Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương việt nam chi nhánh chương dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.07 KB, 86 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ 2
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG 31
TẠI NHTMCPCTVN - CHI NHÁNH CHƯƠNG DƯƠNG 31
2.1 KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHI NHÁNH CHƯƠNG
DƯƠNG 31
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại cổ
phần Công thương Việt Nam 32
2.1.2. Lịch sử hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức bộ máy của
Vietinbank Chương Dương 33
2.2 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CHI NHÁNH CHƯƠNG DƯƠNG
QUA CÁC NĂM 2007-2010 41
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm của Chi nhánh Chương Dương) 44
Vòng quay vốn tín dụng đo lường tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của
Ngân hàng. Vòng quay vốn càng nhanh thì cho thấy mức độ an toàn
trong hoạt động cho vay càng cao. Tuy nhiên, để đánh giá chính xác chất
lượng tín dụng, ta cần xem xét kết hợp với nhiều chỉ tiêu khác. 44
2.3 CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH
CHƯƠNG DƯƠNG 48
2.4 ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI
NHÁNH CHƯƠNG DƯƠNG 62
3.1.1 Định hướng phát triển của Vietinbank 66
3.1.2. Định hướng phát triển của Vietinbank Chương Dương 68
3.2.1.5. Thực hiện tốt phương thức san sẻ rủi ro tín dụng 74
3.2.1.6. Xây dựng một cơ cấu tín dụng hợp lý 75
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 81
3.3.1 Kiến nghị đối với chính phủ 81
3.3.2. Kiến nghị với NHNN 82
3.3.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam 82
KẾT LUẬN 83


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ 2
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG 31
TẠI NHTMCPCTVN - CHI NHÁNH CHƯƠNG DƯƠNG 31
2.1 KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHI NHÁNH CHƯƠNG
DƯƠNG 31
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại cổ
phần Công thương Việt Nam 32
2.1.2. Lịch sử hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức bộ máy của
Vietinbank Chương Dương 33
2.2 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CHI NHÁNH CHƯƠNG DƯƠNG
QUA CÁC NĂM 2007-2010 41
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm của Chi nhánh Chương Dương) 44
Vòng quay vốn tín dụng đo lường tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của
Ngân hàng. Vòng quay vốn càng nhanh thì cho thấy mức độ an toàn
trong hoạt động cho vay càng cao. Tuy nhiên, để đánh giá chính xác chất
lượng tín dụng, ta cần xem xét kết hợp với nhiều chỉ tiêu khác. 44
2.3 CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH
CHƯƠNG DƯƠNG 48
2.4 ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI
NHÁNH CHƯƠNG DƯƠNG 62
3.1.1 Định hướng phát triển của Vietinbank 66
3.1.2. Định hướng phát triển của Vietinbank Chương Dương 68
3.2.1.5. Thực hiện tốt phương thức san sẻ rủi ro tín dụng 74
3.2.1.6. Xây dựng một cơ cấu tín dụng hợp lý 75
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 81
3.3.1 Kiến nghị đối với chính phủ 81
3.3.2. Kiến nghị với NHNN 82
3.3.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam 82

KẾT LUẬN 83
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Tín dụng là một trong những hoạt động kinh doanh chủ yếu và là hoạt động
mang lại lợi nhuận lớn nhất cho các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên tín dụng là
hoạt động đem lại rủi ro và gây ra những hậu quả nghiêm trọng nhất trong hoạt
động ngân hàng. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ nợ xấu
cùng nhiều vấn đề phát sinh do mất khả năng kiểm soát tại một số ngân hàng. Do
đó, công tác quản trị rủi ro tín dụng có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát
triển đi lên đối với các ngân hàng thương mại.
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Chương Dương là
một trong những đơn vị dẫn đầu trong toàn hệ thống Ngân hàng Công thương về
hoạt động tín dụng. Tuy vậy, tình hình nợ quá hạn, nợ xấu vẫn còn tồn tại. Xuất
phát từ thực tế trên trên, là một nhân viên đang công tác tại Ngân hàng TMCP Công
thương Việt Nam – CN Chương Dương, em đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu
là: “Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – CN
Chương Dương”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận vể rủi ro tín dụng và vai trò của công tác
quản trị rủi ro tín dụng đối với hoạt động ngân hàng.
Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam – CN Chương Dương thời gian qua.
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – CN Chương Dương
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng.
Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu những rủi ro tín dụng, thực
trạng và biện pháp quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt
Nam – CN Chương Dương trên cơ sở dữ liệu từ năm 2008 đến năm 2010.
1

4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, suy luận logic, phương
pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích kinh tế.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Về mặt lý luận: Tổng kết lại toàn bộ kết quả nghiên cứu lý luận về rủi ro tín
dụng và quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại trong thời gian qua. Từ đó
rút ra bài học kinh nghiệm cho hoạt động nghiên cứu lý luận và đưa ra những vấn
đề cần tiếp tục phải nghiên cứu.
Về mặt thực tiễn: Tổng kết rút ra bài học kinh nghiệm cho việc quản trị rủi ro
tín dụng của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Chương Dương.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
những nội dung chính sau:
Chương 1: Lý luận chung về quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng
thương mại
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công
thương Việt Nam – Chi nhánh Chương Dương
Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Chương Dương
2
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
1.1.1. Khái niệm và các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế
nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường
chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng của các ngân hàng.
Dựa vào các chức năng, vai trò, các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì

người ta có thể đưa ra các định nghĩa khác nhau về ngân hàng. Ngân hàng có thể
được coi là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính
đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế. Hoặc theo luật các tổ chức tín dụng của nước Công hoà Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam ghi: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để
cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại như sau:
• Hoạt động huy động vốn
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao và cũng là một trong những hoạt
động chủ yếu của ngân hàng nên các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động được
nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi
tiết kiệm của khách hàng và khách hàng được nhận lãi suất. Ngày nay lãi suất tiền
gửi là một trong những công cụ cạnh tranh mạnh mẽ nhất nhằm thu hút nguồn vốn
nhàn rỗi của xã hội.
• Hoạt động sử dụng vốn:
- Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại: giúp họ có vốn để mua
hàng dự trữ hoặc xây dựng văn phòng, thiết bị sản xuất.
3
- Cho vay tiêu dùng: Ngày nay, người tiêu dùng là nguồn cung cấp chủ yếu
của ngân hàng và cũng đồng thời tạo ra một trong số những nguồn thu quan trọng
nhất của ngân hàng.
- Cho vay tài trợ dự án: Bên cạnh cho vay cho vay ngắn hạn truyền thống các
ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy
mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao. Rủi ro trong loại hình tín dụng này
nói chung là cao nên lãi lớn. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất.
- Tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ: Do nhu cầu chi tiêu lớn thường là
cấp bách trong khi thu không đủ. Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận các khoản
cho vay của ngân hàng. Chính phủ thường dùng một số đặc quyền trao đổi lấy

