Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà
Nước, nền kinh tế Việt Nam đã và đang từng bước vượt qua những khó khăn và
ngày càng phát triển mạnh mẽ, từng bước hội nhập cùng nền kinh tế khu vực và thế
giới. Công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nền kinh tế đất nước được xác định
là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong thời gian tới. Muốn vậy, phải đáp ứng được
nhu cầu vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp để mở rộng sản xuất kinh
doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ, trang bị kỹ thuật tiên tiến từ đó
tạo đà cho sự phát triển. Nguồn vốn trung và dài hạn đóng một vai trò hết sức quan
trọng trong việc thực hiện thành công nhiệm vụ này. Tuy nhiên, có nguồn vốn trung
và dài hạn thôi là chưa đủ mà phải biết sử dụng nguồn vốn đó một cách hợp lý, gắn
liền với nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn thì mới phát huy được vai trò
tích cực của nguồn vốn này.
Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế với sự bùng nổ của khoa
học công nghệ, nhu cầu về vốn trung và dài hạn để đầu tư của các doanh nghiệp
ngày càng cao. Các ngân hàng thương mại, với tư cách là trung tâm tiền tệ của nền
kinh tế, đảm nhận trọng trách cân bằng cung - cầu về vốn cho toàn xã hội. Cùng với
các hoạt động tín dụng ngắn hạn truyền thống, hoạt động tín dụng trung và dài hạn
của các ngân hàng thời gian qua đã đạt được nhiều thành quả đáng kể, tuy nhiên vẫn
còn nhiều hạn chế và gặp không ít khó khăn. Gần đây, trước những biến động bất
ổn của nền kinh tế thị trường, chúng ta không thể nào dự đoán hết được những rủi
ro có thể xẩy ra, cũng như đo lường được những ảnh hưởng của nó tới hoạt động tín
dụng nói chung, và tín dụng trung và dài hạn nói riêng. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố
chủ quan lẫn khách quan mà hoạt động tín dụng, đặc biệt là hoạt động tín dụng
trung và dài hạn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Những rủi ro đó có thể sẽ ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh của ngân hàng và sự ổn định của hệ thống tài chính nói
chung. Do đó, nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn là mối quan tâm hàng
đầu của các ngân hàng và của các nhà quản lý kinh tế.
Là một sinh viên khoa Ngân hàng - Tài chính hiện đang thực tập tại Phòng
Quan hệ Khách hàng Doanh nghiệp của Ngân hàng thương mại cổ phần công
thương Việt Nam chi nhánh Bắc Hà Nội, tôi nhận thấy những khó khăn, thách thức
về chất lượng tín dụng trung và dài hạn mà ngành Ngân hàng nói chung và Ngân
hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam chi nhánh Bắc Hà Nội đang gặp
phải, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài viết chuyên đề thực tập là: “Giải pháp nâng
cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần
công thương Việt Nam chi nhánh Bắc Hà Nội”. Đây là một đề tài mà tôi nhận
thấy hết sức thiết thực đối với hoạt động tín dụng trung và dài hạn hiện nay tại Chi
nhánh.
Nhằm mục đích nghiên cứu làm rõ và giải quyết vấn đề, bài viết kết cấu gồm 3
chương như sau:
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 1 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
Chương 1 : Những vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của
Ngân hàng thương mại.
Chương 2 : Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại
vietinbannk, chi nhánh Bắc Hà Nội.
Chương 3 : Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn
tại vietinbanhk, chi nhánh Bắc Hà Nội.
Do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên bài viết
không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của
các thầy cô giáo, cũng như từ phía đơn vị thực tập là Vietinbank, chi nhánh Bắc Hà
Nội để bài viết chuyên đề của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến giảng viên hướng dẫn PGS.TS.Phan
Thị Thu Hà, Ban lãnh đạo Vietinbank, chi nhánh Bắc Hà Nội, cùng các anh, chị
trong Phòng Quan hệ khách hàng Doanh nghiệp đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi
trong quá trình thực tập và giúp tôi hoàn thành Chuyên đề tốt nghiệp này.
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 2 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI
HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại tín dụng trung và dài hạn.
1.1.1. Khái niệm
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các trung gian tài chính nói chung
và của các ngân hàng thương mại nói riêng. Hoạt động tín dụng đã trải qua quá
trình phát triển lâu dài, gắn liền với lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng
thương mại. Ngày nay, nền kinh tế càng phát triển, càng có nhiều khái niệm và cách
hiểu khác nhau về tín dụng, nhưng về bản chất thì tín dụng là một quan hệ vay
mượn giữa một bên là người đi vay và một bên là người cho vay trên cơ sở hoàn trả
cả gốc và lãi, biểu hiện sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị giữa người sở
hữu sang người sử dụng. Đối với ngân hàng thương mại, tín dụng là chức năng cơ
bản không thể thiếu. Khái niệm tín dụng ngân hàng như sau:
Tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng phản ánh một giao dịch về tài
sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay là ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng
với bên đi vay là các cá nhân, doanh nghiệp, chủ thể sản xuất kinh doanh, trong đó
bên cho vay chuyển tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định
theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho
bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại tín dụng, trong đó tiêu thức thời
hạn tín dụng được sử dụng phổ biến nhất và có ý nghĩa quan trọng nhất đối với
ngân hàng thương mại. Nó phản ánh khả năng hoàn trả, mức độ rủi ro cũng như có
ảnh hưởng trực tiếp đến tính an toàn và khả năng sinh lợi của ngân hàng. Căn cứ
theo thời hạn, tín dụng ngân hàng được chia thành các loại sau:
• Tín dụng ngắn hạn: là khoản tín dụng có thời hạn dưới 1 năm và được sử dụng
để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của doanh nghiệp, và nó còn có
thể được vay cho những tiêu dùng cá nhân.
• Tín dụng trung hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 1 - 5 năm. Loại hình tín
dụng này thường được dùng để cung cấp, mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi
mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi
vốn ngắn.
• Tín dụng dài hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 5 năm trở lên. Loại hình tín
dụng này được dùng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản như: đầu tư xây dựng các xí
nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến công nghệ và mở rộng sản
xuất,…
Như vậy, tín dụng trung và dài hạn là các khoản tín dụng có thời hạn từ 1
năm trở lên, nó được dùng để hình thành vốn cố định của khách hàng, mua sắm
máy móc thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp để từ đó cải
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 3 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng sản xuất chiếm
lĩnh thị trường,…
1.1.2. Đặc điểm cơ bản của tín dụng trung và dài hạn.
Tín dụng trung và dài hạn có những đặc điểm cơ bản quan trọng như sau:
• Tín dụng trung và dài hạn được cấp cho khách hàng nhằm hỗ trợ cho họ trong
việc mua sắm, tạo lập tài sản cố định. Do đó, đối tượng cho vay chủ yếu của các
ngân hàng thương mại trong hình thức tín dụng này là vốn thiếu hụt tạm thời của
các doanh nghiệp.
• Do gắn liền với tài sản cố định và vốn cố định của khách hàng nên tín dụng
trung và dài hạn của ngân hàng thương mại thường có quy mô lớn và gắn liền với
các dự án đầu tư. Trong đó, tín dụng trung hạn thường đầu tư theo chiều sâu, còn tín
dụng dài hạn lại thường tập trung cho các dự án đầu tư mở rộng.
• Tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại thường có giá trị lớn,
thời gian hoàn vốn chậm, có rủi ro cao hơn so với tín dụng ngắn hạn. Nguồn trả nợ
cho ngân hàng chủ yếu được lấy từ quỹ khấu hao và một phần từ lợi nhuận của
chính sách dự án mang lại. Vì vậy, khách hàng chỉ có thể hoàn trả khoản vay có quy
mô lớn thành nhiều lần khác nhau, thời hạn cho vay kéo dài trong nhiều năm.
• Lãi suất cho vay trung và dài hạn thường lệ thuộc vào lãi suất chung của nền
kinh tế. Do việc cho vay trung và dài hạn tiềm ẩn rủi ro cao, thêm vào đó, ngân
hàng không thể sử dụng nguồn vốn một cách chủ động và linh hoạt trong một thời
gian dài, vì thế lãi suất cho vay trung và dài hạn luôn cao hơn so với lãi suất cho
vay ngắn hạn. Lãi suất này có thể là lãi suất cố định trong suốt thời kỳ vay vốn,
nhưng cũng có thể quy định một lãi suất lên xuống tuỳ theo biến động của thị
trường.
• Các khoản tín dụng trung và dài hạn tiềm ẩn những rủi ro cao nên lợi nhuận kỳ
vọng mà ngân hàng thương mại đặt ra khi cho vay càng lớn, chính vì thế hoạt động
cấp tín dụng trung và dài hạn thường mang lại cho các ngân hàng thương mại
những khoản thu nhập lớn. Biểu hiện cụ thể thông qua lãi suất cho vay trung và dài
hạn thường cao để bù đắp cho những chi phí mà ngân hàng bỏ ra để huy động
nguồn vốn và bù đắp rủi ro.
1.1.3. Phân loại tín dụng trung và dài hạn.
1.1.3.1. Tín dụng theo dự án.
Đây là hình thức tín dụng trung và dài hạn được cấp cho vay đối với các dự
án. Do đặc điểm của các dự án được tài trợ, ngân hàng chỉ có thể thu hồi được vốn
từ nguồn thu nhập tạo ra khi dự án hoàn thành và đi vào hoạt động, đồng thời phải
chịu rủi ro trong trường hợp dự án không thành công. Hình thức cho vay này
thường được áp dụng cho các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng.
