Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Nghiên cứu mức độ kháng kháng sinh của Vibrio alginolyticus trên tôm hùm bông (Panulirus ornatus) bị bệnh đỏ thân nuôi lồng tại tỉnh Phú Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.33 MB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG







NGUYỄN TƯỜNG VY


NGHIÊN CỨU MỨC ĐỘ KHÁNG KHÁNG SINH
CỦA VIBRIO ALGINOLYTICUS TRÊN TÔM HÙM BÔNG
(PANULIRUS ORNATUS) BỊ BỆNH ĐỎ THÂN NUÔI LỒNG
TẠI TỈNH PHÚ YÊN



LUẬN VĂN THẠC SĨ



Khánh Hòa, Năm 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG






NGUYỄN TƯỜNG VY

NGHIÊN CỨU MỨC ĐỘ KHÁNG KHÁNG SINH
CỦA VIBRIO ALGINOLYTICUS TRÊN TÔM HÙM BÔNG
(PANULIRUS ORNATUS) BỊ BỆNH ĐỎ THÂN NUÔI LỒNG
TẠI TỈNH PHÚ YÊN

Chuyên ngành: Nuôi trồng Thủy sản
Mã số: 60.62.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. VÕ VĂN NHA
2. TS. NGUYỄN VĂN MINH

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG KHOA SAU ĐẠI HỌC


Khánh Hòa, Năm 2014
i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả đã nêu trong luận văn này là công trình
nghiên cứu của tôi cùng với sự cho phép sử dụng chung số liệu của chủ nhiệm đề tài
“Đánh giá thực trạng sử dụng kháng sinh, hiện tượng kháng thuốc của vi khuẩn và đề
xuất giải pháp phòng trị bệnh tôm hùm nuôi lồng bè hiệu quả tại vùng biển Phú Yên”
thuộc chương trình đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh do Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng Thủy sản III chủ trì, những số liệu này là trung thực, chưa được ai công bố trong

bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.

Tác giả


Nguyễn Tường Vy


















ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được đề tài này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ từ nhiều phía.
Trước hết, tôi xin chân thành bày tỏ lời biết ơn sâu sắc đến các thầy cô trong trường
Đại học Nha Trang. Đặc biệt, các thầy cô khoa Nuôi Trồng Thủy Sản đã giúp tôi có

được những kiến thức chuyên ngành cơ bản, quý báu và cần thiết.
Đặc biệt tôi chân thành cảm ơn TS. Võ Văn Nha và TS. Nguyễn Văn Minh, hai
người đã trực tiếp hướng dẫn, định hướng đề tài và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
thực tập.
Tôi cũng bày tỏ lòng cảm ơn đến:
- Các anh chị thuộc Trung tâm quốc gia quan trắc cảnh báo môi trường và phòng
ngừa dịch bệnh thủy sản khu vực miền trung, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản
III đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
- Chi cục Thú y huyện Sông Cầu, Chi cục Thú y huyện Tuy An và bà con ngư
dân ở hai huyện đã giúp đỡ tôi trong thời gian điều tra và thu mẫu.
Cuối cùng tôi xin gởi lời cảm ơn đến ba mẹ, bạn bè đã luôn bên cạnh động viên
cổ vũ tôi trong suốt thời gian học tập của mình.











iii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT vi
MỞ ĐẦU 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Một vài đặc điểm về vi khuẩn Vibrio alginolyticus 3
1.1.1. Vị trí phân loại Vibrio alginolyticus 3
1.1.2. Đặc điểm phân bố của Vibrio alginolyticus 3
1.1.3. Đặc điểm hình thái, sinh lý, sinh hóa của Vibrio alginolyticus 4
1.1.4. Yếu tố gây độc của Vibrio alginolyticus 5
1.2. Những nghiên cứu trên thế giới có liên quan đến luận văn 5
1.2.1. Tình hình nuôi và bệnh trên tôm hùm nuôi trên thế giới 5
1.2.1.1. Tình hình nuôi 5
1.2.1.2. Tình hình bệnh 7
1.2.2.Tình hình sử dụng thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản trên thế
giới 8
1.2.2.1. Khái niệm về kháng sinh 8
1.2.2.2. Các nhóm kháng sinh thường được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản 9
1.2.2.3. Tình hình sử dụng kháng sinh 11
1.2.3. Những nghiên cứu về khả năng kháng kháng sinh của một số loài vi
khuẩn gây bệnh ở thủy sản nuôi trên thế giới 11
1.2.3.1. Khái niệm về kháng kháng sinh 11
1.2.3.2. Cơ chế của sự kháng thuốc 12
1.2.3.3. Những nghiên cứu về hiện tượng kháng kháng sinh của một số loài vi
khuẩn gây bệnh ở thủy sản nuôi trên thế giới 12
1.3. Những nghiên cứu ở Việt Nam có liên quan đến luận văn 13
1.3.1. Tình hình nuôi và bệnh ở tôm hùm nuôi lồng tại Việt Nam 13
1.3.2. Hiện trạng sử dụng thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản và nuôi
tôm hùm lồng ở Việt Nam 15
iv

1.3.3. Những nghiên cứu về khả năng kháng kháng sinh của vi khuẩn Vibrio

alginolyticus phân lập trên tôm hùm nuôi lồng ở Việt Nam 16
1.4. Đặc điểm điều kiện tự nhiên tỉnh Phú Yên 17
1.4.1. Vị trí địa lý 17
1.4.2. Địa hình 17
1.4.2.1. Vùng đất liền 17
1.4.2.2. Bờ biển 17
1.4.3. Một số đặc điểm thủy văn 18
1.4.3.1. Hải lưu 18
1.4.3.2. Độ mặn 18
1.4.3.3. Nhiệt độ 18
Chương 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 19
2.1. Đối tượng, phạm vi, thời gian và địa điểm nghiên cứu 19
2.1.1. Đối tượng: Vi khuẩn Vibrio alginolyticus 19
2.1.2. Phạm vi: Vi khuẩn Vibrio alginolyticus trên tôm hùm bông bị bệnh đỏ
thân nuôi lồng tại vùng biển Phú Yên 19
2.1.3. Thời gian: từ ngày 06/12/2013 đến 1/11/2014 19
2.1.4. Địa điểm 19
2.2. Phương pháp nghiên cứu 20
2.2.1. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu của đề tài luận văn 20
2.2.2. Phương pháp điều tra thực trạng nuôi và sử dụng kháng sinh trong phòng trị
bệnh do vi khuẩn trên tôm hùm bông nuôi lồng tại vùng biển tỉnh Phú Yên 21
2.2.2.1. Nguồn thông tin thứ cấp 21
2.2.2.2 Nguồn thông tin sơ cấp 21
2.2.3. Phương pháp nghiên cứu xác định hiện tượng kháng kháng sinh của
Vibrio alginolyticus trên tôm hùm bông bệnh đỏ thân 22
2.2.3.1. Phương pháp thu và xử lý mẫu tôm hùm 22
2.2.3.2. Phương pháp nuôi cấy, phân lập, định danh vi khuẩn Vibrio
alginolyticus 22
2.2.3.3. Phương pháp lập kháng sinh đồ: 23
2.2.3.4. Phương pháp xác định nồng độ ức chế tối thiểu 24