khoản vay của các ngân hàng thường thông qua việc Ngân hàng mua trái phiếu
Chính phủ.
• Các dịch vụ tài chính khác:
- Thực hiện trao đổi ngoại tệ: Đây là dịch vụ truyền thống đầu tiên của ngân
hàng. Ngân hàng mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí
dịch vụ.
- Bảo quản vật có giá: Các ngân hàng thực hiện việc lưu trữ vàng và các vật có
giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản và khách hàng phải trả phí bản quản.
- Cung cấp các tài khoản giao dịch: Các tài khoản này cho phép người gửi
tiền viết séc thanh toán cho việc mua bán hàng hoá dịch vụ.
- Quản lý ngân quỹ: Ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty
kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán
sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
- Bảo lãnh: Ngân hàng dùng uy tín bảo lãnh cho khách hàng của mình mua
chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín
dụng khác…
- Cung cấp dịch vụ thuê mua thiết bị (leasing): ngân hàng mua thiết bị và cho
khách hàng thuê, cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua. Hợp đồng cho thuê
thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản thuê.
4
- Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn: ngân hàng là tổ chức kinh doanh có
nhiều chuyên gia về quản lý tài chính nên nhiều cá nhân và doanh nghiệp nhờ ngân
hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính họ. Một số khách hàng còn coi
ngân hàng như một chuyên gia tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập,
mua bán, sát nhập doanh nghiệp.
- Cung cấp dịch vụ môi giới chứng khoán: Cung cấp cho khách hàng cơ hội
mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người
kinh doanh chứng khoán.
- Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm: Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán
bảo hiểm cho khách hàng, điều đó bảo đảm cho việc hoàn trả trong trường hợp

khách hàng bị chết, bị tàn phế hay rủi ro trong hoạt động mất khả năng thanh toán.
- Cung cấp dịch vụ đại lý: Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không
thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi vì vậy một số ngân hàng
cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý các ngân hàng khác thanh toán hộ, phát hành hộ
các chứng từ chỉ tiền gửi, làm ngân hàng cầu mối trong đồng tài trợ…
1.1.2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm
Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả. Tín dụng xuất
phát từ tiếng Latinh có nghĩa là sự tin tưởng (creditum). Tín dụng là sự chuyển
nhượng tạm thời một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ từ người sở
hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định trả lại với một lượng lớn hơn.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể giữa bên cho vay
(ngân hàng) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp, các chủ thể khác…) trong đó bên
cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định
theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả gốc và lãi cho
bên đi vay khi đến hạn thanh toán.
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng
thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng.
5
1.1.2.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
Ngân hàng cung cấp rất nhiều đối tương khách hàng với những mục đích sử
dụng khác nhau. Căn cứ theo các tiêu thức khác nhau có thể phân loại tín dụng ngân
hàng thành các loại sau:
 Căn cứ vào thời hạn cho vay
Phân chia theo thời hạn cho vay có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng thì
thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả
năng hoàn trả của khách hàng. Theo tiêu thức này, tín dụng ngân hàng có thể được
phân thành:
- Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng và thường
được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của các doanh

nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đối với NHTM, tín dụng ngắn
hạn thường chiếm tỷ trọng cao nhất.
- Tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Tín dụng trung hạn
chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết
bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ
và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn có thời hạn cho vay trên 5 năm hoặc 7 năm (đối với một
số nước trên thế giới). Tín dụng dài hạn được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ
bản như: đầu tư xây dựng xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường
sá, bến cảng, sân bay…) cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
 Căn cứ theo hình thức tài trợ: Gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.
- Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng
để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ). Về mặt pháp lý
thì ngân hàng không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu mà chỉ là hình
thức trao đổi trái quyền. Tuy nhiên, đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để
thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi
như hoạt động tín dụng.
6
- Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng
phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
- Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ
khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho
khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
- Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo
những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc lẫn
lãi cho ngân hàng.
 Căn cứ theo hình thức đảm bảo tín dụng:
- Cho vay không có đảm bảo là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân

khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng
tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thi ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín
của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
- Cho vay có đảm bảo là loại cho vay được ngân hàng cung ứng có tài sản
thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba, áp dụng đối với các
khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp
lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất
thiếu chắc chắn.
 Căn cứ vào mức độ rủi ro của khoản vay
Việc phân chia tín dụng theo mức độ rủi ro giúp cho ngân hàng thường
xuyên đánh giá được mức độ an toàn của các khoản tín dụng do đó đề ra được các
biện pháp phòng ngừa rủi ro. Để phân chia tín dụng theo rủi ro, các ngân hàng phải
đánh giá và đưa ra được các thang bậc rủi ro khác nhau.
- Tín dụng lành mạnh: là các khoản tín dụng an toàn, có khả năng thu hồi cao.
- Tín dụng có vấn đề: là những khoản tín dụng có dấu hiệu thiếu lành mạnh
như khách hàng gặp thiên tai, trì hoãn nộp báo cáo tài chính, tiền bộ thực hiện kế
hoạch chậm…
7
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là các khoản nợ đã quá hạn trong thời hạn
ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn
- Nợ quá hạn khó đòi: là những khoản nợ quá hạn âu, khả năng trả nợ kém,
tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ỳ…
Có những ngân hàng phân chia mức độ rủi ro chi tiết hơn, tuỳ theo mục đích
sử dụng việc phân chia này.
Ngoài ra, tín dụng ngân hàng còn có thể được phân loại theo một số tiêu thức
như: theo ngành kinh tế (cho vay công nghiệp, nông nghiệp, thương mại…); theo
đối tượng tín dụng (tài trợ cho tài sản lưu động, tài sản cố định); theo mục đích sử
dụng vốn vay (cho vay sản xuất, cho vay tiêu dùng…).
1.2. RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm, phân loại RRTD

