Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 68 trang )

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT 2
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI 2
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP. 22
SÀI GÒN-HÀ NỘI CHI NHÁNH HÀ NỘI 22
CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN
HÀNG TMCP SÀI GÒN-HÀ NỘI CHI NHÁNH HÀ NỘI 52
KẾT LUẬN 63
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 65
GVHD: TRẦN ĐĂNG KHÂM SV: NGUYÊN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
SHB: Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHTW: Ngân hàng trung ương
NHNN: Ngân hàng nhà nước
TMCP: Thương mại cổ phần
TCTD: Tổ chức tín dụng
TGTK: Tiền gửi tiết kiệm
TCKT: Tổ chức kinh tế
CNH-HĐH: Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa
GTCG: Giấy tờ có giá
GVHD: TRẦN ĐĂNG KHÂM SV: NGUYÊN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG
Bảng 2.1: Dư nợ tín dụng của Chi nhánh 2008-2011 Error: Reference source not


found
Bảng 2.2 : Tỷ lệ vốn huy động trong tổng nguồn vốn qua 4 năm của Chi nhánh
Error: Reference source not found
Bảng 2.3: Cơ cấu vốn huy động của Chi nhánh trong 4 năm Error: Reference
source not found
Bảng 2.4: Biến động tiền gửi tiết kiệm của dân cư và các TCKT của Chi nhánh
Error: Reference source not found
Bảng 2.5: Biến động tiền gửi của các TCTD khác của Chi nhánh qua 4 năm Error:
Reference source not found
Bảng 2.6: Nguồn vốn huy động của Chi nhánh 2008-2011 Error: Reference source
not found
Bảng 2.7: Cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn của Chi nhánh năm 2008-2011
Error: Reference source not found
BIỂU
MỤC LỤC 1
BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT 2
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI 2
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP. 22
SÀI GÒN-HÀ NỘI CHI NHÁNH HÀ NỘI 22
CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN
HÀNG TMCP SÀI GÒN-HÀ NỘI CHI NHÁNH HÀ NỘI 52
KẾT LUẬN 63
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 65
GVHD: TRẦN ĐĂNG KHÂM SV: NGUYÊN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với sự phát triển phát triển chung của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng
thương mại, Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội cũng đã không ngừng phát triển

và ngày càng khẳng định mình là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế. Bằng
lượng vốn huy động được trong xã hội thông qua nghiệp vụ huy động vốn, Ngân hàng
TMCP Sài Gòn – Hà Nội đã cung cấp một lượng vốn lớn cho mọi hoạt động kinh tế,
đáp ứng các nhu cầu vốn một cách nhanh chóng, kịp thời cho quá trình tái sản xuất.
Nhờ đó mà hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần trong nền kinh tế được
diễn ra một cách thuận lợi. Do vậy, trong thời gian tới, để phát huy hơn nữa vai trò của
mình và đồng thời đáp ứng cho sự phát triển chung của nền kinh tế cũng như cho
chính bản thân hệ thống ngân hàng thì việc huy động vốn cho kinh doanh trong tương
lai chắc chắn sẽ được đặt lên hàng đầu đối với các tổ chức tài chính, các ngân hàng
thương mại nói chung và ngân hàng Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội nói riêng.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, với những kiến thức đã được học ở trường,
cùng với những kiến thức thu nhận được trong thời gian thực tập, tìm hiểu tình hình
thực tế tại ngân hàng vừa qua, em đã chọn đề tài “Tăng cường huy động vốn tại
Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội chi nhánh Hà Nội” làm khóa luận tốt nghiệp.
*) Kết cấu chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, chuyên đề bao
gồm 3 chương:
- Chương 1: Hoạt động huy động vốn của NHTM
- Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội chi
nhánh Hà Nội
- Chương 3: Một số giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Sài
Gòn-Hà Nội chi nhánh Hà Nội
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 1 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
CHƯƠNG 1
HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Ngân hàng thương mại (NHTM) là loại hình doanh nghiệp đặc biệt thực hiện
kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tức là nguồn vốn của NHTM chủ yếu là nguồn vốn
huy động từ nền kinh tế thông qua các cá nhân, các tổ chức kinh tế trong và ngoài
nước. Do đó vấn đề huy động vốn như thế nào cho hợp lý, đồng thời quản trị tài chính,

phân bổ sử dụng, bảo đảm và phát triển vốn như thế nào để đảm bảo hoạt động kinh
doanh Ngân hàng an toàn và hiệu quả cao là lẽ sống còn đối với mỗi Ngân hàng đặc
biệt trong điều kiện vô cùng phức tạp của nền kinh tế thị trường hiện nay.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ hạch toán kinh doanh nên
mọi giao dịch kinh doanh của các tổ chức kinh tế đều thông qua thị trường. Lúc đầu
hoạt động Ngân hàng chỉ đơn giản là các dịch vụ đổi tiền, nó chỉ phù hợp với buổi
bình minh của nền sản xuất hàng hóa. Ngày nay khi nền kinh tế thị trường phát triển
đến trình độ cao của nền kinh tế hàng hóa thì Ngân hàng có một vị trí và nắm giữ vai
trò vô cùng quan trọng. Ngoài chức năng thông thường của mình, Ngân hàng còn là
công cụ để Nhà nước thực thi các chính sách tiền tệ kinh tế vĩ mô quản lý và điều tiết
nền kinh tế có hiệu quả. Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển với tốc độ cao nếu có hệ
thống Ngân hàng phát triển ổn định và vững mạnh nhưng Ngân hàng là loại hình
doanh nghiệp tự chủ tài chính rất thấp vì vốn tự có chiếm tỷ trọng nhỏ trong nguồn
vốn và là loại hình kinh doanh có nhiều rủi ro. Tất cả mọi vấn đề an toàn trong kinh
doanh, đảm bảo khả năng thanh toán, đảm bảo mục tiêu hoạt động “khả năng sinh lời”
và hoạt động quản trị đều được đặt dưới sự giám sát, kiểm soát bằng hệ thống văn bản
pháp quy chặt chẽ của Nhà Nước nói chung và Ngân hàng nói riêng bởi sự rủi ro trong
thanh toán dẫn đến khủng hoảng “phá sản” của một Ngân hàng sẽ kéo theo rủi ro trên
toàn hệ thống từ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế tài chính của một quốc gia. Điều đó
đã phản ánh rõ nét vai trò hết sức to lớn của nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn huy
động trong quá trình hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng.
1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại đã có một quá trình hình thành và phát triển lâu dài.
Ngay nửa đầu thế kỷ XI, ở châu Âu đã ra đời một số Ngân hàng đầu tiên mà tiền thân
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 2 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
là những tổ chức cho vay nặng lãi. Vào thời điểm này Ngân hàng phát triển ở trình độ
thấp, hoạt động của Ngân hàng chỉ gói gọn trong lĩnh vực giữ hộ tiền và cho vay.
Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt động của NHTM cũng từng