2.3 Phương pháp xử lý số liệu 26
v

2.3.1 Phân tích hiện trạng nghề nuôi 26
2.3.2 Phần mềm xử lý số liệu 26
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 27
3.1. Kết quả điều tra hiện trạng nghề nuôi và sử dụng kháng sinh ở tôm hùm
nuôi lồng tại Phú Yên năm 2014 27
3.1.1. Vùng nuôi và trình độ học vấn người nuôi tôm hùm ở Phú Yên 27
3.1.2. Hiện trạng nuôi và bệnh ở tôm hùm nuôi lồng ở Phú Yên đầu năm 2014 28
3.1.3. Hiện trạng sử dụng kháng sinh trong nuôi tôm hùm lồng ở Phú Yên đầu
năm 2014 29
3.1.3.1.Thực trạng sử dụng kháng sinh trong nuôi tôm hùm lồng ở Phú Yên
đầu năm 2014 29
3.1.3.2.Đánh giá hiệu quả của việc dùng thuốc kháng sinh trong phòng trị
bệnh đỏ thân trên tôm hùm nuôi lồng tại Phú Yên dựa trên kết quả điều tra.33
3.2. Kết quả nuôi cấy phân lập và định danh vi khuẩn 34
3.2.1. Kết quả xác định dấu hiệu bệnh lý đặc trưng của tôm hùm bị bệnh đỏ
thân ở những vùng thu mẫu khác nhau 34
3.2.2. Kết quả xác định hình thái, đặc điểm sinh lý, sinh hóa của Vibrio
alginolyticus phân lập ở những vùng thu mẫu khác nhau 36
3.2.2.1. Hình thái vi khuẩn Vibrio alginolyticus 36
3.2.2.2. Đặc điểm sinh lý, sinh hóa vi khuẩn Vibrio alginolyticus 37
3.3.1. Kết quả kháng sinh đồ các chủng vi khuẩn Vibrio alginolyticus phân lập
từ tôm hùm bông bị đỏ thân ở các vùng nuôi khác nhau 39
3.3.2. Kết quả xác định nồng độ ức chế tối thiểu của kháng sinh (MIC) với vi
khuẩn Vibrio alginolyticus phân lập từ những tôm hùm bông bị đỏ thân ở các
vùng nuôi khác nhau 45
3.3.2.1. Kết quả thử kháng sinh có nồng độ cao nhất 45
3.3.2.2. Kết quả xác định nồng độ ức chế tối thiểu MIC 45

Chương 4 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 48
4.1 Kết luận 48
4.2 Kiến nghị 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO 49
PHỤ LỤC
vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ACIAR: (Centre for International Agricultural Research): Trung tâm Nghiên
cứu Nông nghiệp Quốc tế Australia
ASIAN: (Association of Southeast Asian Nations): Hiệp hội các Quốc gia
Đông Nam Á
CARD: Chương trình Hợp tác Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
CL: Chiều dài giáp đầu ngực
CLSI: (The Clinical and Laboratory Standards Institure) Viện Tiêu chuẩn
Lâm sàng và Xét ngiệm
CFU: (Colony Forming Units): Đơn vị khuẩn lạc
MIC; (Minimal Inhibitory Concentration): Nồng độ ức chế tối thiểu
NTTS: Nuôi trồng thủy sản
NN&PTNT: Nông nghiệp và phát triển nông thôn
TCBS: (hiosulfate Citrate Bile Salts Agar): môi trường nuôi cấy chọn lọc cho
vi khuẩn Vibrio
TCVN: Tiêu chuẩn Việt Nam
TSA: (Tryptic Soy Agar): môi trường nuôi cấy không chọn lọc
R-plasmid: (resistant plasmid): là các loại plasmid chứa một hay nhiều gen có khả
năng sản xuất các loại protein (chủ yếu là các enzym) kháng lại kháng
sinh và dược chất
UBND: Ủy ban nhân dân
UI: (International Units): Đơn vị quốc tế








vii

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1:Phân bố số lượng phiếu điều tra hiện trạng nuôi và sử dụng thuốc kháng sinh
trong phòng trị bênh tôm hùm nuôi lồng năm 2014 21
Bảng 2.2: Số lượng mẫu tôm hùm thu để phân lập Vibrio alginolyticus 22
Bảng 3.1: Trình độ học vấn của chủ hộ nuôi tôm hùm lồng đầu năm 2014 (n=221) 27
Bảng 3.2: Một số bệnh/hội chứng trên tôm hùm nuôi lồng tại Phú Yên năm 2014
(n=221) 29
Bảng 3.3: Tỷ lệ số hộ sử dụng kháng sinh trong phòng trị bệnh tôm hùm tại Phú Yên
30
Bảng 3.4: Các loại kháng sinh sử dụng trong phòng trị bệnh tôm hùm nuôi lồng tại Phú
Yên đầu năm 2014 (n=221) 31
Bảng 3.5: Tỷ lệ người nuôi tôm hùm biết đến các loại kháng sinh cấm sử dụng trong
nuôi trồng thủy sản (n=221) 32
Bảng 3.6: Hiệu quả sử dụng thuốc kháng sinh trong phòng trị bệnh đỏ thân năm 2014
33
Bảng 3.7: Đặc điểm các mẫu tôm hùm thu tại Phú Yên 35
Bảng 3.8: Đặc điểm khuẩn lạc, hình dạng và kích thước chủng vi khuẩn Vibrio alginolyticus
phân lập trên tôm hùm bông bị bệnh đỏ thân nuôi tại vùng nuôi tỉnh Phú Yên 36
Bảng 3.9: Đặc điểm sinh hóa của 12 chủng Vibrio alginolyticus phân lập được ở ba
vùng địa lý khác nhau 38
Bảng 3.10: Khả năng kháng kháng sinh của vi khuẩn Vibrio alginolyticusphân lập từ
tôm hùm bị bệnh đỏ thân 40

Bảng 3.11: Tỷ lệ phần trăm nhạy, nhạy trung bình và kháng của các chủng vi khuẩn
với 8 loại kháng sinh 41
Bảng 3.12: Kết quả thử kháng sinh có nồng độ cao nhất lên vi khuẩn Vibrio
alginolyticus 45
Bảng 3.13: Kết quả xác định nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của kháng sinh đối với vi
khuẩn Vibrio alginolyticus 46



viii

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1.1: Vi khuẩn Vibrio alginolyticus 3
Hình 1.2: Các con đường trao đổi sự kháng thuốc của vi khuẩn giữa động vật và con
người. 8
Hình 2.1: Sơ đồ vùng điều tra và thu mẫu 19
Hình 2.2: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu của đề tài luận văn 20
Hình 2.3: Sơ đồ thực hiện kháng sinh đồ vi khuẩn V.alginolyticus phân lập trên tôm hùm
bông đỏ thân 24
Hình 2.4: Sơ đồ thực hiện pha loãng kháng sinh để nghiên cứu nồng độ ức chế tối
thiểu MIC 26
Hình 3.1: Số lượng lồng nuôi tôm hùm 28
Hình 3.2: Sản lượng tôm hùm nuôi lồng 28
Hình 3.3: Tôm hùm bị bệnh đỏ thân 36
Hình 3.4: khuẩn lạc vi khuẩn Vibrio alginolyticus trên môi trường TCBS (A) và vi
khuẩn Vibrio alginolyticus nhuộm Gram (B) 37
Hình 3.5: Đường kính vô trùng của vi khuẩn Vibrio alginolyticus phân lập từ tôm hùm
bị bệnh đỏ thân thu tại Xuân Phương 40
Hình 3.6: Thí nghiệm xác định nồng độ ức chế (MIC) của gentamicine lên vi khuẩn