* Khái niệm
Các chuyên gia cho rằng một số tài sản của ngân hàng (đặc biệt là các khoản
cho vay) giảm giá trị hay không thể thu hồi là biểu hiện của rủi ro tín dụng.
Hay nói cách khác rủi ro tín dụng là khả năng (hay xác suất) mà khách hàng
vay hoặc người phát hành công vụ tài chính không có khả năng thanh toán tiền lãi
hoặc tiền gốc theo các điều kiện và cam kết đã thoả thuận trong hợp đồng, các
khoản thanh toán trả nợ đó có thể bị trì hoãn hoặc thậm chí không được thanh toán
cho ngân hàng.
Theo quyết định 493/2005/QD-NHNN ngày 20/04/2005 của Ngân hàng Nhà
nước Ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi
ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, rủi ro tín dụng được định
nghĩa: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng
xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không
thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng không chỉ đơn thuần giới hạn
trong nghiệp vụ cho vay mà còn bao gồm nhiều nghiệp vụ khác như chiết khấu, cho
thuê tài chính…
8
* Phân loại rủi ro tín dụng
- Căn cứ vào nguyên nhân gây rủi ro tín dụng gồm có:
Rủi ro khách quan: do các nguyên nhân khách quan gây ra như thiên tai, dịch
hoạ, chính sách quản lý của Nhà nước thay đổi… hoặc những biến động ngoài dự
kiến làm thất thoát vốn vay.
Rủi ro chủ quan: do các nguyên nhân chủ quan của người vay hoặc người
cho vay gây ra.
Đây là một trong những căn cứ chính để ngân hàng thực hiện cho vay đầu tư
dưới sự kiểm soát của Nhà nước có thể thực hiện xử lý rủi ro đối với khoản vay khi
có rủi ro xảy ra.
- Căn cứ vào nguồn gốc hình thành:
Rủi ro từ phía người cho vay: do quá trình quản lý của người cho vay gây ra

như chính sách quản lý lỏng lẻo, công tác kiểm tra kiểm soát không chặt chẽ.
Rủi ro từ phía người vay: xuất phát từ quá trình sử dụng nguồn vốn vay của
người vay như hoạt động kinh doanh thất bại, sử dụng vốn vay không đúng mục
đích… hoặc do thái độ của người vay trong việc trả nợ chây ì, lạm dụng vốn để sử
dụng sang mục đích khác…
Việc phân loại rủi ro tín dụng như trên, tạo điều kiện cho ngân hàng có
những chính sách quản lý hoạt động cho vay đầu tư được chặt chẽ hơn, dự báo và
có những giải pháp phòng ngừa khi rủi ro xảy ra.
1.2.2. Nguyên nhân gây rủi ro tín dụng.
* Nguyên nhân khách quan hay nguyên nhân do môi trường vay.
Môi trường vay bao gồm: môi trường chính trị, pháp lý, môi trường kinh tế -
xã hội, các điều kiện khách quan khác. Hoạt động cho vay đầu tư với những vai trò
mang tính điều tiết vĩ mô của Nhà nước luôn luôn phụ thuộc chặt chẽ với những
biến động về môi trường cho vay, có thể tạo ra những thay đổi về đối tượng cho
vay, về lãi suất cho vay. Môi trường cho vay cũng tác động trực tiếp đến hoạt động
của doanh nghiệp của dự án vay vốn gay ra những rủi ro đối với ngân hàng.
9
- Môi trường chính trị: có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động và phát triển của
bất kỳ doanh nghiệp, tổ chức kinh tế xã hội nào. Trong tình hình chính trị không ổn
định, thì không chỉ riêng doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh gặp khó khăn mà nó
cũng gây ra những rủi ro cho các Ngân hàng cho vay.
- Môi trường pháp lý đồng bộ, đầy đủ, thống nhất và ổn định sẽ tác dụng rất
lớn đến chất lượng công tác tín dụng. Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết
của Nhà nước, pháp luật trở thành bộ phận không thể thiếu.
Một hệ thống pháp luật đầy đủ, chuẩn tác và đồng bộ trước hết sẽ tạo nền tin
được bảo hộ chính đáng trong quá trình đầu tư, đồng thời giúp các doanh nghiệp
cũng như các tổ chức tín dụng hoạt động thuận lợi, giảm thiểu rủi ro.
- Môi trường kinh tế - xã hội là tổng hoà các mối quan hệ về kinh tế - xã hội
tác động lên hoạt động của doanh nghiệp, đó chính là các cơ chế chính sách của nhà
nước đề ra trong từng thời kỳ để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nhằm đạt

được nhưng mục tiêu đề ra trong từng thời kỳ để phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước nhằm đạt được những mục tiêu đề ra trong tương lai. Môi trường kinh tế - xã
hội ổn định sẽ tạo điều kiện lưu thông hàng hoá, thúc đẩy sản xuất phát triển, do đó
hoạt động tín dụng sẽ thuận lợi hơn. Nền kinh tế ổn định tăng trưởng tốt giúp cho
hoạt động kinh doanh có hiệu quả và khả năng hoàn trả vốn vay cao hơn, tác động
tới mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng.
Ngoài ra, các nguyên nhân bất khả kháng mang tính khách quan như thiên
tai, chiến tranh, hoả hoạn… có thể làm thiệt hại đến tài sản của người vay, làm họ
mất hoặc giảm khả năng thanh toán gây rủi ro cho ngân hàng.
* Nguyên nhân từ phía khách hàng vay
Nguyên nhân từ phía người vay có thể là những nguyên nhân cố ý hoặc
không cố ý gây thiệt hại cho ngân hàng. Hoạt động cho vay đầu tư với nhiều ưu đãi
có thể gây ra nhiều rủi ro hơn các hoạt động tín dụng ngân hàng khác: thời gian vay
vốn dài nên sẽ phụ thuộc rất nhiều vào những biến động của hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, lãi suất vay vốn thấp có thể gây ra những chủ quan
trong quá trình lập dự án và tình trạng chiếm dụng vốn trong quá trình trả nợ, những
10
điều kiện ràng buộc ưu đãi sẽ gây ra rủi ro về mặt đạo đức cao hơn trong quá trình
thu hồi vốn vay.
Trong nhiều trường hợp người vay không đủ trình độ quản lý hoạt động sản
xuất kinh doanh sau khi thực hiện đầu tư. Khi lập phương án kinh doanh, dự án đầu
tư, người vay có thể không tính toán, đánh giá hết được những khó khăn, những rủi
ro trong hoạt động đầu tư của mình. Do vậy, không thể khắc phục những khó khăn,
không quản lý, sử dụng hiệu quả được đồng vốn đã bỏ ra dẫn đến tình trạng không
trả nợ đúng hạn hoặc không trả được nợ cho ngân hàng. Năng lực của doanh nghiệp
thể hiện trên các mặt:
- Năng lực sản xuất của doanh nghiệp: năng lực sản xuất của doanh nghiệp
biểu hiện hiệu quả tài sản hiện có mà chủ yếu là tài sản cố định,cụ thể là quá trình
sản xuất sản phẩm, công nghệ sản xuất, đầu tư trước đây có kết quả như thế nào.
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp: năng lực tài chính của doanh nghiệp

