Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Bước đầu xây dựng bộ chỉ số đánh giá sự phát triển của nghề lưới rê tại phường Vĩnh Phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 88 trang )

- 1 -
LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Từ thời xa xưa, nghề cá đã cung cấp nguồn thực phẩm chủ yếu cho con người.
Thực phẩm thủy sản giàu đạm, ít mỡ, giàu khoáng chất, dễ tiêu hóa và ngày càng
đang trở thành loại thực phẩm có nhu cầu cao trên toàn thế giới.
Hơn nữa, nghề khai thác hải sản còn tạo cơ hội giải quyết công ăn việc làm cho
nhiều cộng đồng dân cư, đặc biệt ở những vùng ven biển và vùng nông thôn. Nghề
khai thác hải sản không những trực tiếp tạo nguồn thu nhập cho một bộ phận lớn
dân cư tham gia trong nghề, mà còn gián tiếp tạo nguồn thu nhập cho nghề nuôi
trồng, chế biến, tiêu thụ, cũng như các ngành dịch vụ cho nghề cá khác như: sửa
chữa ngư cụ, đóng sửa tàu thuyền, sản xuất nước đá, cung cấp dầu nhớt và cung cấp
các trang thiết bị đánh bắt
Hiện nay, ngành thuỷ sản đang không ngừng tăng trưởng cả về số lượng và chất
lượng. Trên con đường phát triển một ngành thuỷ sản bền vững, nhu cầu về thông
tin thống kê nghề cá là rất lớn trong khi đó công tác xây dựng chiến lược phát triển
kinh tế thủy sản của Việt Nam chủ yếu còn dựa vào các quan điểm chủ quan của các
nhà hoạch định, thiếu cơ sở khoa học, đặc biệt là công tác thống kê dự báo.
Cũng như nhiều địa phương khác nằm ven biển, thủy sản là một ngành kinh tế
quan trọng của tỉnh Khánh Hòa. Khánh Hòa hiện có trên 40 DN tham gia XKTS.
Năm 2006, sản lượng đánh bắt thủy sản toàn tỉnh đạt 65.000 tấn, nuôi trồng đạt
24.700 tấn. Hàng năm, sản lượng sản phẩm xuất khẩu đạt khoảng 45.000 - 47.000
tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 260 triệu USD. Trữ lượng hải sản của Khánh Hoà
khoảng 150 – 200 nghìn tấn và hàng năm có thể khai thác khoảng 70.000
tấn.(Nguồn:Sở thủy sảnKhánh Hòa)
Tuy nhiên sản lượng khai thác hải sản từ năm 2001 đến 2006 không tăng, hơn
nữa lại có xu hướng giảm, rõ rệt nhất là năm 2004 giảm so với năm 2003 là 6.395
tấn và năm 2006 giảm so với năm 2005 là 1.190 tấn. Bên cạnh đó số lượng tàu
thuyền và tổng công suất qua mỗi năm tăng lên rõ rệt từ 4.812 chiếc với tổng công
suất 110.578 CV năm 2001 tăng lên 5.424 chiếc với tổng công suất 224.775 CV
- 2 -


năm 2006, đã gây ra sự mất cân đối trong khai thác làm cho nguồn lợi thủy sản vốn
đã suy giảm nay lại càng cạn kiệt.
Nguyên nhân này một phần do các nhà quản lý thủy sản của Khánh Hòa không
nắm bắt được tình hình thực tế của nguồn lợi cũng như các vấn đề khác. Quản lý
thuỷ sản Khánh Hoà mới chỉ dừng lại ở quản lý đầu vào và quản lý các thông số kĩ
thuật. Số liệu của các cơ quan quản lý Khánh Hoà không giống nhau và không
chính xác. Như vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển bền vững của nghành.
Do đó, vấn đề cấp bách hiện nay là cần có biện pháp quản lý hữu hiệu để có thể
phát triển nghề cá một cách bền vững. Khái niệm “phát triển bền vững” ở đây phải
được xem xét trên nhiều phương diện: về mặt sinh học, phải đảm bảo khai thác cân
bằng với năng suất nguồn lợi; về mặt kinh tế, đảm bảo các đội tàu khai thác có đủ
thu nhập để trang trải mọi chi phí; về mặt xã hội, duy trì việc làm và tạo được thu
nhập ổn định cho ngư dân, tốc độ tăng thu nhập của nghề phải cao hơn tốc độ tăng
trưởng của xã hội. Do vậy để góp phần hỗ trợ cho công tác quản lý nghề khai thác
hải sản đòi hỏi cần phải có các dữ liệu về trữ lượng, năng lực khai thác, các chỉ số
kết quả kinh tế, xã hội về khai thác hải sản.
Chính vì vậy em chọn đề tài: “ Bước đầu xây dựng bộ chỉ số đánh giá sự phát
triển của nghề lưới Rê tại phường Vĩnh Phước” làm luận văn tốt nghiệp.
Mong muốn của đề tài là bước đầu thiết lập được những chỉ số cơ bản góp phần
vào việc đánh giá rõ ràng và so sánh giữa các nghề cá qua thời gian. Từ đó có thể
biết được tình trạng hiện tại và năng suất của nghề để đưa ra được phương pháp
quản lý thích hợp với thực tế của phường Vĩnh Phước.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xây dựng bộ chỉ số cho sự phát triển bền vững nghề lưới rê
- Đề xuất những khuyến nghị nhằm nâng cao kết quả kinh tế của đội tàu lưới rê
tại Nha Trang.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Hiện tại thành phố Nha Trang có 27 xã phường, trong đó có 7 phường có nghề
khai thác thuỷ sản tập trung với số lượng lớn. Do điều kiện thời gian, năng lực bản
- 3 -

