thì lợi nhuận thu được sẽ lớn hơn và hiệu quả kinh tế sẽ
cao. Ngược lại, với mức giá thấp hơn mức giá thị trường thì sẽ thu hút nhiều
khách hàng, làm tăng sản lượng tiêu thụ, doanh nghiệp có cơ hội thâm nhập
và chiếm lĩnh thị trường. Tuy nhiên , với bài toán này, doanh nghiệp khó giải
nguy cơ thâm hụt lợi nhuận. Mức giá mà doanh nghiệp áp dụng cao hơn mức
giá thị trường nói chung là không có lợi, nó chỉ sử dụng với các doanh nghiệp
có tính độc quyền hoặc với các loại hàng hoá đặc biệt. Khi đó, doanh nghiệp
sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch.

Tuỳ thuộc vào đặc điểm thị trường, mỗi doanh nghiệp có các chính sách
giá thích hợp cho từng loại sản phẩm, từng giai đoạn cho từng thời kỳ kinh
doanh sẽ tạo cho mình một năng lực cạnh tranh tốt và chiếm lĩnh ưu thế.
1.3.3.2. Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm.
Điều quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường là
phải trả lời những câu hỏi sau: sản xuất là cái gì? sản xuất như thế nào?
Thông qua việc trả lời các câu hỏi này doanh nghiệp sẽ xây dựng cho mình
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
một cơ cấu sản phẩm hợp lý. Ta có thể khẳng định tầm quan trọng của sản
phẩm đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, là trung tâm của doanh nghiệp,
bởi vì , không có sản phẩm thì sẽ không có hoạt động kinh doanh. Các sản
phẩm này có thể là sản phẩm vô hình hoặc sản phẩm hữu hình. Tuy nhiên vấn
đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải làm ra và cung cấp sản phẩm phù hợp
với thị hiếu người tiêu dùng được thị trường chấp nhận, có khả năng tiêu thụ
mạnh giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp mình.
Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tốt là phần lớn những doanh
nghiệp đã thực hiện đa dạng hoá sản phẩm. Sản phẩm của doanh nghiệp luôn
được hoàn thiện không ngừng để có thể theo kịp nhu cầu thị trường bằng cách
cải tiến các thông số chất lượng, mẫu mã, bao bì, đồng thời tiếp tục duy trì các
loại sản phẩm hiện đang là thế mạnh của doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh
nghiệp cũng luôn nghiên cứu các sản phẩm mới nhằm phát triển và mở rộng
thị trường tiêu thụ hàng hoá. Việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm của các
doanh nghiệp không chỉ để đáp ứng nhu cầu thị trường, thu nhiều lợi nhuận
mà còn có thể phân tán được rủi ro trong kinh doanh.
Tuy nhiên, đi đôi với việc đa dạng hoá sản phẩm, để đảm bảo đứng vững
trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp phải thực hiện chiến lược
trọng tâm hoá sản phẩm vào một loại sản phẩm có tính chiến lược nhằm cung
cấp cho một tập khách hàng mục tiêu hoặc thị trường mục tiêu. Trong phạm

