Tải bản đầy đủ (.pdf) (189 trang)

Quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 189 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
7
1.1
Những công trình nghiên cứu ở Việt Nam
7
1.2
Những công trình nghiên cứu của nước ngoài
18
1.3
Công trình của các nhà khoa học trong nước nghiên cứu về
kinh nghiệm của nước ngoài
26
Chương 2
QUẢN LÝ ĐẢNG VIÊN TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP NGOÀI KHU VỰC NHÀ NƯỚC Ở ĐỒNG
BẰNG SÔNG HỒNG - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN
29
2.1
Tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên trong các doanh
nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng
hiện nay.
29
2.2
Quan niệm, nội dung, phương thức, vai trò, đặc điểm


quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực
nhà nước ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay.
52
Chương 3
QUẢN LÝ ĐẢNG VIÊN TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP NGOÀI KHU VỰC NHÀ NƯỚC Ở ĐỒNG
BẰNG SÔNG HỒNG - THỰC TRẠNG, NGUYÊN
NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
78
3.1
Thực trạng đội ngũ đảng viên trong các doanh nghiệp
ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng.
78
3.2
Thực trạng quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp
ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng.
83
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU ĐỂ TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ ĐẢNG VIÊN
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI KHU VỰC
NHÀ NƯỚC Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
ĐẾN NĂM 2025
109
4.1
Mục tiêu, phương hướng tăng cường quản lý đảng viên
trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở đồng
bằng sông Hồng đến năm 2025
109
4.2

Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quản lý đảng
viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở
đồng bằng sông Hồng đến năm 2025
116
KẾT LUẬN
153
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
156
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
157
PHỤ LỤC
167
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
Ban thường vụ BTV
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH
Chủ nghĩa xã hội CNXH
Công ty trách nhiệm hữu hạn CTTNHH
Doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước DNNKVNN
Doanh nghiệp nhà nước DNNN
Doanh nghiệp tư nhân DNTN
Đồng bằng sông Hồng ĐBSH
Nhà xuất bản Nxb
Tổ chức cơ sở đảng TCCSĐ
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Chất lượng đội ngũ đảng viên suy cho đến cùng là một trong những nhân tố
quyết định đến sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng và thắng
lợi của cánh mạng Việt Nam. Để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên phải thực

hiện tốt công tác đảng viên bao gồm: Cụ thể hóa tiêu chuẩn, giáo dục, rèn luyện,
đào tạo, bồi dưỡng, kiểm tra, giám sát, đánh giá phân loại, khen thưởng, kỷ luật
đảng viên; kết nạp đảng viên…và quản lý đảng viên. Trong đó, quản lý đảng viên là
một trong những nội dung quan trọng, liên quan và chi phối phần lớn các khâu của
công tác đảng viên. Chính vì vậy, quản lý đảng viên là một nhiệm vụ rất quan trọng
và thường xuyên của các cấp ủy đảng, nhất là cấp ủy cơ sở và mỗi tổ chức cơ sở
đảng (TCCSĐ).
Từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến công
tác xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, trong đó có công tác quản lý
đảng viên. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: "Đổi mới, tăng
cường công tác quản lý, phát triển đảng viên, đảm bảo chất lượng đảng viên theo
yêu cầu của Điều lệ Đảng. Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu cụ thể về tư tưởng chính
trị, trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên đáp ứng yêu cầu
giai đoạn cách mạng mới; phát huy tính tiền phong gương mẫu, chủ động, sáng tạo
của đội ngũ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Kiên quyết đưa ra khỏi
Đảng những người không đủ tư cách đảng viên” [36, tr.260].
Trong những năm gần đây, do yêu cầu bức thiết của nhiệm vụ chính trị thời kỳ
đổi mới, công tác đảng viên nói chung và quản lý đảng viên nói riêng đã được các
cấp ủy đặc biệt quan tâm và đã đạt được kết quả quan trọng góp phần to lớn vào
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên,
trước tác động của mặt trái cơ chế thị trường và những tiêu cực khác trong xã hội,
bên cạnh phần lớn đảng viên kiên định vững vàng vượt qua khó khăn, thử thách
vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ và trưởng thành, đóng góp to lớn vào thành tựu
công cuộc đổi mới thì một bộ phận không nhỏ đảng viên suy thoái về tư tưởng
2
chính trị, đạo đức lối sống, đã lợi dụng chức quyền để vun vén cá nhân, làm giàu bất
chính, cơ hội, thực dụng, chạy chức, chạy quyền, tìm mọi thủ đoạn nhằm thực hiện
tham vọng cá nhân, gây mất đoàn kết nội bộ. Có đảng viên là cán bộ lãnh đạo quản
lý chủ chốt nhưng thiếu trách nhiệm trong chỉ đạo, điều hành công việc gây hậu quả
nghiêm trọng. Một số đảng viên (trong đó có đảng viên là cán bộ cao cấp) cũng vi

