Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Nâng cao hiệu quả cho vay khách hàng cá nhân tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.69 KB, 65 trang )

MỤC LỤC
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN 63
63
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập hiện nay, cạnh tranh giữa các ngành, lĩnh vực diễn ra
ngày càng gay gắt trên nhiều mặt và ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài quy
luật đó. Ngân hàng ngày càng đóng một vai trò quan trọng, là ngành trụ cột của
nền kinh tế. là mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động để thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế xã hội đều gửi tiền tại Ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ
quỹ cho toàn xã hội. Ngân hàng phải không ngừng phát triển và tìm kiếm những
hướng đi mới phù hợp để vừa có thể đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách
hàng vừa đứng vững trong cơ chế thị trường. Nếu chỉ cho vay sản xuất mà không
tiêu thụ được hàng hoá do người dân không có nhu cầu về hàng hoá đó hoặc
không có khả năng thanh toán thì tất yếu sẽ dẫn tới cung vượt quá cầu, hàng hoá bị
tồn kho và ứ đọng. Từ thực tế đó cho thấy khi xã hội ngày càng phát triển, không
chỉ có các công ty, doanh nghiệp cần vốn để sản xuất kinh doanh, mở rộng thị
trường mà hiện nay cá nhân cũng là người cần vốn hơn bao giờ hết. Mở rộng cho
vay cá nhân là một hướng đi như vậy. cho vay khách hàng cá nhân. Đây là những
người có nguồn vốn tự có nhỏ, lại khó có thể tự huy động vốn cho mình.Vì thế ,
đây chính là mảng khách hàng tiềm năng, cần được tận dụng khai thác.Nghiên cứu
và đưa ra giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả cho vay đối với khách hàng cá nhân
là công việc cần thiết và có ý nghĩa quan trọng.
Sau một thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn huỵện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá, em nhận thấy hoạt động cho
vay khách hàng cá nhân ở chi nhánh vẫn còn nhỏ bé và đơn giản. Em thấy được
tiềm năng của hoạt động này và tầm quan trọng của việc thực hiện và mở rộng cho
vay cá nhân đối với sự phát triển lâu dài của chi nhánh. Do đó em lựa chọn đề tài:
“Nâng cao hiệu quả cho vay khách hàng cá nhân tại chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá” để
nghiên cứu trong chuyên đề tốt nghiệp.


Bố cục đề tài ngoài lời mở đầu- kết luận-danh mục tài liệu tham khảo-danh
mục các bảng, biểu đồ-danh mục viết tắt thì đề tài bao gồm 3 chương.
1
Chương 1: Lý luận cơ bản về hiệu quả cho vay khách hang cá nhân của
Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả cho vay khách hang cá nhân tại chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh
Hoá.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay khách hàng cá nhân tại
chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và hát triển nông thôn huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh
Thanh Hoá.
2
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ CHO VAY KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. Hoạt động cho vay khach hàng cá nhân của Ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái niệm về cho vay khách hàng cá nhân.
Ngân hàng là tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo lập và cung cấp các
dịch vụ quản lý cho công chúng, đồng thời nó cũng thực hiện nhiều vai trò khác
trong nền kinh tế. Thành công của Ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực
xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một
cách có hiệu quả và bán chúng lại với mức giá cạnh tranh. Trong lịch sử các, hầu
hết các Ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ
cho rằng các khoản cho vay tiêu dùng có quy mô nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối
cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Và rồi sự cạnh tranh
khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải
hướng tới khách hang cá nhân như một khách hàng trung thành tiềm năng. Với sự
phát triển của nền kinh tế, đời sống của dân cư được nâng cao, nhu cầu tiều dùng
của dân cư ngày càng nhiều trong khi trong hiện tại với khả năng tài chính của
mình họ không thể đáp ứng được nhu cầu đó. Và để thỏa mãn nhu cầu này họ sẽ

tìm kiếm những khoản vay và sẽ dùng thu nhập trong tương lai để trả nợ. Nhận
thấy được sự tiềm năng của hoạt động cho vay đối với nhu cá nhân các Ngân hàng
đã thực hiện cho vay đối với nhu cầu này.
Cho vay khách hàng cá nhân là các khoản cho vay để đáp ứng các nhu cầu
chi tiêu của người tiêu dùng bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn
tài chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu sản xuất kinh
doanh , nhà ở, đồ dùng gia đình và xe cộ lao động nước ngoài Bên cạnh đó
những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục y tế và du lịch…
. Cho vay cá nhân phục vụ hai mục đích chủ yếu
-Phục vụ đời sống
-Bổ sung vốn cho hoạt động buôn bán, kinh doanh sản xuất hộ cá thể
1.1.2. Đặc điểm cho vay khách hàng cá nhân
Cho vay khách hàng cá nhân có các đặc điểm sau:
1.1.2.1. Quy mô và nhu cầu cho vay khách hàng cá nhân
3
Quy mô của từng hợp đồng cho vay thường nhỏ,dẫn đến chi phí tổ chức cho
vay cao, vì vậy lãi suất cho vay cá nhân thường cao hơn so với lãi suất của các loại
cho vay trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp.
Nhu cầu vay cá nhân của khách hàng thường phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế.
Khi nền kinh tế thịnh vượng, đời sống của người dân được nâng cao thì nhu cầu
vay cá nhân được nâng cao. Đặc biệt vào các dịp lễ tết nhu cầu mua sắm tăng cao
thì số lượng các khoản cho cá nhân dùng cũng tăng theo.
Nhu cầu vay cá nhân của khách hàng hầu như ít co giãn với lãi suất. Thông
thường người đi vay quan tâm tới số tiền phải thanh toán hơn là lãi suất mà họ
phải chịu.
1.1.2.2. Đối tượng cho vay khách hàng cá nhân.
Khách hàng cá nhân đến với NHTM với nhiều những nhu cầu đa dạng.Có thể là
vay để tiêu dùng mua sắm, vay để đầu tư,hay xin bảo lãnh…Với nhiều các phương
thức cho vay khác nhau như vay trực tiếp, hay qua doanh nghiệp bán hàng.Khách
hàng vay thường phải trả lãi cao, phải chứng mình được mình có tài chính vững

mạnh bằng các tài sản thế chấp, hay bảo hiểm uy tín mà khách hàng có.
1.1.2.3. Mức rủi ro cho vay khách hàng cá nhân
Các khoản vay của khách hàng nhỏ và thường có giá trị thấp so với cho vay
doanh nghiệp kinh doanh, nhưng vẫn phải đăng ký và làm các thủ tục, hồ sơ đầy
đủ. Chính các công đoạn này, làm cho các cán bộ tín dụng dễ mắc phải các sai sót,
rủi ro trong quyết định cấp vốn. Nhiều trường hợp xảy ra đó là nhiều khoản cho
vay được cấp dựa trên sự tín nhiệm giữa bên khách hàng và bên cán bộ tín dụng
dẫn đến việc thu hồi vốn cũng gặp phải những khó khăn, vì các biến cố xảy ra
thường là từ phía khách hàng.
Mức rủi ro của cho vay khách hàng cá nhân có độ rủi ro cao bởi vì nguồn trả
nợ của người vay có thể biến động lớn, nó phụ thuộc vào quá trình làm việc, kinh
nghiệm, tài năng và sức khỏe của người vay… Nếu người vay bị chết, bị ốm hoặc
bị mất việc làm thì Ngân hàng sẽ rất khó thu hồi được nợ. Do đó các Ngân hàng
thường yêu cầu lãi suất cao, yêu cầu người vay phải mua bảo hiểm thất nghiệp,
bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm hàng hóa đã mua…
Tư cách, phẩm chất của khách hàng vay thường khó xác định, chủ yếu dựa
vào cách đánh giá, cảm nhận và kinh nghiệm của cán bộ tín dụng. Đây là điều rất
quan trọng quyết định sự hoàn trả của khoản vay.
4
1.1.2.4. Mức thu nhập và trình độ học vấn.
Mực thu nhập quyết định đến khả năng thanh toán các khoản vay của người
đi vay, thu nhập của người vay ổn định thì Ngân hàng mới thu được các khoản cho
vay. Do đó việc xác định mức thu nhập của người vay có ổn định hay không quyết
định rất nhiều tới thu hồi nợ của Ngân hàng.
Ý thức trách nhiệm hoàn trả lại khoản vay của người vay. Vì không có một
phương pháp định lượng chính xác nào để đánh giá uy tín, cho nên Ngân hàng sẽ
quyết định một cách chủ quan liệu bạn có khả năng trả khoản vay này hay không.
Ngân hàng sẽ kiểm tra những khoản nợ của bạn trước đây, xem xét những báo cáo
tín dụng, và trình độ học vấn cũng như kinh nghiệm kinh doanh của bạn. Các vấn
đề khác liên quan đến cá nhân bạn và trình độ, kinh nghiệm của nhân viên cũng sẽ