vi này, doanh nghiệp có thể tập trung phục vụ khách hàng tốt hơn, nâng cao
uy tín trước đối thủ cạnh tranh. Ngoài chiến lược này, doanh nghiệp cũng phải
thực hiện chiến lược cá biệt hoá sản phẩm, tạo ra nét độc đáo riêng cho mình
để thu hút, tạo sự hấp dẫn cho khách hàng vào các sản phẩm của mình, nâng
cao uy tín doanh nghiệp.
Như vậy, việc xác định đúng đắn cơ cấu sản phẩm sẽ là chỉ tiêu quyết
định để các doanh nghiệp có sức cạnh tranh tốt trên thị trường .
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
1.3.3.3. Chất lượng hàng hóa dịch vụ.
Nếu trước kia giá cả sản phẩm là yếu tố khá quan trọng thì ngày nay nó
phải nhường chỗ cho chỉ tiêu chất lượng sản phẩm. Trên thực tế, cạnh tranh
bằng giá cả là một trong những giải pháp mang tính hạ sách, nó làm giảm lợi
nhuận thu về. Ngược lại, với một sản phẩm có chất lượng vượt trội với mức
giá ngang bằng hoặc nhiều hơn chút ít thì có khả năng sẽ thu hút khách hàng,
tạo thêm năng lực mới cạnh tranh.
Chất lượng sản phẩm là hệ thống nội tại của sản phẩm được xác định bằng
các thông số có thể đo được hoặc so sánh được thoả mãn những tiêu chuẩn kỹ
thuật hay những yêu cầu quyết định của người tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm
được hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản xuất và ngay cả khi tiêu thụ
hàng hoá và chịu tác động của nhiều yếu tố: công nghệ, dây truyền sản xuất,
nguyên vật liệu, trình độ tay nghề lao động, trình độ quản lý
Chất lượng sản phẩm là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp, đặc biệt
trong nền sản xuất của Việt Nam còn trong tình trạng đang phát triển, phải
đương đầu với quá nhiều đối thủ cạnh tranh nước ngoài có ưu thế hơn hẳn trong
việc tạo ra hay cung cấp sản phẩm có chất lượng cao. Một khi chất lượng sản
phẩm không được đảm bảo đồng nghĩa với doanh nghiệp dần mất đi khách hàng,
mất đi thị trường và nhanh chóng đứng bên bờ phá sản. Hiện nay, khi nền kinh
tế ngày càng phát triển, một quan niệm mới về chất lượng sản phẩm đã xuất
hiện, chất lượng sản phẩm là chất lượng được chi phối và quyết định bởi khách

hàng chứ không phải là các nhà sản xuất hoặc người cung ứng. Quản lý chất
lượng sản phẩm là yếu tố chủ quan còn sự đánh giá của khách hàng lại mang
tính khách quan. Đây là một quan niệm mới xuất phát từ thực tế làm mức độ
cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên quyết liệt hơn. Năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp được đánh giá qua chất lượng sản phẩm thể hiện ở chỗ:
- Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm,
tăng khối lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống sản phẩm.
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
- Sản phẩm có chất lượng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp, kích
thích khách hàng tìm đến doanh nghiệp, tạo thị phần lớn cho doanh nghiệp.
- Chất lượng sản phẩm cao làm tăng khả năng sinh lời, cải thiện tình
hình tài chính của doanh nghiệp.
1.3.3.4. Tổ chức hoạt động tiêu thụ hàng hóa dịch vụ.
Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh,
đây cũng là giai đoạn bù đắp chi phí và thu lợi nhuận. Việc đầu tiên của quá
trình tiêu thụ sản phẩm là phải lựa chọn các kênh phân phối hợp lý, có hiệu
quả nhằm mục đích đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của khách hàng, nhanh
chóng giải phóng nguồn hàng, bù đắp chi phí sản xuất thu hồi vốn. Xây dựng
một hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm tốt cũng có nghĩa là xây dựng một
nền móng vững chắc cho việc củng cố và phát triển nâng cao năng lực cạnh
tranh của mỗi doanh nghiệp. Bên cạnh việc tổ chức một mạng lưới bán hàng,
doanh nghiệp đồng thời cũng cần mở rộng và đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ
bán hàng như quảng cáo, khuyến mại và các dịch vụ sau bán. Đây là một
trong những chiến lược cạnh tranh phi giá cả gây ra sự chú ý và thu hút khách
hàng một cách có hiệu quả. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm được tổ chức tốt sẽ
làm tăng sản lượng bán hàng và từ đó tăng doanh thu, lợi nhuận dẫn tới tốc độ
thu hồi vốn nhanh và kích thích sản xuất phát triển.
Công tác tiêu thụ tốt là yếu tố quyết định tới uy tín với khách hàng, là chỉ
tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Các hoạt