phạm pháp luật, hoặc bị kẻ xấu mua chuộc, lôi kéo chống lại Đảng, làm phương hại
đến uy tín, thanh danh của Đảng, Nhà nước. Những vụ án tiêu cực liên quan đến
cán bộ, đảng viên đã được xử lý trong những năm gần đây là những ví dụ điển hình
về tình trạng yếu kém trong quản lý đảng viên. Những ưu điểm và khuyết điểm, hạn
chế nêu trên về đội ngũ đảng viên liên quan mật thiết đến công tác quản lý đảng
viên các của cấp ủy, tổ chức đảng.
Trong những năm qua, công tác quản lý đảng viên đã có những ưu điểm, tiến
bộ và có nhiều đổi mới góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất đội ngũ đảng
viên và việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Tuy
nhiên công tác quản lý đảng viên của các cấp ủy, tổ chức đảng còn nhiều yếu kém,
bất cập nhất là nội dung, hình thức, phương pháp quản lý đảng viên trong điều kiện
mới. Đặc biệt, nhiệm vụ quản lý đảng viên của các cấp ủy, tổ chức đảng trong các
doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước (DNNKVNN) chưa được chú trọng đúng
tầm. Đã có đảng viên là chủ DNNKVNN vi phạm pháp luật bị cơ quan chức năng
bắt giữ, xử lý, cấp ủy mới biết. Tình trạng đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có sự
yếu kém, buông lỏng công tác quản lý đảng viên.
Cùng với cả nước, các tỉnh đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) đang có bước phát
triển mạnh mẽ, nhất là trong công nghiệp, dịch vụ. Các khu công nghiệp, khu kinh
tế tập trung và các khu vực kinh tế dân doanh phát triển với tốc độ nhanh, quy mô
ngày càng lớn và có đóng góp ngày càng quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã
hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH) giải quyết việc làm cho người lao động. Các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ
đảng viên trong các DNNKVNN đã có vai trò lớn hơn đối với sự phát triển của
3
doanh nghiệp và địa phương. Việc xây dựng các tổ chức đảng vững mạnh, nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên trong các doanh nghiệp là rất cần thiết.
Với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, Đảng ta đang đặc biệt quan
tâm tới công tác xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp và quản lý đảng
viên trong doanh nghiệp, trong đó có DNNKVNN. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XI của Đảng ta đã chỉ rõ nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ trong các doanh
nghiệp: “Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng, tạo sự chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại hình cơ
sở đảng, nhất là tổ chức Đảng trong các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế” [36, tr. 259-260], trong đó, có nhiệm vụ tăng cường quản lý
đảng viên.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng các tổ chức Đảng trong các DNNKVNN
phát triển còn chậm, hiệu quả hoạt động còn thấp. Công tác phát triển đảng viên gặp
nhiều khó khăn, đặc biệt là việc quản lý đảng viên còn bị coi nhẹ hoặc lúng túng,
chưa có hiệu quả và chưa trở thành nền nếp. Nguyên tắc, quy trình, thủ tục quản lý
đảng viên còn bị vi phạm. Nhiều đảng viên không chuyển đảng về tham gia sinh
hoạt đảng tại nơi làm việc do ở đó chưa thành lập được chi bộ hoặc do cố tình giấu
diếm tổ chức, không dám công khai mình là đảng viên. Do không được tổ chức
đảng quản lý có hiệu quả nên việc phát huy vai trò của đảng viên hết sức hạn chế và
uy tín của đảng viên bị giảm sút, vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng trong
DNNKVNN bị mờ nhạt. Chính vì vậy, tăng cường quản lý đảng viên trong các
DNNKVNN là vấn đề cấp thiết hiện nay.
Nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống toàn diện các giải pháp khả thi phát
huy ưu điểm; khắc phục những khuyết điểm hạn chế về công tác quản lý đảng viên;
tăng cường quản lý đảng viên trong các DNKNN ở ĐBSH trong những năm tới góp
phần vào sự phát triển của các doanh nghiệp và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với các doanh nghiệp thực sự là vấn đề cấp thiết và cấp bách hiện nay. Để góp
phần giải quyết vấn đề nêu trên tôi chọn đề tài:“Quản lý đảng viên trong các doanh
4
nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay" làm
luận án tiến sỹ góp phần giải quyết những vấn đề về lý luận và thực tiễn cấp thiết
đang đặt ra.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý đảng viên

trong các DNNKVNN ở ĐBSH, luận án đề xuất các giải pháp khả thi tăng cường
quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp đó đến năm 2025.
2.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan các công trình khoa học tiêu biểu trong và ngoài nước liên quan
đến đề tài luận án.
- Khái quát về các tỉnh, thành phố ở ĐBSH; đặc điểm của các DNNKVNN, các
tổ chức đảng, đoàn thể và đội ngũ đảng viên trong các doanh nghiệp trên địa bàn
các tỉnh, thành phố ĐBSH.
- Làm rõ khái niệm, vai trò, đặc điểm, nội dung, phương thức quản lý đảng viên
trong DNNKVNN ở ĐBSH.
- Đánh giá đúng thực trạng quản lý đảng viên trong các DNNKVNN ở ĐBSH
từ năm 2005 đến nay, làm rõ những nguyên nhân của thực trạng, rút ra những kinh
nghiệm và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu, khả thi tăng cường quản lý đảng viên trong
các DNNKVNN ở ĐBSH đến năm 2025.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án là: quản lý đảng viên của các
cấp ủy đảng và tổ chức đảng trong các DNNKVNN ở ĐBSH giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án chủ yếu tập trung khảo sát, đánh giá thực trạng, chất lượng quản lý
đảng viên trong các DNNKVNN ở ĐBSH từ năm 2005 đến nay và đề xuất phương
hướng, giải pháp khả thi tăng cường quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp đó
đến năm 2025.
5
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
* Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về xây dựng Đảng, nhất là về đảng
viên và công tác đảng viên trong điều kiện thực hiện nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời luận án tiếp thu, kế
thừa kết quả nghiên cứu về lý luận của các công trình khoa học có liên quan.
* Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận án là kết quả công tác quản lý đảng viên của cấp ủy, tổ
chức đảng trong các DNNKVNN ở ĐBSH từ năm 2005 đến nay; các báo cáo tổng
kết về công tác xây dựng đảng, công tác đảng viên của các cấp uỷ và TCCSĐ trong
các DNNKVNN ở ĐBSH từ năm 2005 đến nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, các phương pháp nghiên cứu của khoa học liên ngành và chuyên ngành
như: phân tích - tổng hợp, lôgic - lịch sử, hệ thống, thống kê, so sánh, điều tra, khảo
sát, phỏng vấn chuyên gia, nhất là tổng kết thực tiễn để nghiên cứu, xây dựng luận
án.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài luận án
5.1. Ý nghĩa khoa học
- Làm rõ khái niệm, vai trò, đặc điểm, nội dung, phương thức quản lý đảng viên
trong các DNNKVNN ở ĐBSH hiện nay.
- Tổng kết những kinh nghiệm về quản lý đảng viên trong các DNNKVNN ở
ĐBSH từ năm 2005 đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp đặc thù, khả thi tăng cường quản lý đảng viên của
các tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở ĐBSH đến năm 2025.
6
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
các tổ chức đảng trong các DNNKVNN ở ĐBSH về tăng cường quản lý đảng viên
giai đoạn hiện nay.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy,
học tập môn học xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị tỉnh, thành phố, trung tâm
bồi dưỡng chính trị cấp huyện ở các tỉnh, thành phố ĐBSH.

6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả đã
công bố liên quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm
tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và 4 chương với 8 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Công tác đảng viên, trong đó có quản lý đảng viên luôn là vấn đề quan trọng
trong công tác xây dựng Đảng không chỉ được đề cập trong các tác phẩm kinh điển
của C. Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh, các bài viết của các lãnh tụ
Đảng, Nhà nước mà còn có rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Có thể
tổng quan tình hình nghiên cứu từ các công trình của các nhà khoa học trong thời
gian gần đây liên quan đến đề tài luận án như sau:
1.1. Những công trình nghiên cứu ở Việt Nam
1.1.1. Các đề tài, hội thảo khoa học
- Tô Huy Rứa, Làm người cộng sản trong giai đoạn hiện nay [75].
Đề tài đã làm rõ những điều kiện hoàn cảnh mới của đất nước tác động đến
công tác đảng viên của Đảng, nhất là việc giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên
nhằm tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản. Đề tài bàn luận
nhiều về tiêu chuẩn đảng viên, các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên,
trong đó có bàn về đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân, đưa ra những giải pháp,
kiến nghị để đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân nhưng vẫn phát huy vai trò, tư
cách đảng viên, không ảnh hưởng đến bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Luận án có thể tiếp thu những nội dung quản lý đảng viên, nhất là đảng viên là
chủ doanh nghiệp nhằm đảm bảo và phát huy vai trò của đảng viên trong bất cứ
điều kiện, hoàn cảnh nào.
- Đỗ Ngọc Ninh, vai trò của đội ngũ đảng viên là người nghỉ hưu trong hoạt
động của các tổ chức đảng ở khu vực nông thôn đồng bằng Bắc Bộ hiện nay [62]
Với 25% đảng viên của Đảng là người nghỉ hưu, tập trung chủ yếu ở vùng đô