được xem xét. Khi có trình độ học vấn cao khả năng tài chính của người vay cũng
được đảm bảo bằng công việc và mức thu nhập ổn định hơn. Do đó khả năng thu
hồi nợ của Ngân hàng đối với người vay cũng cao hơn.
1.1.3. Phân loại cho vay khách hàng cá nhân
1.1.3.1. Căn cứ vào mục đích các khoản vay.
Cho vay khách hàng cá nhân được chia làm hai loại:
• Cho vay khách hàng cá nhân cư trú:
Cho vay khách hàng cá nhân cư trú là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho
nhu cầu mua sắm, xây dựng hoặc cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hoặc hộ
gia đình.
• Cho vay khách hàng cá nhân phi cư trú:
Cho vay khách hàng cá nhân phi cư trú là các khoản cho vay tài trợ cho việc
trang trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và
du lịch….
1.1.3.2. Căn cứ vào phương thức hoàn trả.
• Cho vay trả góp
Đây là hình thức cho vay khách hàng cá nhân trả góp trong đó người đi vay
trả nợ (gồm số tiền gốc và lãi) cho Ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất
định trong thời hạn cho vay. Phương thức này thường được áp dụng cho các khoản
vay có giá trị lớn hoặc thu nhập từng định kỳ của người đi vay không đủ khả năng
thanh toán hết một lần số nợ vay.
5
Đối với loại cho khách hàng cá nhân này, các Ngân hàng thường chú ý tới
một số vấn đề cơ bản, có tính nguyên tắc sau:
- Loại tài sản được tài trợ: Thiện chí trả nợ của người đi vay sẽ tốt hơn nếu
tài sản hình thành từ tiền vay đáp ứng nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu dài trong
tương lai. Khi lựa chọn tài sản để tài trợ, Ngân hàng thường chú ý đến điều kiện
này, nên thường chỉ muốn tài trợ nhu cầu mua sắm những tài sản có thời hạn sử
dụng lâu bền hoặc có giá trị lớn. Vì rằng với những loại tài sản như vậy, người tiêu
dùng sẽ được hưởng những tiện ích từ chúng trong một thời gian dài.

- Số tiền phải trả trước: Thông thường, Ngân hàng yêu cầu người đi vay phải
thanh toán trước một phần giá trị tài sản cần mua sắm – số tiền này được gọi là số
tiền trả trước. – phần còn lại, Ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước cần phải đủ
lớn để một mặt, làm cho người đi vay nghĩ rằng họ chính là chủ sở hữu cuàt tài
sản, mặt khác có tác dụng hạn chế rủi ro cho Ngân hàng. Một khi không cảm nhận
được rằng mính là chủ sở hữu của tài sản hình thành từ tiền vay thì người đi vay
có thể sẽ có thái độ miễn cưỡng trong việc trả nợ. Ngoài ra, khi khách hàng không
phát mãi tài sản để thi hồi nợ. Hầu hết các tài sản đã qua sử dụng đều bị giảm giá
trị, tức là giá trị thị trường nhỏ hơn giá trị hạch toán của tài sản, cho nên số tiền trả
trước có một vai trò rất quan trọng giúp Ngân hàng hạn chế rủi ro. Số tiền trả trước
nhiều hay ít thường tuỳ thuộc vào các yếu tố sau: (i) Loại tài sản: Đối với các tài
sản có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền trả trước nhiều và ngược lại, đối với các
tài sản có mức độ giảm giá chậm thì số tiền trả trước ít; (ii) Thị trường tiêu thụ tài
sản khi đã sử dụng: tài sản khi đã sử dụng nếu vẫn có thể được tiếp tục mua, bán
dễ dàng thì số tiền trả trước có xu hướng thấp, ngược lại nếu tài sản đã qua sử
dụng mà rất khó tìm được thị trường tiêu thụ thì số tiền trả trước có xu hướng cao
hơn; (iii) Môi trường kinh tế; (iv) Năng lực tài chính của người đi vay.
- Chi phí tài trợ: Là chi phí mà người đi vay phải trả cho Ngân hàng cho việc
sử dụng vốn. Chi phí tài trợ chủ yếu bao gồm lãi vay và các chi phí khác có liên
quan. Chi phí tài trợ phải trang trải cho được chi phí vốn tài trợ, chi phí hoạt động,
rủi ro, đồng thời mang lại một phần lợi nhuận thoả đáng cho Ngân hàng.
- Điều kiện thanh toán: Khi xác định các điều khoản liên quan đến việc thanh
toán nợ của khách hàng, Ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề sau: (i) Số tiền
thanh toán mỗi định kỳ phải phù hợp với khả năng về thu nhập, trong mối quan hệ
hài hòa với các nhu cầu chi tiêu khác của khách hàng; (ii) Giá trị của tài sản tài trợ
6
không được thấp hơn số tiền tài trợ chưa được thu hồi; (iii) Kỳ hạn trả nợ phải
thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng. Kỳ hạn trả nợ thường theo tháng. Vì lẽ,
thông thường, nguồn trả nợ chính của người vay là lương được nhận hàng tháng;
(iv) Thời hạn tài trợ không nên quá dài. Thời hạn tài trợ bị giới hạn bởi thời hạn

hoạt động của tài sản tài trợ. Thời hạn tài trợ quá dài dễ làm giá trị tài sản tài trợ
bị giảm mạnh. Hơn nữa, khi thời hạn tài trợ quá dài thì thiện chí trả nợ của người
đi vay cũng như việc thu hồi nợ thường gặp nhiều rắc rối.
- Tâm lý của người đi vay trả góp thường rất thích được tài trợ với thời hạn
dài để giảm gánh nặng về số tiền thanh toán mỗi kỳ hạn. Thế nhưng công thức trên
cho thấy khi n càng lớn thì lãi suất hiệu dụng càng có giá trị cao hơn. Có nghĩa là,
người đi vay phải trả cho Ngân hàng lãi suất cao hơn nếu họ muốn được tài trợ với
thời hạn dài hơn.
• Cho vay tín dụng phi trả góp.
Theo phương thức này tiền vay được khách hàng thanh toán cho Ngân hàng
chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì các khoản cho vay tiêu dùng phi trả góp chỉ
được cấp cho các khoản vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài.
• Cho vay tín dụng tuần hoàn.
Là các khoản cho vay cá nhân trong đó Ngân hàng cho phép khách hàng sử
dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản
vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn tín dụng được thỏa thuận trước,
căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được
Ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn,
theo một hạn mức tín dụng.
Lãi phải trả mỗi kỳ có thể tính dựa trên một trong ba cách sau:
- Lãi được tính dựa trên số dư nợ đã được điều chỉnh: Theo phương pháp này
số dư nợ được dùng để tính lãi là số dư nợ cuối cùng của mỗi kỳ sau khi khách
hàng đã thanh toán nợ cho Ngân hàng.
- Lãi được tính dựa trên số dư nợ trước khi được điều chỉnh: Theo phương
pháp này số dư nợ dùng để tính lãi là số dư nợ cuối mỗi kỳ có trước khi khoản nợ
được thanh toán.
- Lãi được tính dựa trên cơ sở dư nợ bình quân.
1.1.3.3. Căn cứ vào nguồn gốc các khoản vay.
• Cho vay cá nhân gián tiếp.
7