bước được củng cố và hoàn thiện, chuyển hóa dần theo hướng đa năng. Tuy nhiên đến
nay chưa có khái niệm thống nhất về NHTM do các nhà kinh tế nhận thấy có những
khó khăn trong việc định nghĩa “Ngân hàng”, bởi quan niệm Ngân hàng thay đổi theo
không gian (tập quán và phong tục của mỗi nước) và trong thời gian (theo đà tiến triển
kinh tế-xã hội). Theo một số chuyên gia về Ngân hàng trên thế giới thì Ngân hàng
trong nền kinh tế thị trường được quan niệm như sau: “Ngân hàng là một doanh
nghiệp đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, tuân thủ theo pháp luật theo
đuổi mục tiêu lợi nhuận”. Theo luật các tổ chức tín dụng (LUẬT SỐ: 47/2010/QH12):
“ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động
ngân hàng theo quy định. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân
hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã”
1.1.2. Đặc điểm của ngân hàng thương mại
Trước hết hoạt động của NHTM là hình thức kinh doanh kiếm lời, theo đuổi mục
tiêu lợi nhuận là chủ yếu. Ngân hàng thực hiện hai hình thức hoạt động là kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng. Trong đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở
nghiệp vụ huy động vốn dưới các hình thức khác nhau, để cấp tín dụng cho khách
hàng có yêu cầu về vốn với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Các hoạt động dịch vụ Ngân
hàng được biểu hiện thông qua các nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối,
chứng khoán để cam kết thực hiện công việc nhất định cho khách hàng trong một thời
gian nhất định nhằm mục đích thu phí dịch vụ hoặc hoa hồng.
Hai là, hoạt động của NHTM phải tuân theo pháp luật nghĩa là chỉ khi NHTM
thỏa mãn đầy đủ các điều kiện khắt khe do pháp luật quy định như điều kiện về vốn,
phương án kinh doanh…thì mới được phép hoạt động trên thị trường.
Ba là, hoạt động của NHTM là hình thức kinh doanh có độ rủi ro cao hơn nhiều
so với các hình thức kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc tới các ngành
khác và cả nền kinh tế. Rủi ro đến từ phía Ngân hàng, khách hàng vay tiền và từ các
yếu tố khách quan. Để tránh rủi ro đáng tiếc xảy ra Chính phủ các quốc gia đã đặt ra
những đạo luật riêng nhằm kiểm soát, đảm bảo cho hoạt động của Ngân hàng được
vận hành an toàn và đúng quy trình của nó.
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 3 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Cùng với sự phát triển của NHTM, hoạt động và các dịch vụ của NHTM ngày
càng được mở rộng. Nhưng nhìn chung thì có ba hoạt động chính mà NHTM thường
làm đó là:
1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Là hoạt động khởi đầu cho các hoạt động khác của NHTM. NHTM bản chất là
một tổ chức trung gian tài chính có đặc điểm hoạt động chủ yếu không phải bằng
nguồn vốn chủ sở hữu vì vậy để có nguồn vốn hoạt động, cung cấp vốn cho nền kinh
tế thì NHTM phải huy động những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế
thông qua các hoạt động nhận tiền gửi, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, đi vay từ các tổ
chức tín dụng khác hay từ NHTW.
1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn
Sau khi huy động vốn, để bù đắp được chi phí huy động vốn và có lợi nhuận thì
NHTM phải tìm cách sử dụng hiệu quả các nguồn vốn này để thu lãi. Đây là hoạt động
chủ yếu và đem lại tỷ trọng thu nhập lớn nhất cho NHTM. NHTM sử dụng vốn theo
các hướng cơ bản là hoạt động tín dụng, đầu tư chứng khoán, đầu tư mua sắm tài sản
cố định và trang thiết bị, hoạt động ngân quỹ trong đó hoạt động tín dụng là quan trọng
nhất bởi vì nó đem lại phần lớn thu nhập cho Ngân hàng.
1.1.3.3. Các hoạt động trung gian của ngân hàng thương mại
Bao gồm hoạt động thanh toán, hoạt động quản lý tài sản cho khách hàng, hoạt
động phát hành chứng khoán, hoạt động mua bán và bảo quản chứng khoán, hoạt động
cung cấp thông tin, tư vấn kinh doanh và quản trị doanh nghiệp…Các hoạt động này
không phải đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho NHTM nhưng có ý nghĩa quan trọng
trong việc mở rộng hoạt động huy động và sử dụng nguồn vốn, đồng thời đa dạng hóa
hoạt động, giảm bớt rủi ro và tăng thu nhập cho Ngân hàng.
Tuy ba nhóm hoạt động có những đặc điểm khác nhau song có quan hệ mật thiết,
gắn bó chặt chẽ và bổ sung cho nhau. Vì vậy đối với các nhà quản trị Ngân hàng
không được coi nhẹ hoạt động nào mà phải luôn đặt mối quan hệ giữa chúng trong khi
đề ra chiến lược cũng như lập kế hoạch kinh doanh để đạt được hiệu quả cao nhất

trong hoạt động.
1.1.4. Vai trò của Ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế
Trong thời gian gần đây, tình hình diễn biến lãi suất, tín dụng, giá vàng, ngoại hối
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 4 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
và đặc biệt là hoạt động của các ngân hàng thương mại đang thu hút sự quan tâm lớn
của dư luận và giới kinh doanh. Chính vì điều đó, ngân hàng thương mại thông qua
việc thực hiện chức năng, vai trò của mình nhất là chức năng trung gian tín dụng đã trở
thành một bộ phận thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự đóng góp này thể hiện như sau
• Thứ nhất, ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế để đầu tư
vào sản xuất kinh doanh và các nhu cầu chi tiêu khác.
Hiện nay, với vai trò cầu nối, ngân hàng thương mại đứng ra huy động các nguồn
vốn tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế bằng cơ chế tiền
gửi có kỳ hạn và không có kì hạn, rồi tái phân phối cho nền kinh tế quốc dân, đáp ứng
đầy đủ và kịp thời cho quá trình tái sản xuất.
• Thứ hai, ngân hàng thương mại hỗ trợ Nhà nước trong điều tiết vĩ mô nền kinh
tế.
Các ngân hàng thương mại thực hiện đúng chức năng của mình để hướng tới
mục tiêu lợi nhuận cho chính ngân hàng đồng thời đã góp phần thực hiện các mục tiêu
của chính sách tiền tệ quốc gia như ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, tạo việc làm và
tăng trưởng kinh tế. Ngân hàng thương mại ngày càng phát huy được vai trò công cụ
đòn bẩy của nó trong việc thực thi chính sách tiền tệ tín dụng, thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu nền kinh tế theo như những mục tiêu đã hoạch định. Chẳng hạn, việc xoá bỏ cơ
chế lãi suất “trần”, “sàn” , thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản, rồi chuyển sang cơ chế lãi
suất thoả thuận đã giúp cho các tổ chức tín dụng linh hoạt hơn trong điều hành lãi suất,
ưu đãi cho vay lãi suất thấp hơn, khuyến khích xuất khẩu, góp phần thực hiện mục tiêu
hướng mạnh về xuất khẩu như chính sách đã đề ra.
• Thứ ba, ngân hàng thương mại góp phần phân bổ, điều hoà vốn giữa các
ngành, các vùng trong nền kinh tế quốc dân, do đó tạo nên sự phát triển nhanh, các
vùng trong một nước