động xúc tiến bán như tham gia hội chợ, tổ chức hội nghị khách hàng là
những hình thức tốt nhất để giới thiệu sản phẩm và qua đó tìm được nhiều bạn
hàng cũng như các doanh nghiệp khác nhằm kết hợp tạo ra sức cạnh tranh lớn
mạnh hơn.
1.3.3.5. Nhân tố thời gian.
Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ trong giai đoạn hiện
nay làm thay đổi nhanh chóng nếp nghĩ, sở thích hay nhu cầu của con người.
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Điều này làm cho chu kỳ sống của sản phẩm nói chung có chiều hướng rút
ngắn lại. Đối với các doanh nghiệp, yếu tố quan trọng quyết định thành công
trong kinh doanh ngày nay chính là thời gian và tốc độ chứ không phải là các
yếu tố truyền thống như nguyên vật liệu, lao động Những thay đổi nhanh
chóng của khoa học kỹ thuật đã giúp cho những doanh nghiệp biết nắm bắt
thời cơ kịp thời sẽ vượt lên trên và là những doanh nghiệp có năng lực cạnh
tranh tốt. Chính vì vậy, để chiến thắng trong cuộc chạy đua này, các doanh
nghiệp phải tổ chức tốt hoạt động thu thập thông tin và xử lý thông tin, nắm
bắt thời cơ, lựa chọn mặt hàng theo yêu cầu của thị trường, nhanh chóng tổ
chức kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm và thu hồi vốn trước khi chu kỳ sống của
sản phẩm kết thúc.
Hiện nay, ở nhiều nước phát triển, cạnh tranh mang tính chất quan trọng,
là mục tiêu của nhiều doanh nghiệp đang hướng tới. Đi trước một bước trong
cạnh tranh là đã giành một phần chiến thắng khá quan trọng trong việc thu hút
khách hàng, mở rộng thị trường, tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp. Do
vậy, khi xây dựng một chiến lược kinh doanh, các doanh nghiệp thường đề cập
tới vấn đề "tốc độ thị trường", "cạnh tranh dựa trên thời gian" và chú trọng tới
vấn đề về chu kỳ sản phẩm, thời gian nắm bắt, thoả mãn nhu cầu thị trường,
thời gian đầu tư, thời gian thu hồi vốn, tốc độ công việc giao dịch, giao hàng
cũng như tốc độ của công tác nghiên cứu và triển khai sản phẩm mới.
1.3.3.6. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.

Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp hay còn gọi là những giải pháp
mang tính dài hạn đối với mỗi doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh là điều
không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó chỉ ra
phương hướng cho mỗi hoạt động. Chiến lược kinh doanh thường được xây
dựng trên cơ sở các mục tiêu kinh doanh, khả năng chủ quan của doanh
nghiệp, sự tác động của môi trường kinh doanh. Đối với mỗi doanh nghiệp,
việc xây dựng một chiến lược kinh doanh đều có tính quyết định tới sự thành
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
công của doanh nghiệp. Đối với công tác nâng cao năng lực cạnh tranh thì
chiến lược cạnh tranh là một phần trong chiến lược kinh doanh nói chung, nó
sẽ giúp cho doanh nghiệp chiến thắng các đối thủ cạnh tranh hiện tại để vươn
lên giành thị phần, chiếm lĩnh khách hàng, mang lại lợi nhuận cao hơn, Với
mỗi chiến lược kinh doanh được xây dựng lên không phù hợp với đòi hỏi của
doanh nghiệp và thị trường sẽ làm cho doanh nghiệp không tận dụng được cơ
hội kinh doanh, năng lực cạnh tranh bị suy giảm dẫn đến sự thất bại trong
kinh doanh. Chính vì vậy, để năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được
đánh giá là tốt, không cách nào khác, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình
một chiến lược kinh doanh phù hợp, mang lại hiệu quả cao nhất.
1.3.3.7. Các hoạt động chiêu thị.
Ngày nay, các hoạt động chiêu thị rất được chú ý trong các doanh
nghiệp. Hoạt động chiêu thị là tổng hợp các chương trình quảng cáo, khuyến
mãi… xác định cả về chi phí, cách thức thực hiện, phương tiện thực hiện,
nhân sự, thời gian, đối tượng doanh nghiệp hướng tới… Hoạt động chiêu thị
nhằm khích thích người tiêu dùng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, góp
phần giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, làm cho người tiêu dùng hiểu rõ
hơn về sản phẩm…
1.4. Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty B.I.T.
1.4.1. Tổng quan về công ty.
1.4.1.1. Phương châm kinh doanh.