thể hiện khối lượng vốn tự có và tỷ trọng vốn có trong tổng số nguồn vốn sử dụng.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao, khả năng đáp ứng các điều kiện tín
dụng càng lớn thì càng có điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng.
- Khả năng tổ chức, quản lý doanh nghiệp: doanh nghiệp vay vốn phải có bộ
máy có năng lực quản lý. Năng lực quản lý còn thể hiện ở tổ chức hệ thống hạch
toán kế toán và quản lý tài chính phù hợp với các quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, có nhiều trường hợp ngân hàng chịu rủi ro do khách hàng có ý
lừa đảo, chây ỳ… trong vay và trả nợ vốn vay. Để đạt được mục đích vay tiền,
người đi vay có thể lợi dịch sự không cân xứng về thông tin để cung cấp thông tin
sai lệch về tình hình tài chính, về phương án sản xuất, phương án trả nợ vốn vay
làm chệnh hướng thẩm định của các bộ ngân hàng.
* Nguyên nhân từ phía Ngân hàng
- Chính sách tín dụng, quy trình nghiệp vụ.
Chính sách tín dụng có tác động rất lớn tới chất lượng tín dụng ngân hàng,
vai trò quan trọng của nó thể hiện qua các nội dung: định hướng lĩnh vực đầu tư tín
dụng, cơ cấu tín dụng; Quy định chính sách lãi suất của ngân hàng đối với nhiều đối
11
tượng khác nhau; Quy định cơ chế nghiệp vụ, giám sát tín dụng ngân hàng; Quy
định cơ chế giám sát, quyền lợi và trách nhiệm đối với cán bộ ngân hàng…
Quy trình tín dụng thông thường được xác lập dựa trên những quy định
chung của luật pháp và những đặc thù trong hoạt động của mỗi ngân hàng.
Quy trình nghiệp vụ đồng bộ, thống nhất và khoa học, quy định rõ ràng trình
tự và thủ tục từng thao tác nghiệp vụ và trách nhiệm của từng cá nhân, từng bộ phận
sẽ có tác dụng nâng cao chất lượng của thông tin tới cấp ra quyết định cho vay,
giảm yếu tố sai lệch thông tin và là cơ sở quan trọng để nâng cao chất lượng tín
dụng, giảm rủi ro cho khoản vay.
Quy trình tín dụng không phát huy được tác dụng và có thể gây ảnh hưởng
làm tăng rủi ro tín dụng của ngân hàng thường xuất phát từ những nguyên nhân
chính sau: Thông tin cần phải thực hiện trong các bước không được quy định chi
tiết và đầy đủ; Mối quan hệ giữa các bước không được nhận thức đầy đủ và quy

định cho phù hợp; Việc thiết lập hồ sơ khách hàng chỉ đảm bảo tuân thủ quy định
chứ chưa đảm bảo đầy đủ về chất lượng… quy trình nghiệp vụ thiếu chặt chẽ hoặc
không phát huy được tính tự chủ của cán bộ ngân hàng, cơ chế giám sát cán bộ
không hợp lý, không tạo động lực cho cán bộ phấn đấu.
- Tổ chức bộ máy, thủ tục hành chính
Tổ chức bộ máy của cơ quan quản lý điều hành được hình thành phù hợp,
quy định rõ về quyền hạn và trách nhiệm của từng khâu, từng bộ phận sẽ có tác dụng
lớn trong các mối quan hệ của từng bộ phận trong quá trình quản lý từ khâu thẩm
định đến khi thiết lập quan hệ tín dụng và thu hồi hết nợ, góp phần nâng cao chất
lượng tín dụng, hạn chế tình trạng lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trong tín
dụng, hạn chế tình trạng rủi ro quản lý và điều hành do tổ chức bộ máy kém hiệu quả.
- Năng lực thẩm định và giám sát tín dụng
Năng lực thẩm định trước khi cho vay: đây là yếu tố đảm bảo chất lượng của
khoản vay và dự án. Năng lực thẩm định cao sẽ loại trừ được sai lệch trong cung
cấp thông tin của doanh nghiệp, việc dự đoán hoạt động trong tương lai, khả năng
sinh lời và rủi ro càng chính xác, chất lượng tín dụng càng lớn.
12
Theo dõi chặt chẽ tiền vay là biện pháp quan trọng để đảm bảo cho việc sử
dụng vốn đầu tư đúng mục đích, ngăn ngừa nợ quá hạn, nợ khó đòi. Nâng cao năng
lực giám sát và xử lý tín dụng cũng chính là biện pháp nâng cao chất lượng tín
dụng, giảm rủi ro tín dụng trong quá trình hoạt động cho vay.
Năng lực thẩm định và giám sát tín dụng phụ thuộc nhiều vào chất lượng cán
bộ tín dụng.
1.2.3. Tác động của rủi ro tín dụng đối với hoạt động của ngân hàng
1.2.3.1. Đối với các NHTM
Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của ngân hàng
Các ngân hàng thương mại dựa vào uy tín để thu hút đầu tư vậy, uy tín luôn
được ngân hàng đặt lên hàng đầu. Mặt khác, ngân hàng là đơn vị kinh doanh liên
quan đến nhiều đối tượng khách hàng, tiếng tốt hay tiếng xấu rất dễ lan truyền trong
khách hàng. Khách hàng khó có thể tin tưởng gửi tiền hay giao dịch trong một ngân