Để tạo đồng đều cân bằng về vốn giữa các ngành, vùng trong nền kinh tế, ngân
hàng thương mại sẽ đứng ra thực hiện chức năng của mình, thu hút vốn thừa ở các
ngành, vùng có nhiều nguồn vốn nhàn rỗi chuyển sang các ngành, vùng đang có nhu
cầu sử dụng vốn.
• Thứ tư, ngân hàng thương mại góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp và là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường.
Tín dụng ngân hàng là nguồn vốn chủ yếu bổ sung vốn lưu động (ngắn hạn) cho
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 5 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
các tổ chức kinh tế mua nguyên vật liệu để tiến hành sản xuất kinh doanh và hoạt động
ngân hàng đã góp phần làm biến đổi các điều kiện sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của
các chủ thể kinh tế theo hương tối ưu, nhất là đảm bảo các yếu tố “đầu vào” và “đầu
ra” qua một hệ thống đồng bộ về vốn.
1.1.4.2. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường
Thị trường ở đây bao gồm thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Để tiến hành
bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào doanh nghiệp cần phải tham gia vào thị trường
đầu vào, nơi cung cấp các nguyên vật liệu cần thiết cho việc sản xuất kinh doanh nhằm
thực hiện thành công chiến lược
Từ đó tiếp cận mạnh mẽ thị trường đầu ra, đó là nơi tiêu thụ sản phẩm để tìm
kiếm lợi nhuận. Để quá trình trên diễn ra liên tục và bình thường thì doanh nghiệp cần
có “vốn”, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ khả năng về tài chính và
NHTM là nơi cần thiết giúp doanh nghiệp cải thiện tình hình đó.
1.1.4.3. NHTM là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia và nền tài chính thế giới
Trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa như hiện nay thì vai trò này của NHTM
ngày một thể hiện rõ rệt hơn. Áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế mỗi quốc gia khi mở
cửa hội nhập với bên ngoài phải có tiềm lực lớn mạnh về mọi mặt đặc biệt là tiềm lực
về tài chính. Để có thể hòa nhập với các quốc gia khác trên thế giới, hệ thống NHTM
trong nước có khả năng cung cấp nhiều loại hình dịch vụ khác nhau hỗ trợ cho việc
đầu tư từ nước ngoài vào trong nước như: thanh toán quốc tế, cho vay ủy thác đầu tư,
…giúp cho luồng vốn ra, vào một cách hợp lý. Đây là điều kiện tiên quyết cho tiến

trình hội nhập kinh tế ở các quốc gia trên thế giới.
1.1.4.4. NHTM là công cụ để Nhà Nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Một trong những con đường dẫn đến lạm phát của nền kinh tế là lạm phát qua
con đường tín dụng và hoạt động của Ngân hàng góp phần chống lạm phát: NHTM sẽ
kiểm soát lạm phát thông qua các hoạt động tín dụng và bảo lãnh còn NHTW sẽ tác
động vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu hoặc tham gia vào thị trường mở
để thông qua các NHTM thay đổi lượng tiền trong lưu thông. Từ đó Ngân hàng sẽ đưa
ra các biện pháp để ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
1.2. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại
“Hoạt động huy động vốn của các Ngân hàng thương mại là hoạt động mà
trong đó các Ngân hàng này tìm kiếm nguồn vốn khả dụng từ các chủ thể khác nhằm
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 6 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
đảm bảo sự vận hành bình thường, hiệu quả của bản thân nó theo đúng các quy định
pháp luật”
Huy động vốn có thể được xem là một trong những nghiệp vụ xuất hiện sớm nhất
trong hoạt động của các NHTM. Trong giai đoạn sơ khai của hoạt động Ngân hàng,
những nghiệp vụ này chỉ đơn thuần là hoạt động cất giữ các tài sản có giá nhằm mục
đích đảm bảo an toàn, và lúc này, người phải trả phí là người gửi tiền chứ không phải
là các Ngân hàng, các khoản tiền chỉ được xem đơn thuần là vật được kí gửi chứ hoàn
toàn không đóng vai trò là nguồn vốn đối với các Ngân hàng thương mại, tiền lúc này
không được xem là tiền tệ theo đúng nghĩa của nó, vì không có khả năng luân chuyển,
không sinh ra được lợi nhuận. Khi nhu cầu tín dụng gia tăng, nghiệp vụ Ngân hàng
phát triển, vị thế đó bị đảo ngược, Ngân hàng là người phải trả phí (lãi suất – giá cả
của tín dụng), và nguồn tiền được kí gửi thay đổi vai trò của nó, trở thành nguồn vốn
khả dụng và lớn nhất của các NHTM hiện nay. Chính vì vậy, trái ngược với quá khứ,
Ngân hàng là người phải đi nài nỉ khách hàng gửi tiền. Nếu trước đây, Ngân hàng là
người bị động trong quan hệ này thì hiện nay, hầu hết tất cả các Ngân hàng đều có các
chính sách, phương thức để lôi kéo nguồn tiền gửi này và chính vì vậy các phương
thức huy động vốn ngày càng trở nên quan trọng, phong phú và đa dạng hơn. Có thể

nói, hiện nay, hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động hết sức quan
trọng và liên quan đến sự sống còn của các NHTM.
Xuất hiện khá lâu đời và không ngừng phát triển, thay đổi cùng với sự phát triển
của các NHTM, nội hàm của khái niệm hoạt động huy động vốn đã có những thay đổi
rất đáng kể, cả về quy mô và các hình thức thể hiện. Hơn nữa, gần như không tìm
được một định nghĩa hoàn thiện về hoạt động này cũng như không có được sự thống
nhất hoàn toàn giữa các quan điểm. Đặc biệt, là sự khác biệt trong cách hiểu khi đề cập
vấn đề này dưới các khía cạnh khác nhau.
Phổ biến nhất là việc sử dụng thuật ngữ này trong các khía cạnh không chuyên,
đặc biệt là ngôn ngữ thường nhật của xã hội và báo chí. Khái niệm huy động vốn được
sử dụng ở đây đối với hoạt động của các NHTM có thể nói là hẹp và không rõ ràng
nhất, trong nhiều trường hợp có sự không thống nhất trong nội hàm của bản thân khái
niệm. Nhưng nhìn chung, phổ biến nhất, khái niệm này được dùng chủ yếu đề cập đến
một hoạt động đặc trưng nhất của các NHTM, đó là nhận tiền gửi và dưới các hình
thức cơ bản nhất, cụ thể là nhận tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi có và không có
kì hạn khác.
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 7 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
Dưới khía cạnh kinh tế cũng có khá nhiều cách tiếp cận với riêng khái niệm này,
tuy cũng khá tương đồng nhau và phạm vi thường rộng hơn khái niệm được đề cập ở
trên nhưng nội hàm của chúng thường không đồng nhất. Cách tiếp cận thông thường
nhất hiện nay trong các nghiên cứu của các chuyên ngành kinh tế, tài chính Ngân hàng
là tiếp cận khái niệm huy động vốn từ nguồn gốc của các nguồn vốn. Chẳng hạn,
nguồn vốn được chia thành vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, vốn tiếp nhận, vốn
khác. Chính vì vậy, hoạt động huy động vốn của NHTM lúc này bao gồm cả việc khởi
tạo nguồn vốn ban đầu cho sự hình thành vốn điều lệ và cả việc tạo lập nguồn vốn cấp
2 (một bộ phận của nguồn vốn tự có) của NHTM.
1.2.1. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động được
dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Nó chi phối