Công ty Cổ phần công nghệ và truyền thông B.I.T (B.I.T Corp) được
sáng lập bởi những người có tâm huyết, có năng lực và kinh nghiệm trong
lĩnh vực kinh tế và công nghệ, mong muốn hình thành và phát triển một công
ty công nghệ và truyền thông hàng đầu tại Việt Nam. Mũi nhọn của B.I.T là
các giải pháp trực tuyến với các nhân viên có kinh nghiệm nhiều năm và hiểu
biết rộng về lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật mới nhất, làm thỏa mãn những nhu
cầu khó tính nhất của khách hàng. Với phương châm “ Khách hàng là số 1 ”
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
khuyến khích nhân viên phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mình, chính vì
vậy mỗi sản phẩm đều có những nét sáng tạo, độc đáo đem lại cho khách
hàng những giá trị chỉ có ở B.I.T Corp. Dù sản phẩm có giá trị lớn hay nhỏ,
sự uy tín và tính chuyên nghiệp với khách hàng đều được chúng tôi đặt lên
hàng đầu. Mọi sản phẩm đều được sự bảo trì, hỗ trợ tối đa từ phía B.I.T Corp
để đảm bảo và thúc đẩy công việc kinh doanh của khách hàng.
Căn cứ vào Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 108889 cấp ngày
01/07/2001, sửa đổi lần thứ 2 ngày 05/11/2006, ngành nghề kinh doanh chính
của Công ty bao gồm:
- Tư vấn dịch vụ và xây dựng các phần mềm máy tính điện t ử
- Tư vấn thiết kế c ác phần mềm quản lý…
1.4.1.2. Mục tiêu của công ty.
Không ngừng phát triển các hoạt động sản xuất, thương mại và dịch vụ
trong các lĩnh vực hoạt động kinh doanh nhằm tối đa hóa lợi nhuận cho các cổ
đông, nâng cao giá trị Công ty và không ngừng cải thiện đời sống, điều kiện
làm việc, thu nhập cho người lao động, đồng thời làm tròn nghĩa vụ nộp ngân
sách cho Nhà nước. Bên cạnh đó, B.I.T Corp mong muốn trở thành công ty
công nghệ và truyền thông hàng đầu Việt Nam.
1.4.1.3. Triết lý kinh doanh.
B.I.T Corp mong muốn trở thành công ty được khách hàng lựa chọn
hàng đầu trong lĩnh vực của mình. Vì thế chúng tôi tâm niệm rằng chất lượng

và sáng tạo là người bàn đồng hành của B.I.T Corp. Công ty xem khách hàng
là trung tâm và cam kết đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng.
1.4.1.4. Cam kết với khách hàng.
B.I.T. Corp luôn mang đến cho bạn những sản phẩm có tính sáng tạo và
chất lượng cao. Bạn sẽ không phải lo lắng khi sử dụng sản phẩm của B.I.T
Corp. Mọi khách hàng khi sử dụng sản phẩm của công ty đều sẽ cảm thấy hài
lòng.
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
1.4.1.5. Chính sách chất lượng.
Luôn luôn thỏa mãn khách hàng bằng những sản phẩm đảm bảo chất
lượng, ngày càng đa dạng và dịch vụ tốt nhất với giá cả cạnh tranh hợp lý.
1.4.1.6. Sản phẩm và dịch vụ chủ yếu.
Dịch vụ chủ yếu của Công ty thiết kế, xây dựng các phần mềm quản lý.
Một số các dịch vụ chủ yếu Công ty đang thực hiện
Thiết kế & phát triển website
o Website cá nhân
o Website doanh nghiệp
o Website thương mại điện tử
o Website tin tức, thông tin
Phát triển ứng dụng internet
o Phát triển các ứng dụng hoạt động trên nền Internet, đặc
biệt là các giải pháp quản trị trong doanh nghiệp
o Tích hợp và nâng cấp các giải pháp hiện tại của doanh
nghiệp để hoạt động trên internet.
Giải pháp thương mại điện tử
o Giải pháp bán hàng trực tuyến
o Giải pháp cổng giao dịch thương mại điện tử
o Thanh toán trực tuyến
Tiếp thị & quảng cáo trực tuyến