Vibrio alginolyticus thu ở An Chấn 46
1

MỞ ĐẦU
Tôm hùm là loài giáp xác có hàm lượng dinh dưỡng cao, có giá trị về mặt mỹ
nghệ nên đã trở thành mặt hàng xuất khẩu và tiêu thụ nội địa rất được ưa chuộng.
Nghề nuôi tôm hùm trên thế giới tập trung nhiều ở Úc, New Zealand, Nam Phi, Cuba,
Brazil, Mexico, Hoa Kỳ và một số nước khu vực Đông Nam Á (Việt Nam, Singapore,
Malaysia, Philipin,…) [50]. Những năm gần đây nghề nuôi tôm hùm phát triển tại các
nước Đông Nam Á, nhiều tổ chức như ACIAR, CARD đã và đang liên kết với một số
quốc gia trong khu vực ASEAN trong đó có Việt Nam để thực hiện những nghiên cứu
nhằm phát triển nghề nuôi tôm hùm.
Tại Việt Nam, nghề nuôi tôm hùm lồng bắt đầu phát triển từ năm 2000, tôm
hùm bông (Panulirus ornatus) là loài được nuôi phổ biến nhất với những đặc điểm
riêng vượt trội về hình thái, kích thước, khả năng sinh trưởng so với 48 loài khác cùng
thuộc họ tôm hùm gai (Palinuridae). Chúng phân bố từ vùng biển Bắc Bộ đến Nam
Trung Bộ, nhưng tập trung chủ yếu ở vùng biển Nam Trung Bộ và đã trở thành đối
tượng nuôi biển quan trọng làm thay đổi đời sống kinh tế - xã hội của cộng đồng ngư
dân ven biển,với kim ngạch xuất khẩu hơn 100 triệu đô la Mỹ hàng năm [8, 18].
Phú Yên là tỉnh thuộc duyên hải Nam Trung Bộ với nhiều vũng vịnh kín gió,
đảo nổi, rạn đá, san hô… là nơi ưa thích cho các loài tôm hùm cư trú, sinh sống và
phát triển. Đến năm 2013 cả nước có khoảng 42.500 lồng, riêng tỉnh Phú yên có trên
khoảng 20.000 lồng nuôi tôm hùm đang được người dân nuôi tự phát, với việc sử
dụng nguồn thức ăn tươi sống đã dẫn đến môi trường có nguy cơ bị ô nhiễm, tạo điều
kiện thuận lợi cho các tác nhân gây bệnh phát triển, làm tình hình dịch bệnh xảy ra
thường xuyên, gây tổn thất cho người nuôi tôm [67].
Trong số các bệnh thường xảy ra ở tôm hùm nuôi, thì nguyên nhân chủ yếu là
do vi khuẩn gây ra với những đợt dịch bệnh có qui mô lớn. Đặc biệt là các vi khuẩn
Vibrio alginolyticus, V. harveyi, V. parahaemolyticus và Listone anguillarum là tác
nhân gây bệnh ở tôm hùm, là nguyên nhân làm tôm bị sốc, suy giảm miễn dịch hoặc

tổn thương [50].
Có nhiều biện pháp hạn chế việc nhiễm khuẩn trong đó sử dụng kháng sinh như
một biện pháp bắt buộc để kiểm soát các vi khuẩn gây bệnh. Do việc sử dụng không
đúng cách và có nhiều loại thuốc kháng sinh được sử dụng đã gây những hậu quả
nghiêm trọng như: tăng tác dụng phụ, tăng độc tính, gây chủng vi khuẩn lờn thuốc làm
2

cho việc chữa trị về sau gặp khó khăn. Ngoài ra sự truyền gen kháng sinh từ vi khuẩn
gây bệnh ỏe động vật thủy sản sang vi khuẩn gây bệnh cho người làm cho các vi
khuẩn gây bệnh ở người cũng bị kháng kháng sinh [5].
Chính vì vậy, nghiên cứu sự kháng kháng sinh của vi khuẩn từ đó hướng đến sử
dụng kháng sinh có hiệu quả trong điều trị bệnh tôm hùm là việc làm cần thiết, góp
phần hạn chế việc lạm dụng kháng sinh nhằm mục đích hướng tới “phát triển bền
vững” đó là lý do tôi chọn đề tài “Nghiên cứu mức độ kháng kháng sinh của Vibrio
alginolyticus trên tôm hùm bông (Panulirus ornatus) bị bệnh đỏ thân nuôi lồng tại
tỉnh Phú Yên”.
Mục tiêu của đề tài luận văn:
Đánh giá được tình hình sử dụng kháng sinh và mức độ kháng kháng sinh của
vi khuẩn Vibrio alginolyticus phân lập từ tôm hùm bông bị bệnh đỏ thân ở vùng nuôi
tỉnh Phú Yên, từ đó làm cơ sở đề xuất chủng loại và liều lượng kháng sinh điều trị
bệnh do vi khuẩn này gây ra.
Nội dung nghiên cứu của đề tài luận văn:
1. Điều tra thực trạng nuôi và sử dụng kháng sinh trong phòng trị bệnh tôm hùm
nuôi lồng ở vùng nuôi tỉnh Phú Yên
2. Xác định mức độ kháng kháng sinh của vi khuẩn Vibrio alginolyticus phân lập
ở tôm hùm bông bệnh đỏ thân nuôi lồng tại tỉnh Phú Yên
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài luận văn:
- Ý nghĩa khoa học: Kết quả của đề tài luận văn góp phần bổ sung nguồn tư liệu
nghiên cứu về mức độ kháng kháng sinh của vi khuẩn Vibrio alginolyticus phân lập ở
tôm hùm bông bị bệnh đỏ thân.

- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn làm cơ sở để đề xuất
chủng loại và liều lượng thuốc kháng sinh điều trị có hiệu quả bệnh do vi khuẩn Vibrio
alginolyticus gây ra ở tôm hùm nuôi lồng tỉnh Phú Yên.



3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một vài đặc điểm về vi khuẩn Vibrio alginolyticus
1.1.1. Vị trí phân loại Vibrio alginolyticus
Theo Miyamoto (1961) [65] Vibrio alginolyticus có vị trí phân loại như sau:
Giới Bacteria
Ngành Proteobacteria
Lớp Gamma proteobacteria
Bộ Vibrionales
Họ Vibrionaceae
Giống Vibrio
Loài Vibrio alginolyticus

Hình 1.1: Vi khuẩn Vibrio alginolyticus [66]
1.1.2. Đặc điểm phân bố của Vibrio alginolyticus
Vibrio alginolyticus là một loài vi khuẩn ưa mặn và phân bố rộng, chúng có mặt
ở hầu hết các mẫu thu từ nhiều đối tượng thủy sản khác nhau như: cá, thân mềm, rong
biển, …. Vibrio alginolyticus có mặt trong môi trường nước mặn ở vùng biển nhiệt đới
và là nguyên nhân gây chết cao cho các đối tượng nuôi trồng thủy sản. Vi khuẩn này
4