thị, nông thôn nhưng ở khu vực nông thôn đồng bằng Bắc Bộ là đông nhất. Việc
phát huy vai trò của đảng viên nói chung và đảng viên nghỉ hưu là nhân tố quan
trọng nhằm góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng
hiện nay. Tuy đối tượng nghiên cứu của đề tài là đảng viên hưu nhưng đối với tác
8
giả luận án này sẽ khai thác những đặc điểm của đồng bằng Bắc bộ - với nội dung
của nó sát với đề tài luận án, đó là đặc điểm của ĐBSH. Hơn nữa, vai trò của đảng
viên hưu nói riêng và chi bộ nơi cư trú nói chung là rất quan trọng trong công tác
quản lý đảng viên của DNNKVNN hiện nay mà đề tài nêu trên chưa có điều kiện
nghiên cứu chuyên sâu.
- Lâm Quốc Tuấn, Đảng viên làm kinh tế tư nhân ở Thành phố Hà Nội giai
đoạn hiện nay [93]
Tác giả luận án đã tiếp thu được ở Đề tài sự phân tích sâu sắc lý luận về đảng
viên làm kinh tế tư nhân, những đóng góp của họ đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội, những tấm gương của họ trong việc đối xử với nhân viên, công nhân, người lao
động và các hoạt động xã hội nhân đạo, từ thiện. Tuy vậy, cũng còn có đảng viên là
chủ doanh nghiệp chưa thực sự gương mẫu trong sản xuất kinh doanh như buôn lậu,
trốn thuế, chậm đóng bảo hiểm, trả lương cho công nhân, người lao động thấp hơn
so với quy định của pháp luật, vi phạm cam kết, vi phạm quy chế dân chủ trong
doanh nghiệp, vi phạm pháp luật, đã gợi ý cho tác giả luận án vấn đề quản lý đảng
viên với đối tượng là chủ doanh nghiệp nói chung và DNNKVNN hiện nay.
- Huỳnh Thị Gấm, Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài ở miền Đông Nam bộ giai đoạn hiện nay [43].
Sau khi trình bày các vấn đề về lý luận, phân tích thực trạng, nguyên nhân,
tác giả đề tài đề xuất 6 kiến nghị : 1) Tiếp tục nâng cao nhận thức hơn nữa về vị trí,
vai trò việc thành lập và hoạt động của các tổ chức đảng đối với cấp uỷ, chính
quyền các cấp, hội đồng quản trị, ban giám đốc, doanh nhân và người lao động ; 2)
Cần có sự chỉ đạo ráo riết của Trung ương và cấp uỷ các cấp uỷ đảng trong việc
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ ở doanh nghiệp, nhất là
những nơi còn yếu ; 3) Tiếp tục cải tiến nội dung, hình thức sinh hoạt đảng cho phù

hợp với cơ chế hoạt động của doanh nghiệp, có sức hấp dẫn và ý nghĩa thiết thực ;
4) Tiếp tục chỉ đạo các cơ quan, ban ngành đoàn thể tham mưu đề xuất các giải
pháp tháo gỡ khó khăn vướng mắc có liên quan đến cơ chế nhằm đẩy mạnh phát
triển tổ chức đảng ; 5) Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên, cấp uỷ viên
9
làm công tác xây dựng đảng ; 6) Những doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng, đảng
viên thì phân công cấp uỷ viên, đảng viên có kinh nghiệm, phối hợp với các đoàn
thể để làm tốt công tác phát triển đảng viên mới.
Đề tài đã đề cập đến công tác phát triển đảng viên trong DNNKVNN nhưng
chưa có điều kiện đi sâu vào công tác quản lý đảng viên. Luận án có thể so sánh, đối
chiếu, liên hệ những nét đặc thù của DNNKVNN trên phạm vi cả nước.
- Phùng Anh Tuấn, Quản lý đảng viên thường xuyên làm việc xa nơi cư trú,
đảng viên là sinh viên tốt nghiệp chưa có việc làm ổn định - Thực trạng và giải
pháp [95].
Đề tài đã phân tích làm sâu sắc hơn những quan điểm của Đảng về vai trò của
công tác quản lý đảng viên trong tổ chức và hoạt động của Đảng; đánh giá đúng
thực trạng, làm rõ những hạn chế yếu kém, khó khăn và những nguyên nhân chủ
yếu trong công tác quản lý đảng viên thường xuyên làm việc xa nơi cư trú, đảng
viên là sinh viên chưa có việc làm ổn định; đề xuất những giải pháp thiết thực, cụ
thể nhằm tăng cường quản lý đảng viên đối tượng này trong thời gian tới. Tuy đối
tượng đảng viên có khác nhau nhưng tác giả luận án sẽ kế thừa, tiếp thu những giá
trị khoa học lý luận về nội dung, phương thức quản lý đảng viên và làm rõ hơn đối
với đảng viên trong DNNKVNN hiện nay.
- Các Đề tài nhánh: Thực trạng và một số kiến nghị về công tác quản lý đảng
viên lưu học sinh và lao động xuất khẩu tại khu vực Châu Á và Nam Thái Bình
Dương” do Hà Văn Thích làm chủ nhiệm; Thực trạng và giải pháp công tác quản
lý đảng viên là lưu học sinh, tu nghiệp sinh và lao động xuất khẩu ở Nhật Bản, Hàn
Quốc do Nguyễn Văn Quán làm chủ nhiệm; Thực trạng đội ngũ đảng viên và công
tác quản lý đảng viên lưu học sinh, đảng viên lao động xuất khẩu tại Trung Quốc và
Đài Loan của Nguyễn Xuân Định; Thực trạng và giải pháp công tác quản lý đảng