o Tối ưu hóa tìm kiếm (SEO)
o Tiếp thị & quảng cáo trực tuyến
Tên miền & lưu trữ web
o Đăng ký tên miền quốc tế (.com, .net, .org)
o Đăng ký tên miền việt nam (.vn, .com.vn)
o Giải pháp lưu trữ web & email
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Thiết kế & phát triển multimedia
o Thiết kế flash, movie (2D, 3D…)
o Thiết kế CD Presentation
o Thiết kế eCatalog, eBrochure
Phát triển phần mềm ứng dụng cho doanh nghiệp
o Phát triển các ứng dụng theo nghiệp vụ đặc thù của doanh
nghiệp như HR, CRM, ACCOUTING,…
1.4.2. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ảnh hưởng rất lớn tới sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp đều tìm mọi cách
để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Các biện pháp dịch vụ mà doanh nghiệp tiến hành để nâng cao khả năng
cạnh tranh như cải tiến dịch vụ giúp tiết kiệm chi phí… Một dịch vụ hoàn hảo
sẽ giúp cho doanh nghiệp có được các sản phẩm dịch vụ mang tính cạnh tranh
cao hơn nhờ chất lượng dịch vụ được bảo đảm và uy tin.
Vậy nâng cao khả năng cạnh tranh là việc tăng cường các hoạt động từ
dịch vụ, kinh tế, khả năng ra quyết định… nhằm giúp cho doanh nghiệp đứng
vững và phát triển trong nền kinh tế.
1.4.2.1. Sự cần thiết nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp nói chung.
Nền kinh tế ngày càng phát triển, mở ra cho doanh nghiệp nhiều cơ hội
nhưng cũng làm tăng thêm nhiều đối thủ cạnh tranh. Trước những cơ hội và

thách thức như vậy mỗi doanh nghiệp phải tìm các vượt qua nếu không nguy
cơ phá sản là rất lớn. Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là một quy luật tất
yếu khách quan. Các doanh nghiệp tham gia thị trường đều phải chấp nhận
cạnh tranh. Cạnh tranh, chấp nhận cạnh tranh và cạnh tranh bằng tất cả khả
năng của mình mới có thể giúp cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Chính
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
vì vậy, tăng khả năng cạnh tranh là một điều tất yếu của mỗi một doanh
nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường.
1.4.2.2. Sự cần thiết nâng cao khả năng cạnh tranh trong kinh doanh
của công ty công nghệ và truyền thông B.I.T.
Công ty cổ phần công nghệ và truyền thông B.I.T là doanh nghiệp chuyên
sản xuất các sản phẩm công nghệ cao. Khi mới thành lập B.I.T Corp gặp không
ít khó khăn. Thị phần của công ty không đáng kể, công ty phải chịu một sự
cạnh tranh rất gay gắt. Trước tình hình đó, để tồn tại và phát triển công ty cần
phải nâng cao khả năng cạnh tranh của mình để có thể tiếp tục tồn tại và phát
triển.
Rất nhiều các khách hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp đã và đang rất
quan tâm đến những sản phẩm về công nghệ có tính năng bảo mật và thuận
tiện cho sản xuất kinh doanh của họ. Hiện nay có rất nhiều công ty công nghệ
và truyền thông trên thị trường Việt Nam đang ngày càng lớn mạnh và khẳng
định được vị trí của mình. Vì vậy, để nâng cao danh tiếng của doanh nghiệp,
đảm bảo cho công ty có thể tồn tại phát triển thì B.I.T Corp cần thiết phải
nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
NguyÔn ViÖt Cêng Líp: KÕ ho¹ch 47B

×