toàn bộ hoạt động của NHTM, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng
bao gồm:
1.2.1.1. Vốn của chủ sở hữu
Khái niệm
Vốn chủ sở hữu là điều kiện đầu tiên để ngân hàng được luật pháp cho phép hoạt
động và đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị,
nhà cửa. Nguồn hình thành nên vốn chủ sở hữu gồm nguồn hình thành ban đầu, nguồn
vốn bổ sung trong quá trình hoạt động, nguồn vay nợ có khả năng chuyển đổi thành cổ
phần và các quỹ.
Vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ so với vốn nợ, do đặc trưng trong kinh
doanh ngân hàng là huy động để cho vay.
Vốn chủ sở hữu có vai trò bảo vệ người gửi tiền: Kinh doanh ngân hàng thường
xuyên đối đầu với rủi ro. Các khoản tổn thất của ngân hàng sẽ được bù đắp bằng vốn
chủ sở hữu. Như vậy, nếu quy mô vốn chủ sở hữu lớn, người gửi tiền và người cho
vay sẽ cảm thấy an tâm hơn về ngân hàng.
Vốn chủ sở hữu có vai trò tạo lập tư cách pháp nhân và duy trì hoạt động cho
ngân hàng: Như đã phân tích ở trên, để hoạt động điều kiện đầu tiên là ngân hàng phải
có được số vốn tối thiểu ban đầu. Số vốn này được sử dụng để mua sắm trang thiết bị,
nhập công nghệ, xây thêm chi nhánh, mở văn phòng đại diện
Ngoài ra, Vốn chủ sở hữu có vai trò điều chỉnh các hoạt động của ngân hàng:
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 8 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
Rất nhiều quy định về hoạt động của ngân hàng có liên quan chặt chẽ với Vốn chủ sở
hữu như quy mô nguồn tiền gửi được tính theo tỷ lệ với Vốn chủ sở hữu Vì vậy quy
mô và cấu trúc hoạt động của ngân hàng được điều chỉnh theo vốn chủ sở hữu.
Các thành phần vốn của chủ sở hữu và đặc điểm của chúng
- Vốn góp
Vốn ban đầu hình thành khi ngân hàng bắt đầu hoạt động với tính chất sở hữu
và nguồn hình thành khác nhau. Nếu là ngân hàng tư nhân thì đó là vốn do cá nhân tự
bỏ ra; nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước thì do ngân sách Nhà nước cấp; nếu là

ngân hàng cổ phần thì do cổ đông thông qua mua các cổ phần (hoặc cổ phiếu); nếu là
ngân hàng liên doanh thì do các bên tham gia liên doanh góp.
Trường hợp của ngân hàng cổ phần có thể được hình thành từ cổ phần thường
và cổ phần ưu đãi
Vốn góp = Số lượng cổ phiếu X mệnh giá
Vốn ban đầu thường phải tuân thủ các qui định của NHNN. Các qui định
thường nêu rõ số vốn tối thiểu - vốn pháp định mà chủ ngân hàng cần phải có để bắt
đầu kinh doanh ngân hàng. NHNN, luật NHNN có qui định cụ thể cho từng loại ngân
hàng trong từng điều kiện cụ thể.
Vốn thường không phải hoàn trả. Các cổ đông có thể bán cổ phiếu trên thị
trường vốn (thị trường chứng khoán). Các cổ phần thường được hưởng cổ tức cao hay
thấp tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh và chính sách phân chia lợi nhuận của ngân
hàng.
- Thặng dư vốn
Là giá trị chênh lệch khi phát hành cổ phiếu so với mệnh giá gốc.
Thặng dư vốn cổ phần = (giá phát hành - mệnh giá) x số lượng cổ phần
Thặng dư vốn do đánh giá lại tài sản là phần thặng dư khi ngân hang đánh giá lại
tài sản của mình.
Thặng dư tài sản = Giá trị mới – Giá trị cũ
Thặng dư vốn cổ phần phát sinh trong các trường hợp Ngân hàng phát hành cổ
phiếu (có thể là phát hành mới IPO hoặc phát hành thêm) mà giá phát hành cao hơn
mệnh giá.
Phần thặng dư này được hạch toán vào vốn chủ sở hữu, dưới khoản mục thặng
dư VCP, có thể được dùng để trả cổ tức, CP thưởng nhằm tăng số vốn CP lên
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 9 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
-Lợi nhuận tích lũy
Vốn này được hình thành trong quá trình hoạt động của Ngân hàng thông qua
việc trích nộp các quỹ. Cứ mỗi Ngân hàng căn cứ vào kết quả hoạt động của mình mà
trích một phần lợi nhuận nhằm bổ xung vào vồn tự có của Ngân hàng. Tuy nhiên, tỷ lệ

này lại tuỳ thuộc vào quy định của từng nước.
Phần trăm lợi nhuận thuần không dùng để trả cổ tức mà được ngân hàng giữ lại
để tái đầu tư theo các mục tiêu chiến lược hoặc để trả nợ. Lợi nhuận giữ lại được thể
hiện bên dưới vốn cổ phần chủ sở hữu trong bảng cân đối kế toán.
Lợi nhuận tích lũy được tính toán bằng cách thêm vào lợi nhuận tích lũy ban
đầu (các năm trước đó) thu nhập thuần và trừ đi cổ tức trả cho các cổ đông
Lợi nhuận tích lũy = Lợi nhuân tích lũy ban đầu +Thu nhập ròng – Cổ tức
Trong hầu hết các trường hợp, ngân hàng giữ lại lợi nhuận nhằm đầu tư vào các
khu vực mà công ty có thể tạo ra các cơ hội tăng trưởng tốt, thí dụ như mua máy móc
thiết bị mới hoặc chi tiền chi nhiều hơn cho việc nghiên cứu và phát triển
Nếu khoản lỗ trong năm nay lớn hơn thu nhập giữ lại ban đầu thì lợi nhuận giữ
lại có thể là một số âm, tạo nên một khoản thiếu hụt trong doanh nghiệp.
1.2.1.2. Vốn nợ
Khái niệm
Khác với các loại hình doanh nghiệp khác, vốn nợ của NHTM chiếm tỷ trọng
lớn hơn nhiều so với vốn của chủ và đây là loại vốn cơ bản để tài trợ cho các danh
mục tài sản của NHTM. Vốn nợ được huy động từ các nguồn tiền gửi, vay và một số
loại khác.
Nếu vốn chủ sở hữu có vai trò quan trọng để ngân hàng được đi vào hoạt động
và là đệm đỡ không thể thiếu của ngân hàng thì vốn nợ lại là yếu tố quyết định đến sự
tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng.
Trên cơ sở vốn nợ tạo lập, ngân hàng sử dụng để cho vay, đầu tư vào chứng
khoán, mua sắm tài sản cố định, tiền gửi tại ngân hàng khác và phải được thực hiện dự
trữ theo quy định để đảm bảo khả năng thanh toán. Qui mô, cơ cấu của các nhóm tài
sản này được xác định một phần căn cứ vào qui mô, cơ cấu vốn nợ.
Thêm vào đó, tính ổn định về chi phí và thời hạn của vốn nợ quy định số tiền
phải dự trữ là cơ sở cân nhắc đầu tư bao nhiêu vào chứng khoán ngắn hạn nên cho vay
với thời hạn nào, lãi suất bao nhiêu để phù hợp với vốn.
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 10 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG

Như vậy, vốn nợ có vai trò hết sức quan trọng trong việc quyết định danh mục
tài sản đầu tư, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của NHTM.
Ngoài ra, qui mô và kết cấu của vốn nợ cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự an nguy
hoạt động của NHTM. Sự không phù hợp giữa việc huy động vốn từ bên ngoài và việc
sử dụng vốn về thời hạn, độ nhạy cảm với lãi suất, qui mô các loại tiền có thể dẫn tới
các rủi ro về thanh toán, lãi suất, tỷ giá mà ngân hàng phải gánh chịu.
Các thành phần vốn nợ và đặc điểm của chúng
- Tiền gửi
Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải thanh toán khi khách hàng yêu cầu
ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn.
Quy mô tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường nguồn chiếm hơn
50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của ngân hàng.
Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi thường cao
hơn lãi trả cho tiền gửi.
Tiền gửi nhất là tiền gửi ngắn hạn thường nhạy cảm với các biến động về lãi
suất, tỷ giá, thu nhập và nhiều nhân tố khác. Lãi suất cao là yếu tố kích thích các
doanh nghiệp, dân cư gửi và cho vay. Thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng quy
mô và thay đổi kỳ hạn nguồn tiền gửi.
Các yếu tố khác như địa điểm ngân hàng, các loại hình huy động đều ảnh
hưởng tới quy mô và cấu trúc của nguồn tiền.
- Tiền vay
Tỷ trọng nguồn này thấp hơn so với nguồn tiền gửi. Khác với nhận tiền gửi,
ngân hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên chỉ vay lúc cần thiết và hoàn
toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng. Các khoản vay
thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức thời khi nhu cầu thanh toán
của khách hàng tăng cao. Hơn nữa vay NHNN phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ
trong từng thời kỳ.
- Nguồn khác
Phần lớn các nguồn này ngân hàng không phải trả lãi. Tuy nhiên, chi phí để có
và duy trì chúng là rất đáng kể. Nhìn chung, các nguồn khác trong ngân hàng thường

không lớn.
Tóm lại, qua những vấn đề được đề cập ở trên thì rõ ràng vốn có vai trò quan
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 11 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
trọng quyết định sự sống còn của một ngân hàng đặc biệt là vốn nợ. Để có được vốn
nợ thì hoạt động huy động vốn từ bên ngoài lại càng có vai trò hết sức quan trọng. Sau
đây là những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn từ bên ngoài trong NHTM.
1.2.2. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Các NHTM làm nhiệm vụ vay tiền (hầu hết từ những người gửi tiền) cho vay với
mục đích hưởng lợi qua lãi suất. Đây là một công việc của một trung gian tài chính
đóng vai trò trung gian giữa người cần vốn và người có vốn. Quá trình tạo vốn của
NHTM được thể hiện dưới các hình thức sau:
1.2.2.1. Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi của khách hàng
Tiền gửi thanh toán
Với loại tiền này khách hàng có thể gửi tiền vào và rút tiền ra bất cứ lúc nào có nhu
cầu. Mục đích chính của người gửi tiền nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các
khoản thanh toán qua Ngân hàng. Tài khoản này mở cho các khách hàng cá nhân hoặc tổ
chức có nhu cầu thực hiện thanh toán qua Ngân hàng.Tuy nhiên hiện nay tại Việt Nam tỷ
trọng trong thanh toán không dùng tiền mặt còn thấp cho nên để khuyến khích việc thanh
toán qua Ngân hàng các NHTM Việt Nam đã tiến hành trả lãi cho khoản tiền này còn ở
các nước kinh tế phát triển thì không trả lãi cho khoản tiền này.
Tiền gửi có kỳ hạn
Đây là loại tiền gửi mà khách hàng chỉ được rút tiền khi thời hạn ấn định kết
thúc. Nếu khách hàng có nhu cầu rút trước thời hạn thì Ngân hàng sẽ không trả lãi cho
khách hàng. Tuy nhiên ở Việt Nam để khuyến khích khách hàng gửi tiền thì Ngân
hàng sẽ trả cho khách hàng với mức lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn.
Đây là nguồn vốn tương đối ổn định do thời gian gửi tiền đã được ấn định trước
nên Ngân hàng thường trả lãi rất cao. Nó phù hợp với những người có khoản tiền tạm
thời nhàn rỗi hoặc những người đang tìm cách quay vòng vốn trong một thời gian để
đạt hiệu quả cao nhất. Hiện tại các NHTM có các loại tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng, 3

tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm và 2 năm, với mỗi kỳ hạn khác nhau thì Ngân hàng áp
dụng một loại lãi suất khác nhau, thường kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao. Tuy nhiên
ở các NHTM Việt Nam hiện nay kỳ hạn 1 tháng là rất hãn hữu và ở nhiều Ngân hàng
khác loại kỳ hạn này không tồn tại.
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Là loại tiền gửi mà khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng thì họ được giao một
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 12 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
cuốn sổ tiết kiệm coi như một giấy chứng nhận tiền gửi vào Ngân hàng. Tiền gửi tiết
kiệm bao gồm:
+) Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:
Thực chất đây là loại tiền gửi thông thường, người gửi tiền có thể rút ra một phần
hoặc toàn bộ số tiền gửi bất cứ lúc nào mà không thông báo trước nhưng khác với loại
tiền gửi thanh toán, người gửi tiền không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi
trả cho người khác, bên cạnh đó số dư của loại này thường không lớn và có ưu điểm
hơn tiền gửi giao dịch ở chỗ là số dư này ít biến động nên lãi suất tiền gửi tiết kiệm
thường cao hơn so với tiền gửi thanh toán và phần lớn những người gửi tiền tiết kiệm
là do chưa xác định được nhu cầu chi tiêu cụ thể trong tương lai nhưng lại hưởng mức
lãi trong thời gian khoản tiền nhàn rỗi.
+) Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
Là loại tiền gửi dành cho khách hàng cá nhân và tổ chức có nhu cầu gửi tiền vì
mục tiêu an toàn, sinh lợi và thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong tương lai.
Loại này tương đối ổn định vì Ngân hàng xác định được thời gian rút tiền của
khách hàng. Đối với loại tiền gửi này Ngân hàng có nhiều loại thời hạn với lãi suất
cao hơn loại tiền gửi không kỳ hạn và mức lãi suất còn thay đổi tùy theo loại đồng
tiền gửi tiết kiệm (VNĐ, USD, EUR, hay vàng) và còn tùy theo uy tín, rủi ro của
Ngân hàng nhận tiền gửi.
1.2.2.2. Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá
Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn
trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều

kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và người mua.
Đặc điểm của loại vốn này là lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm, mục đích
huy động dùng để đáp ứng cho các dự án đầu tư lớn, được huy động theo nhiều thời
hạn khác nhau như ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Hiện nay ở các NHTM Việt Nam
thường huy động nguồn vốn này dưới hình thức phát hành kỳ phiếu có mục đích và
trái phiếu trung, dài hạn.
+) Trái phiếu Ngân hàng: Là một cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ (cả gốc và
lãi) của Ngân hàng phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu với mục đích là
nhằm huy động vốn trung và dài hạn, lãi suất của trái phiếu thường cao hơn lãi suất
của tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu. Việc phát hành trái phiếu các NHTM chịu sự quản lý
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 13 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
của Ngân hàng trung ương, của các cơ quan quản lý trên thị trường chứng khoán và có
thể bị chi phối bởi uy tín của Ngân hàng.
+) Kỳ phiếu Ngân hàng: Đây là loại giấy tờ có giá ngắn hạn, người sở hữu có thể
chuyển nhượng cho người khác qua chứng nhận của Ngân hàng vì trên sổ kỳ phiếu có
ghi tên người hưởng.
+) Phát hành chứng chỉ tiền gửi: Nó là những giấy tờ xác nhận tiền gửi định kỳ
ở một Ngân hàng, người sở hữu giấy này sẽ được thanh toán tiền lãi theo kỳ và nhận
đủ vốn khi đến hạn. Chứng chỉ sau khi phát hành được lưu thông trên thị trường.
1.2.2.3. Vốn vay từ các tổ chức tài chính tín dụng
Thực hiện thông qua thị trường liên Ngân hàng, giúp các NHTM giải quyết sự
mất cân đối giữa việc huy động và sử dụng vốn gây thiếu vốn đột xuất.
1.2.2.4. Vốn vay từ NHTW
Khi các NHTM hết khả năng vay vốn của nhau mà vẫn thiếu vốn hoặc mất khả
năng thanh toán thì NHTW là cứu tinh cuối cùng nhằm bổ sung nguồn vốn kinh doanh
đảm bảo cho hệ thống Ngân hàng thương mại hoạt động bình thường. Các hình thức
chủ yếu mà NHTW sử dụng để cấp tín dụng cho các NHTM là cho vay, mua bán, chiết
khấu, tái chiết khấu đối với các giấy tờ có giá.
1.2.2.5. Tạo vốn từ nguồn vốn khác