hàng có tỷ lệ rủi ro tín dụng cao vì rất có thể tiền của họ sẽ bị tổn thất, do đó ngân
hàng sẽ gặp khó khăn trong việc huy động vốn. Các ngân hàng khác cũng không
muốn chọn ngân hàng có nhiều rủi ro làm đại lý, đối tác kinh doanh, đầu tư.
Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng
Như đã đề cập ở trên, rủi ro tín dụng là ngân hàng gặp khó khăn trong việc
huy động vốn. Khi gặp rủi ro tín dụng, vốn của ngân hàng bị tổn thất, mà ngân hàng
vẫn phải thanh toán đúng hạn cho các khoản nợ và khoản vay của ngân hàng. Mặt
khác, rủi ro tín dụng gây ra ảnh hưởng xấu tới tâm lý người gửi tiền nên họ có thể
sẽ đồng loạt rút tiền, ngân hàng càng lâm vào tình trạng thiếu hụt tiền và khả năng
thanh toán giảm đáng kể.
Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng
Gặp rủi ro tín dụng thì đương nhiên ngân hàng không thu được cả vốn và lãi
cho khoản vay đó, lợi nhuận của ngân hàng giảm. Hơn thế nữa, do tình trạng giảm
khả năng thanh toán, để giữ cho ngân hàng có thể tiếp tục hoạt động, ngân hàng có
thể buộc phải đi vay với lãi suất cao để chi trả cho những yêu cầu tiền mặt cấp bách
do vậy làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
13
Rủi ro tín dụng có thể dẫn đến việc phá sản ngân hàng
Rủi ro tín dụng làm mất uy tín của ngân hàng, khả năng thanh toán giảm sút,
thậm chí mất khả năng thanh toán, lợi nhuận giảm. Tất cả những nguyên nhân này
có thể dẫn tới việc ngân hàng đứng bên bờ vực của sự phá sản nếu các nhà quản lý
không đưa ra được biện pháp ứng phó linh hoạt, kịp thời.
1.2.3.2. Đối với khách hàng
Rủi ro tín dụng xảy ra cụ thể là nợ quá hạn phát sinh thì doanh nghiệp vay
vốn phải chịu lãi suất quá hạn là 150% lãi suất trong hạn, một mức lãi suất cao làm
cho tổng nợ của khách hàng đối với ngân hàng tăng lên nhanh chóng, tình hình tài
chính của họ đã khó khăn nay lại càng khó khăn hơn, khả năng trả nợ cho ngân
hàng ngày càng thấp. Hơn nữa, khách hàng để phát sinh nợ quá hạn là dấu hiệu nói
lên sự hoạt động kém hiệu quả của khách hàng và uy tín của khách hàng sẽ bị giảm
sút. Do đó họ sẽ gặp nhiều khó khăn khi muốn vay vốn tại ngân hàng đó hoặc tại

ngân hàng khác để khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2.3.3. Đối với hệ thống tài chính của cả quốc gia
Ngân hàng là một trung gian tài chính, hoạt động của mỗi ngân hàng có sự
tác động mạnh mẽ đến toàn bộ hệ thống tài chính. Nếu có sự thất thoát trong hoạt
động tín dụng nào đó, dù chỉ một ngân hàng và ở một mức nhất định nào đó cũng sẽ
đe doạ đến tính an toàn và tính ổn định của toàn hệ thống ngân hàng. Từ đó sẽ dẫn
đến các chính sách tài chính cũng không còn phù hợp và hệ thống tài chính tiền tệ
không còn được vững mạnh. Giảm uy tín trên thị trường tài chính thế giới. Vì lẽ đó
mà các ngân hàng Trung ương đều quy định mọi ngân hàng phải tuân thủ quy trình
phân tích rủi ro trong cho vay.
1.2.3.4. Đối với nền kinh tế
Khi có tổn thất xảy ra, trước hết thu nhập của ngân hàng giảm sút, dẫn đến tỷ
suất lợi tức và thị giá cổ phiếu của ngân hàng giảm. Việc cổ phiếu giảm giá sẽ có
thể kéo theo việc bán hàng loạt cổ phiếu trên thị trường, là điểm mở đầu của quá
trình mua lại, sát nhập, thay thế ban quản lý ngân hàng. Rủi ro tín dụng có thể dẫn
đến rủi ro thanh khoản, mọi người sẽ mất lòng tin ở ngân hàng và việc huy động
14
vốn của ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn. Rủi ro tín dụng không chỉ có ảnh hưởng
đến phạm vi của một ngân hàng nào đó mà nó ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống
ngân hàng, đến thị trường tài chính, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế.
Do đó việc quản lý để hạn chế rủi ro tín dụng ngân hàng là điều rất cần thiết
trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra một số kết luận cơ bản sau:
Sơ đồ 1.1: Một số kết luận cơ bản
1.3. QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các
chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu an toàn,
hiệu quả và phát triển bền vững; tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế,
giảm thấp nợ quá hạn, nợ xấu trong hoạt động tín dụng; nâng cao hiệu quả hoạt

động tín dụng của ngân hàng.
Do vốn chủ sở hữu của ngân hàng so với tổng giá trị tài sản là rất nhỏ nên
chỉ cần một tỷ lệ nhỏ danh mục cho vay có vấn đề sẽ có thể đẩy ngân hàng vào
15
Không có rủi ro
không có lợi nhuận
Khả năng vốn và tài chính
của ngân hàng có hạn
Rủi ro tín dụng thường là
nguyên nhân chính dẫn đến
sự đổ vỡ của ngân hàng
Rủi ro tín dụng xảy ra bởi
nhiều nguyên nhân khác
nhau khó đo lường
Phải chấp nhận rủi ro
Ngân hàng chỉ có thể
chấp nhận mức độ rủi ro
nhất định
Quản lý rủi ro tín dụng được
coi là vấn đề sống còn
Đòi hỏi trình độ chuyên môn
cao của cán bộ tín dụng
nguy cơ phá sản. Vì vậy, quản trị rủi ro tín dụng là cần thiết đối với hoạt động
của ngân hàng.
1.3.2. Nội dung quản trị rủi ro tín dụng
1.3.2.1. Xây dựng cơ cấu tổ chức quản trị
Cơ cấu tổ chức quản trị rủi ro tín dụng có ý nghĩa quan trọng trong công tác
quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng. Cơ cấu tổ chức được tạo lập một cách có hệ
thống, phù hợp với tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế sẽ tạo điều kiện nâng cao chất
lượng, đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng.