Cho vay cá nhân gián tiếp là hình thức cho vay trong đó Ngân hàng mua các
khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hóa hay dịch vụ cho
người tiêu dùng.
Cho vay cán nhân gián tiếp có một số ưu điểm sau: Cho phép Ngân hàng dễ
dàng tăng doanh số cho vay cánh nhân; cho phép Ngân hàng tiết giảm được chi
phí trong cho vay; là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các
hoạt động Ngân hàng khác; trong trường hợp có quan hệ với những công ty bán lẻ
tốt, cho vay tiêu dùng gián tiếp an toàn hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp.
Bên cạnh một số ưu điểm trên, cho vay cá nhân gián tiếp có một số nhược
điểm sau: Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán
chịu; thiếu sự kiểm soát của Ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu
hàng hóa; kỹ thuật nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao.
Do những nhược điểm kể trên nên có rất nhiều Ngân hàng không mặn mà
với cho vay ca nhân gián tiếp. Còn những Ngân hàng nào tham gia vào hoạt động
này thì đều có các cơ chế kiểm soát tín dụng rất chặt chẽ.
• Cho vay cá nhân trực tiếp.
Cho vay cá nhân trực tiếp là các khoản cho vay cá nhân trong đó Ngân hàng
trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người vay.
Cho vay cá nhân trực tiếp Ngân hàng có thể tận dụng được sở trường của
nhân viên tín dụng. Những người này thường được đào tạo chuyên môn và có
nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng cho nên các quyết định tín dụng trực
tiếp của Ngân hàng thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp chúng được
quyết định bởi những công ty bán lẻ hoặc nhân viên tín dụng của công ty bán lẻ.
Ngoài ra, trong hoạt động của mình nhân viên tín dụng Ngân hàng có xu hướng
chú trọng đến việc tạo ra các khoản cho vay có chất lượng tốt trong khi nhân viên
của công ty bán lẻ thường chú trọng đến việc bán cho được nhiều hàng. Bên cạnh
đó, tại các điểm bán hàng, các quyết định tín dụng thường được cấp ra một cách
không chính đáng. Hơn nữa, trong một số trường hợp, do quyết định nhanh, công
ty bán lẻ có thể từ chối cấp tín dụng đối với khách hàng tốt của mình. Nếu người
cấp tín dụng là Ngân hàng, điều này có thể được hạn chế.

Cho vay cá nhân trực tiếp có ưu điểm là linh hoạt hơn cho vay cá nhân gián
tiếp. Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với Ngân hàng, có rất nhiều lợi thế có
8
thể phát sinh, có khả năng làm thỏa mãn quyền lợi cho cả hai phía khách hàng lẫn
Ngân hàng.
1.1.4 cho vay khách hàng cá nhân.
• Đối với ngân hàng:
Cho vay khách hàng cá nhân có những lợi ích quan trọng như:
Thứ nhất: cho vay khách hàng cá nhân giúp tăng khả năng cạnh tranh của
ngân hàng với các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, thu hút được đối tượng
khách hàng mới, từ đó mà mở rộng quan hệ với khách hàng. Bằng cách nâng cao
và mở rộng mạng lưới, đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ cho
vay tiêu dùng, số lượng khách hàng đến với ngân hàng sẽ ngày càng nhiều hơn và
hình ảnh của ngân hàng sẽ càng đẹp hơn trong con mắt khách hàng. Trong ý nghĩ
của công chúng, ngân hàng không chỉ là tổ chức chỉ biết quan tâm đến các công ty
và doanh nghiệp mà ngân hàng còn rất quan tâm tới những nhu cầu nhỏ bé, cần
thiết của người tiêu dùng, đáp ứng nguyện vọng cải thiện đời sống của người tiêu
dùng. Từ đó mà uy tín của ngân hàng ngày càng được nâng cao hơn.
Thứ hai: cho vay khách hàng cá nhân cũng là một công cụ marketing rất hiệu
quả, nhiều người sẽ biết tới ngân hàng hơn. Từ đó mà ngân hàng cũng sẽ huy động
được nhiều nguồn tiền gửi của dân cư.
Thứ ba: cho vay khách hàng cá nhân để tạo điều kiện mở rộng và đa dạng
hoá kinh doanh từ đó mà nâng cao thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng.
• Đối với người tiêu dùng:
Nhờ cho vay mà họ được hưởng các tiện ích trước khi tích lũy đủ tiền và
đặc biệt quan trọng hơn nó rất cần thiết cho những trường hợp khi các nhân có các
chi tiêu có tính cấp bách, nhu như cầu chi tiêu cho giáo dục và y tế. Tuy vậy, nếu
lạm dụng việc đi vay để tiêu dùng thì cũng rất tai hại vì nó có thể làm cho người đi
vay chi tiêu vượt quá mức cho phép, làm giảm khả năng tiết kiệm hoặc chi tiêu
trong tương lai, còn rất nghiêm trọng hơn nếu mất khả năng chi trả thì người này

có thể gặp rất nhiều phiền toái trong cuộc sống.
• Đối với nền kinh tế:
Cho vay tiêu dung góp phần khơi thông luồng chuyển dịch hàng hoá. Quá
trình sản xuất và lưu thông hàng hoá nếu như không có tiêu dùng thì tất yếu sẽ bị
tắc nghẽn, hàng hoá không tiêu thụ được dẫn tới doanh nghiệp bị ứ đọng vốn và
đương nhiên quá trình sản xuất không thể tiếp tục. Vai trò của ngân hàng lúc này
9
trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Ngân hàng cho người tiêu dùng vay vốn đã tạo
ra khả năng thanh toán cho họ trước khi họ tích luỹ đủ số tiền cần thiết. Khách
hàng có tiền sẽ tìm đến doanh nghiệp mua hàng và doanh nghiệp tiêu thụ được
hàng hoá, sau đó mới có khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng. Khi đã tiêu thụ
được hàng hoá, doanh nghiệp sẽ mở rộng sản xuất và sẽ tìm tới ngân hàng để tiếp
tục vay vốn. Như vậy, ngân hàng cho vay tiêu dùng sẽ có lợi cho cả ba bên: người
tiêu dùng, doanh nghiệp và ngân hàng hay chính là có lợi cho cả nền kinh tế. Tóm
lại, cho vay khách hàng cá nhân được dùng để tài trợ cho chi tiêu về hàng hoá và
dịch vụ trong nước và sản xuất kinh doanh thì nó có tác dụng rất tốt cho việc kích
cầu, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Song, nếu các khoản cho vay cá
nhân không được dùng như vậy thì chẳng những không kích được cầu mà nhiều
khi còn làm giảm khả năng tiết kiệm trong nước.
1.2. Hiệu quả cho vay khách hàng cá nhân của Ngân hàng thương mại.
1.2.1. Khái niệm về hiệu quả cho vay khách hàng cá nhân.
Khi mà chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao, con người từ nhu
cầu ăn no mặc ấm dần chuyển sang ăn ngon mặc đẹp. Các dịch vụ phục vụ cho đời
sống của con người cũng ngày được cải thiện. Tuy nhiên trong một thời điểm nào
đó người dân chưa thể có ngay được một số tiền phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của
mình. Ngân hàng với chức năng chung gian tài chính của mình, thực hiện cho vay
đối với những người có nhu cầu về tài chính. Ngân hàng thực hiện việc này mục
đích chính cũng là để tìm kiếm lợi nhuận, vì thế đối với những khoản tín dụng này
họ phải thấy được hiệu quả trong việc cho vay. Hiệu quả từ phía người đi vay và
hiệu quả mà khoản vay mang lại cho Ngân hàng. Vậy:

Hiệu quả cho vay khách hàng cá nhân là kết quả mà hoạt động tín dụng
mang lại đối với Ngân hàng và khách hàng. Khách hàng có thể thoả mãn được
nhu cầu tiêu dùng của mình và có thể chi trả khoản nợ đến thời hạn. Ngân hàng
có thể thu hồi được các khoản cho vay đúng hạn, không có các khoản nợ xấu, nợ
khó đòi gây thất thoát nguồn vốn của Ngân hàng.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay khách hàng cá nhân.
Nhận định về hiệu quả hoạt động của một Ngân hàng thương mại trong quá
khứ và hiện tại là thực sự cần thiết trong cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế thị
trường hoạt động của Ngân hàng rất nhạy cảm đối với xã hội, là đầu mối của
nhiều mối quan hệ liên quan đến kinh tế vi mô và vĩ mô. Ngân hàng thương mại là
10
một loại hình doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh tiền tệ nên việc đánh giá nó
thường được xem xét dưới hai góc độ khác nhau. Trước tiên nó được đánh giá
theo những yêu cầu của nền kinh tế tiền tệ của một nước, những yêu cầu này là
chuẩn mực được cụ thể hoá trong các quy định có tính pháp quy của một nước,
đây là những chỉ tiêu định tính của Ngân hàng. Sau đó vấn đề này được xem xét
dưới góc độ hoạt động chủ quan của Ngân hàng.
• Các chỉ tiêu định tính:
Đảm bảo các nguyên tắc cho vay.
Đảm bảo các chính sách xã hội của Nhà nước trong cho vay.
Uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng.
Thái độ phục vụ, thủ tục thuận tiện.
Phối hợp với các cơ quan chức năng để thực hiện tốt công tác cho vay: công
chứng, quản lý nhà đất, tổ chức đoàn thể, trung tâm giao dịch đảm bảo
• Các chỉ tiêu định lượng:
1. Dư nợ / Tổng nguồn vốn (%)
- Dựa vào chỉ tiêu này qua các năm để đánh giá mức độ tập trung vốn
tín dụng của Ngân hàng.
- Chỉ tiêu này càng cao thì mức độ hoạt động của Ngân hàng càng ổn
định và có hiệu quả, nguợc lại thì Ngân hàng đang gặp khó khăn, nhất

là việc tìm kiếm khách hàng.
2. Hệ số thu nợ (%) = ( Doanh số thu nợ / Doanh số cho vay ) * 100
- Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả tín dụng trong việc thu nợ của Ngân
hàng.
- Nó phản ánh trong một thời kỳ nào đó với doanh số cho vay nhất định
thì Ngân hàng sẽ thu được bao nhiêu đồng vốn.
- tỷ lệ này càng cao càng tốt.
3. Tỷ lệ nợ quá hạn (%) = ( Nợ quá hạn / Tổng số dư ) * 100
- Chỉ tiêu này cho thấy khả năng thu hồi vốn của Ngân hàng đối với các
khoản vay.
- Đây là chỉ tiêu dùng để đánh giá chất lượng tín dụng cũng như rủi ro
tín dụng tại Ngân hàng.
- Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thể hiện chất lượng tín dụng của Ngân hàng
càng kém và ngược lại.
11
4. Vòng quay vốn tín dụng (vòng)=Doanh số thu nợ/Dư nợ bình quân
Trong đó Dư nợ bình quân = ( Dư nợ đầu kỳ + Dư nợ cuối kỳ ) / 2
- Chỉ tiêu này đo lường tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của Ngân
hàng, thời gian thu hồi nợ nhanh hay chậm của Ngân hàng. Vòng quay
vốn càng nhanh thì được coi là tốt và việc đầu tư được an toàn.
5. Lợi nhuận cho vay khách hàng cá nhân
- Chỉ tiêu này đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng về hoạt
động cho vay tiêu dùng. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ Ngân hàng hoạt động có
hiệu quả.
1.2.3.Mục đích của cho vay khách hàng cá nhân
Với mỗi một thị trường mới, các ngân hàng đếu có những phương thức thu
hút mới phong phú và đánh vào tâm lý của khách hàng.Đó là sự tiện ích, những
điểm có lợi khi khách hàng đến với ngân hàng của mình.Và mục tiêu hướng đến
khi mở rộng các hoạt động kinh doanh phục vụ khách hàng đó chính là lợi nhuận
và Chiếm lĩnh thị phần trong nền kinh tế.

Cùng với việc thu lợi nhuận và Chiếm lĩnh cao hơn thị phần thì những lợi
ích mà việc cho vay khách hàng cá nhân của ngân hàng đem lại cũng không
ít.Việc cho vay này giúp khôi phục nhanh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và
bền vững, giúp cho khách hàng thỏa mãn ngày càng cao hơn về nhu cầu tiêu dùng
và đầu tư của mình.Chính vì vậy mà các hoạt động cho vay của ngân hàng ngày
càng phát triển và hoàn thiện.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay khách hàng cá nhân của
ngân hàng thương mại
1.3.1. Nhân tố chủ quan.
Định hướng phát triển của Ngân hàng, là điều kiện tiên quyết để phát triển
hoạt động cho vay khách hàng cá nhân. Nếu trong kế hoạch phát triển của mình
các Ngân hàng không quan tâm đến hoạt động này thì các khách hàng có nhu cầu
về cho vay kinh doanh hoạc tiêu dùng cũng sẽ không được quan tâm. Ngược lại,
nếu Ngân hàng muốn phát triển hoạt động cho vay khách hàng cá nhân thì họ sẽ
đưa ra những chiến lược cụ thể để thu hút những người có nhu cầu đến với mình.
Và khi đó cung cầu sẽ có điều kiện thuận lợi để gặp nhau cũng có nghĩa là cho vay
khách hàng cá nhân sẽ có nhiều cơ hội phát triển.
12
Năng lực tài chính của Ngân hàng, sẽ là một trong những yếu tố được các
nhà lãnh đạo Ngân hàng xem xét khi đưa ra các quyết định trong đó có các quyết
định về hoạt động cho vay khách hàng cá nhân. Năng lực tài chính của Ngân hàng
được xác định dựa trên một số yếu tố như số lượng vốn chủ sở hữu, tỷ lệ phần
trăm lợi nhuận năm sau so với năm trước, tỷ trọng nợ quá hạn trong tổng dư nợ, số
lượng tài sản thanh khoản. Nếu Ngân hàng có vốn chủ sở hữu lớn, tỷ lệ phần trăm
lợi nhuận lớn, nợ quá hạn thấp và có số lượng tài sản thanh khoản lớn, khả năng
huy động vốn lớn trong thời gian ngắn thì có thể coi là có sức mạnh về tài chính.
Khi Ngân hàng có sức mạnh tài chính lớn thì Ngân hàng có thể đầu tư vào các
danh mục mà Ngân hàng quan tâm hơn thì hoạt động cho vay khách hàng cá nhân
có cơ hội phát triển, nhưng ngược lại, nếu Ngân hàng không có được số vốn cần
thiết để tài trợ cho cho các hoạt động được ưu tiên hơn thì hoạt động cho vay cá