Hình thức này có những thuận lợi nhất định cho khách hàng lẫn ngân hàng.
Hình thức này cho phép ngân hàng có thể kiểm soát chặt chẽ vốn đầu tư, trực tiếp
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 4 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
tham gia điều hành, giám sát quá trình thực hiện dự án, đảm bảo nguồn vốn được sử
dụng đúng mục đích. Đối với khách hàng vay, họ không phải trả gốc và lãi theo
định kỳ như các hình thức vay khác, mà chỉ đến khi kết thúc dự án mới tiến hành
thanh toán cho ngân hàng.
Tín dụng trung và dài hạn theo dự án gồm 2 hình thức như sau:
a. Cho vay trực tiếp theo dự án.
Đây là hình thức tín dụng trung và dài hạn phổ biến trong nền kinh tế thị
trường. Các ngân hàng thương mại riêng lẻ tiến hành tài trợ và tự chịu trách nhiệm
đối với từng dự án đầu tư của khách hàng mà họ đã lựa chọn để tài trợ.
Chính vì vậy, công việc của ngân hàng không chỉ đơn thuần là cho vay mà
còn phải thường xuyên quán xuyến hàng loạt các công việc khác có liên quan đến
thực hiện đầu tư, để mang lại hiệu quả cho dự án như: quy hoạch sản xuất, thiết kế,
tiêu chuẩn thiết bị máy móc, quy trình công nghệ, hiệu quả đầu tư,… Trước khi
quyết định cấp tín dụng cho một dự án, ngân hàng phải thực hiện nghiên cứu một
cách nghiêm túc và xem xét kỹ lưỡng các rủi ro có thể xảy ra, bởi quy định cấp tín
dụng sẽ ràng buộc ngân hàng với người vay trong suốt quá trình đầu tư dự án, đồng
thời kết quả dự án sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng đó.
b. Cho vay đồng tài trợ dự án.
Đây là hình thức hai hay nhiều tổ chức tín dụng cùng thực hiện cho vay một
dự án. Trong đó, một tổ chức tín dụng đứng ra làm đầu mối, phối hợp với các bên
đồng tài trợ để thực hiện, nhằm mục đích phân tán rủi ro.
Hình thức tín dụng này thường được áp dụng trong trường hợp mà các dự án
đòi hỏi một khoản vốn đầu tư lớn mà các ngân hàng riêng lẻ không đáp ứng hết
được, bởi thông thường, ngân hàng chỉ được phép cho vay vốn tới một mức độ nhất
định so với nguồn vốn của mình và không được đầu tư quá nhiều vốn vào một công
ty để đảm bảo an toàn vốn và tài sản. Đối với một số dự án, có thể một ngân hàng
hoàn toàn có khả năng đáp ứng toàn bộ vốn, tuy nhiên mức độ rủi ro quá lớn gây
ảnh hưởng đến sự an toàn của chính nó, buộc nó phải kêu gọi các ngân hàng khác
cùng tham gia tài trợ để san sẻ rủi ro. Do đó, cho vay đồng tài trợ là một hoạt động
tín dụng giúp các ngân hàng phân tán rủi ro và có thể sử dụng tối đa nguồn vốn của
họ cho đầu tư vào các dự án dài hạn.
1.1.3.2. Tín dụng thuê mua.
Tín dụng thuê mua là hình thức cho vay thông qua một hợp đồng tín dụng
thuê mua, qua đó người thuê chuyển giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho
người đi thuê sử dụng, người đi thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê cùng tiền
lãi trong suốt thời hạn thuê. Đây là một hình thức tín dụng biến tướng từ cho vay
trung và dài hạn của ngân hàng để khách hàng mua sắm thiết bị hay nhà xưởng
phục vụ sản xuất. Bên thuê chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu tài
sản thuê. Trong thời gian thuê, bên thuê phải chịu mọi chi phí duy tu, bảo quản tài
sản, các rủi ro do lỗi thời,… Khi hợp đồng thuê kết thúc, bên thuê có thể được
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 5 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
quyền mua lại tài sản thuê hoặc được quyền thuê tiếp theo các điều kiện đã được
thoả thuận trong hợp đồng.
Tài sản thuê bao gồm cả động sản và bất động sản:
• Động sản chủ yếu gồm máy móc thiết bị, ô tô, dây chuyền công nghệ,…
• Bất động sản chủ yếu là cửa hàng, văn phòng làm việc, cơ sở sản xuất,…
Về mặt pháp lý, tài sản thuê thuộc quyền sở hữu của người cho thuê, còn
bên đi thuê chỉ được quyền sử dụng. Vì vậy, bên đi thuê không được bán hay
chuyển nhượng tài sản cho người khác. Tuy nhiên, họ được hưởng những lợi ích do
việc sử dụng tài sản đó mang lại, đồng thời chịu phần vốn rủi ro liên quan đến tài
sản. Tín dụng thuê mua có một số hình thức như: thuê mua có sự tham gia của hai
hay ba bên, tái thuê mua, thuê mua hợp tác, thuê mua giáp lưng,…
Hình thức tín dụng thuê mua có ý nghĩa quan trọng bởi nó mang lại lợi ích
cho cả ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế. Cụ thể là:
• Đối với khách hàng (bên đi vay): hình thức này giúp giảm bớt các điều kiện
khắt khe về cho vay, thủ tục đơn giản hơn, vốn tự có tham gia ít hơn. Đối với các
doanh nghiệp, hình thức này giúp họ có thể sử dụng vốn vay dưới dạng máy móc,
thiết bị,… mà không phải bỏ vốn lớn, không ảnh hưởng đến bảng tổng kết tài sản và
hạn mức tín dụng của doanh nghiệp. Việc cấp tín dụng thuê mua thường nhanh
chóng, từ đó cho phép đầu tư kịp thời, đáp ứng được thời cơ sản xuất kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường. Mặt khác, phương thức thanh toán tiền thuê linh hoạt,
thích ứng với hoàn cảnh và điều kiện sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp. Ngoài ra, với các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc các doanh nghiệp
mới thành lập, ngân hàng không chấp nhận cho vay vốn dài hạn nhưng vẫn có cơ
hội được sử dụng hình thức tín dụng thuê mua do khoản vay được đảm bảo bằng tài
sản cho thuê.
• Đối với ngân hàng (bên cho thuê): thuận lợi rõ nét nhất của hình thức này đối
với bên cho thuê là quyền sở hữu tài sản, nó được xem như một khoản đảm bảo
chắc chắn cho việc tài trợ vốn. Đây là hình thức tài trợ bổ sung cho các hình thức tài
trợ khác trong hoạt động của ngân hàng. Nó giúp ngân hàng mở rộng dịch vụ, nâng
cao năng lực cạnh tranh, giảm mức độ rủi ro. Mặt khác, tài sản thuê do chính ngân
hàng đi mua về sau đó mới thực hiện hợp đồng cho thuê nên luôn đảm bảo nguyên
tắc vốn vay được sử dụng đúng mục đích.
• Đối với nền kinh tế: hoạt động cho thuê của các ngân hàng cũng như các công
ty cho thuê chuyên nghiệp trên thị trường không những tạo ra một kênh phân phối
tốt, mà còn góp phần chuyển giao kỹ thuật và công nghệ mới, tạo đà cho nền kinh tế
phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 6 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
1.2. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại.
1.2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng trung và dài hạn.
Chất lượng được các nhà kinh tế định nghĩa bằng nhiều cách: “Chất lượng là
sự phù hợp với mục đích sử dụng, là một trình độ được dự kiến trước về độ đồng
đều là sự tin cậy với chi phí thấp nhất và phù hợp với thị trường” hoặc “chất lượng
là năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của người
sử dụng”
Chất lượng là một khái niệm quen thuộc tuy nhiên chất lượng cũng là một
khái niệm gây nhiều tranh cãi. Tùy theo đối tượng sử dụng, từ "chất lượng" có ý
nghĩa khác nhau. Tổ chức Quốc tế về Tiệu chuẩn hóa ISO, trong dự thảo DIS
9000:2000, đã đưa ra định nghĩa sau: “Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc
tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách
hàng và Ngân hàng"
Chất lượng cho vay tín dụng trung dài hạn là một khái niệm tương đối nó
vừa cụ thể thể hiện qua các chỉ tiêu có thể tính toán được như kết quả kinh doanh,
nợ quá hạn…; vừa trừu tượng thể hiện đến khả năng thu hút khách hàng, tác động
đến nền kinh tế như tăng trưởng, lạm phát, thất nghiệp….Vì vậy “Chất lượng cho
vay tín dụng trung và dài hạn được hiểu theo đúng nghĩa là vốn cho vay của ngân
hàng được khách hàng đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ để tạo ra một
số tiền lớn hơn, vừa để hoàn trả ngân hàng gốc và lãi vừa trang trải chi phí khác và
lợi nhuận”.