còn có mặt ở những người thường ăn hải sản tươi sống hoặc chưa nấu chín dẫn đến

viêm dạ dày, ruột và bệnh đại tràng. Những bệnh này thường xuất hiện vào mùa hè khi
nhiệt độ tăng [57].
Vi khuẩn Vibrio alginolyticus xuất hiện với tần số cao hơn so với Vibrio
parahaemolyticus đã được báo cáo trong các mẫu nước biển và hải sản thu thập tại Na
Uy, Hà Lan và Nhật Bản. Trong khu vực biển nhiệt đới, hai loài Vibrio alginolyticus
và Vibrio parahaemolyticus được tìm thấy nhiều nhất, tỷ lệ các mẫu cá biển tươi sống
thu được Vibrio alginolyticus nhiều hơn là Vibrio parahaemolyticus [55].
1.1.3. Đặc điểm hình thái, sinh lý, sinh hóa của Vibrio alginolyticus
Vibrio alginolyticus là vi khuẩn Gram (-), hình que hơi uốn cong, kích thước
0,3 - 0,5 x 1,4 - 2,6 µm, chúng không sinh bào tử và chuyển động nhờ một hay nhiều
tiêm mao mảnh nằm ở một đầu vi khuẩn. Là loài vi khuẩn kỵ khí, có đặc điểm phản
ứng dương tính với lysine, nitrate, lipid, gelatin, oxidase nhưng âm tính với ure,
arginine và không phát sáng. Vibrio alginolyticus phát triển tốt trong môi trường
peptone 1% có chứa 3, 6, 8, 10% NaCl, nhưng lại không phát triển ở 0% NaCl. Ngoài
ra, vi khuẩn không sinh H
2
S và mẫn cảm với thuốc thử Vibriostat 0/129 [37].
Theo mô tả của Austin (2007) [28] và của Viên Đại Phúc (2011) [14] Vibrio
alginolyticus có đặc điểm đặc trưng là phát triển thành từng cụm trên bề mặt thạch rắn,
trên môi trường TCBS, khuẩn lạc vi khuẩn có màu vàng, bờ không đều, trên môi
trường TSA, khuẩn lạc có màu trắng sữa, dễ mọc loang. Vibrio alginolyticus có khả
năng làm tan huyết, phân giải chitin, lipid, gelatin và tinh bột nhưng không phân giải
aesculin. Vibrio alginolyticus lên men đường với glycerol, maltose, mannitol,
mannose, salicin và sucrose nhưng không lên men đường với arabinose, inositol và
lactose.
Ultizur (1975) [62] đã xác định Vibrio alginolyticus phát triển tốt nhất ở 37
o
C.
Yếu tố nhiệt độ, độ muối và nồng độ dinh dưỡng có ảnh hưởng lớn đến tốc độ phát
triển của vi khuẩn, trong đó nhiệt độ có tác động lớn nhất. Ở 39

o
C thời gian phát triển
giữa các thế hệ là 10-11 phút, còn ở 21
o
C thời gian là 60 phút. Cũng theo Ulitzur, sự
phát triển của các lông rung của roi và hoạt động bơi của vi khuẩn Vibrio alginolyticus
phụ thuộc vào một mối quan hệ phức tạp giữa nhiệt độ, nồng độ muối và độ pH.
5

1.1.4. Yếu tố gây độc của Vibrio alginolyticus
Theo nghiên cứu của Josenhans (2002) [39], nhiều vi khuẩn gây bệnh trên
người, động vật và thực vật sử dụng roi để di chuyển. Đối với nhiều tác nhân gây
bệnh, vận động là điều cần thiết trong một số giai đoạn của chu kỳ sống và độc tính
cùng với sự vận động được điều khiển chặt chẽ bởi hệ thống gen. Theo Hörmansdorfer
(2000) [38], Vibrio alginolyticus trong 13/45 mẫu thu từ nước biển và chất lắng cặn ở
bề mặt đá san hô. Tất cả các chủng này đều có tính độc tạo ra sản phẩm men phân giải
casein và lipid, 11/13 chủng phân giải tinh bột và gelatin, 7/13 chủng thể hiện tác
dụng với lecithin và 2/13 chủng có men phân giải hồng cầu.
Cũng như các loài vi khuẩn khác, khả năng tương tác giữa tác nhân gây bệnh
và vật chủ là sự bám dính và các hoạt động thủy phân. Hoạt động thủy phân đã được
xem là yếu tố độc tính bởi vì chúng cho phép vi khuẩn sống sót, sinh sản và xâm lấn
các mô vật chủ. Hoạt động phân giải protein của các sản phẩm ngoại bào có tương
quan với khả năng gây bệnh của nhiều loài vi khuẩn Vibrio và Aeromonas. Hầu hết các
chủng Vibrio alginolyticus phân lập đều có sản phẩm của enzyme phân giải gelatin,
lipid, ADN và casein, tất cả các yếu tố độc này có thể giúp các sinh vật khác nhiễm
vào và sinh sôi nảy nở [26, 34].
Theo nghiên cứu của Narjol (2006) [48], Vibrio alginolyticus phân lập từ hầu ở
Alaskan có chứa gen trh (thermostable direct haemolysin-related haemolysin), tiết ra
chất có tác dụng làm tan hồng cầu, trước đây đã được báo cáo chỉ có ở Vibrio
parahaemolyticus (là yếu tố gây độc của vi khuẩn này), gen giống trh này đã được

tách dòng và giải trình tự giống đến 98% so với gen trh2 Vibrio parahaemolyticus.
Wang (2007) [63] đã chứng minh rằng khả năng phân giải protein ngoại bào và các
chất làm tan huyết cũng như sự lấy sắt của Vibrio alginolyticus.
1.2. Những nghiên cứu trên thế giới có liên quan đến luận văn
1.2.1. Tình hình nuôi và bệnh tôm hùm nuôi trên thế giới
1.2.1.1. Tình hình nuôi
Tôm hùm là một đối tượng nuôi đang được chú trọng trong nuôi trồng thủy sản
thế giới. Là loại giáp xác có hàm lượng dinh dưỡng cao, chất lượng thịt thơm ngon nên
được nhiều người ưa chuộng. Giá trị kinh tế mà nó mang lại là rất lớn, do vậy nghề
nuôi tôm hùm được đánh giá cao trên toàn thế giới [51]. Nghề nuôi tôm hùm trên thế
giới được hình thành từ cuối thế kỷ XIX, và được tiêu thụ hơn 90 quốc gia. Các
6

nước sản xuất tôm hùm chủ yếu là Úc, New Zealand, Nam Phi, Cuba, Brazil,
Mexico và Hoa Kỳ và một số nước khu vực Đông Nam Á [8].
Trước đây hầu như tất cả sản phẩm tôm hùm là từ khai thác, việc nuôi
thương phẩm tôm hùm không được phát triển mạnh mẽ. Nhưng do sự phát triển
kinh tế, nhu cầu xã hội càng tăng đã thúc đẩy các nhà khoa học nghiên cứu bảo vệ
nguồn lợi tôm hùm và phát triển theo các hướng như nuôi tôm hùm từ con giống
khai thác tự nhiên hoặc nuôi khép kín từ giai đoạn ấu trùng đến trưởng thành.
Trên thế giới các loài tôm hùm đang được nuôi phổ biến là những loài thuộc họ
tôm hùm càng (Nephropidae) bao gồm các loài thuộc giống Homarus như: H.
americanus và H. gamarus nuôi ở vùng biển Đông-Bắc Mỹ, Ca-na-đa, Pháp, Anh và
Na-uy. Mỹ là quốc gia đã thực hiện thành công việc nuôi khép kín tôm hùm Homarus
americanus từ những năm 70 của thế kỷ XX, tại đây đã sản xuất được giống và đáp
ứng nhu cầu nuôi thương phẩm nhưng sản lượng còn chiếm tỷ lệ thấp so với khai thác
ngoài tự nhiên. Một số nguyên nhân chính là do nhu cầu về dinh dưỡng, công nghệ chế
biến thức ăn tôm, dịch bệnh và các quy trình nuôi thương phẩm vẫn chưa hoàn thiện
[50].
Ở châu Á đặc biệt là là khu vực Đông Nam Á, nghề ương nuôi tôm hùm giống ở