thân có hạn nên phạm vi nghiên cứu của đề tài xin được giới hạn lại là phường Vĩnh
Phước. Với mục đích nghiên cứu của đề tài nên đối tượng nghiên cứu đề tài xin
chọn là nghề lưới Rê của phường trên.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu của đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng với dữ liệu
được thu thập bằng bảng câu hỏi điều tra ngư dân.
Số liệu phân tích của đề tài bao gồm:
- Số liệu thứ cấp: Số lượng tàu thuyền, năng lực khai thác được thu thập từ
Chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản Khánh Hòa, Sở thuỷ sản Khánh Hòa, Văn phòng
UBND thành phố Nha Trang, Đội thuế phường Vĩnh Phước, các trang Web Bộ
Thủy Sản, Tổng cục thống kê, từ các báo cáo khoa học có liên quan, các tài liệu và
giáo trình chuyên ngành thủy sản.
- Số liệu sơ cấp: Được thu thập qua mẫu điều tra trực tiếp đối với các hộ ngư dân
nghề lưới rê thu ngừ tại phường Vĩnh Phước thành phố Nha Trang. Gồm:
 Thông tin về tàu gồm số đăng ký, công suất và chiều dài tàu.
 Thông tin về nhân công gồm thông tin về thuyền trưởng, thuỷ thủ, thu nhập
bình quân cho một thuỷ thủ.
 Thông tin về mùa đánh bắt gồm số tháng, số chuyến và số ngày bình quân cho
một chuyến đánh bắt, cho cả hai mùa chính phụ.
 Thông tin về tình hình đầu tư tài sản cố định gồm có giá mua, giá hiện tại và
giá mua mới của các tài sản hiện có như vỏ tàu, máy tàu, thiết bị cơ khí, thiết
bị điện tử, ngư lưới cụ, thiết bị bảo quản.
 Thông tin về chi phí sửa chữa lớn và bảo dưỡng hàng năm bao gồm các chí
phí sửa chữa và bảo dưỡng vỏ tàu, máy tàu, lưới và các thiết bị khác nếu có.
 Thông tin về bảo hiểm bao gồm bảo hiểm tàu và bảo hiểm thuyền viên nếu có.
 Thông tin về chi phí biển đổi bình quân trên một chuyến biển gồm chi phí dầu
diezel, nhớt, lương thực thực phẩm, đá và các chi phí phát sinh khác.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra thử đã nảy sinh nhiều vấn đề như khả năng
ghi chép tính toán của người dân không chính xác một phần vì do trình độ học vấn
và nhận thức còn hạn chế, một phần do tâm lý sợ bị các cơ quan an ninh đăng kiểm

kiểm tra, sự miễn cưỡng khi phải tiết lộ thu nhập của mình, v.v. nên ít nhiều đã ảnh
- 4 -
hưởng đến số lượng mẫu thu thập. Do đó, kích thước mẫu chủ yếu hướng đến
những ngư dân nào chấp nhận và vui lòng tham gia vào qúa trình phỏng vấn. Số
mẫu thu thập được và tiến hành phân tích là 50 mẫu, loại 11 mẫu,còn 39 mẫu chiếm
tỷ lệ 25% trên tổng thể. Nhưng giống như các khảo sát hoạt động kinh tế trong lĩnh
vực thủy sản khác, sẽ không tránh khỏi sai số khi đánh giá các chỉ số kinh tế của đội
tàu, và bài làm cũng không tham vọng tính đến tất cả các yếu tố đầu vào khi phân
tích mà chỉ xét đến một số các nhân tố chính thiết yếu ảnh hưởng đến kết quả kinh
tế của đội tàu.
Phương pháp xử lý số liệu
Trên cơ sở sử dụng phần mềm Microsoft Excel, phần mềm SPSS, số liệu được
thu thập sẽ được nhập vào máy tính và phân tích bằng các hàm thống kê để đưa ra
các giá trị cần thiết. Các chỉ số này dùng để mô tả các đặc trưng kinh tế, thông số kỹ
thuật của hộ ngư dân khai thác bằng nghề lưới Rê. Đồng thời tiến hành phân tích kết
quả kinh tế của nghề dựa trên tiêu chí công suất khác nhau để từ đó xác định được
một cơ cấu đầu tư hợp lý.
5. Kết cấu của đề tài
Luận văn được trình bày theo một kết cấu luận văn và báo cáo khoa học có tính
truyền thống. Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung và kết quả nghiên cứu được
trình bày trong 3 chương:
 Chương 1: Lý thuyết về hệ thống chỉ số áp dụng trong quản lý nghề cá
biển
 Chương 2: Phân tích và đánh giá một số chỉ số đối với nghề lưới Rê tại
phường Vĩnh Phước
 Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị góp phần phát triển nghề lưới rê
- 5 -
CHƯƠNG 1
LÝ THUYẾT VỀ HỆ THỐNG CHỈ SỐ ÁP DỤNG TRONG
QUẢN LÝ NGHỀ CÁ BIỂN

1.1 Khái niệm các chỉ số phát triển bền vững nghề cá
Chỉ số là một biến số, thang hay bảng liệt kê liên quan đến chỉ tiêu. Những dao
động của chúng phản ánh sự thay đổi các yếu tố then chốt về khả năng bền vững
của hệ sinh thái, nguồn lợi thủy sản, phúc lợi kinh tế và xã hội. Vị trí và chiều
hướng của chỉ số liên quan đến điểm tham khảo chỉ ra tình trạng hiện tại và năng
động của hệ thống. Các chỉ số cung cấp cho ta một cầu nối giữa mục tiêu và hành
động quản lý (FAO, 1999)
1.2 Mục đích của các chỉ số
Mục đích của các chỉ số là góp phần vào việc đánh giá rõ ràng và so sánh giữa
các nghề cá qua thời gian. Chúng mô tả bằng thuật ngữ đơn giản ở mức độ mà các
mục tiêu đặt ra cho phát triển bền vững đạt được.Các chỉ số hỗ trợ cho quá trình
đánh giá việc thực hiện các chính sách và quản lý thủy sản ở cấp độ toàn cầu, khu
vực, quốc gia. Chúng cung cấp một công cụ hiểu biết sẵn sàng về tình trạng nguồn
lợi và hoạt động thủy sản và đánh giá khuynh hướng liên quan đến các mục tiêu
phát triển bền vững. Trong quá trình đo lường sự tiến bộ hướng về phát triển bền
vững, một bộ chỉ số khuyến khích hành động để đạt phát triển bền vững.
Các chỉ số có thể giúp đơn giản hóa và hài hòa báo cáo ở các cấp khác nhau. Ở
cấp độ khu vực, các chỉ số có thể hổ trợ quá trình hài hòa các chiến lược quản lý
nguồn lợi và đo lường toàn bộ sức khỏe của hệ sinh thái biển quy mô lớn. Ở cấp độ
quốc gia, quốc gia có thể sử dụng các chỉ số để tạo ra một bức tranh của ngành thủy
sản và môi trường của nó.Ở cấp độ ngành, các chỉ số cung cấp một công cụ hoạt
động trong quản lý thủy sản, như một cầu nối giữa các mục tiêu và hành động quản
lý.
Trước đây các chỉ số được sử dụng trong quản lý thủy sản có khuynh hướng là
chỉ số sinh học và tập trung vào loài mục tiêu. Ngày nay khi đánh giá sự tiến bộ
hướng về phát triển bền vững nên bao gồm các chỉ số phản ánh rộng hơn với các
mục tiêu sinh thái, xã hội, kinh tế và thể chế.
- 6 -
1.3 Quản lý nghề cá dựa trên bộ chỉ số
Quản lý nghề cá vì mục tiêu phát triển bền vững là một hoạt động đa chiều và đa