nhân sẽ ít có cơ hội để mở rộng.
Chính sách tín dụng của Ngân hàng, là hệ thống các chủ trương, định hướng
quy định chi phối hoạt động tín dụng do hội đồng quản trị đưa ra nhằm sử dụng
hiệu quả nguồn vốn để tài trợ cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân.
Thông thường chính sách tín dụng có các khoản mục sau: hạn mức tín dụng, các
loại hình cho vay mà Ngân hàng thực hiện, quy định về tài sản đảm bảo, kỳ hạn
của các khoản tín dụng, hướng giải quyết phần tín dụng vượt quá hạn mức cho
vay, cách thức thanh toán nợ, … Chính sách tín dụng vạch ra cho các cán bộ tín
dụng hướng đi và khung tham chiếu rõ ràng về những căn cứ để xem xét các nhu
cầu vay vốn. Vì vậy, những yếu tố trong chính sách tín dụng đều tác động một
cách mạnh mẽ tới việc mở rộng tín dụng nói chung và cho hoạt động cho vay
khách hàng cá nhân nói riêng. Nếu như có những hình thức cho vay khách hàng cá
nhân không nằm trong chính sách cho vay của Ngân hàng thì chắc chắn các khách
hàng chẳng thể mong đợi vay được những khoản tiền từ Ngân hàng để tài trợ cho
nhu cầu kinh doanh hay chi tiêu của mình. Chẳng hạn như một Ngân hàng không
thực hiện cho vay theo thẻ tín dụng thì khách hàng dù có đủ điều kiện cũng không
được cấp tín dụng. Mặt khác khi một Ngân hàng đã sẵn có các hình thức cho vay
khách hàng cá nhân đa dạng với chất lượng tốt thì việc mở rộng cũng dễ dàng và
thuận lợi hơn là các Ngân hàng mới chỉ có các sản phẩm đơn giản. Do tính chất
cạnh tranh giữa các Ngân hàng ngày càng gay gắt thì một chính sách tín dụng
đúng đắn hợp lý là yếu tố thu hút khách hàng hiệu quả. Ngân hàng càng đa dạng
13
hoá các mức lãi suất phù hợp với từng loại khách hàng, từng kỳ hạn cho vay và
cách xử lý đúng đắn các khoản nợ của khách hàng, có chính sách sản phẩm hấp
dẫn thì càng thu hút được khách hàng đến với Ngân hàng, từ đó thực hiện thành
công việc mở rộng cho vay khách hàng cá nhân.
Số lượng, trình độ cũng như đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ tín dụng,
cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cho vay khách hàng cá nhân của các
Ngân hàng thương mại. Hoạt động cho vay khách hàng
cá nhân có thực hiện được hay không là do người điều hành, đó chính là các

cán bộ nhân viên của Ngân hàng. Bởi vậy, trước tiên muốn hoạt động cho vay
khách hàng cá nhân phát triển thì cần phải quan tâm đến đời sống của các cán bộ
nhân viên. Nếu như đạo đức người vay được xếp vào vị trí hàng đầu tư rong các
nhân tố khách quan thì đạo đức cán bộ tín dụng được xếp vào vị trí hàng đầu tư
rong các nhân tố chủ quan. Nếu các cán bộ tín dụng không có đạo đức nghề
nghiệp thì dù giỏi đến mấy cũng vô giá trị vì lợi ích cá nhân họ sẵn sàng làm tổn
hại đến lợi ích của tập thể Ngân hàng. Tuy nhiên, đạo đức không thôi chưa đủ, cán
bộ tín dụng phải có trình độ chuyên môn cao, trình độ hiểu biết rộng thì mới thẩm
định chính xác khách hàng và dự án vay vốn, từ đó đưa ra các quyết định đúng
đắn. Một cán bộ tín dụng có trình độ nghiệp vụ cao, khả năng giao tiếp, marketing
tốt, trình độ ngoại ngữ, vi tính thành thạo, nhiệt tình trong công việc, có đạo đức
nghề nghiệp sẽ tạo được ấn tượng đẹp trong khách hàng về Ngân hàng, bởi dưới
con mắt của khách hàng thì cán bộ Ngân hàng chính là hình ảnh của Ngân hàng.
Nếu khách hàng giao tiếp với cán bộ Ngân hàng mà họ cảm thấy an tâm về trình
độ nghiệp vụ, hài lòng với phong cách giao tiếp của cán bộ Ngân hàng, an toàn
trong quan hệ với Ngân hàng thì họ chắc chắn sẽ còn tìm tới Ngân hàng. Hơn nữa,
các cán bộ tín dụng có mối quan hệ rộng trong xã hội cũng có thể thu hút được
nhiều khách hàng hơn. Và một Ngân hàng phải có số lượng cán bộ tín dụng hợp
lý, phân công công việc cụ thể thì Ngân hàng đó mới có thể phát triển không chỉ
mình hoạt động cho vay tiêu dùng mà tất cả các hoạt động khác nữa.
Trình độ khoa học công nghệ và khả năng quản lý của Ngân hàng, cũng là
một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển của hoạt động
cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng đó. Nếu một Ngân hàng được trang bị
các công nghệ hiện đại thì họ có thể tăng tiện ích cho khách hàng và các dịch vụ
của họ sẽ được biết đến nhiều hơn. Ví dụ, một Ngân hàng có điều kiện đầu tư vào
14
dịch vụ thẻ thanh toán, đặt các máy rút tiền, có thể giao dịch với khách hàng thông
qua mạng internet …. thì Ngân hàng đó có thể mở rộng hoạt động cho vay cá
nhân của mình thông qua các tài khoản mà các khách hàng đã sử dụng dịch vụ
trên của Ngân hàng như cho vay thấu chi, thẻ tín dụng… Hơn nữa, áp dụng khoa

học công nghệ tiên tiến các Ngân hàng có thể quản lý danh sách khách hàng một
cách dễ dàng hơn, họ có thể tiết kiệm được nhân công cũng như chi phí quản lý
góp phần giảm giá thành dịch vụ. Thêm vào đó, khi có các công nghệ hiện đại hỗ
trợ thì việc giải quyết các thủ tục của Ngân hàng được nhanh chóng, chính xác,
giảm bớt các thủ tục rườm rà cho khách hàng
1.3.2. Nhân tố khách quan.
1.3.2.1. Nhân tố thuộc về khách hàng.
Năng lực vay vốn của khách hàng, được thể hiện thông qua các nhân tố như
thu nhập của khách hàng, trình độ văn hoá, thói quen, đạo đức… của khách hàng.
Thu nhập của khách hàng vay quyết định đến nhu cầu vay cá nhân của họ và quyết
định việc có cho vay hay không của Ngân hàng. Bởi vì, Ngân hàng khi cho vay
khách hàng cá nhân sẽ căn cứ vào mức thu nhập trong tương lai của khách hàng,
đó là nguồn thanh toán khoản nợ đó. Do đó, thu nhập có ảnh hưởng rất lớn đến
nhu cầu vay cá nhân của khách hàng, đến quy mô của khoản vay và đến việc phát
triển cho vay khách hàng cá nhân của Ngân hàng. Khách hàng vay cần có thu nhập
ổn định để đảm bảo khả năng trả nợ cho Ngân hàng và đặc biệt là cần có thiện chí
trả nợ đúng hạn và đầy đủ. Nếu như khách hàng là người có đạo đức tốt, có ý thức
trả nợ thì rủi ro cho vay khách hàng cá nhân thấp, tạo điều kiện kích thích Ngân
hàng tiến hành mở rộng hoạt động cho vay cá nhân và các quy định cho vay sẽ
không quá khắt khe. Ngược lại nếu khách hàng trả nợ không đều, nợ quá hạn
nhiều thì tất yếu sẽ kìm hãm hoạt động cho vay cá nhân
Khả năng đáp ứng các điều kiện khi vay của khách hàng, có nghĩa là khách
hàng liệu có đáp ứng được các điều kiện quy định của Ngân hàng hay không. Các
điều kiện như là tài sản đảm bảo cũng như các giấy tờ chứng mình quyền sở hữu
và sử dụng hợp pháp tài sản …
1.3.2.2. Nhân tố thuộc môi trường hoạt động của Ngân hàng.
• Tình trạng kinh tế vĩ mô.
Sự ổn định kinh tế vĩ mô sẽ tạo cơ hội mở rộng tín dụng tiêu dùng một cách
hiệu quả. Kinh tế vĩ mô ổn định, đặc biệt là ổn định tiền tệ với các chỉ tiêu giá cả,
15