lồng phát triển mạnh mẽ. Quốc gia có nghề nuôi tôm hùm phát triển mạnh và sớm nhất là
Phi-lip-pin với nhiều trang trại nuôi tôm hùm được thiết lập từ những năm trước thập niên
70 của thế kỷ XX. Ngoài ra, Nhật Bản, Xing-ga-po, In-đô-nê-xi-a, Ấn Độ là những quốc
gia châu Á nuôi tôm hùm bằng lồng/bè khá phát triển ở quy mô nông hộ. Các loài nuôi ở
đây chủ yếu thuộc giống Panulirus như P. japonicas ở Nhật Bản, P. ornatus, P. homarus,
P. longipes, P. versicolor ở Xing-ga-po, Ấn Độ và In-đô-nê-xi-a. Sản lượng từ nghề nuôi
đóng góp lớn vào tổng sản lượng tôm hùm ở các nước này [12].
Tóm lại, từ những tổng hợp nghiên cứu về nuôi tôm hùm trên thế giới cho thấy
rằng nghề nuôi tôm hùm đã đóng góp đáng kể vào sản lượng tôm hùm trên thế giới và
mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân, góp phần vào việc phát triển kinh tế ở các
nước đang phát triển đặc biệt là khu vực châu Á. Tuy nhiên, lại gặp phải vấn đề khó
khăn nhất là nguồn giống không ổn định, hầu hết con giống đều được đánh bắt ngoài tự
nhiên. Do vậy mà một số nước đã có những chính sách thắt chặt nhằm bảo vệ nguồn lợi
tôm hùm cùng với đó là việc phát triển ồ ạt và tự phát không theo quy hoạch chưa có
định hướng của nghề, việc sử dụng nguồn thức ăn tươi sống đã dẫn đến ô nhiễm môi
7

trường cục bộ quanh khu vực nuôi tạo cơ hội tốt cho tác nhân gây bệnh phát triển, làm
tình hình bệnh dịch xảy ra thường xuyên gây tổn thất cho nghề nuôi tôm.
1.2.1.2. Tình hình bệnh
Cùng với sự phát triển nghề nuôi tôm hùm, bệnh tôm hùm ngày một gia tăng
trong đó bệnh do vi khuẩn đặc biệt do nhóm vi khuẩn Vibrio (V. parahaemolyticus, V.
alginolyticus, V. fluvialis, V. harveyi) gây ra khá phổ biến và đã gây hại lớn cho người
nuôi tôm hùm. Một số loại bệnh mà nguyên nhân chính từ vi khuẩn bao gồm:
Bệnh đỏ đuôi (Gaffkaemia)
Đây là một loại bệnh gây nguy hiểm ở tôm hùm gai (Homarus americanus, H.
gammarus, Panulirus argus). Nguyên nhân từ một loài vi khuẩn kí sinh không bắt buộc
Aerococcus viridians. Vi khuẩn này không di động, kỵ khí, gram dương, lên men glucose,
sống tự do trong môi trường nước, tấn công vào tôm hùm xuyên qua lớp vỏ màng và đi
vào tế bào cơ bên trong, sau đó vào gan tụy và tế bào máu, làm tôm kém ăn, lờ đờ, vùng

bụng của đuôi tôm chuyển sang màu hồng nên gọi là bệnh đỏ đuôi [58].
Bệnh vỏ (shell disease)
Được tìm thấy đầu tiên ở tôm hùm Homarus americanus, “hội chứng bệnh vỏ”
được định nghĩa là bệnh ăn mòn dần lớp vỏ ngoài bắt đầu từ những điểm nhỏ ở lớp
biểu bì trước khi kết hợp lại để tạo thành tổn thương bào mòn liên tục và gây hoại tử
lớp vỏ ngoài của các loài giáp xác. Bệnh thường xảy ra ở con cái, ở vùng ven bờ có tỉ
lệ cao hơn so với vùng biển ngoài khơi và tỉ lệ cao nhất là ở mùa thu. Yếu tố liên quan
đến bệnh vỏ chủ yếu từ việc nuôi mật độ cao, nuôi thời gian dài, chất lượng nước xấu,
nước có hàm lượng kim loại và chất hữu cơ lơ lửng cao. Có ba nhóm vi khuẩn Vibrio,
Pseudomonas, Aeromonas luôn được tìm thấy trên tôm hùm bị bệnh vỏ, nấm và cả
những vi khuẩn gram âm cũng có thể là nguyên nhân gây bệnh, do vậy nguyên nhân
gây bệnh vỏ ở tôm vẫn chưa được xác định một cách chắc chắn [51].
Bệnh do vi khuẩn Vibrio spp. gây ra (Vibriosis)
Tôm hùm đang tiếp xúc với một số lượng lớn các vi khuẩn chịu mặn trong đó
có nhiều loài vi khuẩn Vibrio gọi là bệnh Vibriosis; Vibrio alginolyticus, Vibrio
harveyi, Vibrio parahaemolyticus và Listonella (Vibrio) anguillarum là tác nhân gây
bệnh ở tôm hùm thương phẩm là nguyên nhân làm tôm bị sốc, suy giảm miễn dịch
hoặc tổn thương. Tỉ lệ chết 75% ấu trùng trong khoảng thời gian bốn tuần. Dấu hiệu
tổng quát bao gồm ấu trùng đục với những đốm nhỏ màu đỏ phân bố khắp cơ thể. Về
8

mặt mô học, các ống gan tụy bị teo và đầy mảng bám vi khuẩn, vi khuẩn được phân
lập trong môi trường nhân tạo. Thí nghiệm lây nhiễm ấu trùng khỏe mạnh qua tiếp xúc
bằng phương pháp tắm kết luận rằng ấu trùng bị thương là dễ bị nhiễm trùng hơn
những ấu trùng không bị thương, do đó vi khuẩn có nhiều khả năng là một tác nhân
gây bệnh thứ cấp. Hai loài tôm hùm Panulirus argus và P. laevicauda từ các cảng cá
tại hai địa điểm ở Brazil đã bị nhiễm V. alginolyticus (tỷ lệ = 45,7%), V.
parahaemolyticus (8,6%) và V. anguillarum (2,8%) [51].
1.2.2. Tình hình sử dụng thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản trên thế giới
1.2.2.1. Khái niệm về kháng sinh

Thuốc kháng sinh là những chất hữu cơ có cấu tạo hóa học phức tạp, mà hiện
nay chúng ta chỉ mới biết được một số chất, phần lớn chúng là do vi trùng, nấm và xạ
khuẩn sinh ra. Kháng sinh có tác dụng diệt hay ngăn cản sự phát triển của các vi sinh
vật gây bệnh và không gây bệnh cho vật chủ [3].
Ảnh hưởng của vi khuẩn kháng kháng sinh trên động vật nuôi đến sức khỏe con
người là một vấn đề còn nhiều tranh luận. Bằng nhiều con đường khác nhau, vi khuẩn
gây bệnh trên động vật nuôi có thể truyền gen kháng kháng sinh sang vi khuẩn gây
bệnh ở người. Khi đó, việc điều trị bệnh cho con người trở nên khó khăn và phức tạp
hơn (Hình 1.2) [53].