viên là lưu học sinh, lao động xuất khẩu ở một số nước ASEAN.
Các đề tài nêu trên đều nhất quán khẳng định vai trò của công tác quản lý
đảng viên của các tổ chức đảng trong điều kiện hiện nay, nhất là đảng viên công tác
xa Tổ quốc. Tuy chưa có điều kiện làm sâu sắc những vấn đề có tính lý luận về
10
quản lý đảng viên nhưng chưa làm rõ thực trạng quản lý đảng viên của các tổ chức
đảng đối với đảng viên là sinh viên, lưu học sinh, tu nghiệp sinh, cán bộ công chức
và đội ngũ đảng viên là công nhân làm việc ngoài nước. Trên cơ sở phân tích
nguyên nhân của tình hình quản lý đảng viên ngoài nước, các nhóm tác giả đề tài đã
đề xuất được hệ thống những giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý đảng
viên ngoài nước theo hướng đơn giản về thủ tục, tạo thuận lợi và chú trọng tính hiệu
quả, khả thi. Tuy có nhiều nét khác nhau về đối tượng quản lý nhưng những phân
tích sắc sảo và thuyết phục của các tác giả đề tài cũng góp phần quan trọng để
nghiên cứu sinh tiếp thu, vận dụng trong thực hiện đề tài luận án về công tác quản
lý đảng viên trong các DNNKVNN ở các tỉnh ĐBSH hiện nay.
- Lê Thanh Hà, Phát triển đảng viên trong công nhân các loại hình doanh
nghiệp, thực trạng và giải pháp [46]. Với phương pháp thống kê, điều tra, khảo sát
công phu, đề tài đã đánh giá thực trạng hết sức khó khăn trong công tác kết nạp
đảng viên ở các loại hình doanh nghiệp, nhất là DNNKVNN. Nguyên nhân chính là
chưa phát huy được vai trò của tổ chức đảng và đảng viên trong doanh nghiệp, công
nhân không muốn vào Đảng, thủ tục vào Đảng, chuyển đảng phức tạp ; không có
nhiều thời gian để tham gia sinh hoạt đảng, chủ doanh nghiệp không tạo điều kiện
và không muốn thành lập tổ chức đảng; thậm chí có cả vấn đề đóng đảng phí Đề
tài cũng đã đề xuất các giải pháp cho doanh nghiệp đã có tổ chức đảng, doanh
nghiệp chưa có tổ chức Đảng. Tuy nhiên, công tác quản lý đảng viên vẫn còn mờ
nhạt, hầu như chưa có sự khảo sát đánh giá một cách toàn diện.
1.1.2. Các sách đã xuất bản
- Dương Xuân Ngọc, Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [63].
Đây là một trong những cuốn sách viết khá công phu về giai cấp công nhân

Việt Nam trong điều kiện mới, với 258 trang, gồm 3 chương.
Nội dung mà nghiên cứu sinh quan tâm và có thể tiếp thu là khái niệm giai cấp
công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó trong điều kiện mới, khi đất nước đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; sự xuất hiện của các thành phần kinh tế,
11
cùng với nó là sự phát triển nhanh chóng, với số lượng ngày càng tăng của đội ngũ
công nhân trong DNNKVNN. Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội quan trọng của
Đảng, việc tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng, đảng viên trong các
DNNKVNN đang đặt ra như một tất yếu. Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập nhiều đến
công tác xây dựng Đảng trong các doanh nghiệp đó, nhất là chưa đề cập đến công
tác quản lý đảng viên.
- Bùi Thị Thanh Hà, Công nhân công nghiệp trong các doanh nghiệp liên
doanh ở nước ta thời kỳ đổi mới [45].
Sách dày 170 trang, gồm 3 phần: Phần I - Sự nghiệp đổi mới và sự nghiệp
hình thành nhóm công nhân công nghiệp trong các doanh nghiệp liên doanh; Phần
II - Đặc điểm của đội ngũ công nhân công nghiệp trong các doanh nghiệp liên
doanh ở chặng đầu của thời kỳ Đổi mới; Phần III - Kết luận và các vấn đề đặt ra.
Cuốn sách đã đi sâu nghiên cứu về giai cấp công nhân trong các doanh nghiệp
liên doanh ở nước ta khi tiến hành công cuộc đổi mới, mở cửa. Có thể coi đây là
một trong những công trình tiêu biểu phân tích khá sâu sắc về đội ngũ giai cấp công
nhân mới được xuất hiện, trưởng thành qua sự nghiệp đổi mới, mở cửa, có nhiều ưu
điểm nhưng cũng đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc về dân chủ, việc làm, thu nhập,
công bằng xã hội…Để giải quyết triệt để những bức xúc đó, rất cần có tổ chức
đảng, đoàn thể mà nòng cốt là đội ngũ đảng viên hoạt động trong các doanh nghiệp.
Tuy vậy, tác giả cũng chưa có điều kiện để đi sâu vào công tác xây dựng tổ chức
đảng và đội ngũ đảng viên trong các doanh nghiệp đó.
- Trần Trung Quang, Tổ chức đảng ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh và
phương thức hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay [73].
Sách dày 155 trang, gồm 2 phần: Phần I – Tổ chức đảng ở các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh; phần II – Tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng trong các

doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Cuốn sách đã làm rõ sự cần thiết phải thành lập tổ
chức Đảng trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; đưa ra những kiến nghị về
hình thức tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức Đảng, đoàn thể chính trị
trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tuy vậy, cuốn sách chưa đề cập sâu về
12
quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đặc biệt chưa đề cập
quản lý đảng viên trong các DNNKVNN ở ĐBSH.
- Đinh Ngọc Giang, Chuẩn hóa chức danh Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, (Qua
khảo sát ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng) [43].
Cuốn sách dày 310 trang gồm 3 chương. Điều quan tâm nhất của nghiên cứu
sinh là tác giả cuốn sách đã chỉ ra được một số nét cơ bản về ĐBSH và những đặc
điểm của các xã trên địa bàn về tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc
phòng, an ninh. Tuy mới chỉ là những đặc điểm các xã nhưng tác giả luận án có thể
kế thừa, tiếp thu để phân tích, khái quát chỉ ra những đặc điểm chung nhất của cả
vùng ĐBSH, coi đó là những nhân tố quan trọng để phân tích xu thế phát triển của
DNNKVNN và các tổ chức đảng ở đó trong thời gian tới.
1.1.3. Các luận văn, luận án
- Bùi Thị Oanh, Quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở
thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội [70].
Luận văn đã góp phần làm rõ thêm quan niệm, nội dung, phương thức, biện
pháp quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội hiện nay.
Đồng thời, luận văn đã đánh giá đúng thực trạng và đề xuất những giải pháp có tính
khả thi để tăng cường quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở
thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, luận văn mới chỉ giải quyết
được vấn đề lý luận về quản lý đảng viên trong phạm vi đối tượng là cán bộ, công
chức ở Hà Nội, chưa phải là đảng viên làm việc tại DNNKVNN. Tác giả luận án sẽ
kế thừa những nghiên cứu của tác giả luận văn về quan niệm, nội dung, phương
thức, biện pháp quản lý đảng viên và làm sáng tỏ hơn đối với công tác quản lý đảng