Theo định nghĩa trên, áp dụng cho hoạt động tín dụng của một ngân hàng
thương mại, để đánh giá về chất lượng tín dụng có 2 nhóm đối tượng quan trọng cần
được xem xét là: khách hàng và ngân hàng, ở đây là các nhà quản trị ngân hàng
thương mại và Ngân hàng nhà nước:
•Về phía khách hàng: Chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu của
khách hàng. Nó thể hiện ở việc các nhu cầu vay chính đáng của khách hàng được
ngân hàng đáp ứng một cách nhanh chóng, đầy đủ và kịp thời nhằm tận dụng triệt
để cơ hội kinh doanh. Nó cũng thể hiện thông qua sự hài lòng của khách hàng về
quy trình: trình tự thủ tục, thời gian để thực hiện, sự đa dạng của lãi suất với từng
loại khách hàng khác nhau, khả năng tư vấn, chăm sóc khách hàng trước trong và
sau cho vay. Điều đó có nghĩa là nếu một sản phầm vì lý do nào đó mà không được
khách hàng chấp nhận thì phải bị coi là có chất lượng kém, cho dù trình độ công
nghệ để chế tạo ra sản phẩm, áp dụng cho hệ thống đó có thể rất hiện đại. Đây là
một kết luận then chốt và là cơ sở để các nhà chất lượng định ra chính sách, chiến
lược kinh doanh của mình. Nếu trong hoạt động tín dụng, các nhà quản trị ngân
hàng áp dụng các biện pháp khắt khe để kiểm soát hoạt động tín dụng nhằm đảm
bảo theo các chỉ tiêu đề ra mà gây khó khăn cho việc tiếp cận tín dụng của khách
hàng hơn so với các tổ chức tín dụng khác thì chất lượng tín dụng của ngân hàng đó
cũng không cao. Sự chấp nhận này của khách hàng có thể được đánh giá dựa trên
quy mô tín dụng và tốc độ tăng trưởng tín dụng.
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 7 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
Về phía Ngân Hàng : Khi đánh giá chất lượng của một đối tượng, ta phải
xét đến mọi đặc tính của đối tượng có liên quan tới sự thỏa mãn những nhu cầu cụ
thể. Các nhu cầu này không chỉ từ phía khách hàng mà còn từ phía ngân hàng, đó là
các yêu cầu mang tính pháp chế-của ngân hàng nhà nước và các yêu cầu mang tính
quản trị-của những nhà quản trị ngân hàng thương mại. Theo mục 10 điều 20 Luật
các tổ chức tín dụng, cấp tín dụng được định nghĩa là “việc tổ chức tín dụng thoả
thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp
vụ khác”. Trong đó, hoạt động này phải đảm bảo một số nguyên tắc nhất định đó là:
khách hàng phải cam kết hoàn trả gốc và lãi trong một thời hạn nhất định, khách
hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích đã được thỏa thuận với ngân
hàng và không trái với quy định của pháp luật cũng như các quy định của ngân hàng
cấp trên, ngân hàng tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả.
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng trung và dài hạn
1.2.2.1. Về phía Ngân hàng.
Tỷ lệ nợ xấu và nợ quá hạn
Nợ quá hạn, nợ xấu phát sinh từ mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo khi
khách hàng đi vay không thể thực hiện hoặc cố tình không thực hiện nghĩa vụ trả
nợ đối với ngân hàng đúng hạn. Đây có thể coi là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá
đúng chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100%
Tổng dư nợ
Nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu = x 100%
Tổng dư nợ
Theo quyết định 493 của ngân hàng nhà nước về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín
dụng:
+ Chất lượng tín dụng trung và dài hạn được đánh giá căn cứ vào các mức tỷ
lệ nợ quá hạn như sau:
− Thấp hơn 3% thể hiện mức an toàn cao, chất lượng tốt.
− Từ 3-5% mức an toàn bình thường, chất lượng bình thường.
− Từ 5-7% thuộc mức nhiều rủi ro, chất lượng trung bình.
− Trên 7% mức an toàn rất thấp, chất lượng yếu kém.
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 8 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
+ “Nợ quá hạn” là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi
đã quá hạn.
+ “Nợ xấu” (NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5.
Tỷ lệ nợ quá hạn/ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín
dụng của tổ chức tín dụng. Tỷ lệ này thấp thì chất lượng và độ an toàn trong hoạt
động tín dụng tại ngân hàng thương mại cao và mức độ rủi ro trong hoạt động tín
dụng thấp. Ngược lại, tỷ lệ này cao phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng
thương mại thấp, ngân hàng có nguy cơ mất vốn, mất khả năng thanh toán và giảm
lợi nhuận. Điều đó cho thấy ngân hàng đang gặp nhiều khó khăn trong hoạt động tín
dụng trung và dài hạn, khả năng mất vốn lớn, đồng thời khả năng thanh toán cũng
như thu nhập của ngân hàng giảm. Qua đó, phần nào phản ánh được chất lượng tín
dụng trung và dài hạn của ngân hàng thấp, rủi ro cao vì số lượng lớn nợ không được
hoàn trả đúng hạn.
Ngoài ra, một chỉ tiêu nữa mà các nhà quả trị rủi ro tín dụng luôn quan tâm
đó là tỷ lệ nợ trung và dài hạn khó đòi, nó xem xét đến giá trị các khoản nợ trung và
dài hạn khó đòi trong tổng nợ quá hạn. Chỉ tiêu này phản ảnh sâu sắc chất lượng tín
dụng trung và dài hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn tín dụng trung và dài hạn càng nhỏ, chất
lượng tín dụng càng cao và ngược lại. Tuy nhiên, tỷ lệ này quá nhỏ đôi khi cũng
chưa hẳn là chất lượng tín dụng tốt, bởi như vậy cho thấy có khả năng quy mô cho
vay của ngân hàng nhỏ nên mới không có dư nợ tín dụng trung và dài hạn,… Theo
các nhà phân tích tài chính, tỷ lệ này nhỏ hơn 5% là chấp nhận được. Trên thực tế,
nhiều trường hợp tỷ lệ này vượt mức cho phép nhưng vẫn được đánh giá chấp nhận
vì xét về mặt bản chất, ngay từ đầu ngân hàng đã xác định được khoản vay này là
khó thu hồi mà vẫn phải thực hiện cho vay theo sự chỉ đạo của Ngân hàng nhà nước
hoặc Chính Phủ.
Thu nhập từ hoạt động tín dụng
Thu nhập từ hoạt động tín dụng là nguồn thu nhập chủ yếu trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng thương mại. Ngân hàng có chất lượng hoạt động tín
dụng tốt, kinh doanh hiệu quả thì chỉ tiêu này cao và ngược lại. Thật vậy, thu nhập
từ hoạt động tín dụng cao chứng tỏ các khoản vay không những được thu hồi cả
gốc mà còn có lãi đảm bảo được độ an toàn của nguồn vốn vay.
Thu nhập từ hoạt động tín dụng = Doanh thu hoạt động tín dụng - chi phí
hoạt động tín dụng
Tuy nhiên, chỉ tiêu này là tuyệt đối nên chưa phản ánh chính xác chất lượng
tín dụng. Trong trường hợp hai ngân hàng thương mại có thu nhập từ hoạt động
tín dụng như nhau nhưng quy mô dư nợ tín dụng lại khác nhau nên chất lượng tín
dụng sẽ khác nhau. Vì vậy, chỉ tiêu sinh lãi trên một đồng vốn sẽ phản ánh chính
xác hơn chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại có thực sự là tốt?
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 9 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
Thu nhập từ hoạt động tín dụng
Hệ số sinh lãi trên 1 đồng vốn =
Tổng dư nợ
Thông qua các chỉ tiêu này, cho thấy khả năng sinh lời và thu nhập của tín
dụng trung và dài hạn. Nó thể hiện mức đóng góp lợi nhuận thu được từ tín dụng
trung và dài hạn vào tổng lợi nhuận của ngân hàng. Thông thường, các chỉ tiêu này
càng cao càng tốt. Nhìn chung, nếu các chỉ tiêu khác giữa các dự án cho vay là như
nhau, dự án nào đem lại lợi nhuận cao hơn cho ngân hàng thì sẽ được ưu ái hơn.
Một khoản tín dụng trung và dài hạn không thể xem là chất lượng cao nếu nó không
đem lại lợi nhuận thực tế cho ngân hàng.
1.2.2.2. Về phía khách hàng:
Khách hàng cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Rất nhiều
khách hàng sẵn sàng mạo hiểm với các dự án đầu tư rủi ro với kì vọng thu được lợi
nhuận cao như lướt sóng chứng khoán, đầu tư một sản phẩm mới trên thị trường…
Khi đó, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn để chủ định lừa đảo ngân hàng như có thể đưa
ra một “dự án ma”, cung cấp thông tin sai lệch hoặc thậm chí mua chuộc cán bộ
ngân hàng. Người đi vay cũng có thể chây ì không thực hiện thanh toán theo hạn
định đã thỏa thuận nhằm mục đích chiếm dụng vốn dù kinh doanh có lãi làm cho tỷ
lệ nợ quá hạn tăng lên.
Để đảm bảo khoản tín dụng sử dụng có hiệu quả, mang lại lợi ích cho ngân
hàng góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội thì khách hàng có vai
trò hết sức quan trọng. Một khách hàng có tư cách đạo đức tốt, có tình hình tài
chính vững vàng, có thu nhập sẽ sẵn sàng hoàn trả đầy đủ những khoản vốn vay của
Ngân hàng khi đến hạn, qua đó đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng và tín dụng
về phía khách hàng bao gồm:
Trình độ khả năng của cán bộ đội ngũ cán bộ lãnh đạo của doanh nghiệp:
Đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, đạo đức tốt sẽ có khả năng đưa ra chiến
lược kinh doanh, cạnh tranh phù hợp giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển.