Hình 1.2: Các con đường trao đổi sự kháng thuốc của vi khuẩn giữa động vật và con
người [53].
9

Trong nuôi trồng thủy sản, việc sử dụng kháng sinh trong điều trị bệnh do vi
khuẩn, nấm…đã góp phần không nhỏ trong việc tăng năng suất và sản lượng của
ngành. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi không đúng nguyên tắc gây ra những hậu quả
nghiêm trọng như: tăng tác dụng phụ, tăng độc tính, gây chủng vi khuẩn lờn thuốc làm
cho việc chữa trị về sau gặp khó khăn, dễ bị bội nhiễm, dư lượng kháng sinh còn lại

trong thực phẩm ảnh hưởng đến người tiêu dùng.
1.2.2.2. Các nhóm kháng sinh thường được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản
Nhóm beta-lactamin
Là nhóm kháng sinh có tác dụng diệt khuẩn có phổ kháng khuẩn hẹp, chủ yếu có tác
dụng trên vi khuẩn Gram (+) và một ít vi khuẩn Gram (-). Do màng tế bào của vi khuẩn Gram
(-) có tỉ lệ lipit cao nên nó kỵ nước, còn nhóm b-lactamin phải khuếch tán qua các ống dẫn
protein nằm trên bề mặt màng [24, 50].
Đại diện của nhóm này thường được dùng trong thủy sản là amoxilline, ampicillin [7].
Nhóm tetracyclin
Là thuốc ức chế vi khuẩn ở nồng độ thấp và diệt khuẩn ở nồng độ cao. Nó phụ thuộc
vào độ mẫn cảm của vi khuẩn đối với thuốc. Đây là nhóm kháng sinh có phổ hoạt rất rộng.
Tác dụng cả đối với nhóm vi khuẩn Gram (-) và Gram (+) nhưng vi khuẩn Gram (+) mẫn
cảm với thuốc hơn là Gram (-), virus có kích thước lớn, ký sinh trùng [16, 17].
Nhóm này gồm các loại kháng sinh tetracyclin (oxytetracycline, clortetracyclin,
dimeclocyclin, methylencyclin) doxycyclin, minocyclin…
Trong đó, doxycyclin không bị ảnh hưởng bởi thức ăn trong ruột và hấp thu qua ruột
cao gấp 10 lần so với các kháng sinh khác cùng nhóm. Do đó, các kháng sinh thuộc nhóm
này ngoài doxycyclin thì không nên điều trị bằng cách trộn vào thức ăn. Tetracycline dùng để
trị nhiễm khuẩn toàn thân và nhiễm trùng ruột. Điều cần lưu ý là khi điều trị bệnh bằng các
kháng sinh thuộc nhóm này không nên kết hợp với ampicillin, erythromycin, colistin… bởi vì
kết hợp như thế sẽ gây ra tác dụng đối kháng làm giảm tác dụng của thuốc chẳng những
không khỏi bệnh mà còn gây ra hiện tượng kháng thuốc [24].
Nhóm quinolone
Là nhóm kháng sinh có tác dụng diệt khuẩn, thông qua việc ức chế tổng hợp AND
của vi khuẩn. Các thuốc thuộc nhóm này được phát triển qua hai thế hệ với phổ kháng sinh và
cơ chế kháng khuẩn khác nhau. Thế hệ thứ nhất có phổ kháng khuẩn hẹp, tác dụng chủ yếu
10

trên vi khuẩn Gram (-). Thế hệ thứ hai có phổ kháng khuẩn vừa nhanh vừa mạnh, phổ kháng
khuẩn được mở rộng trên vi khuẩn Gram (-) và Gram (+) [17].

Các loại kháng sinh thuộc nhóm này là enrofloxacin, norfloxacin, ofloxacin,
ciprofloxacin, oxonilic acid… [17].
Trong nuôi trồng thủy sản các kháng sinh thuộc nhóm quinolone được sử dụng khá
phổ biến trong điều trị bệnh phát sáng trên tôm do vi khuẩn Vibrio spp. gây ra. Các loại kháng
sinh thường được sử dụng là norfloxacin và oxonilic acid [5].
Nhóm phenicol
Đây là nhóm kháng sinh có tác dụng kìm hãm sự phát triển (kìm khuẩn) đồng
thời cũng có tác dụng diệt khuẩn trong một số trường hợp bệnh truyền nhiễm trong
những điều kiện nhất định khi sử dụng nồng độ cao. Thuốc có tác dụng ức chế vi khuẩn
với nồng độ thấp. Hoạt phổ của phenicol rất rộng, tác dụng trên nhiều loài vi khuẩn
Gram (+) và Gram (-), vi rút có kích thước lớn [17].
Thuốc kháng sinh thường được dùng trong nuôi trồng thủy sản là
chloramphenicol.
Nhóm sulphamid (sulfonamide)
Đây là nhóm kháng sinh có phổ kháng khuẩn rộng trên vi khuẩn Gram (-) và một số
vi khuẩn Gram (+). Sulphamid với liều kìm khuẩn sẽ ức chế sự sinh sản phát triển của vi
khuẩn do thuốc cạnh tranh với acid para amonozenzoic một số yếu tố sinh trưởng cần cho sự
phát triển của tế bào trong đó có cả tế bào vi khuẩn [17].
Các loại thuốc thuộc nhóm này thường được dùng trong thủy sản là trimethoprim,
sulfamethizole và dạng kết hợp để trị bệnh đỏ mỏ, viêm ruột, xuất huyết, đốm đỏ, trắng đuôi
do vi khuẩn gây ra trên cá và bệnh phát sáng do vi khuẩn gây ra trên tôm [5, 16].
Nhóm rifamycin
Đây là nhóm kháng sinh có phổ kháng khuẩn rộng trên vi khuẩn Gram (-) và vi khuẩn
Gram (+) (trừ cầu khuẩn đường ruột). Hai kháng sinh của nhóm này là rifamycin SV và
rifampicin.
Nhóm aminoglycosides
Có phổ kháng khuẩn rộng tác động trên vi khuẩn Gram (-) và Gram (+). Do tính phân
cực cao nên các aminoglycosides tan tốt trong nước, không hấp thụ qua đường tiêu hóa nên
thường được sử dụng bằng phương pháp tiêm [17].
11


Một số loại kháng sinh thuộc nhóm này hay được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản
là: streptomycin, kanamycin, gentamycin, neomycin.
1.2.2.3. Tình hình sử dụng kháng sinh
Từ lâu việc sử dụng kháng sinh để phòng và trị bệnh cho động vật thủy sản đã
được nhiều người dân sử dụng một cách rộng rãi nhưng không đúng qui định. Trong
một nghiên cứu phỏng vấn ở Thái Lan vào năm 2000 cho thấy 20% số người nuôi tôm
đã sử dụng kháng sinh để phòng chống lại các bệnh về vi rút. Thêm vào đó hơn 60%
các trại sản xuất giống tôm và cá đã sử dụng kháng sinh để phòng bệnh [22]. Theo kết
quả khảo sát về việc sử dụng kháng sinh ở các nước Châu Á (2005) cho thấy lượng
kháng sinh các nước sử dụng trong một năm là khá lớn: Trung Quốc 1.500 tấn, Nhật
Bản 1.100 tấn, Hàn Quốc 550 tấn, Thái Lan 420 tấn, Ấn Độ 400 tấn, Philippine 350
tấn, Pakistan 200 tấn, Đài Loan 180 tấn, Malaysia 150 tấn, Bangladesh 100 tấn, Việt
Nam 50 tấn và Indonesia 20 tấn [60]. Các kết quả nghiên cứu đó đã cho thấy một
lượng lớn các loại kháng sinh được sử dụng cùng với việc sử dụng bừa bãi trong một
thời gian dài sẽ dẫn đến nhiều chủng vi khuẩn kháng thuốc.
Trên thế giới việc dùng thuốc kháng sinh để chữa trị các bệnh do vi khuẩn ở tôm hùm
đã được bắt đầu từ rất sớm, được nghiên cứu bởi một số tác giả như: Nilson (1976);
Rosemark & Colink (1983); Fisher (1988) dùng hóa chất malachite green 5ppm để xử
lý bệnh do nấm gây ra ở tôm hùm [42]. Bayer & Dainel (1987), Evan (1994) đề xuất sử
dụng oxytetracycline để trị bệnh đỏ đuôi ở tôm hùm gai (Homarus americanus, H. gamarus,
Panulirus argus) [31, 35].
1.2.3. Những nghiên cứu về khả năng kháng kháng sinh của một số loài vi khuẩn
gây bệnh ở thủy sản nuôi trên thế giới
1.2.3.1. Khái niệm về kháng kháng sinh
Hiện tượng kháng kháng sinh là khi mầm bệnh hay vi khuẩn không bị diệt bởi
thuốc kháng sinh. Chúng vẫn tồn tại trong môi trường có kháng sinh và sinh sản ra
những thế hệ con cháu không có tính cảm ứng (sensible) với một hay nhiều loại kháng
sinh nào đó. Nói cách khác các gen kháng thuốc thường có sẵn trong các loài vi sinh
vật tạo ra kháng thể bảo vệ chúng khỏi tác động của thuốc kháng sinh nào đó. Những