Đó là từ các tổ chức tài chính quốc tế, đây là nguồn vốn lớn, có thời hạn tương
đối dài từ 5 đến 50 năm với lãi suất tương đối ưu đãi tuy nhiên nó có các điều kiện
kèm theo rất chặt chẽ và việc cấp phát phải đúng nội dung chương trình của các dự án
tài trợ.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động huy động vốn của NHTM
Đối với các Ngân hàng Thương mại, cho vay có vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển, mở rộng phạm vi kinh doanh. Tăng trưởng nguồn vốn và đạt được
mục tiêu lợi nhuận của bản thân ngân hàng đó. Nhận thấy được tầm quan trọng của
hoạt động cho vay, việc đánh giá hiệu quả của hoạt động này được phân tích qua hai
chỉ tiêu cơ bản.
1.2.3.1.Quy mô huy động
- Doanh số cho vay : Là chỉ tiêu cơ bản khi đánh giá một cách khái quát có hệ
thống đối với những khoản vay tại một thời điểm. Khi xác định doanh số cho vay,
chưa có sự đánh giá cụ thể về chất lượng các khoản vay và phần rời của những khoản
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 14 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
vay trong một thời kỳ nhất định ( trong ngày, tháng, quý, năm ) nhưng đây là chỉ tiêu
cho biết khả năng luân chuyển sử dụng vốn của một ngân hàng, quy mô đầu tư và cấp
vốn tín dụng của ngân hàng đó đối với nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ.
- Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế : Tổng dư nợ nội tệ và ngoại tệ thể hiện
được mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng, đồng thời là chỉ tiêu phản
ánh phần vốn đầu tư hiện đang còn lại tại một thời điểm của ngân hàng mà ngân hàng
đã cho vay chưa thu về. Đồng thời, chỉ tiêu này cũng phản ánh mối quan hệ với doanh
số cho vay ( Dư nợ đầu kỳ +Doanh số cho vay - Doanh thu số nợ = Dư nợ cuối kỳ )
với khả năng đáp ứng nguồn vốn của các ngân hàng thương mại đối với những nhu
cầu sử dụng vốn trong nền kinh tế.
- Doanh số thu nợ : Là chỉ tiêu phẩn ánh khả năng thu hồi nợ của những khoản
cho vay khi đến thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Vốn vay / Khả năng giải quyết, xử lý vốn tồn đọng : Là chỉ tiêu phản ánh độ
nhạy bén, khả năng luân chuyển vốn tồn đọng theo chiều hướng đem lại lợi nhuận cho

ngân hàng
- Tỷ trọng doanh số cho vay / Tổng số vốn huy động : Chỉ tiêu thể hiện khả năng
sử lý nguồn vốn huy động đảm bảo khả năng lợi nhuận đồng thời bảo đảm nhu cầu
thanh toán.
1.2.3.2.Cơ cấu huy động
Tỷ trọng các loại tiền gửi: chỉ tiêu này thể hiện cơ cấu vốn huy động theo các tiêu
thức: thời gian, loại tiền, sản phầm: tiền gửithanh toán, tiền gửi tiết kiệm,thẻ tín
dụng,thanh toán POS
Chỉ tiêu này nhằm phân tích đối tượng, phạm vi và phương thức huy động của
ngân hàng. Mỗi loại tiền gửi có những yêu cầu khác nhau về chi phí, thanh khoản…do
đó việc xác định rõ cơ cấu vốn huy động sẽ giúp ngân hàng hạn chế những rủi ro có
thể gặp phải và tối thiểu hoá chi phí đầu vào cho ngân hàng.
1.2.3.2.Chi phí huy động vốn
Lãi suất huy động luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các chủ thể kinh tế. Người
gửi muốn một lãi suất cao , người vay lại muốn lãi suất thấp . Là trung gian đóng vai trò cầu
nối giữa hai đối tượng trên , ngân hàng phải tìm cách điều chỉnh mức lãi suất sao cho hợp lý
nhất đối với các bên , trong đó điều quan trọng là phải đảm bảo lợi ích của ngân hàng . Vì
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 15 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
vậy trong huy động vốn , mỗi ngân hàng đều cố gắng áp dụng mọi biện pháp có thể nhằm
tìm kiếm được những nguồn vốn sao cho chi phí huy động vốn bình quân là nhỏ nhất và sử
dụng số vốn đó để cho vay với một mức lãi suất chấp nhận được trên thị trường . Chi phí
huy động được đánh giá qua hệ thống các chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân (tính bằng
bình quân gia quân gia quyền của lãi suất các nguồn theo khối lượng từng nguồn), lãi suất
huy động của từng nguồn và đặc biệt là lãi suất cạnh tranh NEC
Chi phí trả lãi = (Chi phí trả lãi) / (Tổng số vốn đi vay và tiền gửi). bình quân gia quyền
Mặt khác , cũng với một mức chi phí trả lãi bình quân , sự đa dạng hoá trong lãi suất
cho phù hợp với mỗi hình thức huy động vốn là cần thiết , Sự đa dạng hoá lãi suất làm cho
tăng tính hiệu quả của chính sách lãi suất mà ngân hàng đưa ra . Nếu có chính sách lãi suất
phù hợp , hiệu quả , ngân hàng sẽ tối thiểu hoá được chi phí trong khi vẫn hoàn thanh kế

hoạch về nguồn vốn .
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của Ngân hàng
thương mại
1.3.1. Nhân tố chủ quan
1.3.1.1.Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Ngân hàng phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp. Trong
chiến lược kinh doanh ngân hàng phải quyết định sẽ mở rộng hoặc thu hẹp quy mô
huy động vốn, thay đổi tỷ trọng các nguồn vốn trong tổng nguồn vốn, lãi suất huy
động. Nếu chiến lược kinh doanh đúng đắn ngân hàng sẽ khai thác được nguồn vốn
đáp ứng nhu cầu và đạt hiệu quả cao.
1.3.2.2. Chính sách khách hàng
Đây là điều kiện thứ hai mà khách hàng quan tâm đến sau uy tín của Ngân hàng.
Như mọi doanh nghiệp khác, Ngân hàng biết rằng “khách hàng là thượng đế” và các
chính sách ưu đãi cho họ là cần thiết để thu hút tiền nhàn rỗi, Ngân hàng nào mà nhanh
nhạy thấu đáo điều này thì sẽ giành được thị phần nhiều hơn.
1.3.2.3. Chính sách Marketing
Đây là chính sách rất quan trọng đối với các loại hình doanh nghiệp đặc biệt là
trong ngành Ngân hàng hiện nay. Để khách hàng biết đến mình, hiểu về những chính
sách của mình… thì các Ngân hàng phải quảng bá mình trên mọi phương tiện thông
tin đại chúng, trên cả pano, áp phích, tờ rơi…
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 16 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
1.3.2.4. Các hình thức huy động vốn
Các Ngân hàng muốn dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn thì trước hết phải đa dạng hóa
hình thức huy động vốn, mức độ đa dạng càng cao thì dễ dàng đáp ứng một cách tối đa
nhu cầu của dân cư vì họ đều tìm thấy cho mình một hình thức gửi tiền phù hợp mà lại
an toàn. Do vậy các Ngân hàng thường cân nhắc rất kỹ lưỡng trước khi đưa vào áp
dụng một hình thức mới.
1.3.2.5. Chính sách lãi suất cạnh tranh
Các Ngân hàng cạnh tranh giành vốn không chỉ với các Ngân hàng khác mà còn