viên trong DNNKVNN ở ĐBSH.
- Tôn Mạnh, Công tác quản lý đảng viên ở đảng bộ các cơ quan Dân chính
Đảng, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Xây
13
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội [61].
Luận văn đã góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn đối với công tác
quản lý đảng viên nói chung, công tác quản lý đảng viên ở cơ sở nói riêng. Đồng
thời, luận văn đã đánh giá đúng thực trạng, làm rõ những nguyên nhân, kinh nghiệm
trong thời gian qua về công tác quản lý đảng viên ở cơ sở và đề xuất các giải pháp
cơ bản có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý đảng viên của
đảng bộ các cơ quan Dân chính Đảng, tỉnh Nghệ An trong thời gian tới. Tuy luận
văn chưa đề cập đến công tác quản lý đảng viên trong các DNNKVNN nhưng tác
giả luận án có thể kế thừa, phát triển những vấn đề lý luận về nội dung, phương thức
quản lý đảng viên nói chung. Nghiên cứu sinh sẽ kế thừa, phát triển những nghiên
cứu của tác giả luận văn về quan niệm, nội dung, phương thức, biện pháp quản lý
đảng viên và làm sáng tỏ hơn đối với công tác quản lý đảng viên trong DNNKVNN
ở ĐBSH trong tình hình mới.
- Nguyễn Văn Doãn, Quản lý đảng viên là người Công giáo ở các đảng bộ xã
của huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sĩ,
chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội [30].
Luận văn đưa ra quan niệm một cách chung nhất - quản lý là hoạt động khoa
học có mục đích của chủ thể tác động vào các đối tượng bằng các phương thức, biện
pháp nhằm duy trì, ổn định, phát triển và đạt được hiệu quả cao nhất [30, tr.24-25].
“Quản lý đảng viên là một nội dung quan trọng trong công tác đảng viên và công
tác xây dựng Đảng. Thông qua quản lý đảng viên, các cấp ủy và các tổ chức đảng
nắm chắc đội ngũ đảng viên và từng cá nhân đảng viên để có chủ trương, biện pháp
thích hợp, nâng cao chất lượng đảng viên, chất lượng tổ chức cơ sở đảng; góp phần
quan trọng vào việc bảo vệ nội bộ Đảng, ngăn ngừa kẻ địch, phần tử xấu chui vào

Đảng [30, tr.190].
Quan niệm trên chỉ ra chủ thể, nội dung, tác dụng của công tác quản lý đảng
viên nói chung nhưng chưa có khái niệm nào nói về quản lý đảng viên ở
14
DNNKVNN ở ĐBSH giai đoạn hiện nay. Hơn nữa, luận án có thể tham khảo cách
nghiên cứu đặc thù của thành phần đảng viên là người Công giáo để có những
phương thức quản lý phù hợp đối với đảng viên là công nhân trong DNNKVNN ở
ĐBSH trong tình hình hiện nay.
1.1.4. Các bài viết trên báo, tạp chí
- Tạp chí Xây dựng Đảng, Hội nghị chuyên đề: “ Tăng cường xây dựng tổ chức
đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp các khu công nghiệp” [77].
Ngoài những ưu điểm, công tác xây dựng đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp
còn bộc lộ một số hạn chế, khuyết điểm: Một số cấp uỷ đảng, BTV các đoàn thể
chưa nhận thức sâu sắc, chưa thật sự quan tâm chỉ đạo công tác xây dựng đảng,
đoàn thể trong doanh nghiệp. Những bài học kinh nghiệm sẽ được tác giả đề tài tiếp
thu, kế thừa trong nghiên cứu, đề xuất những giải pháp về sự phối hợp, phát huy vai
trò của các tổ chức quần chúng trong quản lý, xây dựng đội ngũ đảng viên trong
DNNKVNN vững mạnh góp phần đấu tranh khắc phục những tình trạng nêu trên.
- Hanh Nguyên, Một số vấn đề của tổ chức đảng trong doanh nghiệp ngoài nhà
nước ở Hà Nội [67].
Tác giả cho biết: số DNNKVNN ở Hà Nội hiện nay là 142.456, trong đó có
138.837 DNTN, 557 doanh nghiệp có vốn Nhà nước dưới 50%; 2.370 doanh nghiệp
FDI; 692 doanh nghiệp hoạt động theo Luật HTX. Tính đến tháng 6/2013, các
DNNKVNN đã đóng góp hơn 34 ngàn tỷ đồng cho ngân sách thành phố, chiếm
63% tổng số thuế ; đã có 1.043 tổ chức đảng với 2.171 chi bộ, 21.665 đảng viên.
Tuy nhiên chất lượng của TCCSĐ khu vực này còn nhiều hạn chế . Trưởng ban Tổ
chức Thành uỷ Hà Nội Ngô Thị Thanh Hằng cho biết: “Phần lớn các chi bộ còn
lúng túng khi xác định nội dung sinh hoạt. Không khí sinh hoạt chi bộ đơn điệu, rập
khuôn theo thủ tục, nặng về phổ biến quán triệt, ít trao đổi, bàn bạc, cho nên không
gây được hứng thú, thu hút các đảng viên tham gia thảo luận, góp ý kiến. Có những

nơi, bí thư chi bộ “độc diễn” suốt buổi sinh hoạt. Những tâm tư tình cảm, diễn biến
tư tưởng của đảng viên bị coi nhẹ, rất ít được nêu ra và thảo luận. Rất nhiều chi bộ
không duy trì được sinh hoạt hằng tháng và phần lớn các buổi sinh hoạt không đủ
15
100% đảng viên. Không ít đảng viên thờ ơ, ngại sinh hoạt, ngại đấu tranh, né tránh
trong công tác phê bình, thậm chí tỏ thái độ thiếu nghiêm túc. Chất lượng sinh hoạt
như vậy dẫn đến vai trò của Đảng chưa được phát huy, chưa thuyết phục được chủ
doanh nghiệp về lợi ích của việc cần có tổ chức đảng. Vì vậy đã có những chủ
doanh nghiệp không ủng hộ, tạo điều kiện cho chi bộ hoạt động”. Tác giả luận án
quan tâm tiếp thu nghiên cứu, hoàn thiện thêm những đề xuất của tác giả như: Chủ
doanh nghiệp phải phối hợp bàn bạc vấn đề của doanh nghiệp như sản xuất kinh
doanh, chế độ chính sách, chủ trương của chủ doanh nghiệp để chi bộ bàn, kết nạp
chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ DNNKVNN vào Đảng, có thể làm bí thư chi bộ.
- Cầm Thị Lai, Vấn đề phát triển đảng viên trong doanh nghiệp ngoài quốc
doanh [55].
Tác giả cho biết, do tính chất công việc trong các doanh nghiệp tư nhân
thường không ổn định, nơi ở cách xa nơi làm việc hoặc phải làm ca kíp nên không
có thời gian sinh hoạt đoàn thể và vì thế công tác tạo nguồn kết nạp đảng gặp nhiều
khó khăn. Bài viết nêu được những nét cơ bản, khái quát nhất về những khó khăn
trong công tác kết nạp đảng viên trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh, những ý
tưởng mà luận án sẽ tiếp thu và làm rõ hơn những giải pháp đối với công tác quản
lý đảng viên trong DNNKVNN ở ĐBSH mà bài viết trên chưa đề cập.
- Phạm Ngọc Dũng, Bình Dương với công tác phát triển tổ chức đảng trong
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh [31]. Tác giả cũng cho biết, Bình Dương mới
chỉ có 2% tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và đảng viên
cũng chỉ chiếm 0,18 tổng số công nhân làm việc trong doanh nghiệp. Luận án này
sẽ chú trọng trước tiên đến công tác củng cố, kiện toàn TCCSĐ để làm căn cứ, điều
kiện để thực hiện tốt công tác đảng viên nói chung và quản lý đảng viên trong
DNNKVNN.
- Phạm Xuân Hà, Đồng Nai xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp

ngoài quốc doanh [50]. Mặc dù công tác xây dựng tổ chức đảng trong doanh nghiệp
ngoài quốc doanh chưa đạt được kết quả như mong muốn nhưng những gì đã đạt
được và chưa đạt được đều để lại cho Đảng bộ tỉnh những bài học kinh nghiệm quý
16
để định hướng cho chặng đường tiếp theo. Tuy nhiên, công tác quản lý đảng viên
vẫn chưa được tác giả đề cập đến.
- Trương Văn Tiếp, Công tác xây dựng Đảng trong các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh ở Long An: Thực trạng và một số kiến nghị [97, tr. 77 - 79].
Bài viết cũng đã rút ra một số kinh nghiệm bước đầu: Có quy định mang tính
pháp lý về việc thừa nhận và tạo điều kiện của doanh nghiệp đối với thành lập tổ
chức đảng, đoàn thể ở đó; Bố trí đảng viên có chức vụ trong doanh nghiệp làm bí
thư; khẳng định vai trò của tổ chức đảng chính là tham góp cho sự phát triển của
doanh nghiệp. Đề tài này có thể tiếp thu khi đề xuất giải pháp về cơ chế chính sách
nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức đảng trong DNNKVNN hoạt động có hiệu quả.
- Trần Xuân Thiện , Xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên trong
doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Vĩnh Long [96, tr. 29, tr.30, tr.45]. Tác giả đề
xuất giải pháp và kiến nghị: Công tác xây dựng tổ chức đảng trong doanh nghiệp
ngoài quốc doanh phải được các cấp uỷ đảng triển khai ngay từ khi doanh nghiệp
mới bước vào hoạt động; tăng cường công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động
tạo sự đồng thuận của giới chủ doanh nghiệp về việc thành lập tổ chức đảng ở đó và
sẵn sàng kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng (đây được coi là khâu then
chốt). Mặc dù tác giả đã đề cập đến công tác phát triển đảng viên nhưng chưa đi sâu
nghiên cứu công tác quản lý đảng viên trong DNNKVNN.
- Cao Khoa Bảng, Xây dựng tổ chức đảng trong doanh nghiệp tư nhân ở Hà
Nội”, Tạp chí Xây dựng Đảng [1].
Tác giả nhận định: hầu hết doanh nghiệp có tổ chức đảng, đoàn thể nhân dân
thì doanh nghiệp gắn bó hơn với địa phương và giải quyết tốt các vấn đề xã hội nảy
sinh trên địa bàn. Tuy nhiên tình trạng lúng túng trong phương thức lãnh đạo diễn ra
khá phổ biến ở các tổ chức đảng, vai trò tổ chức đảng không rõ nét nhất là trong sản
xuất kinh doanh và công tác cán bộ, sinh hoạt chi bộ không đều, chất lượng chưa

cao, chưa thực sự lãnh đạo các đoàn thể có hiệu lực để chăm lo đến người lao động
nhiều khi mờ nhạt, phụ thuộc vào chủ doanh nghiệp. Tác giả đã đề ra 6 giải pháp:
tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên; tăng cường tuyên truyền nâng cao
17
nhận thức; xây dựng mô hình tổ chức đảng, đoàn thể theo phương châm đảm bảo sự
lãnh đạo của Đảng; tập trung nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng,
tăng cường kết nạp đảng viên mới, nhất là chủ doanh nghiệp tư nhân có đủ điều
kiện vào đảng; củng cố nâng cao chất lượng hoạt động các đoàn thể nhân dân; chăm
lo xây dựng đội ngũ cán bộ đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp.
- Hồng Vân, Vì sao đảng viên bỏ sinh hoạt đảng? [98]. Tác giả cho biết, một số
đảng viên, nhất là đảng viên khi nhận chế độ nghỉ hưu, nghỉ mất sức do doanh
nghiệp bị giải thể, bộ đội phục viên xuất ngũ, thì thờ ơ với sinh hoạt đảng, thậm chí
không làm thủ tục chuyển sinh hoạt đảng và tự ý bỏ sinh hoạt đảng. Điều đáng quan
tâm là tác giả đưa ra các lý do đảng viên bỏ sinh hoạt đảng như sau: Do tổ chức
đảng nơi chuyển đến uy tín không cao, dân oán trách đảng viên nhiều; tổ chức đảng
chẳng giúp gì khi đảng viên về không có việc làm, đời sống khó khăn; ngại bị ràng
buộc, không muốn tham gia công việc địa phương do chi bộ giao; có khuyết điểm
cũ tuy đã bị xử lý nhưng do mặc cảm không tham gia sinh hoạt. Một trong những
giải pháp mà tác giả đưa ra mà tác giả luận án quan tâm là tăng cường công tác quản
lý đảng viên. Theo đó, các chi bộ phải nắm chắc diễn biến tư tưởng của đảng viên,
điều kiện hoàn cảnh của mỗi đảng viên, các mối quan hệ của đảng viên trong làm
ăn, sinh hoạt và cuộc sống để kịp thời chia sẻ, giúp đỡ, uốn nắn. Cần cải tiến thủ tục
chuyển sinh hoạt đảng, nơi làm thủ tục chuyển sinh hoạt đảng phải có phiếu báo đến
đảng bộ, chi bộ nơi chuyển đến và sau khi nhận được phiếu báo đó thì nơi nhận
chuyển đến lại làm phiếu báo với nơi chuyển đi. Một mặt làm cho đảng viên không
dễ tự ý bỏ sinh hoạt đảng, có điều kiện thời gian để kịp thời chia sẻ, động viên đảng
viên nộp hồ sơ chuyển đảng, mặt khác các tổ chức đảng cũng nắm được số đảng
viên bỏ sinh hoạt đảng ngay từ khi chuyển sinh hoạt. Tác giả luận án sẽ kế thừa và
làm sâu sắc hơn vấn đề đơn giản hoá thủ tục hành chính trong Đảng, nhất là công
tác đảng viên, trong đó có thủ tục về công tác đảng viên có tính đặc thù ở