gen này có thể được hình thành ở vi khuẩn thông qua sự trao đổi gen với các loài vi
khuẩn tạo ra chủng vi khuẩn kháng sinh, nghĩa là tạo ra chủng vi khuẩn có khả năng
trung hòa hoặc phá huỷ các loại thuốc kháng sinh [17].
12

1.2.3.2. Cơ chế của sự kháng thuốc
Một số loài vi sinh vật có khả năng kháng một số loại thuốc kháng sinh nhất
định. Sự kháng thuốc kháng sinh có thể coi như là đặc tính vốn có hoặc có thể được
hình thành trong quá trình tiến hóa của các vi sinh vật. Có nhiều cách khác nhau gây ra
sự kháng thuốc của vi sinh vật. Có ba cơ chế thường gặp của hiện tượng kháng kháng
sinh ở vi khuẩn:
- Thay đổi vị trí đích tác động của thuốc trên vi khuẩn ví dụ như làm thay đổi
protein trên vi khuẩn mà thuốc kháng sinh sẽ tiếp xúc để tác động.
- Bất hoạt hóa kháng sinh bằng enzyme beta lactamase.
- Thay đổi sự thu nhận kháng sinh bằng cách làm giảm độ thẩm thấu của màng tế
bào vi khuẩn nên thuốc không tác động được.
1.2.3.3. Những nghiên cứu về hiện tượng kháng kháng sinh của một số loài vi khuẩn
gây bệnh ở thủy sản nuôi trên thế giới
Sự kháng thuốc của vi khuẩn nói chung và của vi khuẩn gây bệnh trên trên
động vật thủy sản nói riêng đã được quan tâm, nghiên cứu từ rất lâu. Từ những năm 50
của thế kỉ XX các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã nghiên cứu sự lan truyền rộng rãi của
các loài vi khuẩn có khả năng kháng cùng lúc nhiều loại thuốc kháng sinh thông dụng
[17]. Việc sử dụng kháng sinh để phòng và trị bệnh trong nuôi trồng thủy sản có thể
dẫn đến sự hình thành các mầm bệnh vi khuẩn kháng kháng sinh và gây tác hại đến
động vật nuôi và con người. Vì vậy, vấn đề sử dụng kháng sinh từ lâu đã được nhiều
quốc gia trên thế giới quan tâm kiểm soát nhưng cũng chưa được triệt để.
Mirand (2003) đã phát hiện ra 25 chủng vi khuẩn khác nhau đã kháng với
oxytetraxyline từ 4 nông trại nuôi cá ở Chile [33]. Pender (2007) đã nghiên cứu sự
kháng thuốc của Aeromonas được phân lập từ môi trường nước của các ao nuôi cá da
trơn, cá chình và trại sản xuất giống ở Hà Lan, cho kết quả sự kháng thuốc của vi

khuẩn Aeromonas đối với ampicilin và oxytetracyclin là 100%, sulfamethoxazole là
24%, trimethoprim là 3%, ciprofloxacin và chloramphenicol là 0% [49].
Năm 2004, Jacintha Sugnaseelan đã kiểm tra sự kháng thuốc của 43 dòng vi
khuẩn Vibrio alginolyticus phân lập từ sò huyết nuôi ở Malaysia với 15 loại kháng
sinh cho thấy tất cả các chủng vi khuẩn đều thể hiện tính kháng với một hoặc nhiều
loại kháng sinh, 100% chủng Vibrio alginolyticus kháng với vancomycin, 97,7%
kháng với penicillin, 95,4% kháng với bacitracin [59]. Rim Lajnef (2012) [42] khảo
13

sát sự kháng kháng sinh trên 69 chủng Vibrio alginolyticus từ những vùng nuôi ở Bắc
Châu Phi, kết quả nghiên cứu của tác giả đã cho thấy có 59/69 chủng (85%) kháng với
ít nhất 6 loại kháng sinh cùng một lúc, trong đó có 94,2% chủng kháng với
tetracycline, 85,5% kháng với erythromycin, 84% kháng với kanamycin, 76,8% kháng
với gentamycin và 75,3% kháng với cefotaxim. Tỉ lệ thấp đối với các loại kháng sinh
như: trimethoprim-sulfamethoxazole (20%), ciprofloxacin (26%) và nalidixic acid
(31,8%). Như vậy sự kháng thuốc của vi khuẩn đã tăng lên về số lượng chủng vi
khuẩn kháng và các loại kháng sinh bị kháng.
Trên tôm hùm một số tác giả cho rằng đã xuất hiện vi khuẩn gây bệnh ở tôm
hùm kháng thuốc. Theo Sophie Brillon, Yvan Lambert, Julian Dodson (trích dẫn bởi
[50] ) về khả năng kháng kháng sinh của một số chủng vi khuẩn Vibrio thì có 6 chủng
kháng với erythromycin và 2 chủng đã kháng với kháng sinh ampicillin và
carbenicillin. Các kháng sinh như novobiocin, amoxillin cũng được đề xuất sử dụng
thay cho trong trường hợp chủng vi khuẩn gây bệnh kháng với oxytetracyline.
1.3. Những nghiên cứu ở Việt Nam có liên quan đến luận văn
1.3.1. Tình hình nuôi và bệnh ở tôm hùm nuôi lồng tại Việt Nam
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu nuôi tôm hùm có hệ thống và chi tiết cũng chỉ mới được
bắt đầu từ cuối thập niên 80 trở lại đây, khi nghề khai thác tôm hùm có dấu hiệu suy giảm.
Điểm khởi đầu là việc nghiên cứu kỹ thuật nuôi nâng cấp một số loài tôm hùm có giá trị kinh
tế ở vùng ven biển miền Trung vào năm 1991 của Nguyễn Thị Bích Thúy [19].
Năm 1992, Nguyễn Văn Chung và cộng sự đã nghiên cứu một số đặc điểm sinh học