Cơ cấu tổ chức quản trị rủi ro tín dụng tốt phải phân định rõ chức năng,
nhiệm vụ của từng bộ phận; phân cấp, uỷ quyền rõ ràng trong hoạt động của hệ
thống; xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng bộ phận; phát huy hiệu quả
công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
Cơ cấu tổ chức quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTM phụ thuộc nhiều vào
quy định về chức năng, nhiệm vụ do NHNN ban hành đối với tổ chức thực hiện
quản lý tín dụng NHTM.
1.3.2.2. Thiết lập chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng tại các NHTM được NHNN quy định với những điều
khoản chính như đối tượng, lãi suất, tài sản đảm bảo, thời gian vay, hạn mức cho
vay… Chính sách tín dụng được xây dựng dựa trên cơ sở thực trạng nền kinh tế xã
hội, những định hướng phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước. Chính sách tín dụng
hợp lý tạo điều kiện cho nền kinh tế, xã hội phát triển đúng định hướng, và tạo hiệu
quả cao cho đồng vốn cho vay.
1.3.2.3. Quy trình quản trị tín dụng
Quy trình tín dụng là quy định cụ thể các bước nghiệp vụ, yêu cầu và nội
dung của từng bước nghiệp vụ từ nhận và thẩm định hồ sơ đến nghiệp vụ cho vay,
thu nợ, kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng… đồng thời phân định rõ trách
nhiệm của từng bộ phận tham gia thực hiện công tác tín dụng.
Quy trình tín dụng được xây dựng hợp lý sẽ giúp cho công tác quản trị tín
dụng được thống nhất, khoa học, hạn chế và phòng ngừa rủi ro. Quy trình tín dụng
16
phải xác định được người thực hiện công việc và trách nhiệm của cán bộ liên quan
trong quá trình cho vay. Quy trình tín dụng phải đảm bảo tuân thủ các văn bản pháp
lý của Nhà nước.
1.3.2.4. Đánh giá, phân loại các khoản vay
Trước khi cho vay, cán bộ tín dụng cần xây dựng cho mình một cơ sở kiến
thức đầy đủ và chắc chắn về khách hàng cũng như hoạt động kinh doanh của khách
hàng. Đồng thời phải thường xuyên cập nhật thông qua việc thường xuyên liên hệ
với khách hàng. Các thông tin này được báo cáo lên Ban lãnh đạo thông qua báo

cáo thẩm định hoặc báo cáo định kỳ.
Trong quá trình giải ngân, ưu tiên hàng đầu là phải đảm bảo số tiền vay được
sử dụng đúng mục đích và hiệu quả; thời gian thực hiện sẽ được hoàn tất đúng hạn
và trong phạm vi số tiền quy định cho phép.
Sau khi hoàn tất giai đoạn triển khai, cần tiếp tục giám sát chặt chẽ hoạt động
và so sánh với kế hoạch kinh doanh. Cần phải kiểm tra về tình hình thị trường, tình
hình bán hàng, tình hình sản xuất và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Đồng
thời, phải thường xuyên kiểm tra tình hình tài sản bảo đảm tiền vay, giá trị của tài
sản bảo đảm.
Sau khi khoản vay phát sinh, cán bộ tín dụng phải luôn theo dõi, giám sát
khoản vay để nhận diện rủi ro, qua đó có những giải pháp tối ưu giúp ngăn ngừa và
xử lý các khoản tín dụng.
- Nhóm các dấu hiệu phát sinh rủi ro từ phía khách hàng: bao gồm các dấu
hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng và dấu hiệu liên quan đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Các dấu hiệu cho thấy phát sinh rủi ro liên quan đến Ngân hàng thường là: trì
hoãn, gây khó khăn cho Ngân hàng trong việc kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất tình
hình sử dụng vốn vay, tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của khách
hàng; chậm gửi hoặc trì hoãn gửi báo cáo tài chính; không thực hiện các quy định
trong quan hệ tín dụng; chậm thanh toán các khoản nợ khi đến hạn; có dấu hiệu tìm
kiếm sự tài trợ từ bên ngoài dự án…
17
Các dấu hiệu liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp; có sự chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với dự kiến
khi doanh nghiệp đề nghị cấp tín dụng; những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ
lệ thanh khoản; xuất hiện các khoản chi phí bất hợp lý; khó khăn trong phát triển
sản phẩm mới;…
- Nhóm các dấu hiệu xuất phát từ chính sách tín dụng của ngân hàng: đánh
giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng như đánh giá quá
cao năng lực tài chính của khách hàng; cấp tín dụng dựa trên những cam kết không

chắc chắn và thiếu tính bảo đảm của khách hàng; tốc độ tăng trưởng tín dụng quá
nhanh, vượt quá khả năng và năng lực kiểm soát vốn của ngân hàng, hồ sơ tín dụng
không đầy đủ;…
Trên cơ sở thực hiện đánh giá khoản vay, cần phải thực hiện phân loại tín
dụng. Phân loại tín dụng không phải là một môn khoa học chính xác mà là vấn đề
liên quan đến việc đánh giá, xếp hạng. Do vậy, không có một hệ thống phân loại
nào là hoàn hảo. Việc phân loại giúp ngân hàng tổng hợp được tình hình về tài
chính của doanh nghiệp, cố gắng xác định được những thế mạnh, điểm yếu và rủi ro
của khoản tín dụng.
Việc xếp hạng chất lượng các khoản vay được thực hiện cho tất cả các khách
hàng để ngân hàng có điều kiện theo dõi và đánh giá cấp độ rủi ro trong từng trường
hợp và từ đó phân tích, có phương án xử lý kịp thời.
1.3.2.5. Quản lý nợ có vấn đề
Sau khi phát sinh khoản nợ có vấn đề, việc thực hiện quản lý thường được
thực hiện qua các bước:
- Thông tin trong nội bộ
Qua quá trình quản lý các khoản vay, khi có dấu hiệu phát sinh khoản nợ vay
có vấn đề, có thể ảnh hưởng xấu đến chất lượng của khoản vay và khả năng trả nợ
của người vay, cán bộ tín dụng cần phải thông báo bằng văn bản cho lãnh đạo
phòng, các phòng có liên quan, ban lãnh đạo. Nội dung truyền đạt cần phải nêu rõ
được: Bản chất của vấn đề và nguyên nhân; Vấn đề được phát hiện ra như thế nào;
18
Những ảnh hưởng có thể phát sinh của vấn đề này đối với ngân hàng, trường hợp dễ
xảy ra nhất là trường hợp xấu nhất; Đề xuất về các hành động khẩn cấp mà ngân
hàng cần thực hiện.
- Kiểm tra hồ sơ khoản vay
Cán bộ tín dụng cần ngay lập tức kiểm tra lại hồ sơ của khoản vay để biết
được. Hồ sơ có đầy đủ và hợp lệ không; Biến cố không trả được nợ đã xảy ra chưa
hoặc biến cố không trả được nợ chắn chắn sẽ xảy ra trong tương lai gần hay không;
Ngân hàng có những quyền gì, có những khả năng hành động nào để thực hiện