cấp mà điều này phải tính đến nhiều nhân tố trên diện rộng hơn chứ không chỉ bó
hẹp trong sự sinh tồn của trữ lượng cá và ngành thủy sản. Nó đòi hỏi phải cung cấp
thông tin và các chỉ số trên nhiều khía cạnh ( ngoài trữ lượng cá hay hoạt động đánh
cá) Những thay đổi trong hoạt động đánh bắt nên được đánh giá và nên xem đó là
những lực đẩy tạo nên những thay đổi kinh tế và sinh thái vốn tác động lên cả yếu
tố cầu và cung của ngành thủy sản và các ngoại lực bao gồm cả cạnh tranh quyền sử
dụng và quản lý hệ sinh thái dưới biển.
Sơ đồ 1 chỉ ra mối quan hệ giữa quản lý thủy sản theo hướng truyền thống vốn chủ
yếu là tập trung vào quản lý trữ lượng mục tiêu trong 1 đơn vị quản lý cụ thể như
ngành thủy sản, sự phát triển bền vững của nghề thủy sản dựa trên hệ thống tham
chiếu phát triển bền vững (SDRS được mô tả chi tiết bên dưới) mà hệ thống này sử
dụng các chỉ số và điểm tham chiếu. Rõ ràng, 1 vài chỉ số sẽ có thể áp dụng chung
cho những thang đo khác nhau nhưng với những mức độ khác nhau những chỉ báo
mở rộng hơn sẽ phụ thuộc phần lớn vào qui mô nghiên cứu hay mục tiêu nghiên cứu
của đơn vị quản lý hay đơn vị ngành nghề
Hoạt động quản lý nghề cá theo kiểu truyền thống đã quan tâm đến những vấn đề
phát triển bền vững trong một thời gian dài, nhưng xu hướng ngày nay là mở rộng
thêm khái niệm quản lý bao gồm thêm nhiều khía cạnh khác trong khi giảm dần sự
tập trung nghiên cứu vào yếu tố khác.
Quá trình ra quyết định trong ngành thủy sản luôn đòi hỏi đến sự cân bằng giữa
mục tiêu và lợi ích cạnh tranh( giữa những ngành trong một cộng đồng và giữa cộng
đồng này với 1 cộng đồng khác) mà được giải thích dưới nhiều ngôn từ khác nhau
và ở những cấp độ khác nhau.
Chất lượng của bộ chỉ số và thông tin đạt đến mức độ hỗ trợ liên lạc và phối hợp
hành động của tất cả có lợi ích liên đới trong nghề cá.


- 7 -















Sơ đồ 1 : Mối quan hệ giữa hệ thống quản lý theo kiểu truyền thống và
hệ thống tham chiếu phát triển bền vững.
1.4 Bộ chỉ tiêu đa chiều áp dụng phát triển bền vững nghề cá theo hướng dẫn
của FAO.
Yếu tố Các tiêu chí lựa chọn
Kinh tế
Sản lượng
Giá trị sản lượng
Đóng góp của ngành thủy sản vào GDP
Giá trị xuất khẩu của ngành thủy sản
Đầu tư trong các đội tàu đánh bắt và các cơ sở chế biến
Thuế và trợ cấp

Doanh thu ròng
Thu nhập
Xã hội
Công ăn việc làm


Nhân khẩu học

Giáo dục
Hệ thống nghề cá
Những chỉ số

Mục tiêu
Tài
Nguyên

Đội
Tàu

Thị
Trường

Con
Người

Kiểm tra
Định lượng
Quyết định
Thực hiện
Điểm tham chiếu

Sự giải thích
Hệ thống tham
chiếu phát tri
ển bền
v

ững


Kế hoạch quản lí nghề cá

- 8 -
Yếu tố Các tiêu chí lựa chọn
Xã hội
Protein

Truyền thống đánh bắt

Phá sản

Sự phân phối của giới trong việc ra quyết định
Sinh thái
Cơ cấu đánh bắt

Sự dối dào tương đối về tỷ lệ khai thác loài mục tiêu

Tác động trực tiếp của ngư cụ đánh bắt đối với loài không phải là
mục tiêu
Tác động gián tiếp của việc đánh bắt
Tác động trực tiếp của ngư cụ lên môi trường sống
Áp lực đánh bắt (so sánh giữa khu vực đánh bắt và khu vực không
đanh bắt)
Đa dạng sinh học (loài)
Thay đổi trong khu vực và chất lượng của môi trường sống
Thể chế
Hệ thống quản lý


Quyền tài sản

Tính minh bạch và sự tham gia

Năng lực quản lý

1.5 Cách tiếp cận quản lý nghề cá dựa trên hệ thống các chỉ số ở Việt Nam
Theo nghiên cứu của FAO (1999), bộ chỉ số phát triển bền vững nghề cá phải
phản ánh 4 yếu tố: kinh tế, xã hội, sinh thái, quản lý. Mỗi yếu tố được xây dựng bởi
nhiều chỉ tiêu khác nhau. Hiện nay trên thế giới đã có nhiều nước áp dụng quản lý
thuỷ sản dựa trên việc sử dụng các chỉ số để ra quyết định. Từ ngày 10-12/10/ 2005
tại Hải Phòng- Việt Nam đã diễn ra “Hội thảo khu vực Đông Nam Á ứng dụng các
chỉ số trong công tác quản lý thích ứng nghề cá biển ”. Đây là hội thảo đầu tiên ở
Việt Nam nghiên cứu về quản lý thích nghi. Trong thực tế, chúng ta chưa có một
báo cáo, đề tài nghiên cứu khoa học nào đã được công bố về quản lý thích nghi,
chính vì thế hội thảo là nơi các nhà khoa học Việt Nam học tập, nghiên cứu về quản
- 9 -
lý thích nghi trong ngành thuỷ sản. Tại hội thảo các nhà khoa học Việt Nam đã đưa
ra bức tranh tổng quan về thuỷ sản Việt Nam hiện tại cũng như phương hướng phát
triển trong tương lai, đồng thời hội thảo là nơi các nhà khoa học thuỷ sản các nước
ASEAN thảo luận, trao đổi kinh nghiệm về việc sử dụng các chỉ số trong quản lý
thích nghi thuỷ sản. Hội thảo là cơ hội cho Việt Nam học tập kinh nghiệm quý giá
của các nước khi Việt Nam đang trong quá trình đưa ra những phương pháp tiếp cận
mới trong quản lý nghề cá biển và xây dựng hệ thống tư vấn đa lĩnh vực để đảm bảo
công tác quản lý nghề cá biển được dựa trên những nền tảng kiến thức tốt nhất .
Hiện tại chúng ta đang nỗ lực xây dựng hệ thống dựa trên phương pháp quản lý
thích ứng, phù hợp chiến lược của các quốc gia ASEAN và được SEAFDEC hỗ trợ
thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả các chỉ số trong công tác quản lý thuỷ sản.
Để làm được như vậy, trước tiên chúng ta đánh giá lại hiện trạng của Thuỷ Sản

Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể vẽ lên bức tranh chi tiết cho thuỷ sản Việt
Nam bằng những con số thống kê chính xác, những đồ thị hàm số tiêu chuẩn, để từ
đó chúng ta xây dựng, thiết lập các nhóm chỉ số sử dụng cho quản lý thuỷ sản.
Nhóm chỉ số này phải là công cụ quan trọng thiết yếu, đắc lực cho quá trình ra
quyết định của Bộ Thuỷ Sản, các Sở Thuỷ Sản của tỉnh.
Trách nhiệm của Bộ Thuỷ Sản lúc này là đưa ra phương hướng chỉ đạo chung
cần tập trung tới phát triển, gìn giữ, điều khiển các phương án quản lý đặc trưng
sinh thái biển. Bộ cần kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích kinh tế địa phương, ngư dân với
cung cấp, tài trợ, quản lý và phát triển thuỷ sản.
Trước tiên Bộ cần thành lập các khu nghiên cứu, bảo tồn biển, tiếp theo cần quan
tâm tới quản lý đăng kí tàu thuyền. Bộ cần phân chia vùng biển quản lý theo từng
vùng, phân chia vùng quản lý có thể thực hiện theo tiêu thức độ sâu mức nước biển
hoặc khoảng cách (tính theo hải lý) từ bờ tới đường biên vùng quản lý để từ đó ấn
định biên độ công suất tàu hoạt động tương ứng trên từng vùng nước biển. Bộ cần
xác định các vùng biển cần bảo vệ, vùng biển cấm, khai thác thuỷ sản, danh sách
các loài thuỷ sản cho phép khai thác, kích thước cho phép khai thác với từng loài
thuỷ sản thuộc đối tượng đánh bắt, nhằm phục hồi tài nguyên biển theo cơ chế sinh
học.
- 10 -
Phục hồi tài nguyên biển với mục đích quan trọng nhất là giữ gìn và bảo vệ các
đặc trưng sinh thái biển, cần dựa trên các hoạt động nhân tạo tác động vào môi
trường bằng các chính sách, quyết định của Bộ. Những chỉ số như sau sẽ rất cần
thiết cho công tác hoạch định các kế hoạch và ra quyết định của Bộ.
- Trữ lượng khai thác thuỷ sản các năm.
- Giá trị thương mại ước lượng của một chuyến biển.( Tính theo vùng).
- Tỉ lệ chuyến biến/ mùa ( Tính theo vùng).
- Tỉ lệ cá bị bỏ lại môi trường/ chuyến biển ( Tính theo vùng).
- Mức độ khai thác.( Tính theo vùng).
- Thành phần và số lượng các loài thuỷ sản khai thác/ chuyến biển.
Các nhóm chỉ số khi được thiết lập phải thể hiện ba nội dung quan trọng: Một là

hiệu quả kinh tế - xã hội, hai là hiệu quả môi trường sinh thái, ba là hiệu quả sử
dụng tài nguyên. Các nhóm chỉ số khi thiết lập phải đạt một số tiêu chuẩn sau đây:
- Ít biến đổi: Các thông tin quan trọng thu được từ các chỉ số chúng ta phải tính
toán, chính vì thế kết quả thu được rất dễ thay đổi. Để sử dụng chúng, các nhà
quản lý cần xác định biên độ thay đổi của chỉ số và nên dùng những chỉ số có
biên độ dao động hẹp.
- Dễ hiểu: Các chỉ số sử dụng càng đơn giản, dễ hiểu bao nhiêu thì sử dụng
chúng càng dễ dàng bấy nhiêu. Chính vì thế các chỉ số nên đơn giản hoá.
- Phải tính toán được: Các chỉ số phải chính xác, chuẩn, và định lượng được,
tránh tình trạng phỏng đoán.
- Có ý nghĩa: Các chỉ số tính toán phải thể hiện tính quan trọng của nó
- Hiệu quả nhanh: Các chỉ số là công cụ quản lý chính vì thế cần phải có tính
hiệu quả trong thời gian ngắn, phù hợp với từng giai đoạn quản lý.
1.6 Những nhóm chỉ số dữ liệu được dùng cho quản lý thuỷ sản.
1.6.1 Nhóm chỉ số bảo vệ đặc trưng hệ sinh thái.
a) Mục tiêu :Bảo vệ đặc trưng hệ sinh thái.
Chỉ số : - Thành phần chuyến biển.(%).
- Số loài đánh bắt trong một chuyến biển.( Loài).
- Tổng trữ lượng sinh thái vùng.( tấn).
- 11 -
Vấn đề giải quyết:
- Điều khiển thành phần chuyến biển của đội tàu trong vùng khai thác.
- Xác định tính kinh tế của loài khai thác. Xắp xếp thứ tự ưu tiên của các loài
trong khai thác cũng như kế hoạch bảo vệ, gìn giữ mức sản lượng sinh học.
- Tổng sản lượng khai thác cho phép của vùng và mật độ tập trung các loài
thuỷ sản khai thác của vùng. Là chỉ số xác định vùng đánh bắt, vùng bảo vệ,
vùng cấm, các khu bảo tồn, nghiên cứu biển, là cơ sở bảo vệ đa dạng sinh
học biển.
b) Mục tiêu:
- Giảm mức khai thác chung của vùng

- Tăng trữ lượng khai thác vùng .
Chỉ số: - Năng suất khai thác ( CPUE).
CPUE: Năng suất khai thác trên một đơn vị cường lực. CPUE được hiểu là sản
lượng khai thác trung bình trong một ngày của một loại tàu thuyền (theo nghề) nào
đó. Đơn vị tính: kg/tàu/ngày.
Mẫu dữ liệu Dữ liệu và thông tin yêu cầu
Năng lực khai
thác.
Số tàu khai thác.( Kích cỡ và tải trọng).
Số giờ hoạt động khai thác.( Mẻ lưới, chuyến biển, ngày).
Công suất.
Chiều dài tàu.
Vấn đề giải quyết: Nghiên cứu hiệu quả khai thác một chuyến biển của từng vùng.
c) Mục tiêu: Bảo vệ trữ lượng thuỷ sản.
Chỉ số: - Biên độ kích thước cho phép khai thác
- Tỉ lệ cạn kiệt.
- Kích thước cá đẻ.
- Vùng tập trung sinh sản, mùa sinh sản.
Vấn đề nghiên cứu :
- Xác định kích thước khai thác cho phép của các loài khai thác chính của
từng vùng. Là cơ sở ra các quy định kĩ thuật.
- 12 -
- Tỉ lệ cạn kiệt là cơ sở ra quyết định cắt giảm, cấm đối với hoạt động khai
thác trên vùng quản lý thuỷ sản.
- Vùng tập trung sinh sản, mùa tập trung sinh sản là căn cứ đưa ra quy định
về ngư trường và thời gian khai thác thuỷ sản.
d) Mục tiêu: Giảm tình trạng thương mại vượt mức cho phép.
Chỉ số: % cá biển / chuyến biển.
Vấn đề giải quyết: Xác định tỉ lệ cho phép khai thác của những loài thuỷ sản
cần bảo vệ.