của tôm hùm sỏi (Panulirus stimpsoni) làm cơ sở để xác định vị trí và kỹ thuật nuôi đối tượng
này ở vùng biển tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị. Hồ Thu Cúc (1993) nghiên cứu kỹ thuật nuôi
tôm hùm trong lồng và trong ao đất ở vùng ven biển tỉnh Khánh Hòa từ đó làm cơ sở cho việc
phát triển nghề nuôi tôm hùm lồng ở đây. Từ năm 2000, nghề nuôi tôm hùm lồng đã lan rộng
từ Đà Nẵng đến Bình Thuận nhiều nhất là tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa (chiếm khoảng 95%
số lượng lồng nuôi). Các đối tượng nuôi chủ yếu gồm: tôm hùm bông (P. ornatus), tôm hùm
đá (P. homarus) và một ít tôm hùm sỏi (P. stimpsoni) [23].
Phú Yên là tỉnh thuộc duyên hải Nam Trung Bộ-Việt Nam với nhiều đảo ngầm,
đảo nổi, rạn đá, san hô và những vùng vịnh kín gió là nơi ưa thích cho các loài tôm
hùm cư trú, sinh sống và phát triển. Nơi đây tập trung tôm hùm giống tự nhiên nhiều
và vì thế đã trở thành vùng nuôi tôm hùm thương phẩm chính của cả nước, mang lại
14

giá trị kinh tế lớn cho người dân ven biển. Tuy nhiên, do sự phát triển mang tính tự
phát, thiếu quy hoạch cùng với việc sử dụng nguồn thức ăn tươi sống và việc quản lý
chưa tốt đã dẫn đến môi trường bị ô nhiễm tạo điều kiện thuận lợi cho các tác nhân gây
bệnh phát triển, làm tình hình dịch bệnh xảy ra thường xuyên, gây tổn thất cho người
nuôi tôm.
Năm 2001 Võ Văn Nha và Nguyễn Thị Bích Thúy bước đầu đã tìm hiểu và
nghiên cứu một số bệnh thông thường ở tôm hùm bông nuôi lồng và thử nghiệm
phương pháp phòng trị bệnh tại vùng biển Phú Yên. Kết quả ban đầu cho thấy, tôm
hùm bông nuôi lồng ở khu vực này gặp một số dấu hiệu bệnh lý như: trắng râu, long
đầu, đầu to, đỏ thân, đen mang…. Tuy nhiên nguy hiểm và bắt gặp phổ biến là hiện
tượng đỏ thân và đen mang. Khi xuất hiện các dấu hiệu đỏ thân, tôm hùm bông bị chết
3-7 ngày sau đó. Dấu hiệu đỏ thân xuất hiện ở mọi kích cỡ tôm từ 30-1.100 gam/con,
tỷ lệ chết tích lũy có thể lên đến 80% [12].
Năm 2003-2004 Võ Văn Nha tiếp tục nghiên cứu về bệnh đỏ thân ở tôm hùm
nuôi lồng tại Phú Yên, Khánh Hòa, tác giả xác định thành phần vi khuẩn gây bệnh đỏ
thân ở tôm hùm bông (P. ornatus) gồm Vibrio spp. (33%), Aeromonas spp. (34%),
Proteus spp. (20%), Psaudomonas spp. (13%), tuy nhiên tần số bắt gặp vi khuẩn

Vibrio alginolyticus là rất cao (51,5 %). Theo tác giả, một trong các tác nhân gây bệnh
đỏ thân ở tôm hùm bông là do vi khuẩn Vibrio alginolyticus [10].
Đến cuối năm 2006 và đầu năm 2007, tại các vùng nuôi tôm hùm thuộc các tỉnh
ven biển miền Trung-Việt Nam đã xuất hiện bệnh sữa gây chết nhiều tôm hùm nuôi.
Tôm hùm bệnh với các dấu hiệu dễ nhận biết như: các đốt phần bụng của tôm chuyển
sang màu trắng đục, dịch tiết của cơ thể bao gồm cả máu bị đục như sữa và không bị
đông . Tổng thiệt hại ở các vùng nuôi vào cuối năm 2006 và đầu năm 2007 do bệnh
sữa gây ra trên 161 tỷ đồng. Những nghiên cứu bước đầu của Đỗ Thị Hòa và cộng sự
(2008) đã xác định bệnh sữa trên tôm hùm nuôi là do vi khuẩn ký sinh nội bào giống
với Ricketsia (Ricketsial like bacteria) [4, 35]. Năm 2007, kết quả đề tài cấp Bộ
“Nghiên cứu xây dựng giải pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi tôm hùm”, Võ Văn
Nha đã chỉ ra rằng, tôm hùm nuôi lồng ở miền Trung thường gặp 14 loại bệnh khác
nhau, trong đó các bệnh đỏ thân và bệnh sữa gây thiệt hại nhiều nhất [13].
15

1.3.2. Hiện trạng sử dụng thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản và nuôi tôm
hùm lồng ở Việt Nam
Ở Việt Nam, việc sử dụng thuốc và hóa chất trong nghề nuôi tôm biển ngày
càng gia tăng nhất là việc sử dụng kháng sinh do sự chuyển đổi nhanh chóng từ nuôi
quảng canh sang thâm canh. Có ít nhất 373 loại thuốc và hóa chất sử dụng trong nuôi
trồng thủy sản trong đó có 138 loại kháng sinh [15, 22].
Nghiên cứu phòng trị bệnh cho tôm hùm ở Việt Nam khởi đầu bằng việc đề xuất
sử dụng Fomaline của Nguyễn Thị Bích Thúy và Võ Văn Nha (2003) [12]. Năm 2003,
các vùng nuôi tôm hùm ở Phú Yên , Khánh Hòa kháng sinh ít được sử dụng (Phú Yên
7,1%, Khánh Hòa 5,8%) bởi lẽ thuốc kháng sinh dùng cho tôm hùm là thuốc phòng trị
bệnh tôm sú, do vậy hầu như không có hiệu quả [8]. Năm 2005-2006 đã có những thử
nghiệm điều trị bệnh tôm hùm đỏ thân bằng cách dùng thuốc kháng sinh: trộn vào thức
ăn doxycyline hay cotrimoxazol (5g/kg thức ăn) cùng kết hợp với vitamin C (10g/kg
thức ăn) vào thời điểm tôm thường mắc bệnh sẽ hạn chế xuất hiện bệnh đỏ thân ở tôm
hùm bông P. ornatus [11]. Đến năm 2007 phác đồ điều trị bằng kháng sinh

Oxytetracyline theo đường tiêm và đường tiêu hóa đã được đề xuất để điều trị bệnh
sữa tôm hùm ở nhiều vùng nuôi [2]. Kể từ đó kháng sinh đã được sử dụng nhiều trong
phòng trị bệnh sữa, bệnh đỏ thân ở tôm hùm.
Bên cạnh sử dụng thuốc kháng sinh người nuôi đã sử dụng các loại thảo mộc để
phòng trị bệnh cho tôm theo kinh nghiệm dân gian như khả năng kháng khuẩn của
allixin chiết xuất từ tỏi và flavonoid chiết xuất từ cây chó đẻ răng cưa với liều lượng
12,5 ppm có thể ức chế tối thiểu sự phát triển của vi khuẩn Vibrio alginolyticus gây
bệnh đỏ thân trên tôm hùm [6]. Đây là một hướng phát triển ứng dụng phương thuốc
thảo mộc thay thế cho việc sử dụng kháng sinh trong trị bệnh nhiễm khuẩn ở tôm hùm
nuôi thương phẩm.
Năm 2008, khi đánh giá về hiện trạng sử dụng kháng sinh để điều trị bệnh ở
tôm hùm, Võ Văn Nha cho rằng, việc sử dụng thuốc kháng sinh trong phòng trị bệnh
sữa ở tôm hùm đã trở thành phổ biến ở hầu hết các hộ nuôi tôm hùm lồng tại Vạn Ninh
và Sông Cầu ( chiếm hơn 85% trong số 150 hộ điều tra), 4 nhóm kháng sinh được
dùng phổ biến đó là: nhóm fluoroquinolone; tetracycline; sulfamide và nhóm
aminosida [9].

×