những quyền này. Giai đoạn này cán bộ tín dụng có thể tham khảo ý kiến của bộ
phận pháp chế.
- Thông tin với người vay để người vay thấy được ngân hàng đã biết vấn đề
và khẳng định lại tính chính xác của thông tin. Đồng thời ngân hàng kiểm tra thái
độ của người vay, kế hoạch hành động của người vay.
- Thay đổi phân loại tín dụng.
Trên cơ sở đánh giá ảnh hưởng những thông tin trên, ngân hàng cần thay đổi
xếp loại đối với khoản vay để đánh giá đúng tình hình hoạt động tín dụng.
- Chiến lược hành động và xử lý nợ có vấn đề.
Ngân hàng cần phải nhanh chóng đề ra và thực hiện chiến lược của mình.
Những hành động này phải được xây dựng một cách thận trọng trên cơ sở đánh giá
của ngân hàng về: Nguyên nhân thực sự của vấn đề; thái độ, hành động ban lãnh
đạo của doanh nghiệp; Vị thế của ngân hàng. Qua đó, ngân hàng xây dựng được các
giải pháp giải quyết vấn đề trên, các bước hành động.
1.3.2.6. Các tiêu chí phản ánh rủi ro tín dụng
Các tiêu chí đánh giá công tác quản lý rủi ro tín dụng là các chỉ tiêu phản ánh
mức độ rủi ro tín dụng của tổ chức tín dụng.
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn thanh
toán đã thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng.
Tỷ lệ nợ quá hạn được xác định như sau:
19
Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn * 100%
Tổng dư nợ vay
Tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh bao nhiêu phần trăm trong tổng dư nợ chưa thanh
toán bị quá hạn.
Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn là số tương đối và tuyệt đối phản ánh mức độ
của khoản nợ quá hạn của ngân hàng. Các chỉ tiêu này càng cao thì khả năng rủi ro
tín dụng của ngân hàng càng lớn, phản ánh việc quản lý rủi ro tín dụng của ngân
hàng là chưa tốt.

Tuy nhiên, nếu các chỉ tiêu này thấp hoặc bằng không không có nghĩa hoạt
động tín dụng của ngân hàng không có mà khi đó số tiền rủi ro chính là tổng dư nợ
của ngân hàng.
- Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng:
Tỷ lệ dự phòng =
Dự phòng rủi ro tín dụng
* 100%
Tổng dư nợ vay
Tỷ lệ này phản ánh số dư quỹ dự phòng rủi ro mà ngân hàng trích lập so với
tổng dư nợ của ngân hàng. Chỉ tiêu này nói lên sự chuẩn bị của ngân hàng cho
khoản tổn thất tín dụng thông qua việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng hàng
năm từ thu nhập hiện tại của ngân hàng.
- Các khoản tín dụng có vấn đề: là những khoản vay chưa đến hạn, chưa được
xem là nợ quá hạn nhưng trong quá trình theo dõi, ngân hàng phát hiện thấy khách
hàng có dấu hiệu không trả được nợ. Đây là chỉ tiêu định tính phản ánh rủi ro tín dụng.
1.3.2.7. Các biện pháp quản trị rủi ro tín dụng
Cơ sở để quản lý tốt rủi ro tín dụng là xác định những rủi ro hiện hữu và tiềm
năng trong các hoạt động cho vay. Các phương pháp đối phó với những rủi ro này
thường bao gồm những chính sách rõ ràng về lý thuyết rủi ro tín dụng của các ngân
hàng và các chỉ tiêu kiểm soát rủi ro tín dụng. Kiểm soát rủi ro tín dụng bao gồm việc
hạn chế các rủi ro thông qua các chính sách áp dụng cho các hồ sơ tín dụng đa dạng.
Có thể chia các biện pháp quản trị rủi ro tín dụng thành 03 nhóm chính:
* Nhóm 1: Các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng
20
- Đối với các khoản vay có rủi ro lớn
Các nhà quản trị thường có sự quản tâm sát sao đến những khoản tín dụng có
mức độ tập trung rủi ro cao của các ngân hàng. Mục đích chính trong việc quản trị
rủi ro của nhà quản lý là ngăn ngừa tình trạng các ngân hàng phụ thuộc quá nhiều
vào một nhóm những khách hàng đi vay. Các quy chế đảm bảo an toàn hiện đại
thường quy định rằng tổng mức giá trị một ngân hàng được phép đầu tư, cho vay

hoặc cung ứng công cụ tín dụng khác đói với bất kỳ một pháp nhân hoặc một nhóm
pháp nhân có liên quan nào vượt hơn một tỷ lệ nhất định tính trên tổng số vốn và dự
phòng của ngân hàng đó. Trong phạm vi này, các nhà quản trị có thể kiểm soát
được rủi ro tín dụng của các ngành ngân hàng và từng ngân hàng riêng biệt để bảo
vệ quyền lợi cho người gửi tiền và ngăn chặn các tình huống có thể gây ra rủi ro cho
cả hệ thống ngân hàng.
Hầu hết các quốc gia đều hạn chế mức cho vay đối với khách hàng trong
khoảng từ 20-25% tổng vốn, mặc dù ở một số nơi tỷ lệ này có thể lên tới 30-40%.
Ủy ban Basle về giám sát ngân hàng khuyến nghị nên áp dụng tỷ lệ tối đa là 25%
với mục đích giảm xuống chỉ còn 10% khi thực tế cho phép. Mức ngưỡng phải báo
cáo cho cơ quan quản lý chức năng thường được đặt thấp hơn mức tỷ lệ tối đa. Khi
đó các nhà quản lý có thể được quan tâm đặc biệt đến những khoản vay vượt trên tỷ
lệ ngưỡng và yêu cầu các ngân hàng có biện pháp phòng ngừa trước khi việc tập
trung rủi ro trở thành nguy cơ.
- Đối với các khoản cho vay có nhiều bên liên quan.
Cho vay có nhiều bên liên quan là một loại hình cho vay có nguy cơ rủi ro
tín dụng đặc biệt lớn. Các bên có liên quan bao gồm ngân hàng mẹ, những cổ đông
chính, các công ty con, các công ty phụ thuộc, giám đốc và nhân viên điều hành.
Mối quan hệ này thể hiện khả năng kiểm soát hoặc gây ảnh hưởng đến việc đưa ra
các quyết sách của một ngân hàng, đặc biệt, các quyết định có liên quan đến tín
dụng. Khả năng nhận biết một cách có hệ thống và theo dõi việc cho vay những
người trong nội bộ của ngân hàng rất quan trọng. Vấn đề là liệu việc cho vay có dựa
trên cơ sở các chỉ số và các chính sách, quy trình của ngân hàng hay không. Một số
21
vấn đề đáng quan tâm khác là khoản tín dụng đó có dựa trên cơ sở các điều kiện thị
trường và tuân thủ các điều khoản có lợi hơn về sự cung ứng tín dụng, thời hạn, lãi
suất, thế chấp, và rủi ro… so với những khách hàng thông thường khác hay không.
- Đối với các khoản cho vay theo khu vực địa lý hoặc theo ngành nghề
kinh doanh.
Một hướng khác của quản trị rủi ro là quản lý dư nợ cho vay của một ngân