e) Mục tiêu: Bảo vệ lưới thức ăn.
Chỉ số: Mức độ dinh dưỡng.
Vấn đề giải quyết: Nghiên cứu mức độ dinh dưỡng lưới thức ăn của vùng nhằm
bảo vệ cân bằng sinh thái biển.
f) Mục tiêu : Làm giảm tác động của hoạt động khai thác đối với tài nguyên biển.
Chỉ số:
- Thay đổi mức độ phong phú và thành phần của động vật biển.
- Thay đổi đặc trưng sinh thái.
- Trữ lượng khai thác vùng.
- Ước lượng trữ lượng sinh thái vùng.
Vấn đề giải quyết: Nghiên cứu thay đổi mức độ phong phú và thành phần của
động vật biển và biên độ biến động của đặc trưng sinh thái, là căn cứ để xây dựng
kế hoạch bảo vệ tài nguyên biển.
1.6.2 Nhóm chỉ số kinh tế - xã hội.
a) Mục tiêu: Xác định thu nhập từng tàu cá.
Chỉ số:
- Doanh thu/ chi phí chuyến biển tàu cá.
- Chi phí khai thác trung bình chuyến biển.
- Thu nhập của thuyền trưởng.
- Thu nhập của thuỷ thủ.
Vấn đề giải quyết:
- Doanh thu/ chi phí chuyến biển của tàu cá≥ 1, tương đương hoạt động khai
thác có lãi.
- 13 -
- Chi phí khai thác trung bình ≤ giá trị trung bình chuyến biển.
- Thu nhập của các thuỷ thủ và thuyền trưởng phải cao hơn chuẩn nghèo của
xã hội.
b) Mục tiêu: Xác định mức độ đóng góp của nghề thuỷ sản đối với vùng.
Chỉ số: - Đóng góp của nghề thuỷ sản chính đối với vùng về chất lượng.
- Đóng góp của nghề thuỷ sản chính đối với vùng về giá trị.

- Đóng góp của nghề thuỷ sản chính đối với vùng về chi phí.
- Phân loại cảng cá.
- Thu nhập trên một sản phẩm mục tiêu.
- Xuất Khẩu ( Số lượng và giá trị, tính theo vùng).
- Nhập khẩu ( Số lượng và giá trị, tính theo vùng)
- Số nghề cá.
Vấn đề giải quyết: Mức độ đóng góp của nghề thuỷ sản chính => trung bình đóng
góp của nghề thuỷ sản trong vòng 5 năm. Cần tiêu chuẩn tỉ lệ đóng góp của nghề
thuỷ sản cho vùng thích hợp.
c) Mục tiêu: Xác định mức độ đóng góp giải quyết việc làm.
Chỉ số: - Số lao động trong nghề thuỷ sản.
- Số lao động thuỷ sản/ tổng số lao động vùng
Vấn đề giải quyết:
- Số lao động trong nghề thuỷ sản ≥ trung bình số lao động nghề thuỷ sản trong
vòng 5 năm.
- Số lao động thuỷ sản/ số lao động vùng ≥ 30 %.
d) Mục tiêu: Tình trạng xã hội.
Chỉ số: - % Thuỷ thủ lành nghề / tàu cá.
- Thu nhập của hộ dân cư.
- % Số thuỷ thủ trong hộ dân cư.
- % Số thuỷ thuỷ/ vùng.
- % Tỉ lệ biết đọc biết viết trong số thuỷ thủ.
- % Tỉ lệ phổ cập giáo dục trong thuỷ thủ.
- % Thành viên của hộ gia đình khai thác tốt nghiệp đại học.
- % Thu hồi vốn/ vốn đầu tư của nghề thuỷ sản.
- 14 -
Vấn đề giải quyết:
- % Thuỷ thủ lành nghề / tàu cá =50%
- Thu nhập của hộ dân cư ≥ Chuẩn nghèo quốc gia.
- % Số thuỷ thủ / vùng ≥50%.

- % Số thuỷ thủ trong hộ dân cư≥50%.
- % Số thuỷ thuỷ/ vùng ≥ 20%.
- % Tỉ lệ biết đọc biết viết trong số thuỷ thủ ≥ 100%.
- % Tỉ lệ phổ cập giáo dục trong thuỷ thủ ≥ 20%.
- % Thành viên của hộ gia đình khai thác tốt nghiệp đại học≥10%
- % Thu hồi vốn/ vốn đầu tư của nghề thuỷ sản ≥20%.
1.6.3 Nhóm chỉ số khả năng khai thác của đội tàu.
*Mục tiêu: Quản lý năng lực khai thác của đội tàu.
* Chỉ số: - Số lượng tàu khai thác.
- Công suất.
- Thời gian nghề cá.
- Số thiết bị sử dụng cho nghề cá.
- Tuổi thọ trung bình của tàu.
Vấn đề giải quyết
Xác định năng lực khai thác của đội tàu, là cơ sở ra quyết định thay đổi năng lực
khai thác vùng
1.7 Phương pháp phân tích đánh giá các chỉ số
1.7.1 Phương pháp xác định doanh thu chi phí
Do đặc thù của nghề cá, không như những loại hình kinh doanh khác, là một
nghề hoạt động theo thời vụ và chịu ảnh hưởng rất nhiều của yếu tố tự nhiên. Một
số chi phí như nhiên liệu, đá, lương thực, sửa chữa máy…vẫn phát sinh trong qúa
trình dò tìm cá. Thậm chí có khi không đánh được một mẻ cá nào hoặc rất ít mà vẫn
tốn chi phí vận hành. Vì vậy, không thể áp dụng phương pháp phân loại chi phí theo
mức độ phụ thuộc vào sản lượng. Trong trường hợp này, tác giả đề nghị phương
pháp phân loại chi phí theo mức độ phụ thuộc vào chuyến biển. Vì số chuyến biển
đánh bắt trong năm là tương đối ổn định và cường độ hoạt động thường biến đổi
theo hai mùa chính phụ. Do đó, ta có thể cố định một số loại chi phí để phân bổ
- 15 -
hàng năm như vốn đầu tư thuyền máy móc trang thiết bị trên tàu; và bóc tách một số
loại chi phí biến đổi theo từng chuyến biển như chi phí tiền lương, chi phí dầu nhớt,

lương thực thực phẩm, chi phí đá bảo quản sản phẩm.
Bên cạnh đó, do điều kiện thời gian và chi phí, do cách ghi chép của người dân
khá sơ sài, đề tài không thể điều tra một cách chi tiết và chính xác cho từng chuyến
biển, mà áp dụng cách tính chi phí trung bình và doanh thu trung bình của chuyến
biển. Sau đó, ngoại suy tổng doanh thu và tổng chi phí cho một năm để làm cơ sở
tính lợi nhuận và các chỉ tiêu hiệu quả tài chính khác cho nghề lưới Rê. Phương
pháp chung có thể được trình bày một cách tóm tắt theo sơ đồ sau:

Tổng doanh thu năm bao gồm doanh thu khai thác trong mùa chính và doanh thu
khai thác trong mùa phụ. Khoản mục chi phí vận hành gồm có: chi phí cố định, chi
phí biến đổi, chi phí tiền lương.
- 16 -
Chi phí cố định: là kết quả của những quyết định ban đầu về quy mô sản xuất do
đó không phụ thuộc vào mức độ hoạt động. Hay nói cách khác, đó là những chi phí
vận hành mà không biến đổi theo mùa vụ hoạt động của các đội tàu. Chi phí cố định
bao gồm chi phí khấu hao, bảo hiểm (bảo hiểm tàu và bảo hiểm thuyền viên), và lãi
vay phải trả hàng năm. Chi phí biến đổi hàng năm: chủ yếu phụ thuộc vào mức độ
hoạt động như số chuyến biển trung bình trong năm.
Chi phí biển đổi bao gồm chi phí nhiên liệu, lương thực thực phẩm, đá bảo quản
sản phẩm, và tiền sinh hoạt hàng ngày cho thuỷ thủ. Chi phí biến đổi của năm sẽ
bằng tổng chi phí biến đổi hai vụ chính và phụ. Chí phí trung bình một vụ sẽ bằng
chi phí biển đổi trung bình một chuyến nhân với số chuyến biển của mỗi vụ.
Chi phí tiền lương: gồm hai phần: thu nhập sau mỗi chuyến biển (hoặc mỗi
tháng, tùy theo tập quán của từng địa phương) và tiền sinh hoạt hàng ngày, thường
số tiền này sẽ được phát theo doanh thu hoặc dựa trên nỗ lực khai thác của từng
chuyến biển.
Tổng giá trị tăng thêm bằng tổng doanh thu năm trừ đi chi phí vận hành phải trả
cho nhà cung cấp bao gồm chi phí cố định (không tính chi phí khấu hao và lãi vay)
và chi phí biến đổi (không tính chi phí lao động). Hay nói cách khác, nó là tổng của
chi phí lao động, chi phí khấu hao, lãi vay và lãi ròng.

Tổng dòng tiền luân chuyển bằng tổng giá trị tăng thêm trừ đi chi phí lao động,
tức là bằng doanh thu năm trừ đi tất cả chi phí không tính chi phí khấu hao và lãi
vay.
Lãi ròng được tính một cách đơn giản bằng tổng doanh thu năm trừ đi tổng chi
phí. Hay nói cách khác, lãi ròng bằng tổng dòng tiền luân chuyển trừ đi chi phí khấu
hao và lãi vay.
Các định nghĩa và phương pháp tính lợi nhuận ở trên cũng đã được sử dụng trong
rất nhiều phân tích các đội tàu khai thác ở các nước công nghiệp. Tuy nhiên, như đã
đề cập ở trên, cần phải có sự điều chỉnh thích hợp với hệ thống sổ sách kế toán của
ngư dân cho thích hợp.

- 17 -
1.7.2 Phương pháp tính khấu hao
Do thông tin về bộ dữ liệu bị hạn chế, nên tác giả đề nghị phương pháp tính khấu
hao theo đường thẳng. Phương pháp này khấu hao đội tàu trên cơ sở giá trị vốn đầu
tư và số năm dự kiến sử dụng. Khấu hao tàu hàng năm bao gồm khấu hao vỏ tàu,
máy tàu, ngư cụ, trang thiết bị khai thác và hàng hải. Thời gian tính khấu hao dựa
theo khung quy định hiện hành của Bộ Tài chính [1] là 15 năm đối với vỏ và máy
tàu, 7 năm đối với ngư lưới cụ và trang thiết bị khai thác. Tuy nhiên, Bộ tài chính
không có quy định cụ thể cho tàu cũng như các trang thiết bị khai thác đã qua sử
dụng. Bên cạnh đó, qua khảo sát thực tế, nhiều ngư dân đã trả lời rằng một con tàu
có thể sử dụng đến 20 năm thậm chí là 25 năm. Tâm lý người dân bao giờ cũng
muốn con tàu của mình luôn tồn tại bởi nó là cơ nghiệp của cả gia đình, vì vậy họ
thường né tránh những câu hỏi đại loại như “Con tàu của bác có thể sử dụng tối đa
được bao nhiêu năm?” hoặc “Con tàu của bác so với khi mua còn được bao nhiêu
%?” thì rất nhiều câu trả lời rằng “Tôi sử dụng đến khi nào hỏng thì thôi” hoặc “còn
mới 60% đến 70%”. Trong khi đó có tàu đã đóng từ năm 1989. Vì vậy, sẽ là không
hợp lý nếu áp dụng một cách cứng nhắc theo quy định của Bộ Tài chính đề ra. Ở
đây, trên cơ sở tìm hiểu lấy ý kiến của một số ngư dân đáng tin cậy, tác giả đề nghị:
Đối với vỏ tàu mua mới, là 20 năm và mua lại là 15 năm. Đối với máy tàu mua mới,