lãi suất, tỷ giá, lạm phát sẽ làm yên tâm định chế tài chính cho vay vốn, các đối
tượng vay vốn có thêm việc làm, tăng thu nhập, giúp họ yên tâm về sự ổn định
trong thu nhập cũng như sự ổn định của chi phí đi vay, chi phí mua sắm, sửa chữa
nhà cửa, và các hàng hóa, dịch vụ khác, do đó làm tăng các khoản vay của họ,
đồng thời tạo điều kiện duy trì và phát triển bền vững quan hệ hai chiều vay vốn
và trả nợ.
Ngược lại, khi kinh tế khủng hoảng hoặc điều kiện phát triển chậm chạp, hay
kinh tế vĩ mô bất ổn định một mặt sẽ tác động gây hạn chế cấp tín dụng tiêu dùng
của các trung gian tài chính. Các khoản cho vay chịu tác động của những biến
động trên thị trường tài chính bất ổn có thể dẫn tới đổ vỡ tín dụng. Những thay đổi
tích cực trong kinh tế vĩ mô diễn ra quá nhanh cũng gây ra những xáo trộn nhất
định. Chẳng hạn tỷ lệ lạm phát và lãi suất giảm quá nhanh cũng có thể dẫn tới tình
trạng võ nợ đối với các món vay với lãi suất dựa vào tỷ lệ lạm phát cao trước đó.
Tỷ giá hối đoái kém linh hoạt, không phản ánh được sự biến động của kinh tế vĩ
mô, làm méo mó những tín hiệu giá cả bên ngoài cũng ảnh hưởng trực tiếp đến thu
nhập của khách hàng và tổ chức tín dụng. Mặt khác, kinh tế vĩ mô phát triển chập
chạm hay bất ổn cũng khiến thu nhập trong tương lai của người tiêu dùng trở nên
bấp bênh, các chi phí biến động, khó kiểm soát, do đó khách hàng cá nhân phải
giảm các khoản vay của họ.
• Môi trường pháp luật.
Một hệ thống pháp luật hoàn thiện là cơ sở bảo vệ sự phát triển thị trường tài
chính an toàn, ổn định, thúc đẩy các định chế tài chính nâng cao năng lực cung cấp
dịch vụ tài chính chất lượng cao cho dân cư, bảo vệ sự phát triển bền vững quan hệ
hợp tác bình đẳng giữa Ngân hàng và khách hàng vì lợi ích của hai phía.
• Môi trường văn hoá – xã hội.
Những yếu tố thuộc về văn hoá xã hội như thói quen sử dụng các sản phẩm
Ngân hàng, tỷ lệ tiết kiệm, trình độ dân trí, thị hiếu… ảnh hưởng rất lớn đến việc
đưa ra quyết định lựa chọn hình thức cho vay tiêu dùng. Chẳng hạn như ở Mỹ, xã
hội được cho là xã hội tiêu dùng với tỷ lệ tiết kiệm trên tổng thu nhập chỉ khoảng
10% và thói quen mua sắm sẽ là một thị trường rất lớn để mở rộng cho vay tiêu

dùng. Các quan niệm về Ngân hàng quen thuộc hay xa lạ, an toàn hay không an
toàn, thói quen thanh toán tiền mặt trong dân cư cũng là những yếu tố có tác động
16
rất lớn đến các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp, trong đó có hoạt động cho vay
khách hàng cá nhân
• Quan điểm thúc đẩy lĩnh vực tiêu dùng của Chính phủ.
Quan điểm của Chính phủ về vai trò của tiêu dùng trong nước đối với phát
triển và tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển hoạt động tín
dụng tiêu dùng. Khi Chính phủ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế theo hướng
coi trọng xuất khẩu (tiêu dùng của người nước ngoài) thì bộ phận tiêu dùng trong
nước sẽ ít được quan tâm hơn. Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tiễn ở các nước cho
thấy, chiến lược này cũng gặp phải vấn đề là tăng trưởng kinh tế sẽ phụ thuộc rất
lớn vào môi trường bên ngoài. Do đó nhiều nước đã chuyển sang chiến lược phát
triển kinh tế ổn định và bền vững hơn là dựa vào tiêu dùng trong nước. Với quan
điểm đó, các chính sách tích cực của Chính phủ, hàng đầu là tạo môi trường thuận
lợi đẩy mạnh chi tiêu tiêu dùng (như chính sách thuế, chính sách thu nhập, chính
sách thương mại, du lịch, y tế, giáo dục ) là cơ hội quan trọng mở rộng tín dụng
tiêu dùng.
Tóm lại: Thông qua nội dung được trình bày trong chương 1, ta thấy được
một bức tranh toàn cảnh về hoạt động cho vay khách hàng cá nhân của các
NHTM. Các nhân tố tác động đến hoạt động cho vay khách hàng cá nhân: Nhân tố
chủ quan và nhân tố khách quan. Thông qua các chỉ tiêu đánh giá hoạt động cho
vay khách hàng cá nhân được trình bày trong chương này chúng ta có thể đánh giá
được một khía cạnh nào đó của hoạt động cho vay khách hàng cá nhân .Để có thể
tìm hiểu hoạt động cho vay khách hàng cá nhân một cách cụ thể và rõ ràng hơn,
em xin được đưa ra nội dung của chương 2 là : “ Thực trạng hiệu quả cho vay
khách hàng cá nhân tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
huyện Cẩm Thuỷ tỉnh Thanh Hoá”. Từ nội dung của chương này chúng ta có thể
thấy được sự hoạt động của một Ngân hàng trong lĩnh vực cho vay đối với khách
hàng cá nhân.

17
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CHO VAY KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN TẠI
CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG
THÔN HUYỆN CẨM THUỶ, TỈNH THANH HOÁ.
2.1. Khái quát về hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa.
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển.
Từ năm 1988 NHNo & PTNT Cẩm Thủy chính thức trở thành một NHTM
theo đúng nghĩa của nó, chỉ thực hiện nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ. Cùng đất nước
bước vào công cuộc đổi mới kinh tế toàn diện, theo nghị quyết đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI. Trở thành doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, và
cung ứng các dịch vụ liên quan đến tiền tệ. Là Chi nhánh cấp 2 của NHNo &
PTNT tỉnh Thanh Hoá.
Đến năm 1996 do nhận thấy địa bàn Cẩm Thủy vô cùng rộng lớn, việc đi lại
của dân cư khi tiến hành giao dịch với Ngân hàng khó khăn, NHNo & PTNT
huyện Cẩm Thủy đã mở thêm Chi nhánh NHC3 Cẩm Tân trực thuộc, chịu sự quản
lý NHNo Cẩm Thủy.
Năm 2004, Ngân hàng chính sách xã hội (NH- CSXH) đã tách khỏi NHNo
Cẩm Thủy, thành lập ra NH- CSXH Cẩm Thủy. Từ lúc này NH- CSXH sẽ thực
hiện cho vay với đối tượng khách hàng là các hộ nghèo, gia đình chính sách, thực
hiện mục tiêu xã hội hơn là kinh doanh. Và Ngân hàng NHNo Cẩm Thủy sẽ
chuyên tâm vào thực hiện mục tiêu kinh doanh tiền tệ, với mục tiêu lợi nhuận,
phục vụ phát triển kinh tế, chứ không còn đảm nhiệm cả cho vay với hộ nghèo như
trước nữa.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ.
2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức.
Hiện nay NHNo & PTNT Cẩm Thủy có bộ mày gồm:
- Ban giám đốc gồm: 1 Giám đốc và 3 phó giám đốc. Trong đó Giám đốc
điều hành toàn bộ hoạt động của Ngân hàng, 1 phó giám đốc điều hành phòng kế