Doanh nghiệp làm ăn tốt là điều kiện để họ bù đắp chi phí kinh doanh và và trả nợ
ngân hàng cả gốc và lãi đúng hạn, qua đó giảm rủi ro và nâng cao chất lượng tín
dụng. Trình độ năng lực cán bộ của doanh nghiệp là điều kiện quan trọng và được
ngân hàng xem xét kỹ trước khi cấp tín dụng.
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp: Trên cơ sở nhận định một cách
khách quan, chính xác khả năng phát triển sản xuất của doanh nghiệp, thị hiếu của
người tiêu dùng với sản phẩm của doanh nghiệp mình cùng với những yếu tố thuận
lợi, khó khăn của môi trường, doanh nghiệp sẽ quyết định kế hoạch chiến lược mở
rộng thu hẹp hay ổn định sản xuất, từ đó xây dựng các kế hoạch cụ thể về sản xuất,
thiêu thụ. Việc xây dựng các kế hoạch kinh doanh đúng đắn quyết định đến dự
thành công hay thất bại của của một doanh nghiệp. Tổ chức hoạt động sản xuất kinh
doanh, tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Hiện nay, các doanh
nghiệp không chỉ kinh doanh bó hẹp trong một phạm vi nhỏ, số lượng mặt hàng ít
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 10 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
mà họ thường kinh doanh đa dạng các mặt hàng, mở rộng mạng lưới tiêu thụ ra
nhiều khu vực lãnh thổ, từ các tỉnh thành phố trong nước ra các nước trong khu vực
và thế giới. Sự hình thành mạng lưới hoạt động phức tạp như thế đòi hỏi các doanh
nghiệp phải có sự tổ chức sản xuất và tiêu thụ hợp lý. Tổ chức tốt việc sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm là yếu tố giúp quá trình tái sản xuất diễn ra được thông suốt,
nhanh chóng, tăng khả năng quay vòng vốn, tiết kiệm chi phí và tăng lợi nhuận cho
doanh nghiệp. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là sự đảm bảo cho ngân hàng
nâng cao chất lựơng tín dụng.
Khả năng tài chính của doanh nghiệp: Có nhiều nhóm chỉ tiêu khác nhau
biểu hiện tình hình tài chính, khả năng độc lập tài chính của doanh nghiệp như
nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán, nhóm chỉ tiêu hoạt động, nhóm chỉ tiêu cơ
cấu vốn, nhóm chỉ tiêu về lợi nhuận. Ngoài ra khi xem xét về tình hình tài chính
ngân hàng còn quan tâm đến luồng tiền vào, luồng tiền ra, dự trữ ngân quỹ vv.
Khả năng tài chính tốt là điều kiện để doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất kinh
doanh, đầu tư mua sắm thiết bị tiên tiến, sản xuất sản phẩm có chất lượng cao,chiếm
lĩnh thị trường và đem laị lợi nhuận lớn, hoạt động tốt là điều kiện để doanh nghiệp
trả nợ cho ngân hàng .
Tư cách, đạo đức của người vay: Tư cách đạo đức xét trên phương diện ý
muốn hoàn trả khoản nợ vay, trong nhiều trường hợp người vay có ý muốn chiếm
đoạt vốn, không hoàn trả nợ vay mặc dù có khả năng trả nợ, điều này đã gây ra
những rủi ro không nhỏ cho ngân hàng. Tóm lại qua việc xem xét các nhân tố ảnh
hưởng đến chất lượng tín dụng ta thấy tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện
về pháp lý của từng nước mà những nhân tố này có ảnh hưởng khác nhau đến chất
lượng tín dụng. Vấn đề là phải nắm vững những nhân tố ảnh hưởng và vận dụng
sáng tạo trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể thì sẽ nâng cao chất lượng tín dụng của
ngân hàng
Bên cạnh đó, trình độ quản lý của người đi vay cũng quyết định tới sự thành
bại của dự án. Nếu người quản lý không nhanh nhạy phản ứng khi xu hướng thị
trường thay đổi, không khắc phục được khó khăn trong kinh doanh hoặc không dự
tính được những thay đổi xảy ra, đều dẫn tới kết quả kinh doanh yếu kém. Điều này
làm giảm khả năng chi trả các khoản nợ làm cho chất lượng tín dụng giảm.
1.2.3. Đánh giá chất lượng tín dụng.
Đối với hầu hết các ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng là hoạt động quan
trọng nhất và mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng. Song tín dụng cũng là hoạt
động có mức độ rủi ro nhất. Đánh giá chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng
Công Thương thông qua các chỉ tiêu: chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, hiệu suất
sử dụng vốn, vòng quay vốn tín dụng và chỉ tiêu lợi nhuận từ hoạt động tín dụng.Từ
đó tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng tín dung của ngân hàng.
Do vậy, trong quản trị ngân hàng thương mại, để nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng là một yêu cầu tất yếu.
1.2.4. Nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại.
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 11 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại (NHTM),
hoạt động tín dụng phát triển kéo theo các hoạt động khác của NHTM phát triển.
Chất lượng tín dụng được nâng cao góp phần tăng khả năng sinh lời cho ngân hàng.
Vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng luôn là cái đích mà tất cả các NHTM muốn
hướng tới. Có rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của NHTM.
Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng
thương mại là các nhân tố tác động tích cực lẫn tiêu cực tới hoạt động tín dụng. Khi
xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn, ta thường
xét theo hai nhóm nhân tố khách quan và chủ quan.
1.2.4.1. Nhân tố khách quan
Nhiều trường hợp, mặc dù ngân hàng tuân thủ chặt chẽ những quy định về cấp
tín dụng và người vay cũng có năng lực nhất định song rủi ro vẫn xảy ra với các
khoản tín dụng. Đó là do các nhân tố khách quan đến từ môi trường kinh doanh, bao
gồm: môi trường pháp lý, môi trường chính trị xã hội, môi trường kinh tế.
Về môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý được hiểu là một hệ thống luật
và văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt
động tín dụng nói riêng. Trong nền kinh tế thị trường có điều tiết của nhà nước,
pháp luật có vai trò quan trọng, là một hàng rào pháp lý tạo ra một môi trường kinh
doanh bình đẳng thuận lợi, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh tế,
nhà nước, cá nhân công dân, bắt buộc các chủ thể phải tuân theo. Nhân tố pháp lý
ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, đó là sự đồng bộ thống nhất của hệ thống pháp
luật, ý thức tôn trọng chấp hành nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật và cơ
chế đảm bảo cho sự tuân thủ pháp luật một cách nghiêm minh triệt để. Quan hệ tín
dụng phải được pháp luật thừa nhận, pháp luật quy định cơ chế hoạt động tín dụng,
tạo ra những điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng lành mạnh, phát huy vai trò
đối với sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời duy trì hoạt động tín dụng được ổn
định, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia quan hệ tín dụng. Những quy
định pháp luật về tín dụng phải phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển kinh tế
xã hội, trên cơ sở đó kích thích hoạt động tín dụng có hiệu quả hơn pháp luật đóng
vai trò tạo ra môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp. Nếu hệ thống pháp luật
tốt, môi trường kinh doanh của các chủ thể kinh tế nói chung và ngân hàng nói
riêng sẽ trở nên lành mạnh, ổn định, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp yên tâm
phát triển sản xuất kinh doanh. Luật pháp cũng đóng vai trò định hướng cho sự phát
triển của nền kinh tế bằng việc đưa ra các ưu đãi cho một nhóm ngành nghề nhất
định do nhà nước lựa chọn. Ngoài ra, luật pháp còn là cơ sở để điều tiết các mối
quan hệ phức tạp trong nền kinh tế, là cơ sở để họ giải quyết các tranh chấp phát
sinh. Chính vì vậy, môi trường pháp lý ổn định, minh bạch tạo đà cho các doanh
nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, có chiến lược pháp triển mang tính dài hạn,
tránh tình trạng kinh doanh chộp giật, dựa vào kẽ hở của pháp luật. Điều này làm
tăng “sức khỏe” cho nền kinh tế nói chung, cho các doanh nghiệp nói riêng, và như
vậy, nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn.
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 12 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
Về môi trường chính trị xã hội, đây là yếu tố quan trọng giúp thúc đẩy hoạt
động đầu tư, làm động lực cho nền kinh tế. Môi trường chính trị- xã hội trong sạch,
ít tham nhũng và ổn định là điều kiện để các nhà đầu tư xem xét mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh. Nhà đầu tư sẽ tránh được các rủi ro như thay đổi chính phủ,
bạo động xã hội…làm tổn hại tới tài sản cũng như các cơ hội kinh doanh của họ.
Khi đó, đồng vốn ngân hàng cho vay ra phục vụ các dự án đầu tư cũng trở nên an
toàn hơn, có hiệu quả sinh lời cao hơn đặc biệt trong dài hạn, và như vậy, đã nâng
cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng.
Về môi trường kinh tế, đây là nền tảng hoạt động của mọi thành phần kinh tế.