với các tổ chức tiết kiệm, các thị trường tiền tệ và với những người phát hành các công
cụ tài chính khác nhau trong thị trường tiền tệ. Khi mức lãi suất tối đa bị loại bỏ trong
quá trình nới lỏng các quy định việc duy trì mức lãi suất cạnh tranh càng trở nên gay
gắt đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ, đủ cho những khác biệt tương đối nhỏ
về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy người gửi tiền tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ Ngân
hàng này sang Ngân hàng khác hay từ công cụ này sang công cụ khác.
1.3.2.6. Năng lực, trình độ cán bộ Ngân hàng
+) Về mặt quản lý: trình độ quản lý tốt sẽ có khả năng tư vấn phù hợp cho khách
hàng thu hút được khách hàng đến với mình đồng thời đảm bảo được an toàn vốn, tăng
uy tín.
+) Về trình độ nghiệp vụ: ảnh hưởng lớn tới chất lượng phục vụ.
1.3.2.7. Công nghệ Ngân hàng
+) Các loại dịch vụ mà Ngân hàng cung ứng
+) Trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên của Ngân hàng
+) Cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng.
1.3.2.8. Các dịch vụ cung ứng của Ngân hàng
Một Ngân hàng có dịch vụ tốt và đa dạng có lợi thế hơn so với các Ngân hàng có
dịch vụ hạn chế, đây là điểm mạnh để các Ngân hàng giành lợi thế trong cạnh tranh.
Ví dụ: Một Ngân hàng có giao dịch mặt đường trên các phố chính, có hệ thống
rút tiền tự động làm việc ngày đêm, cán bộ giao dịch niềm nở, có trách nhiệm là lợi thế
rất lớn.
1.3.2.9. Mạng lưới phục vụ cho việc huy động vốn
Mạng lưới này thể hiện qua việc tổ chức các quỹ tiết kiệm, không chỉ xuất hiện
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 17 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
tại các trung tâm kinh tế lớn mà nó còn được phân phối tại những nơi cách xa trung
tâm như nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Trên đây là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của
Ngân hàng thương mại, với mỗi Ngân hàng khác nhau, trong từng thời kỳ khác nhau

mức độ ảnh hưởng là khác nhau. Tùy thuộc vào tình hình cụ thể mà các Ngân hàng
xây dựng cho mình một chiến lược huy động thích hợp.
+) Sự phát triển của nền kinh tế
Theo các lý thuyết kinh tế thì sự tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế quyết
định đến thu nhập của các tổ chức cá nhân, như vậy sẽ có hoặc không có một khoản
tiền nhàn rỗi đưa vào tích lũy bằng cách gửi vào Ngân hàng. Đây là yếu tố quyết định
khả năng huy động vốn của Ngân hàng.
Khi nền kinh tế phát triển ổn định, đảm bảo được giá trị của đồng tiền từ đó tiền
gửi vào Ngân hàng của khách hàng được an toàn, tạo được sự an tâm về tâm lý cho
khách hàng mở ra tiềm năng và mở rộng phạm vi đầu tư, lĩnh vực kinh doanh cho
NHTM. Ngược lại khi nền kinh tế phát triển không ổn định, sản xuất bị đình trệ,…
nhân dân sẽ mất lòng tin vào giá trị của đồng tiền dẫn đến mất an toàn và rủi ro cho
đồng vốn kinh doanh của NHTM và khả năng huy động vốn cũng bị thu hẹp.
+) Môi trường pháp lý
Cơ chế chính sách pháp luật của nhà nước rất chặt chẽ, đồng bộ các định hướng
phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước mang tính ổn định lâu dài sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh.
NHTM là tổ chức chịu sự tác động rất lớn của môi trường pháp lý nhất là các
chính sách của nhà nước. Các bộ luật tác động trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động huy
động vốn của Ngân hàng như: luật các tổ chức tín dụng, luật NHNN,…, luật đầu tư
nước ngoài. Bên cạnh đó là chính sách tiền tệ cũng ảnh hưởng không nhỏ, ví dụ khi
lạm phát nền kinh tế tăng, Nhà nước thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách
tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã hội thì lúc đó NHTM sẽ huy động vốn dễ
dàng hơn. Như vậy mục tiêu hoạt động của NHTM được xây dựng vào các quy định,
quy chế của Nhà nước để đảm bảo an toàn và nâng cao niềm tin từ khách hàng.
+) Nhu cầu về vốn của nền kinh tế
NHTM là trung gian tập trung và phân phối vốn cho nền kinh tế, khi nhu cầu vay
vốn giảm thì khả năng huy động vốn của Ngân hàng cũng giảm theo.
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 18 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG

+) Tâm lý, thói quen của khách hàng
Khách hàng vừa là người gửi tiền vừa là người sử dụng vốn, thu nhập ảnh hưởng
đến nguồn vốn tiềm tàng mà Ngân hàng có thể huy động trong tương lai, còn yếu tố
tâm lý ảnh hưởng đến sự biến động ra vào của các nguồn tiền. Tâm lý tin tưởng vào
tương lai của khách hàng có tác dụng làm ổn định lượng tiền gửi vào, rút ra và ngược
lại. Một điểm quan trọng nữa là mức độ thường xuyên của việc sử dụng các dịch vụ
Ngân hàng của khách hàng, mức độ này càng cao thì điều kiện mở rộng huy động vốn
càng trở nên dễ dàng hơn.
1.3.2. Nhân tố khách quan
1.3.2.1. Môi trường chính trị - pháp luật
Kinh doanh ngân hàng là một trong những ngành chịu sự giám sát chặt chẽ của
pháp luật và các cơ quan chức năng của chính phủ. Hoạt động ngân hàng được điều
chỉnh rất chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật. Môi trường pháp lý đem lại cho ngân
hàng hàng loạt các cơ hội và thách thức. Ví dụ như việc dỡ bỏ các hạn chế về huy động
vốn tièn gửi nội tệ sẽ mở đường cho các ngân hàng nước ngoài phát triển các sản phẩm
để huy động tiền gửi nội tệ và các sản phẩm về cho vay nội tệ.
Ngoài ra ngân hàng còn chịu sự điều chỉnh của rất nhiều bộ luật : luật dân sự,
luật NHTƯ, các quy định của chính phủ Do đó hoạt động huy động vốn của ngân
hàng cũng bị ảnh hưởng bởi chính sách pháp luật của nhà nước, chính sách của NHTƯ
như: chính sách tiền tệ, lãi suất, tài chính, tín dụng Sự thay đổi của những chính sách
này sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn và chất lượng nguồn của NHTM.
1.3.2.2. Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến khả năng thu
nhập, chi tiêu, thanh toán và nhu cầu về vốn và gửi tiền của dân cư và ảnh hưởng rất lớn
đến hoạt động huy động của ngân hàng .
Sự thay đổi của các yếu tố: tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát, thu nhập
bình quân đầu người thay đổi, chính sách đầu tư, tiết kiệm của chính phủ sẽ ảnh
hưởng đến khả năng tiêu dùng và tiết kiệm của dân cư và từ đó ảnh hưởng đến khả
năng thu hút vốn của NHTM. Ví dụ khi thu nhập bình quân đầu người tăng thì tiêu
dùng và tiết kiệm tăng và người dân gửi tiền vào ngân hàng tăng và ngược lại.