DNNKVNN.
- Trần Duy Hưng, Quản lý đảng viên đi làm ăn xa ở Nam Định [51]).
18
Tác giả nhận định: tuy chưa có số liệu thống kê cụ thể nhưng chắc chắn đảng
viên, nhất là đảng viên khu vực nông thôn tỉnh Nam Định đi làm ăn xa nơi cư trú
khá đông, không chỉ ảnh hưởng đến công tác lãnh đạo chỉ đạo của cấp uỷ cơ sở mà
còn gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên. Về
giải pháp cơ bản lâu dài là phát triển mạnh kinh tế - xã hội địa phương, phát huy vai
trò tự quản của đảng viên và trách nhiệm quản lý đảng viên của tổ chức đảng với
các thủ tục quản lý thuận tiện, nhưng chặt chẽ, giữ mối liên hệ thường xuyên với
đảng viên.
Tác giả tiếp tục nghiên cứu làm rõ thêm mối liên hệ giữa địa phương và
DNNKVNN trong sự phối hợp nhằm quản lý tốt đội ngũ đảng viên.
1.2. Những công trình nghiên cứu của nước ngoài
1.2.1. Những công trình nghiên cứu ở Trung Quốc
- Sách: Bộ Tổ chức Thành ủy Thẩm Quyến, Sổ tay công tác tổ chức đảng của
đặc khu Thẩm Quyến (tài liệu tham khảo) [25]. Sách đã đề cập đến hầu hết các mặt
hoạt động xây dựng nội bộ đảng ở khu công nghiệp đặc thù. Riêng về công tác quản
lý đảng viên, tác giả luận án này rất quan tâm đến những quy định của Đảng Cộng
sản Trung Quốc về chế độ báo cáo:
"Chế độ định kỳ hội báo
Định kỳ hội báo tư tưởng và công tác của mình với tổ chức là một phương
thức để đảng viên chịu sự giáo dục và giám sát của tổ chức đảng, là một con đường
để tổ chức đảng tìm hiểu nắm vững tình hình tư tưởng và công tác của đảng viên,
cũng là truyền thống tốt đẹp về sinh hoạt trong Đảng chúng ta.
Gọi là định kỳ hội báo, chủ yếu là chỉ việc định kỳ tham gia cuộc họp sinh
hoạt chi bộ đảng và tổ chức đảng, tại cuộc họp sinh hoạt tổ chức của Đảng, hội báo
tư tưởng và công tác của mình với tổ chức đảng một cách chân thật và có trách
nhiệm, mong được sự giúp đỡ của tổ chức đảng và các đồng chí. Ngoài ra, bản thân
đảng viên hoặc người khác nếu có xảy ra vấn đề gì, xuất hiện tình hình gì về tư

tưởng hoặc trong công tác, cần kịp thời hội báo và phản ánh cho tổ chức đảng. Đảng
19
viên khi đi xa, với thời gian tương đối dài, cần thường xuyên hội báo với tổ chức
đảng tình hình tư tưởng và công tác của mình bằng văn bản hoặc bằng miệng.
Đảng viên hội báo tư tưởng và công tác với tổ chức đảng có ý nghĩa quan trọng:
- Có thể giúp tổ chức đảng hiểu và nắm được tình hình đảng viên quán triệt
chấp hành đường lối, phương châm, chính sách và nghị quyết của Đảng, giúp đảng
viên tăng cường nhận thức chính sách, chỉnh đốn phương hướng chính trị, tạo được
sự nhất trí với Trung ương về tư tưởng, về chính trị.
- Có thể giúp tổ chức đảng thiết thực tìm hiểu tình hình tư tưởng của đảng
viên, để tiến hành giáo dục tư tưởng đúng chỗ, giúp đỡ đảng viên nâng cao giác ngộ
tư tưởng, khắc phục các loại tư tưởng phi vô sản, xác lập vững chắc thế giới quan
cộng sản chủ nghĩa.
- Có thể bồi dưỡng và tăng cường ý thức tổ chức và ý thức kỷ luật của đảng
viên, đôn đốc họ luôn chiếu theo điều kiện đảng viên cộng sản để kiểm tra và đòi
hỏi mình, thúc dục họ phát huy đầy đủ vai trò tiền phong gương mẫu trong mọi
công tác và hoạt động xã hội. Thẩm Quyến ở giao điểm giữa hai loại chế độ, hai
loại văn hóa, tình hình càng thêm phức tạp, cho nên cần phải nhấn mạnh việc đảng
viên nghiêm khắc chấp hành chế độ định kỳ hội báo.
- Sách, Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản
Trung Quốc, Xây dựng Đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm
của Trung Quốc [ 66].
Đây là cuộc hội thảo thu hút được nhiều nhà lãnh đạo, các chuyên gia đầu
ngành về công tác xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản
Trung Quốc. Sách gồm 322 trang gồm các bài viết của: Vương Gia Thụy - Phát
biểu khai mạc; Hạ Quốc Cường - Không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và trình
độ cầm quyền, tăng cường năng lực chống tha hóa, phòng biến chất và chống rủi ro;
Tạ Xuân Đại - Công tác cán bộ và việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của Đảng;
Tôn Hiển Quần - Tăng cường xây dựng ban lãnh đạo, cố gắng hình thành tầng lớp
lãnh đạo hăng hái, sôi nổi, phấn đấu thành đạt; Lý Bồi Nguyên - Thực tiễn và sự tìm

tòi về xây dựng tổ chức cơ sở và xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng Cộng sản
20
Trung Quốc; Trần Tuấn Hồng - Kiên trì việc xây dựng lý luận tư tưởng là nhiệm vụ
hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng; Chu Húc Đông - Kiên trì phương châm
quản lý Đảng nghiêm minh, triển khai cuộc xây dựng Đảng phong liêm chính và
đấu tranh chống tham nhũng; Triệu Gia Kỳ - Tăng cường xây dựng đảng ủy địa
phương, phát huy đầy đủ vai trò hạt nhân lãnh đạo; Giả Cao Kiến - Phát huy đầy đủ
vai trò của trường Đảng, làm tốt công tác giáo dục và đào tạo cán bộ; Chu Phúc
Khởi - Xuất phát từ đại cục, hướng tới lâu dài, cố gắng xây dựng một đội ngũ cán
bộ dự bị tố chất cao; Trần Thành - Đấu tranh chống những nguy cơ đối với Đảng
Cộng sản cầm quyền; Lý Tiểu Tân - Tiến cùng thời đại, mở mang sáng tạo, giữ mãi
sức sống của Đảng; Tôn Hiểu Quần - Phát biểu bế mạc.
Các bài viết đề cập khá toàn diện về công tác xây dựng đảng của Đảng Cộng
sản Trung Quốc, nhưng với tác giả bài viết này đặc biệt quan tâm đến những kinh
nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc về xây dựng tổ chức đảng và đảng viên của
các DNNKVNN.
- Lý Bồi Nguyên, Thực tiễn và sự tìm tòi về xây dựng tổ chức cơ sở và xây
dựng đội ngũ đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong Xây dựng Đảng
trong sạch vững mạnh trong tình hình mới, kinh nghiệm của Trung Quốc - kinh
nghiệm của Việt Nam [68].
Tác giả Lý Bồi Nguyên, Cục trưởng Cục Giáo dục cán bộ, Ban Tổ chức Trung
ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đánh giá:
“Công tác xây dựng Đảng của xí nghiệp phi công hữu cũng đã giành được
những tiến triển mới. Theo yêu cầu về “nền kinh tế phi công hữu phát triển đến đâu
thì công tác xây dựng Đảng mở rộng đến đó”, chúng tôi đã tăng nhanh nhịp bước
công tác xây dựng tổ chức Đảng ở các xí nghiệp phi công hữu. Theo nguyên tắc
“quy mô nhỏ, làm ngoài giờ, đa dạng hóa và làm thực tế”, tổ chức đảng ở nhiều xí
nghiệp tích cực tìm tòi nội dung công tác và phương thức hoạt động phù hợp với
đặc điểm của xí nghiệp phi công hữu, sức ảnh hưởng của tổ chức đảng ở các xí
nghiệp phi công hữu không ngừng được mở rộng” [68, tr.113].