Nó quyết định tới thị trường đầu ra của sản phẩm, nguồn nguyên liệu đầu vào, chi
phí nhân công của doanh nghiệp, và do đó, ảnh hưởng tới hiệu quả của hoạt động
sản xuất kinh doanh. Khi nền kinh tế bất ổn, như tăng trưởng kinh tế thấp, lạm phát
tăng cao, tỷ giá hối đoái biến động thì các doanh nghiệp, sẽ gặp khó khăn lớn trong
việc tiêu thụ sản phẩm, tính toán hoạt động dài hạn, nhất là các doanh nghiệp nhỏ
và vừa, hoặc các hộ cá thể kinh doanh, những tác động này càng trở nên nghiêm
trọng hơn do họ thường ít có dự báo dài hạn cũng như dòng tiền thường xuyên để
bù đắp.
Tất cả những nhân tố trên sẽ quyết định tới rủi ro hệ thống, một yếu tố mà tự
thân các doanh nghiệp và ngân hàng không thể tránh được, nhưng nó lại là một bộ
phận của rủi ro của doanh nghiệp, được xác định bởi quan hệ:
Rủi ro hoạt động = Rủi ro hệ thống + Phần bù rủi ro
Do vậy rủi ro hệ thống tác động tới hoạt động của các dự án, cũng có nghĩa
là an toàn của các khoản hay bị ảnh hưởng, hay chất lượng tín dụng nói chung và tín
dụng trung và dài hạn nói riêng.
Khi nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng ngân hàng
phát triển. Nền kinh tế ổn định, lạm phát thấp không có khủng hoảng, hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành tốt có hiệu quả mang lại lợi nhuận cao,
doanh nghiệp hoàn trả được vốn vay ngân hàng cả gốc và lãi, nên hoạt động tín
dụng của ngân hàng phát triển, chất lượng tín dụng được nâng cao. Ngược lại trong
thời kỳ suy thoái kinh tế, sản xuất kinh doanh bị thu hẹp, đầu tư, tiêu dùng giảm sút,
lạm phát cao, nhu cầu tín dụng giảm,vốn tín dụng đã thực hiện cũng khó có thể sử
dụng có hiệu quả hoặc trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Hoạt động tín dụng ngân
hàng giảm sút về quy mô và chất lượng. Mức độ phù hợp giữa lãi suất ngân hàng
với mức lợi nhuận của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ trong nền kinh
tế quốc dân cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, lợi tức của ngân hàng thu
được bị giới hạn bởi lơị nhuận của doanh nghiệp sử dụng vốn vay ngân hàng, nên
với mức lãi suất cao các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng khôngcó khả năng trả nợ
ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và tới toàn bộ nền
kinh tế nói chung. Hoạt động tín dụng ngân hàng lúc này không còn là đòn bẩy để
thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và chất lượng tín dụng cũng giảm sút.
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 13 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
Ngoài ra những sự biến động về lãi suất thị trường, tỷ giá thị trường cũng
ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất của ngân hàng. Bài học từ cuộc khủng hoảng tài
chính Đông Nam á đã cho thấy sự mất giá của đồng nội tệ ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động tín dụng ngân hàng.
1.2.4.2. Các nhân tố chủ quan.
Cán bộ tín dụng là những người thay mặt ngân hàng đứng ra tiếp xúc, hướng
dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn, thẩm định dự án, ra quyết định cho vay, kiểm
tra giám sát sau vay. Vai trò của cán bộ tín dụng là xuyên suốt trong toàn bộ hoạt
động tín dụng. Cán bộ tín dụng phải tiếp cận với nhiều dự án thuộc các ngành nghề
khác nhau, thuộc nhiều vùng khác nhau. Để cho vay hiệu quả, nhất thiết cán bộ tín
dụng phải có sự am hiểu nhất định về ngành nghề kinh doanh đó, các điều kiện tự
nhiên, xã hội tại địa bàn doanh nghiệp hoạt động, có hiểu biết và khả năng dự báo
được thị trường đầu ra của sản phẩm cũng như các vấn đề khác liên quan tới tình
trạng kinh tế của người vay. Đối với tín dụng trung và dài hạn, đặc điểm của nó là
có rủi ro cao hơn các loại hình tín dụng khác do dự án triển khai trong thời gian dài,
dự án không thu hồi được vốn nhanh do thường đầu tư vào các dây chuyền máy
móc thiết bị đắt tiền, thời gian triển khai dự án dài, do đó yêu cầu về khả năng dự
báo thị trường, dự báo các thay đổi của nền kinh tế vĩ mô càng trở nên quan trọng.
Như vậy, cán bộ tín dụng phải có trình độ chuyên môn nhất định, phải được đào tạo
kĩ lưỡng, liên tục và toàn diện. Khi nhân viên tín dụng tiến hành cho vay mà trình độ
hiểu biết của họ còn hạn chế thì đó thực sự là rủi ro lớn cho ngân hàng. Thêm vào đó,
các cán bộ tín dụng có thể móc ngoặc với người vay tiền nhằm chiếm dụng vốn của
ngân hàng, hay làm sai các quy định về quy trình, an toàn bảo đảm tiền vay nhằm mục
đích tư lợi.
Vì vậy, chất lượng của cán bộ tín dụng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới
chất lượng tín dụng nói chung cũng như tín dụng trung và dài hạn nói riêng. Trong
điều kiện cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng như hiện nay, yêu cầu đặt ra đối
với cán bộ tín dụng không chỉ giỏi chuyên môn, có đạo đức kinh doanh mà còn phải
có tác phong làm việc chuyên nghiệp, nhiệt tình, giúp thu hút thị phần về phía ngân
hàng.
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 14 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI
VIETINBANK, CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI
2.1. Tổng quan về Vietinbank, Chi nhánh Bắc Hà Nội.
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Vietinbank, Chi nhánh Bắc Hà
Nội
Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam(Vietinbank), Chi nhánh Bắc Hà
Nội là một đơn vị hạch toán độc lập, trực thuộc Ngân hàng TMCP Công Thương
Việt Nam, có trụ sở đặt tại số 567, đường Nguyễn Văn Linh, Phường Sài Đồng,
Quận Long Biên, Hà Nội.
Được thành lập ngày 01 tháng 04 năm 2003, Vietinbank, chi nhánh Bắc Hà
Nội tiền thân là Phòng giao dịch Đức Giang trực thuộc Ngân hàng Công Thương
Việt Nam chi nhánh Chương Dương. Năm 1992, phòng giao dịch Đức Giang thành
lập, với sự phấn đấu không mệt mỏi của ban lãnh đạo cùng tập thể cán bộ phòng
giao dịch, nên trong một thời gian ngắn tổng vốn huy động cũng như dư nợ cho vay
của phòng giao dịch không ngừng tăng trưởng cả về chất lượng và số lượng. Đến
tháng 04 năm 2000, Phòng giao dịch Đức Giang được nâng cấp thành Chi nhánh
cấp 2 trực thuộc Ngân hàng Công thương Chương Dương và đổi tên thành Ngân
hàng Công Thương KCN Sài Đồng. Ngày 01 tháng 04 năm 2003, Ngân hàng Công
Thương KCN Sài Đồng được tách thành chi nhánh Cấp 1 trực thuộc Ngân hàng
Công thương Việt Nam và đổi tên thành Ngân hàng Công thương KCN Bắc Hà
Nội. Sau khi Ngân hàng Công Thương Việt Nam cổ phần hóa vào năm 2007. Hiện
nay chi nhánh chính thức mang tên Ngân hàng Vietinbank- Chi nhánh Bắc Hà Nội
trong mọi văn bản pháp quy của Ngân hàng. Là một Ngân hàng còn non trẻ nên ban
lãnh đạo cũng như cán bộ nhân viên Ngân hàng phải đương đầu với nhiều khó khăn
thách thức, nhưng với tinh thần quyết tâm cao và luôn vận dụng đường lối đổi mới
của Đảng, Nhà nước cùng định hướng theo cơ chế ngành, Ngân hàng đã hoạt động
kinh doanh với những biện pháp thích hợp đã góp phần tháo gỡ những khó khăn
cho các doanh nghiệp đồng thời vừa đảm bảo đáp ứng nhu cầu tối đa về vốn, đầu tư
tín dụng đúng hướng và có hiệu quả.
Bên cạnh việc mở rộng Hoạt động huy động vốn và đầu tư tín dụng, các
hoạt động kinh doanh và dịch vụ trong nước, hoạt động kinh doanh đối ngoại ngày
càng được củng cố và phát triển, góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả kinh
doanh, tăng lợi nhuận và đa dạng hoá dịch vụ của ngân hàng. Vietinbank- Chi
nhánh Bắc Hà Nội đã đạt được nhiều thành tích đáng khen ngợi, doanh số hoạt
động năm sau luôn cao hơn năm trước, đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng
được cải thiện rõ rệt.