là 18 năm; mua lại là 12 năm. Đối với ngư lưới cụ: là 4 năm và trang thiết bị khai
thác khác mua mới, là 7 năm; mua lại là 5 năm. Lưu ý rằng khái niệm mua mới ở
đây được hiểu là mua tại các cơ sở bán thiết bị vật tư phục vụ ngành. Khái niệm
mua lại được hiểu là việc mua đi bán lại giữa các ngư dân khai thác hải sản với
nhau. Máy tàu hiện nay đa số là hàng bãi của Nhật đã qua sử dụng nhưng theo quan
điểm trên vẫn được xếp vào nhóm mua mới.
Cũng cần chú ý rằng vào những năm 1990, nền kinh tế Việt Nam bị lạm phát
cao, người dân thường lấy vàng làm thước đo trao đổi mua bán thay cho tiền tệ. Các
tàu có cùng chiều dài nhưng đôi khi lại có giá mua khác nhau do chất lượng khác
nhau, năm mua, năm đóng mới khác nhau, giá gỗ, giá vàng và có khi do khả nămg
mặc cả khác nhau… Bên cạnh đó, giá cả thị trường cũng tác động không nhỏ đến
giá mua hàng hóa, vì thế tất yếu sẽ ảnh hưởng đến khấu hao và do đó ảnh hưởng
đến chi phí và lợi nhuận khai thác.
- 18 -
CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ CHỈ SỐ ĐỐI VỚI
NGHỀ LƯỚI RÊ TẠI PHƯỜNG VĨNH PHƯỚC
A. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN PHƯỜNG VĨNH PHƯỚC.
2.1 Đặc điểm điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội phường Vĩnh Phước
Dưới chế độ phong kiến qua sưu tầm tài liệu của chế độ cũ để lại, thì nơi đây
thường gọi là làng Cù Lao, trong kháng chiến chống Pháp đặt tên bí mật là làng
Phước Thịnh. Trải qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược, tên gọi cho đến ngày nay là phường Vĩnh Phước.
2.1.1 Đặc điểm điều kiện tự nhiên
Về địa lý, phía Đông giáp biển Đông và phường Vĩnh Thọ, phía Tây giáp đường
sắt phường Ngọc Hiệp và xã Vĩnh Ngọc, phía Nam giáp phường Vạn Thạnh, phía
Bắc giáp phường Vĩnh Hải. Tổng diện tích của phường là 1.438 km
2
nằm phía Bắc
Thành phố Nha Trang, nằm dọc 2 bên đường 2 tháng 4 chạy dài từ đầu cầu Hà Ra

(nhánh sông phía Nam Sông Cái) đến phường Vĩnh Hải. Sông Cái Nha Trang chia
làm hai nhánh: nhánh phía Bắc chảy ngang qua cầu xóm Bóng, nhánh phía Nam
chảy ngang qua cầu Hà Ra, cả hai nhánh đều chảy ra biển Đông tạo thuận lợi cho
ghe, thuyền vào trú đậu khi có sóng to gió lớn.
Về khí hậu, nằm trong khu vực duyên hải miền Trung, chịu ảnh hưởng khí hậu
nhiệt đới gió mùa nhưng khô ráo ôn hòa, quanh năm nắng ấm, thường chỉ có hai
mùa rõ rệt: mùa khô kéo dài từ 8 đến 9 tháng và mùa mưa ngắn chỉ từ 3 đến 4
tháng. Mưa bão, gió mùa Đông bắc cũng như áp thấp nhiệt đới chỉ ảnh hưởng đến
vùng biển Khánh Hoà từ tháng 9-12. Vì vậy rất thuận lợi cho hoạt động khai thác
hải sản, đặc biệt tàu dưới 30 CV có thể sản xuất từ 230 – 280 ngày/ năm. Nhiệt độ
trung bình hàng năm trên dưới 26
0
C, các tháng cuối năm và đầu năm hơi lạnh
nhưng không rét buốt, mùa hè ít bị ảnh hưởng bởi gió tây. Lượng mưa cũng tương
đối ít, trung bình từ 1.200 đến 1.800 mm.
Thuỷ triều Khánh Hoà thuộc loại thuỷ triều hỗn hợp thiên về nhật triều, trong
một tháng có khoảng 20 ngày nhật triều. Trong năm, tháng có hoạt động thuỷ triều
mạnh nhất là tháng 6 đến 7 và tháng 11 đến 12.
- 19 -
Biển Khánh Hoà chịu ảnh hưởng của 2 dòng hải lưu chính: dòng chảy mùa gió
Tây Nam và dòng chảy gió mùa Đông Bắc. Dòng hải lưu nóng đưa theo nhiều ấu
trùng, thức ăn và nhiều loài cá đến tạo ngư trường phong phú với sản lượng cao.
Dòng hải lưu mạnh đẩy cá đi xa bờ gây khó khăn cho nghề khai thác thuỷ sản. Hoạt
động chế độ hải lưu tạo thành hiện tượng nước trồi lưu động từ tháng 4 đến tháng
10. Đây là mùa cá chính của Khánh Hoà. Từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, ảnh
hưởng của nước triều yếu dần cá di cư xa bờ làm sản lượng cá giảm rõ rệt.
2.1.2 Đặc điểm xã hội.
Mật độ dân cư trước năm 1945 rất thưa thớt, dân cư sống dọc theo đường quốc lộ
1A (nay là Đường 2/4), hai bên đường cây cối bờ bụi rậm rạp um tùm. Phía Nam
Sông Cái (Cầu Bóng) là vùng sình lầy với cây lau, cây sậy, cây bần phủ kín. Ở phía

Bắc Sông Cái có Tháp Bà Ponaga, dãy Núi Sạn có nhiều loại gỗ có giá trị kinh tế
cao và cũng là nơi ẩn trú của nhiều loại thú; trong đó có cả thú dữ, có nhiều nơi
không có người ở cũng như chưa có thôn xóm.
Từ một vùng đất hoang vắng, dân cư thưa thớt, chưa có thôn xóm; qua 2 cuộc
kháng chiến dân cư từ các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Bình, Phú Yên tụ
hợp về đây sinh sống ngày càng đông. Trước năm 1975, phường Vĩnh Phước chung
(gồm cả Vĩnh Thọ) có 4.720 hộ với 20.937 nhân khẩu và có 10 thôn (khóm) sinh
sống trên diện tích 2.438 km2. Đầu năm 1976, sau khi đất nước hoàn toàn giải
phóng 2 miền Nam-Bắc sum họp một nhà, tình hình dân số ngày càng phát triển
đông lên, nên Uỷ ban Cách mạng Lâm thời Thị xã Nha Trang quyết định chia tách
phường Vĩnh Phước thành 2 phường Vĩnh Thọ và Vĩnh Phước. Địa giới của từng
phường và cơ cấu dân cư theo ngành nghề cũng được quyết định cụ thể nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho việc quản lý hành chính và tổ chức sản xuất của mỗi
phường. Phường Vĩnh Phước khi đó bao gồm 6 khóm là: Hà Ra, Hà Phước, Tháp
Bà, Sơn Thủy, Phương Mai, Trường Phúc và Hòn Chồng. Dân số có khoảng 2.000
hộ và 12.000 nhân khẩu, trong đó có khoảng 5.000 người ở độ tuổi lao động. Đến
nay dân số tăng lên ngày càng đông, đến cuối năm 2006 phường có khoảng 5.897
hộ với 26.241 nhân khẩu cả thường trú và tạm trú, hình thành nên 10 khóm dân cư
gồm có: Hà Phước, Hà Ra 1, Hà Ra 2, Tháp Bà, Sơn Thủy, Phương Mai, Trường
Phúc 1, Trường Phúc 2, Hòn Chồng 1, Hòn Chồng 2.
- 20 -
Nhân dân sống ở đây chủ yếu là làm nghề thủy sản như: khai thác đánh bắt và
chế biến thuỷ sản, từ chỗ có vài trăm người dần dần đến vài ngàn người và đến nay
có hơn hàng vạn người, đa số là ngư dân từ các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Quảng Bình và Phú Yên tụ hợp về đây sinh sống. Hiện nay, Phường Vĩnh Phước
không chỉ có nghề khai thác hải sản mà có rất nhiều nghề như: tiểu thủ công nghiệp,
kinh doanh dịch vụ, thương mại – du lịch, chăn nuôi gia súc gia cầm, nuôi trồng và
chế biến thủy sản.
Cơ cấu lao động của phường năm 2006 như sau: lao động khai thác, nuôi
trồng thủy sản: 20,5%; lao động kinh doanh dịch vụ – thương mại: 24,5%; cán bộ