hàng cho một ngành kinh tế hoặc cho một khu vực địa lý hẹp. Điều này làm cho
ngân hàng bị phụ thuộc vào những bất lợi của ngành nghề hoặc khu vực đó và do đó
rủi ro mà ngân hàng sẽ phải gánh chịu không chỉ do một khách hàng đơn lẻ mà có
thể đồng thời phát sinh từ một số khách hàng cho cùng một nguyên nhân. Điều này
đặc biệt đúng đối với các ngân hàng khu vực hoặc ngân hàng chuyên doanh hoặc
các ngân hàng tại quốc gia nhỏ có ít ngành nghề kinh tế đầu tư như các quốc gia sản
xuất nông nghiệp hoặc khai thác một loại khoáng sản là chủ yếu. Trong bất kỳ
trường hợp nào, các ngân hàng, do đặc trưng hoạt động , luôn chịu rủi ro ngành
nghề, cũng cần phải xây dựng tốt một hệ thống kiểm soát các rủi ro này và đánh giá
tác động do sự thay đổi theo chiều hướng xấu của chất lượng các khoản vay và cân
đối lỗ lãi. Các ngân hàng này cũng không cần phải có một cơ thể tổ chức để giải
quyết các rủi ro tăng lên.
- Đối với các khoản nợ được điều chỉnh
Các khoản nợ được điều chỉnh là các khoản vay đã được cơ cấu lại làm giảm
bớt gốc hoặc lãi do tình hình tài chính của khách hàng vay bị xấu đi. Còn các khoản
vay được gia hạn hoặc đảo nợ theo các điều khoản giống như các điều khoản cho
vay ban đầu có cùng mức độ rủi ro không được coi là các khoản cho vay được điều
chỉnh. Việc cơ cấu lại có thể bao gồm việc khách hàng thanh toán khoản vay cho
ngân hàng bằng đất đai, các khoản phải thu, hoặc các tài sản khác của một bên thứ
ba, gán nợ hoặc thanh toán một phần khoản vay hoặc thêm khách hàng vay.
Các giao dịch này nên được ban lãnh đạo ngân hàng phê duyệt vì thường có
sự nhân nhượng đối với khách hàng vay vốn. Các chính sách của ngân hàng cũng
22
phải đảm bảo rằng các điều khoản này được thực hiện hoàn hảo trên quan điểm về
kế toán và kiểm soát. Ngân hàng phải tính toán các khoản vay được cơ cấu lại bằng
cách giảm bớt các số liệu đầu tư cho phù hợp với giá trị hiện thời tính đến các nhân
nhượng vào thời điểm cơ cấu lại. Các khoản giảm bớt sẽ được tính vào báo cáo thu
nhập của ngân hàng vào thời kỳ ngân hàng cơ cấu lại khoản vay. Việc giảm một
lượng lớn cho các khoản vay được điều chỉnh là dấu hiệu cho thấy ngân hàng đang
gặp phải khó khăn, một ngoại lệ đó là trường hợp lãi suất trên thị trường đang giảm

và vì lợi ích của người đi vay và người cho vay, các điều khoản tín dụng ban đầu
cần được điều chỉnh lại.
* Nhóm 2: Nhóm biện pháp phân loại tín dụng
Phân loại tín dụng là quá trình trong đó xác định cấp độ rủi ro tín dụng cho
một tài sản được khách hàng dùng để thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc thanh lý theo
điều khoản hợp đồng tín dụng. Nói chung, mọi khoản cho vay đều cần được đánh
giá, phân loại kỹ càng.
Phân loại tín dụng là một công cụ quan trọng của quản trị rủi ro tín dụng. Các
khoản cho vay được phân loại tại thời điểm gốc và cần được đánh giá, phân loại lại
(theo mức độ rủi ro) sau một thời gian. Việc đánh giá lại này dựa vào thực tế hoạt
động và sử dụng khoản vay của người đi vay. Sự thay đổi các xu thế kinh tế, các thị
trường và giá cả hàng hoá cũng là những yếu tố ảnh hưởng tới giá trị của tài sản.
Các ngân hàng thường tự quyết định cách thức phân loại tín dụng nhưng nói
chung đều dựa trên một số tiêu chuẩn để phân loại tín dụng thành các loại sau:
- Khoản tín dụng đạt tiêu chuẩn: Là khoản tín dụng mà các ngân hàng không
phải nghi ngờ về khả năng hoàn trả nó. Nói chung, các khoản cho vay được đảm
bảo (kể cả gốc và lãi) bằng tiền mặt hoặc các giấy tờ có giá thay thế tiền mặt như
chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu kho bạc được xếp vào loại chuẩn này.
- Khoản tín dụng này được theo dõi: Là những khoản tín dụng chứa đựng
tiềm năng rủi ro, nếu không được giám sát sẽ gây nguy hiểm đối với khả năng trả
nợ của người đi vay trong tương lai. Ví dụ như những khoản cho vay không cân
xứng, không có sự giám sát tài sản thế chấp hay thiếu một số giấy tờ hợp lệ hay
23

×