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 15 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
Với chức năng chính là thực hiện các hoạt động kinh doanh về tiền tệ, tín
dụng và dịch vụ ngân hàng đối với các thành phần kinh tế trong và ngoài nước
thông qua các hoạt động:
• Hoạt động huy động vốn, đầu tư, cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn
• Hoạt động ngân quỹ
• Hoạt động thanh toán chuyển tiền
• Hoạt động kinh doanh ngoại hối
2.1.2. Các hoạt động chính của Vietinbank- Chi nhánh Bắc Hà Nội.
Hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn bao gồm nhiều hình thức khác nhau. Các nguồn
cung cấp cho Chi nhánh bao gồm các loại tiền gửi của các cá nhân, tổ chức kinh
doanh, tổ chức phi thương mại, cơ quan Chính phủ và các ngân hàng thương mại
khác như: các loại tiền vay ngắn hạn và dài hạn của các tổ chức và các ngân hàng
khác, tiền kỳ phiếu, nhờ thu, trả chậm,…
• Những nguồn huy động :
Tiền gửi không kỳ hạn: là số tiền nằm trong tài khoản vãng lai hoặc tài
khoản thanh toán của khách hàng và có thể rút bất kỳ lúc nào.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền chỉ có
thể rút tiền sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận tiền
gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm: là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền
gửi tiết kiệm, được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ
chức nhận tiền gửi tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo
hiểm tiền gửi.
• Nguồn vốn vay: Chi nhánh huy động vốn vay bằng các cách vay ngắn, trung,
dài hạn từ các ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác; nhận uỷ thác đầu tư của
các tổ chức tài trợ để cho vay ưu đãi đối với một số đối tượng được lựa chọn.
• Các nguồn vốn huy động khác: Chi nhánh có thể huy động vốn bằng cách phát
hành các loại chứng khoán (kỳ phiếu, trái phiếu,…) để huy động vốn từ dân cư hay
tổ chức, công ty,…
Hoạt động bảo lãnh: là việc Chi nhánh cam kết trả thay cho khách hàng trong
trường hợp khách hàng không có khả năng thanh toán.
Hoạt động trung gian: Chi nhánh có thể thực hiện các hoạt động trung gian
như: Thanh toán, ngoại hối, kinh doanh vàng bạc đá quý, nhờ thu, nhận uỷ thác, ký
gửi,…
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 16 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
Hoạt động cho vay (tín dụng): là việc Chi nhánh cho khách hàng vay một số
tiền để họ sử dụng trong một thời gian nhất định. Khi hết thời hạn vay, người vay
phải trả ngân hàng một khoản tiền bao gồm cả gốc và lãi vay.
2.2. Chính sách và qui trình tín dụng trung và dài hạn.
2.2.1. Chính sách tín dụng của Vietinbank.
Chính sách tín dụng có ảnh hưởng quan trọng tới chất lượng tín dụng trung
và dài hạn. Nó bao gồm việc lựa chọn mô hình hoạt động, chính sách bảo đảm tiền
vay, lựa chọn chính sách lãi suất…
Việc áp dụng mô hình hoạt động một cửa tạo thuận lợi cho cán bộ tín dụng
nắm bắt rõ về tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, lịch sử quan hệ tín
dụng cũng như tình trạng các khoản nợ đang được cấp. Tuy nhiên, nó cũng là sơ hở
để cán bộ tín dụng có thể lợi dụng khi mà họ có quá nhiều thẩm quyền trong việc
cho vay, dẫn tới chất lượng tín dụng bị suy giảm. Để tránh tình trạng đó, hầu hết các
ngân hàng hiện nay đã chuyển sang mô hình mới, tách biệt giữa bộ phận quan hệ
khách hàng với bộ phận thẩm định dự án, qua đó tạo sự minh bạch hơn trong quá
trình xét duyệt cấp phát tín dụng. Tuy nhiên, quy trình này cũng có nhược điểm là
thường phải qua nhiều công đoạn, phức tạp hơn hơn do vậy có thể xảy ra sai sót,
hiểu lầm, thủ tục cũng phức tạp hơn cho khách hàng.
Chính sách bảo đảm tiền vay cũng đóng vai trò quan trọng tới chất lượng tín
dụng. Như đã phân tích ở phần trên, bảo đảm tiền vay giúp ngân hàng chống đỡ rủi ro
khi có sự kiện bất lợi xảy ra. Vì một lý do nào đó, ngân hàng có thể có chính sách bảo
đảm tiền vay không chắc chắn, như quy định tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản quá cao
dẫn tới thiệt hại khi phát mại tài sản, hay định giá tài sản đặc biệt là các tài sản ít phổ
biến không chính xác…Tất cả những yếu tố đó đều làm tăng các khoản không hồi
được cho ngân hàng khi rủi ro xảy ra, tức là làm giảm chất lượng tín dụng.
Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ giúp ngân hàng thu hút được nhiều
khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán
rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối chính sách của nhà nước và đảm bảo công bằng
xã hội. Nếu chính sách tín dụng được xây dựng và thực hiện một cách khoa học,
chặt chẽ, kết hợp được hài hoà lợi ích của ngân hàng, của khách hàng và xã hội thì
sẽ hứa hẹn một chất lượng tín dụng tốt. Ngược lại, nếu chính sách tín dụng không
hợp lý, chồng chéo sẽ gây khó khăn cho ngân hàng khi thực hiện nghiệp vụ tín
dụng. Điều đó có nghĩa là, chất lượng tín dụng trung và dài hạn phụ thuộc rất lớn
vào việc xây dựng chính sách tín dụng của ngân hàng có phù hợp hay không. Ngoài
ra, thông tin tín dụng cũng là nhân tố cơ bản không thể thiếu góp phần nâng cao
chất lượng tín dụng nói chung, cũng như chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói
riêng. Khi ngân hàng không thu thập được đầy đủ thông tin về khách hàng, khả
năng dự báo, phân tích tài chính,…không chính xác sẽ dẫn đến hoạt động tín dụng
kém chất lượng.
Chính vì vậy, ban giám đốc các ngân hàng phải xây dựng cho mình một
chính sách tín dụng hợp lý, chặt chẽ và quán triệt tới từng cán bộ tín dụng, làm định
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 17 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
hướng cho họ trong quá trình tác nghiệp, qua đó nâng cao chất lượng tín dụng nói
chung, tín dụng trung và dài hạn nói riêng.
2.2.2. Quy trình tín dụng của Vietinbank.
Hoạt động tín dụng nói chung, hoạt động tín dụng trung và dài hạn nói riêng
phải tuân thủ theo đúng các nguyên tắc của quy trình tín dụng: vốn vay phải được
đảm bảo bằng tài sản đảm bảo nợ vay; phải hoàn trả vốn, lãi đúng thời hạn; thực
hiện theo cam kết tại hợp đồng tín dụng đã ký. Việc có thực hiện đúng quy trình tín
dụng hay không ảnh hưởng trực tiếp đến tính an toàn và khả năng sinh lời của các
khoản vay và chất lượng của tín dụng trung và dài hạn trong hoạt động của ngân
hàng. Tín dụng là hoạt động chủ yếu trong các hoạt động của ngân hàng thương
mại, chiếm tỉ trọng lớn nhất và đem lại thu nhập chính cho ngân hàng.
Quy trình tín dụng là bảng tổng hợp mô tả công việc của ngân hàng từ khi
tiếp nhận hồ sơ vay vốn của một khách hàng cho đến khi quyết định cho vay, giải
ngân, thu nợ và thanh lý hợp đồng tín dụng.
Một quy trình tín dụng căn bản bao gồm các bước:
Bước 1: Lập hồ sơ vay vốn
Bước này do cán bộ tín dụng thực hiện ngay sau khi tiếp xúc khách hàng.
Nhìn chung một bộ hồ sơ vay vốn cần phải thu thập các thông tin như: Năng lực
pháp lý, năng lực hành vi dân sự của khách hàng; Khả năng sử dụng vốn vay; Khả
năng hoàn trả nợ vay (vốn vay + lãi)
Bước 2: Phân tích tín dụng
Phân tích tín dụng là xác định khả năng hiện tại và tương lại của khách hàng
trong việc sử dụng vốn vay + hoàn trả nợ vay. Mục tiêu là tìm kiếm những tình
huống có thể xảy ra dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, dự đoán khả năng khắc phục
những rủi ro đó, dự kiến những biện pháp giảm thiểu rủi ro và hạn chế tổn thất cho
ngân hàng. Phân tích tính chân thật của những thông tin đã thu thập được từ phía
khách hàng trong bước 1, từ đó nhận xét thái độ, thiện chí của khách hàng làm cơ sở
cho việc ra quyết định cho vay.
Bước 3: Ra quyết định tín dụng
Trong khâu này, ngân hàng sẽ ra quyết định đồng ý hoặc từ chối cho vay đối
với một hồ sơ vay vốn của khách hàng. Khi ra quyết định, thường mắc 2 sai lầm cơ
bản: Đồng ý cho vay với một khách hàng không tốt; Từ chối cho vay với một khách
hàng tôt. Cả 2 sai lầm đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh tín dụng, thậm chí
sai lầm thứ 2 còn ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
Bước 4: Giải ngân
Ở bước này, ngân hàng sẽ tiến hành phát tiền cho khách hàng theo hạn mức
tín dụng đã ký kết trong hợp đồng tín dụng. Nguyên tắc giải ngân: phải gắn liền sự
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 18 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
vận động tiền tệ với sự vận động hàng hóa hoặc dịch vụ có liên quan, nhằm kiểm tra
mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng và đảm bảo khả năng thu nợ. Nhưng
đồng thời cũng phải tạo sự thuận lợi, tránh gây phiền hà cho công việc sản xuất kinh
doanh của khách hàng.
Bước 5: Giám sát tín dụng
Nhân viên tín dụng thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay thực tế của
khách hàng, hiện trạng tài sản đảm bảo, tình hình tài chính của khách hàng, để
đảm bảo khả năng thu nợ.