toán, 1 phó giám đốc điều hành phòng tín dụng, 1 phó giám đốc phụ trách điều
hành Ngân hàng cấp 3 Cẩm Tân.
- Phòng tín dụng phụ trách kinh doanh tổng hợp. Thực hiện cho vay đối với
18
khách hàng. Chịu sự quản lý trực tiếp của 1 PGĐ, PGĐ có trách nhiệm điều hành
chung hoạt động của phòng tín dụng, còn trưởng phòng là người trực tiếp điều
hành thực hiện công việc của cán bộ tín dụng, cũng như công việc của văn phòng.
Phòng tín dụng có 19 cán bộ gồm: 1 trưởng phòng, 1 phó phòng và 17 cán bộ
tín dụng. với nhiệm vụ chủ yếu là cung cấp tín dụng cho khách hàng trên địa bàn
huyện.
- Phòng kế toán ngân quỹ phụ trách theo dõi hạch toán tài sản, nghiệp vụ kế
toán phát sinh, hạch toán kinh doanh và phụ trách ngân quỹ của Ngân hàng. Được
sự chỉ đạo trực tiếp của 1 PGĐ, PGĐ là người thay mặt ban giám đốc quản lý trực
tiếp phòng kế toán. Còn trưởng phòng là người trực tiếp điều hành công việc của
phòng, trực tiếp giải quyết các công việc phát sinh, những công việc nào nằm
ngoài phạm vi quyền hạn của trưởng phòng thì PGĐ sẽ giải quyết.
Cơ cấu tổ chức của phòng có 14 cán bộ gồm: 1 trưởng phòng, 1 phó phòng
kiêm kế toán kiểm soát, kế toán viên có 9, và 3 kế toán ngân quỹ. Với đội ngũ
thanh toán viên có tinh thần trách nhiệm cao, say mê, nhiệt tình với công việc, có
chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công tác ngày một phát triển và đổi mới
của ngành.
- Phòng hành chính đảm nhận các công việc phục vụ công tác kinh doanh của
Ngân hàng, cũng như hoạt động của các phòng ban khác của Ngân hàng.
CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA NHNO & PTNT HUYỆN CẨM THỦY




19
Giám đốc

Chi nhánh
PHÒNG
TÍN DỤNG
PHÒNG
KẾ TOÁN
PHÒNG
H.CHÍNH
NHC3
CẨM TÂN
Phó Giám đốc
Phó Giám đốc
2.1.2.2. Nhiệm vụ.
Hoạt động của NHNo & PTNT huyện Cẩm Thuỷ chủ yếu trên lĩnh vực nông
nghiệp nông thôn, khách hàng là các hộ sản xuất, một vài hợp tác xã và doanh
nghiệp tư nhân hoạt động đơn điệu.
Do hoạt động trên địa bàn như vậy, nhiệm vụ chính của NHNo Cẩm Thuỷ là
cung cấp các khoản tín dụng, hướng đến đối tượng khách hàng là các hộ sản xuất
nông nghiệp, phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn và ngành dịch vụ trên địa
bàn huyện Cẩm Thuỷ. Cùng với chủ trương khuyến khích phát triển kinh tế trang
trại của lãnh đạo địa phương. NHNo Cẩm Thuỷ đang dần mở rộng đối với đối
tượng này.
Điều kiện tự nhiên khó khăn đất canh tác ít, nên số lượng lao động dư thừa
tại địa phương rất lớn, đặc biệt khi nông nhàn. Trong những năm gần đây trên địa
bàn huyện, có xu hướng đi xuất khuất lao động ở một số nước, đem lại thu nhập
lớn vì vậy thu hút được nhiều lao động. Cần số tiền đầu tư lớn, người dân khó mà
đáp ứng được, vì vậy NHNo Cẩm Thuỷ đã đứng ra cho vay đi xuất khẩu lao động.
Và thực hiện chuyển tiền với số tiền người đi xuất khẩu lao động chuyển về gia
đình.
2.1.3. Hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá.

2.1.3.1. Công tác huy động vốn.
Hình thức huy động vốn thu hút được nguồn vốn lớn nhất là tiền gửi tiết
kiệm, với nhiều hình thức đa dạng như: tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm trả góp, tiết
kiệm dự thưởng Kèm theo đó là các chương trình khuyến mại để thu hút thêm
tiền gửi tiết kiệm như đợt tết cổ truyền các năm có các chương trình mừng tuổi
đầu năm cho các khoản tiền gửi tiết kiệm, rút thăm trúng thưởng khi gửi tiết kiệm
với số tiền gửi từ 50 triệu VND trở lên. Mặc dù về vật chất thì các khuyến mại
không lớn, nhưng nó lại đem lại cảm giác thích thú, cảm thấy mình có lợi, điều đó
sẽ thu hút khách hàng gửi tiền tiết kiệm nhiều hơn. Đặc biệt vào đầu năm khi
khoản tiền này chưa được đầu tư.
Bên cạnh đó một vài doanh nghiệp trên địa bàn huyện mở tài khoản Sec tại
Ngân hàng để thuận tiện cho chi trả, tuy nhiên đối tượng huy động vốn này còn rất
ít, chưa được phổ biến tại chi nhánh.
20
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn tại chi nhánh
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Thực hiện
2009
Thực hiện 2010 Thực hiện 2011
Số tiền
Tỷ
trọng
Số tiền
Tỷ
trọng
Chênh lệch so
với năm 2009
Số tiền
Tỷ

trọng
Chênh lệch so
với năm 2009
Tuyệt
đối
Tương
đối
Tuyệt
đối
Tương
đối
Tổng
nguồn
vốn nội tệ.
127.21
8
95,55
138.55
4
94,91
11.33
6
8,91 154.270 94,7 27.052 21,26
Nguồn
vốn không
kỳ hạn.
9.144 7,19 10.272 7,42 1.128 12,34 11.029 7,15 1.885 20,61
Nguồn
vốn có kỳ
hạn.

118.074 92,81 128.282 92,58 10.208 8,65 143.241 92,85 25.167 21,31
Nguồn
vốn ngắn
hạn.
109.50
4
92,74
119.18
2
92,9 9.678 8,84
132.55
0
92,53
23.04
6
21,05
Nguồn
vốn trung
hạn.
8.105 6,86 8.588 6,7 483 5,96 10.157 7,1 2.052 25,32
Nguồn
vốn dài
hạn.
465 1,4 512 0,4 47 10,10 534 0,37 69 14,84
Nguồn
vốn ngoại
tệ quy đổi
5.926 4,45 7.435 5,09 1.509 25,46 8.621 5,3 2.695 45,48
Tổng
nguồn vốn

133.14
4
100
145.98
9
100
12.84
5
9,65
162.89
1
100
29.74
7
23,24
( Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2009, 2010, 2011 chi
nhánh NHNo&PTNT huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá )
Qua bảng số liệu trên, ta thấy tổng nguồn vốn của ngân hàng có xu hướng
tăng qua các năm. Trong năm 2009 tổng nguồn vốn của Ngân hàng đạt 133.144
21
triệu đồng, đến năm 2010 tổng nguồn vốn của ngân hàng đã tăng lên 145.989 triệu
đồng, tăng 12.845 triệu đồng, tương ứng với mức tăng 9.65% so với năm 2009.
Trên đà tăng trưởng của mình đến năm 2011 tổng nguồn vốn của ngân hàng đạt
162.891 triệu đồng, tăng 16.902 triệu đồng, tương ứng với mức tăng 11,58% so
với năm 2010; và tăng 29.747 triệu đồng, tương ứng với mức tăng 22,34% so với
năm 2009. Nguyên nhân của sự tăng trưởng này là Ngân hàng đã tích cực trong
công tác huy động vốn của mình, bằng các hình thức huy động vốn linh hoạt kết
hợp với các chương trình huy động vốn có dự thưởng làm cho số khách hàng đến
với Ngân hàng đông hơn, bên cạnh đó cũng là do đời sống trên địa bàn huyện phát
triển hơn, lượng tiền dư thừa nhiều hơn nên khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng.