1.3.2.3.Môi trường dân số
Môi trường dân số là yếu tố rất quan trọng bởi nó không chỉ tạo thành nhu cầu và
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 19 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
kết cấu nhu cầu của dân cư về sản phẩm dịch vụ ngân hàng mà còn là căn cứ để hình
thành hệ thống phân phối của ngân hàng. Đồng thời môi trường dân số là cơ sở để xây
dựng và điều chỉnh hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Môi trường dân số ảnh
hưởng rất lớn đến hoạt động vốn của ngân hàng do đó ngân hàng phải nghiên cứu kỹ
lưỡng môi trường kinh tế trước khi đưa ra chiến lược huy động vốn để có hể huy động
được nguồn vốn phù hợp với nhu cầu của ngân hàng về chất lượng, số lượng và thời
hạn
1.3.2.4. Môi trường địa lý
Môi trường địa lý được xác định bởi quy định của quốc tế để hình thành quốc gia
và quy định từng quốc gia trong việc hình thành các tỉnh, huyện, xã, thành phố, nông
thôn tuỳ từng khu vực địa lý mà ngân hàng quyết định đặt nhiều hay ít điểm huy động
vốn và quyết định chiến lược huy động ở mỗi khu vực vì mỗi khu vực có số dân và các
điều kiện khác nhau.
1.3.2.5. Môi trường công nghệ
Sự thay đổi về công nghệ có tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế và xã hội. Hoạt
động ngân hàng là một trong những hoạt động chụi sự tác động mạnh mẽ của công
nghệ, hoạt động ngân hàng là hoạt động không thể tách rời khỏi sự phát triển của công
nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin.
Công nghệ có ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển của ngân hàng, nó mang lại
cho ngân hàng nhiều cơ hội nhưng cũng mang lại hàng loạt những thách thức mới.
Công nghệ mới cho phép ngân hàng đổi mới quy trình nghiệp vụ, cách thức phân phối
sản phẩm, phát triển các sản phẩm mới nhờ có công nghệ mà hoạt động huy động vốn
được cải tiến, phất triển, rút ngắn thời gian giao dịch và thực hiện nghiệp vụ chính xác
giúp ngân hàng có khả năng thu hút được nhiều vốn, nhiều khách hàng và tăng thu nhập
và uy tín của ngân hàng.
1.3.2.6. Môi trường văn hoá xã hội

Mỗi quốc gia đều có một nền văn hoá riêng, văn hoá chính là yếu tố tạo nên bản
sắc của các dân tộc như: tập quán, thói quen, tâm lý Đối với ngân hàng hoạt động huy
động vốn là hoạt động chịu nhiều ảnh hưởng của môi trường văn hoá. Cụ thể ở các
nước phát triển người dân có thói quen gửi tiền vào ngân hàng để hưởng những tiện ích
trong thanh toán, hưởng lãi và trong tiềm thức họ ngân hàng là một phần không thể
thiếu được , là một phàn tất yếu của nền kinh tế. Do vậy ngân hàng gặp không mấy khó
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 20 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
khăn trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư và tổ chức kinh tế. Ngược lại ở
những nước đang phát triển như Việt Nam việc huy độn vốn của ngân hàng gặp rất
nhiều khó khăn vì người dân Việt Nam hiện nay vẫn chưa quen sử dụng các dịch vụ
ngân hàng. Mặt khác ngân hàng chưa thực sự tạo được lòng tin đối với người dân sáu
hàng loạt sự kiện đã xảy ra như: đổi tiền 1985-1986, tỷ lệ lạm phát 600-700% làm nhiều
người dân mất trắng, sự sụp đổ của 7500 quỹ tín dụng nhân dân và hàng loạt sự kiên
khác có liên quan đến ngân hàng : Dệt Nam Định, Minh phụng EPCO làm cho các ngân
hàng bị thiệt hại lớn.Ngân hàng chưa chú trọng đến công tác marketing, tiếp thị, quảng
cáo người dân còn thiếu hiểu biết về chủ trương chính sách của nhà nước, hoạt động
của ngân hàng vì vậy cho đến nay vẫn còn tình trạng có tiền nhưng không muốn gửi
ngân hàng vì không biết phải làm những thủ tục nào, người dân ngại mất thời gian do
thủ tục rườm rà
TÓM LẠI: Trong nền kinh tế thị trường, nguồn vốn huy động của mỗi NHTM có
vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của NH cũng như sự phát triển
kinh tế - xã hội của một đất nước, đặc biệt đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay và
trong nhiều năm tới. Do vậy việc mở rộng nguồn vốn huy động và sử dụng nó có hiệu
quả đang là mối quan tâm hàng đầu của toàn bộ hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong
việc phân tích và đánh giá đúng thực trạng huy động vốn của các NHTM Việt Nam để
chỉ ra những ưu điểm cần phát huy và những hạn chế tồn tại cả về phương diện chính
sách, thể lệ cũng như việc tổ chức thực hiện tại các đơn vị Ngân hàng cần thiết để một
mặt thu hút tối đa nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội phục vụ phát triển kinh tế, mặt khác
tăng hiệu quả kinh tế của các NHTM.

GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 21 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHOA: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP
SÀI GÒN-HÀ NỘI CHI NHÁNH HÀ NỘI
2.1. Khái quát về Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội (SHB) chi nhánh Hà Nội
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
2.1.1.1.Tên đầy đủ:Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội chi nhánh Hà Nội,tên
viết tắt SHB chi nhánh Hà Nội
2.1.1.2.Giấy phép ĐKKD : 0103026080
Thành lập theo các Quyết định số 214/QÐ-NH5 ngày 13/11/1993; Quyết định số
93/QÐ-NHNN ngày 20/1/2008 và số 1764/QÐ-NHNN ngày 11/9/2008.
2.1.1.3.Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Huy Tài– Giám đốc.
2.1.1.4.Địa chỉ: Số 49 Ngô Quyền, Hàng Bài, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Email:
Website:
2.1.1.5. Sự hình thành và phát triển của SHB chi nhánh Hà Nội
Sự phát triển của hệ thống NHTM nói chung đã thúc đẩy các NHTM riêng lẻ
trong việc mở rộng thêm quy mô thông qua các sở giao dịch, các chi nhánh nhỏ và các
phòng giao dịch trực thuộc chi nhánh.
Mặc





Ngân hàng

mới


được

chuyển

đổi

sang



hình

Ngân hàng

TMCP
đô

thị

nhưng

SHB

luôn

năng

động

trong


tiếp

cận

khách

hàng



đa

dạng

hóa

kênh
phân phối.

Kể

từ

khi

thành

lập,


SHB

không

ngừng

mở

rộng

mạng

lưới

kênh

phân
phối

đa năng

nhưng

vẫn



thể

cung


cấp

cho

khách

hàng

các

sản

phẩm

chuyên

biệt.
Hiện

nay, mạng

lưới

kinh

doanh

của


SHB

đã

phát

triển



các

thành

phố

lớn

trên
cả

nước

bao gồm

hội

sở

chính,


hơn

30

chi

nhánh



phòng

giao

dịch.
Cùng với sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của Ngân hàng TMCP Sài Gòn-
Hà Nội, các Chi nhánh và phòng giao dịch của nó cũng song song được ra đời phù
hợp với xu hướng phát triển chung của hệ thống NHTM trong cả nước. Chi nhánh Hà
GVHD:PGS.TS TRẦN ĐĂNG KHÂM 22 SV: NGUYỄN THẾ TÙNG

×