Bước 6: Thanh lý hợp đồng tín dụng
Tóm lại, việc xác lập một quy trình tín dụng và không ngừng hoàn thiện nó
đặc biệt quan trọng đối với một ngân hàng thương mại. Về mặt hiệu quả, một quy
trình tín dụng hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng và giảm
thiểu rủi ro tín dụng. Về mặt quản lý, quy trình tín dụng có tác dụng: Làm cơ sở cho
việc phân định quyền, trách nhiệm cho các bộ phận trong hoạt động tín dụng. Làm
cơ sở để thiết lập các hồ sơ, thủ tục vay vốn.
2.3. Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Vietinbank, Chi
nhánh Bắc Hà Nội.
2.3.1. Tình hình hoạt động tín dụng.
Cùng với sự gia tăng nguồn vốn huy động, trong 3 năm qua, công tác cho vay
của Chi nhánh cũng không ngừng tăng trưởng. Trong khi các ngân hàng thương mại
trên địa bàn Quận Long Biên đang triển khai các sản phẩm tín dụng bán lẻ, phục vụ
nhu cầu cá nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thì sự tăng trưởng tín dụng của
Ngân hàng Vietinbank chi nhánh Bắc Hà Nội lại tập trung chủ yếu vào các doanh
nghiệp lớn trên địa bàn. Tuy nhiên, Chi nhánh cũng luôn xác định tín dụng bán lẻ có
ý nghĩa quan trọng trong việc tăng trưởng thị phần, chiếm lĩnh thị trường. Các kết
quả đạt được trong hoạt động tín dụng thể hiện rõ qua bảng số liệu sau:
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 19 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
Bảng 1: Tình hình hoạt động tín dụng của Vietinbank –Chi nhánh Bắc Hà Nội
Bảng 1: Dư nợ cho vay phân theo đối tượng vay
Đơn vị:Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011
2010/
2009
(%)
2011
2010
(%)
Số dư
Tỷ
trọn
g
(%)
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
Cho vay
doanh
nghiệp nhà
nước
1.078 70,2 1.601 69.5 2.636 67,7 148,5 164,6
Cho vay
các đơn vị
ngoài quốc
doanh
458 29,8 702 30,5 1.258 32,3 153,3 179,2
Tổng cộng
1.536 100 2.303 100 3.894 100 149,9 169,1
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2009, 2010, và 2011)
Cho vay doanh nghiệp nhà nước và cho vay các đơn vị ngoài quốc doanh qua
các năm có sự tăng trưởng tốt. Tuy nhiên trong cơ cấu cho vay này, cho vay doanh
nghiệp nhà nước vẫn chiếm một tỷ lệ khá lớn. Thời điểm 31/12/2009, cho vay
doanh nghiệp nhà nước là 1.078 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 70,2% trong khi cho vay
các đơn vị ngoài quốc doanh là 458 tỷ đồng chiếm 29,8%. Năm 2010, dư nợ cho
vay tăng nhanh cùng với việc tăng trưởng của các các đối tượng cho vay, cơ cấu
cho vay đã cho sự chuyển biến so với năm 2009. Cụ thể, cho vay doanh nghiệp nhà
nước là 1.601 tỷ đồng chiếm 69,5% tổng dư nợ cho vay, tăng so với năm 2009 là
523 tỷ đồng. Cho vay các đơn vị ngoài quốc doanh là 702 tỷ đồng chiếm 30,5 %
tổng dư nợ tín dụng, tăng so với năm 2009 là 244 tỷ đồng. Sự chuyển biên này là do
trong năm chi nhánh đã tăng cường công tác tiếp thị cho vay đối với các đơn vị
ngoài quốc doanh, bên cạnh đó một số doanh nghiệp trước đây là công ty nhà nước
được thực hiện chuyển đổi mô hình tổ chức sang công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn hoạt động theo luật doanh nghiệp nên dư nợ của các đơn vị này cũng
được tính một phần vào dư nợ tín dụng cho vay đối với các đơn vị ngoài quốc
doanh. Sang năm 2011, cơ cấu cho vay tiếp tục thay đổi theo chiều hướng giảm tỷ
trọng cho vay các doanh nghiệp nhà nước và tăng tỷ trọng cho vay các đơn vị ngoài
quốc doanh. Tính tại thời điểm 31/12/2011, cho vay doanh nghiệp nhà nước là 2.636 tỷ
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 20 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
đồng chiếm 67,7% tổng dư nợ, tăng so với cùng kỳ năm 2010 là 1.035 tỷ đồng ứng với
mức tăng 64,6%. Cho vay các đơn vị ngoài quốc doanh là 1.258 tỷ đồng chiếm 32,3%,
tăng trưởng 79,2% so với năm 2010.
Quy mô tín dụng và cơ cấu cho vay
• Dư nợ tín dụng
Báo cáo tổng kết hàng năm của Chi nhánh cho thấy dư nợ tín dụng trong 3
năm gần đây liên tục tăng, từ đó tăng khả năng đáp ứng nhu cầu vốn trong xã hội.
Bảng 2.Dư nợ tín dụng của Ngân hàng Vietinbank -Chi nhánh Bắc Hà Nội.
Bảng 2: Dư nợ cho vay phân theo thời gian
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011
2010/
2009
(%)
2011/
2010
(%)
Số dư
Tỷ
trọn
g
(%)
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
Dư nợ ngắn
hạn
518
33.7 626 27,2 1,607 41,3 121 256,7
Dư nợ trung
hạn
62 4,1 79 3,4 102 2,6
127
129,1
Dư nợ dài
hạn
956
62,2 1,598 69,4 2,185 56,1
167 136,7
Tổng cộng
1,536 100 2,303 100 3,894 100 149,9 169,1
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2009, 2010, và 2011)
Qua các năm, cả dư nợ cho vay ngắn hạn, dư nợ cho vay trung hạn, và dư nợ
cho vay dài hạn đều tăng trưởng ổn định và có sự thay đổi về cơ cấu của mỗi loại
trong tổng dư nợ cho vay.
Tại ngày 31/12/2009, dư nợ cho vay ngắn hạn là 518 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng
33,7% tổng dư nợ cho vay. Dư nợ cho vay trung và dài hạn là 1,018 tỷ đồng chiếm
tỷ trọng 66,3% tổng dư nợ cho vay, trong đó dư nợ cho vay trung hạn là 62 tỷ đồng
chiếm 4,1%, và dư nợ cho vay dài hạn là 956 tỷ đồng chiếm 62,2% tổng dư nợ cho
vay.
Năm 20010 và năm 2011, do tiếp thị được một số dự án lớn của các Tổng
công ty lớn, các công ty lớn nên cơ cấu dư nợ cho vay theo thời hạn đã có sự thay
đổi nhiều nhất là dư nợ cho vay dài hạn. Tại ngày 31/12/2010, dư nợ cho vay ngắn
hạn đạt 626 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 27,2% tổng dư nợ, tăng so với cùng kỳ năm
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 21 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
2009 là 108 tỷ đồng, tỷ trọng giảm so với với năm 2009 là 6,5%, dư nợ cho vay
trung và dài hạn chiếm tỷ trọng 72,8% nhưng tỷ trọng này của năm 2009 là 66,3%
tổng dư nợ. Trong đó, cơ cấu dư nợ cho vay trung hạn là 3,4% tổng dư nợ hay đạt
79 tỷ đồng, tỷ trọng giảm so với 31/12/ 2009 là 0,7 %. Dư nợ cho vay dài hạn là
1,598 tỷ đồng, chiếm 69,4% tổng dư nợ, tăng so với năm 2009 là 642 tỷ đồng với
mức tăng 67 %.
Năm 2011, dư nợ cho vay ngắn hạn là 1,607 tỷ đồng, tỷ trọng tăng so với
năm 2009 là 981tỷ đồng. Dư nợ cho vay trung hạn tăng trưởng không đáng kể. Dư
nợ cho vay trung hạn là 102 tỷ đồng chiếm 2,6% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay dài hạn
là 2.185 tỷ đồng chiếm 56,1% tổng dư nợ, tỷ trọng của dư nợ cho vay dài hạn của
năm 2011 tăng so với năm 2009 là 587 tỷ đồng và tiếp tục tăng trưởng so với đầu
năm.
Từ bảng số liệu trên cho thấy, hoạt động tín dụng của Chi nhánh đã được chú
trọng để điều chỉnh kịp thời trong từng giai đoạn cụ thể của nền kinh tế. Trong đó,
dư nợ tín dụng trung và dài hạn tăng mạnh qua các năm thể hiện rõ qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 1. Tình hình dư nợ của Ngân hàng Vietinbank - Chi nhánh Bắc Hà Nội
giai đoạn 2009 – 2011.
( Đơn vị: Tỷ đồng.)
Tổng
dư nợ tín
dụng liên tục
tăng qua các
năm, năm
sau cao hơn
năm trước.
Trong đó,
dư nợ tín
dụng trung
và dài hạn
liên tục tăng.
Năm 2010
tăng so với 2009 dư nợ tín dụng trung và dài hạn tăng (tăng từ 1.018 tỷ đồng lên
1.677 tỷ đồng) và tăng vượt dư nợ tín dụng ngắn hạn, còn dư nợ tín dụng ngắn hạn
chỉ tăng có 108 tỷ đồng so với năm 2009(tăng từ 518 tỷ đồng lên 626 tỷ đồng).