21
“Việc xây dựng đội ngũ đảng viên và việc xây dựng tổ chức cơ sở của Đảng là
dựa vào nhau, thúc đẩy lẫn nhau, cùng nhau cấu thành nội dung cơ bản của công tác
xây dựng Đảng ở cơ sở. Chúng tôi bám chắc mục tiêu chung của công trình vĩ đại
mới là thúc đẩy xây dựng Đảng, nhằm vào việc xây dựng một đội ngũ đảng viên “tố
chất ưu tú, kết cấu hợp lý, quy mô vừa mức, vai trò nổi bật”, tăng cường giáo dục
quản lý, thúc đẩy xây dựng chế độ, làm cho tố chất đội ngũ đảng viên được nâng
cao rõ rệt, vai trò càng thêm nổi bật.
Làm tốt công tác phát triển đảng viên là con đường quan trọng để tăng cường
sức sống của Đảng, nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Lâu nay, căn cứ theo phương
châm “kiên trì tiêu chuẩn, đảm bảo chất lượng, cải thiện cơ cấu, thận trọng phát
triển”, Trung Quốc luôn luôn kiên trì coi việc phát triển đảng viên trên tuyến đầu
sản xuất, công tác và trong thanh niên làm trọng điểm công tác phát triển đảng viên,
tích cực làm tốt công tác phát triển đảng viên, không ngừng tăng thêm sức sống mới
cho đội ngũ của Đảng” [68, tr.115].
“Hai là, nghiêm chỉnh làm tốt công tác quản lý đảng viên. Trước thực tế là sau
khi cải cách mở cửa, người đảng viên từ “người của đơn vị” trở thành “người của xã
hội” ngày càng nhiều. Việc chú ý kết hợp hài hòa giáo dục đảng viên với việc quản
lý đảng viên làm cho công tác quản lý đảng viên từng bước chuyển từ trạng thái tĩnh
sang trạng thái động, chuyển từ khép kín sang mở cửa, chuyển từ nhằm vào quản lý
cho được sang quản lý cho tốt và quản lý cho sống động, bước đầu tìm tòi được cơ
chế quản lý đảng viên thích ứng với nhu cầu phát triển của tình hình. Căn cứ vào
tình hình mới là sự lưu động, cố gắng thực hiện được “đảng viên lưu động đến đâu
thì tổ chức đảng xây dựng đến đấy và hoạt động trong Đảng triển khai đến đấy”.
Song song với yêu cầu nghiêm ngặt và tăng cường quản lý đối với đảng viên, chúng
tôi còn chú trọng bảo vệ quyền lợi dân chủ của đảng viên, quan tâm việc sản xuất và
sinh hoạt của đảng viên, giúp họ giải quyết khó khăn thực tế” [68, tr.117].
“Trong xí nghiệp, triển khai hoạt động “bốn có một thúc đẩy” (tức là xây dựng
một ban lãnh đạo tốt, một đội ngũ đảng viên tốt, một cơ chế công tác tốt, một chế độ
công tác tốt, thúc đẩy xí nghiệp không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế và khả năng

22
cạnh tranh thị trường) và “kết thành đôi để trợ giúp nhau”, thúc đẩy công tác xây
dựng Đảng ở xí nghiệp quốc hữu đi vào chiều sâu, thiết thực giúp đỡ tổ chức đảng
và công nhân viên chức đặc biệt khó khăn của những xí nghiệp phải ngừng sản
xuất, đóng cửa và phá sản giải quyết vấn đề thực tế. Trong khu dân cư đô thị, bám
chặt việc xây dựng và phục vụ của khu dân cư đô thị, triển khai các hoạt động được
quần chúng ưa thích như “công trình sức hội tụ”, “sáng lập tiểu khu văn minh an
toàn”, v.v., không ngừng bổ sung nội dung hoạt động, cải tiến phương thức hoạt
động, tăng cường tính hiệu quả thực tế của các hoạt động.
Thứ tư, tìm tòi cơ chế công tác. Chúng tôi đã tích cực tìm tòi cơ chế mới về
xây dựng tổ chức cơ sở và xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng. Trong công tác
xây dựng Đảng ở xí nghiệp quốc hữu, tích cực tìm tòi cơ chế công tác tổ chức đảng
thích ứng với cơ cấu quản lý pháp nhân công ty. Trong công tác xây dựng Đảng ở
khu dân cư đô thị, đã tìm tòi và xây dựng được cơ chế công tác “ba phục vụ” là tổ
chức đảng cấp trên phục vụ cho tổ chức đảng cấp dưới, tổ chức đảng các cấp phục
vụ cho đảng viên, tổ chức đảng và đảng viên phục vụ cho quần chúng. Về mặt xây
dựng đội ngũ đảng viên, đã tìm tòi và xây dựng được cơ chế về các mặt như đảng
viên học tập giáo dục, quản lý động thái, làm trong sạch đội ngũ, v.v Trong công
tác, chúng tôi rất chú ý chuyển những kinh nghiệm và cách làm thành công về xây
dựng tổ chức cơ sở và đội ngũ đảng viên của Đảng thành cơ chế công tác thường
xuyên nắm chắc không lơi lỏng [68, tr.118].
Nhìn lại, quá trình xây dựng tổ chức cơ sở và đội ngũ đảng viên của Đảng
Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là tổng kết những thực tiễn sau Hội nghị Trung
ương 4 khóa XIII đến nay, chúng tôi có điều thể nghiệm đối với việc tăng cường
xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở và xây dựng đội ngũ đảng viên như sau: Một là, tăng
cường xây dựng tổ chức cơ sở và đội ngũ đảng viên của Đảng, phải kiên trì lấy tư
tưởng quan trọng “ba đại diện” làm chỉ đạo, bám sát trung tâm xây dựng kinh tế,
phục vụ cho đại cục công tác của toàn Đảng. Hai là, tăng cường xây dựng tổ chức
cơ sở và đội ngũ đảng viên của Đảng, phải căn cứ nhiệm vụ, mục tiêu và những vấn
đề chủ yếu tồn tại trong công tác của các giai đoạn khác nhau, nhấn mạnh công tác

×