Tổng nguồn vốn của Ngân hàng tăng chủ yếu là do nguồn vốn nội tệ tăng,
trong khi đó nguồn vốn ngoại tệ chiếm tỉ trong rất nhỏ. Nguyên nhân chủ yếu là
do đặc điểm kinh tế trên địa bàn huyện vốn là huyện miền núi nên nhu cầu ngoại
tệ của người dân chưa cao, và thói quen sử dụng ngoại tệ chưa phải là phổ biến.
Nguồn vốn nội tệ của Ngân hàng năm 2009 là 127.218 triệu đồng, đến năm
2010 nguồn vốn nội tệ đã tăng lên 138.554 triệu đồng, tăng 11.336 triệu đồng
tương ứng với mức tăng 8,91% so với năm 2009. Đến năm 2011 tổng nguồn vốn
nội tệ của Ngân hàng là 154.270 triệu đồng, tăng 27.052 triệu đồng tương ứng với
mức tăng 21,26%. Vốn nội tệ tăng chủ yếu là nguồn vốn có kỳ hạn, nguồn vốn
không kỳ hạn chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn nội tệ. Nguyên nhân
chính của sự chênh lệch này là do đặc điểm kinh tế của huyện, và do tập quán của
người dân. Họ mong muốn gửi tiền vào Ngân hàng với mong muốn nhận được lợi
nhuận cao hơn, nên đa số không lựa chọn loại hình không kỳ hạn. Hình thức
không kỳ hạn chủ yếu là một số ít các doanh nghiệp tư nhận hợp tác xã, và các
trường học trên địa bàn huyện gửi vào mục đích chính là phục vụ cho thanh toán
và chi trả tiền lương.
Theo bảng trên ta thấy nguồn vốn không kỳ hạn năm 2009 là 9.144 triệu
đồng, đến năm 2010 nguồn vốn không kỳ hạn đã là 10.272 triệu đồng, đến năm
2011 nguồn vốn không kỳ hạn đã tăng đến mức 11.029 triệu đồng, nguyên nhân
chính của sự tăng trưởng này là các doanh nghiệp có trên địa bàn huyện đã tích
cực hơn trong việc mở tài khoản thanh toán qua ngân hàng, và các cơ quan tổ chức
trên địa bàn huyện đã thực hiện trả lương qua thẻ ATM.
22
Nguồn vốn có kỳ hạn của Ngân hàng năm 2009 là 118.074 triệu đồng, đến
năm 2010 nguồn có kỳ hạn này đã tăng lên 128.282 triệu đồng, tăng 10.208 triệu
đồng tương ứng với mức tăng 8,84% và tiếp đà tăng trưởng này Ngân hàng đã đạt
doanh số là 143.241 triệu đồng trong năm 2011, tăng 25.167 triệu đồng tương ứng
với mức tăng 21,31% . Nguồn vốn có kỳ hạn tăng chủ yếu là do tăng nguồn vốn
ngắn hạn, nguyên nhân chủ yếu là do thói quen của người dân, họ có tiền nhàn rỗi
trong thời gian ngắn, thường là thời gian nông nhàn, họ muốn gửi vào Ngân hàng

cho an toàn và có thể sinh lời. Bên cạnh đó với sự tư vấn của cán bộ Ngân hàng
với đặc tính của công việc nhà nông, người dân nên gửi với kỳ hạn ngắn hạn để
hưởng mức lãi suất cao hơn, và thuận tiện cho việc rút tiền.
Nguồn vốn ngoại tệ của Ngân hàng cũng tăng qua các năm. Năm 2009 nguồn
vốn ngoại tệ là 5.926 triệu đồng, đến năm 2010 nguồn vốn đã tăng lên 7.435 triệu
đồng tương ứng với mức tăng 1.509 triệu đồng; đến năm 2011 nguồn vốn ngoại tệ
huy động được là 8.621 triệu đồng, tăng 1.186 triệu đồng so với năm 2010.
Nguyên nhân chủ yếu của sự tăng trường này là do lượng kiều hối gửi về từ những
người đi xuất khẩu lao động tăng. Tuy nhiên năm 2011 nguồn vốn ngoại tệ huy
động được giảm so với năm 2010, nguyên nhân chủ yếu là do người dân găm giữ
USD đợi tỷ giá tăng để bán mà không gửi vào Ngân hàng.
2.1.3.2. Tình hình chung
Căn cứ vào kế hoạch cụ thể của Ngân hàng từng năm. Đồng thời bám sát
mục tiêu phát triển kinh tế trên địa bàn huyện. Trên cơ sở phân loại khách hàng
theo các tiêu chí phù hợp, theo đúng quy định để vận dụng các chính sách khách
hàng đạt hiệu quả cao nhất. Trong đầu tư vốn luôn tạo điều kiện thuận lợi, đáp ứng
cho khách hàng một cách nhanh chóng, kịp thời, trên cơ sở các dự án khả thi, đảm
bảo khả năng thu đủ nợ, đúng thời hạn cho Ngân hàng, thực hiện đúng và đủ các
quy trình nghiệp vụ ngành đã hướng dẫn, thiết lập hồ sơ đầy đủ đảm bảo tính pháp
lý, nhằm tạo ra sự an toàn cho vốn.Cụ thể kết quả đạt được như sau:

Bảng 2.2: Các chỉ tiêu về dư nợ
Đơn vị: triệu đồng
23
Chỉ tiêu Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011
Bình quân dư nợ/hộ 10,960 20,8 27,5
Bình quân dư nợ/CB 3,898 5,2 6,9
Bính quân dư nợ/CBTD 10,257 15,83 17,8
(Nguồn:Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2009-2011, CN
NHNo&PTNT huyện Cẩm Thuỷ)

Qua những số liệu ở trên, cho ta thấy các hộ có xu hướng vay vốn với số tiền
lớn hơn, cụ thể trong năm 2009 trung bình đối với một hộ là 10,960 triệu đồng,
tăng lên 20,8 triệu đồng trong năm 2010 và đến năm 2011 là tăng lên 27,5 triệu
đồng. Vì vậy dư nợ bình quân đối với một cán bộ tăng lên, và dư nợ bình quân đối
với một cán bộ tín dụng cũng tăng theo. Nguyên nhân chủ yếu là Ngân hàng chính
sách đã được thành lập trên địa bàn huyện và tiến hành cho vay đối với các hộ
nghèo và các gia đình chính sách, nên thì phần tín dụng của NHNo bị chia sẻ, số
lượng khách hàng đến vay vốn giảm, tuy nhiên nhu cầu và đời sống kinh tế trên
địa bàn huyện được nâng cao hơn, khách hàng vay với số tiền lớn hơn để đầu tư
cho nhu cầu bản thân và cho gia đình, cho nên dư nợ đối với một cán bộ nói
chung và đối với một CBTD nói riêng có xu hướng tăng.
Đối tượng đầu tư của ngân hàng:
- Vốn ngắn hạn: Tập trung đầu tư các loại giống, cây, con, phân bón, thức ăn,
chăn nuôi gia súc, gia cầm, kinh doanh dịch vụ, phát triển ngành nghề
- Vốn trung hạn: Đối tượng đầu tư chủ yếu là chăn nuôi đại gia súc như trâu,
bò sinh sản kết hợp với cày kéo. Cải tạo vườn đồi trồng cây lâm nghiệp và cây ăn
quả có giá trị kinh tế cao, mua máy móc thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp
Thực hiện chủ trương cho vay tổ theo NQLT-2308 với Hội nông dân, NQLT-
02 với Hội phụ nữ. Kết quả thực hiện đã có dư nợ 87.200 triệu đồng, trong đó:
- Hội nông dân cho vay 150 tổ với 3.251 hội viên, số tiền 47.484 triệu đồng.
- Hội phụ nữ cho vay 116 tổ với 3.539 hội viên, số tiền 45.715 triệu đồng
Việc cho vay thông qua tổ đã tiết kiệm được việc đi lại của hội viên, tăng
cường kiểm tra, giám sát của tổ chức chính trị xã hội và của Ngân hàng đến các
thành viên vay vốn trong việc sử dụng vốn, đôn đốc trả nợ, trả lãi đúng kỳ hạn,
giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống, sản xuất.
Bảng 2.3: Tình hình sử dụng vốn của chi nhánh.
Đơn vị: Triệu đồng.
24

×