Điều này có thể giải thích bởi sự phục hồi kinh tế sau cuộc khủng hoảng, nên nhu
cầu về vốn trung và dài hạn của các doanh nghiệp để đầu tư phục hồi sản xuất, mở
rộng quy mô tăng lên. Việc giảm bớt dư nợ tín dụng ngắn hạn để hỗ trợ gia tăng dư
nợ tín dụng trung và dài hạn thể hiện Chi nhánh đã làm tốt vai trò cung cấp vốn kịp
thời cho nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế trong giai đoạn hậu khủng hoảng. Sang
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 22 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
năm 2011, khi nền kinh tế đã phần nào đi vào ổn định, cơ cấu dư nợ tín dụng của
Chi nhánh lại trở về quy luật cũ, dư nợ tín dụng trung và dài hạn vẫn tăng so với
năm 2010(tăng từ 1.677 tỷ đồng lên 2.287 tỷ đồng) nhưng thấp hơn dư nợ tín dụng
ngắn hạn, mặc dù mức chênh lệch không lớn nhưng cũng cho thấy Chi nhánh đã
dần đi vào ổn định hoạt động.
Căn cứ theo thành phần kinh tế, dư nợ tín dụng trung và dài hạn của Chi
nhánh được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 3. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn theo thành phần kinh tế của
Vietinbank- Chi nhánh Bắc Hà Nội.
( Đơn vị: Tỷ đồng.)
Chỉ tiêu 2009 2010 2011
Tổng dư nợ tín dụng trung và dài hạn 1.018 1.677 2.287
Dư nợ trung và dài hạn đối với DNNN 703 1.116 1.546
Dư nợ trung và dài hạn đối với DN ngoàiQD 315 561 741
(Nguồn: Báo cáo tổng kết giai đoạn 2009 - 2011 của Vietinbank- CN Bắc Hà Nội)
Biểu đồ 2. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn theo thành phần kinh tế của
Vietinbank - Chi nhánh Bắc Hà Nội giai đoạn 2009 - 2011.
Chi nhánh thực hiện cho vay đối với mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, dư
nợ tín dụng trung và dài hạn trong những năm qua của Chi nhánh chủ yếu tập
trung cho thành phần kinh tế Nhà nước. Chi nhánh đang dần thay đổi tỷ trọng cho
vay trung và dài hạn giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc
doanh theo hướng giảm cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước và tăng cường
cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Xu hướng này được lí giải bởi
tiến trình cổ phần hoá đang diễn ra một cách mạnh mẽ, các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh ngày càng hoạt động hiệu quả và có thể đáp ứng các yêu cầu về vay
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 23 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
vốn của ngân hàng thương mại, trong khi tình trạng trì trệ và phụ thuộc quá nhiều
vào sự ưu đãi của Nhà nước đã làm cho các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động
kém hiệu quả. Điều này tạo nhiều thuận lợi giúp hoạt động tín dụng có hiệu quả
cao hơn, bởi khi đó Chi nhánh không phải thực hiện các khoản cho vay ưu đãi
ngoài ý muốn đối với các doanh nghiệp Nhà nước mà chú trọng vào các khoản
cho vay thương mại cạnh tranh và tìm kiếm thị trường cho vay phù hợp với khả
năng của Chi nhánh.
Bảng 4. Bảng dư nợ tín dụng trung và dài hạn phân loại theo cơ cấu ngành
nghề kinh doanh của Vietinbank - Chi nhánh Bắc Hà Nội.
( Đơn vị: Tỷ đồng.)
Chỉ tiêu
2009 2010 2011
Dư
nợ
Tỷ
trọng
Dư nợ Tỷ trọng
Dư
nợ
Tỷ
trọng
Xây dựng ,điện 650 63,9% 1.077 58, 2% 1.278 55,8%
Thương mại - Dịch vụ 48 4,71% 200 11,93% 309 13,5%
Ngành khác 320 31,39 400 23,87% 700 30,7%
Tổng dư nợ tín dụng trung và
dài hạn
1.018 100% 1.677 100% 2.287 100%
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy dư nợ tín dụng trung và dại hạn tại chi
nhánh chủ yếu tài trợ cho ngành xây dựng, điện trong đó tín dụng cho ngành xây
dựng , điện chiếm tỷ trọng tương đối lớn dao động từ trên 50%. Do tình hình kinh tế
có nhiều biến động hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh tuy vẫn duy trì
được mức ổn định với đối tượng khách hàng truyền thống và uy tín nhưng đến năm
cuối năm 2010 và đầu 2011 tình hình lạm phát và cắt giảm ngân sách, chính sách tài
chính thắt chặt, cùng với nhiều chính sách khác đều nhắm tới việc kiềm chế sự phát
triển quá nóng của bất động sản chi nhánh cũng đã chuyển sang thu hút được lượng
khách hàng tiềm năng mới kinh doanh trong lĩnh vực thương mại dịch vụ. Vì vậy
chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh vẫn giữ được mức ổn định và
tăng trưởng.
Tỷ lệ tài sản đảm bảo
Hoạt động tín dụng trung và dài hạn là hoạt động tiềm ẩn rất nhiều rủi ro
nghiêm trọng cho ngân hàng thương mại. Vì thế, ngoài những biện pháp hoạt động
thông thường thì việc ngân hàng đòi hỏi phải có tài sản đảm bảo cho từng khoản
cho vay trung và dài hạn là một việc tất yếu. Trong 3 năm qua, Ngân hàng
Vietinbank chi nhánh Bắc Hà Nội cũng đã không ngừng chú trọng nhiều đến tài sản
đảm bảo của khách hàng khi cung cấp tín dụng trung và dài hạn, xem đó là nguồn
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 24 -
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Phan Thị Thu Hà
trả nợ dự phòng quan trọng, nhằm hạn chế những tổn thất nghiêm trọng có thể xảy
ra khi khách hàng không có đủ khả năng trả nợ, nhờ đó cũng đã tạo nền tảng vững
chắc cho việc tăng chất lượng các khoản cho vay trung và dài hạn.
Bảng 5. Cho vay trung và dài hạn có tài sản đảm bảo của Vietinbank –Chi
Nhánh Bắc Hà Nội.
( Đơn vị: Tỷ đồng.)
Chỉ tiêu 2009 2010 2011
Tổng doanh số cho vay trung và dài hạn 1.018 1.677 2.287
Doanh số cho vay trung và dài hạn có TSĐB 805 1.151 1.856
Tỷ lệ cho vay có TSĐB 79% 68,,5% 81,1%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết giai đoạn 2009 - 2011 của Vietinbank- CN Bắc Hà Nội)
Nhìn vào bảng số liệu cho thấy các khoản cho vay trung và dài hạn có tài sản
đảm bảo của Chi nhánh đã ổn định. Năm 2009, cho vay trung và dài hạn có tài sản
đảm bảo đạt 805 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 79%, nhưng đến năm 2010 tỷ lệ này là 80,5%
mặc dù con số tuyệt đối về cho vay có tài sản đảm bảo vẫn tăng. Như vậy, hoạt
động cho vay trung và dài hạn của Chi nhánh năm 2010 có tăng về quy mô và chất
lượng chưa tăng, bởi một lượng lớn vốn cho vay chưa có tài sản đảm bảo. Nguyên
nhân chủ yếu của sự sụt giảm này là do Chi nhánh đã tăng cường cho vay đối với
các doanh nghiệp Nhà nước để hỗ trợ nhằm khôi phục nền kinh tế trong giai đoạn
hậu khủng hoảng. Đây là các đối tượng “bắt buộc” được ưu tiên nên việc Chi nhánh
không đòi hỏi gắt gao về tài sản đảm bảo. Ngoài ra, một lý do nữa gây nên sự sụt
giảm là trước nhu cầu cấp thiết của các doanh nghiệp về vốn trung và dài hạn để
phục hồi sản xuất, Chi nhánh đã chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp về vốn, vì thế yêu
cầu về tài sản đảm bảo cho các khoản vay có phần được nới lỏng hơn tạo điều kiện
thuận lợi cho họ có thể dễ dàng tiếp cận với vốn ngân hàng kịp thời, sớm đi vào ổn
định sản xuất trở lại. Thực tế này đã làm ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng tín
dụng trung và dài hạn của Chi nhánh, bởi khi khách hàng kinh doanh không hiệu
quả và không đủ khả năng trả nợ, tổn thất của khoản vay là không thể tránh khỏi.
• Doanh số cho vay trung và dài hạn.
Doanh số cho vay trung và dài hạn liên tục tăng cao đáng kể. Năm 2009 cho
vay 1.018 tỷ đồng;năm 2010 tăng 659 tỷ đồng năm 2011 đạt 2.287 tỷ đồng, tăng
610 tỷ đồng so với năm 2010 .
Năm 2009 do ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu,
nên nhu cầu về vốn trung và dài hạn giảm mạnh, các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ
nên không có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh. Đây là khó khăn lớn cho Chi
nhánh trong việc mở rộng hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Chính vì thế mà
doanh số cho vay trung và dài hạn của Chi nhánh năm 2009 thấp, chỉ đạt 1.018 tỷ
đồng. Tuy nhiên, sang năm 2010, nền kinh tế đã có dấu hiệu của sự phục hồi, các
doanh nghiệp bắt đầu vay vốn để khôi phục sản xuất, nhu cầu về vốn trung và dài
Nguyễn Thị Chi - BH201328 - 25 -