công chức nhà nước: 29%, lao động tự do phổ thông: 31%.
Ngành khai thác đánh bắt thuỷ sản vẫn giữ ở mức trung bình từ 2.000-2.500
tấn/năm (năm 2006). Tính đến cuối năm 2006, toàn phường có khoảng 185 tàu với
tổng công suất khoảng 13.695 CV đã giải quyết việc làm cho hơn 1500 lao
động.Các ngành cơ khí tàu thuyền, sản xuất chế biến và nuôi trồng thủy sản ngày
càng giảm. Chăn nuôi gia súc, gia cầm giảm, các ngành tiểu thủ công nghiệp, dịch
vụ và cơ khí sửa chữa gia công ổn định nhưng giá trị sản lượng công nghiệp tăng
hơn trước. Các ngành kinh doanh thương nghiệp và dịch vụ phát triển mạnh .[9]
2.2 Hiện trạng khai thác nghề lưới Rê.
2.2.1 Một số đặc điểm kỹ thuật của hoạt động đánh bắt hải sản nghề lưới Rê
Lưới rê (hay còn gọi là lưới giăng hoặc lưới cản) là một trong những ngư cụ phổ
biến của nước ta hiện nay, bởi sản lượng do nghề này đem lại đứng hàng thứ hai sau
lưới kéo. Mặt khác, người ta còn thấy lưới rê có thể hoạt động ở rất nhiều thủy vực
khác nhau như, ao, hồ, sông và biển. Lưới rê có thể đánh bắt như là một ngư cụ cố
định hoặc như là ngư cụ di động, có thể khai thác cả tầng mặt, tầng giữa và tầng
đáy.
Nguyên lý đánh bắt lưới rê theo nguyên tắc: “Lưới được thả chặn ngang đường di
chuyển của cá. Cá trên đường đi sẽ bị vướng vào mắt lưới và bị giữ lại lưới”.
Cấu tạo thông thường của lưới rê là một vàng lưới gồm nhiều tấm lưới hình chữ
nhật được liên kết lại với nhau, có chiều dài từ vài chục mét đến hàng chục km.
Lưới rê sử dụng hệ thống dây giềng và trang bị phao, chì để lưới có hình dạng như
một bức tường lưới khi làm việc.
- 21 -
Tùy theo cấu trúc, số lượng tàu hoạt động, đối tượng khai thác, phương pháp khai
thác khác nhau mà ngư dân phân chia thành các loại Rê khác nhau. Hiện nay, ở
Khánh Hòa có các phương pháp đánh bắt chủ yếu:
Rê trôi gần bờ: tàu thuyền thường khai thác ở độ sâu 40-200m, chủ yếu ở ngư
trường Khánh Hòa ( 10
0
40 – 12

0
50’E ). Lưới của họ chủ yếu là lưới sợi ni lông với
chiều dài từ 3000 – 8000m. Đối tượng khai thác chính của nghề này là các loại cá
thu và cá ngừ. Mùa chính là từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau.
Rê đáy: là loại lưới kép có chiều dài 3000 – 6000m, kích thước mắt lưới 2a = 80
– 90 mm. Vụ chính là từ tháng 3 đến tháng 12. Đội tàu này thường khai thác ở độ
sâu 70 – 200 m. Đối tượng khai thác chính: cá nục, cá thu, cá đối và một số loài cá
rạn khác. Ngư trường Nam phú yên, Khánh Hòa, Bắc Ninh Thuận có khi cả khu vực
Trường Sa.
Rê trôi xa bờ: lưới là loại sợi ni lông có chiều dài từ 10.000 – 17000m, độ mở
cao của lưới 18 – 20 m, kích thước mắt lưới 2a = 100 mm. Cá ngừ là đối tượng khai
thác chính [2]
Một số hình ảnh lưới rê:

Rê trôi

Rê tầng đáy
Với những đặc điểm như vậy, ưu điểm của lưới rê là được sử dụng rộng rãi ở các
vùng nước khác nhau, kỹ thuật khai thác đơn giản, đối tượng đánh bắt có chọn lọc
theo kích cỡ mắt lưới, chất lượng sản phẩm cao. Tuy nhiên nó có nhược điểm là
đánh bắt bị động và năng suất đánh bắt thường không cao.
2.2.2 Tổ chức sản xuất
a. Điều hành sản xuất:
Chủ tàu tự chủ về mặt tài chính, tổ chức sản xuất, và hạch toán sổ sách, thuyền
trưởng chịu trách nhiệm kỹ thuật, nắm bắt thông tin ngư trường cũng như mùa vụ để
điều động tàu đi sản xuất. Theo số liệu khảo sát có được thì đa số các chủ tàu đều là
- 22 -
thuyền trưởng ( 84.6%) nên các công việc trên thường do bản thân tự làm hoặc các
thành viên trong gia đình ( chủ yếu là vợ).
b.Bố trí nhân lực:

Do đặc tính của nghề nên số thủy thủ bình quân tham gia một chuyến biển từ 10
đên 12 người. Và tàu thường được trang bị la bàn, thiết bị điện tử, phao cứu sinh.
Họ thường làm cả lễ tết. Và trên thuyền thường gồm có một thợ máy, còn lại đa số
là lao động trực tiếp, thuyền trường thường làm nhiệm vụ chỉ huy kỹ thuật và xác
định nơi khai thác.
c. Quyết toán và phân chia lợi nhuận:
Việc này thường do vợ chủ tàu ghi lại doanh thu và chi phí cho một chuyến biển
sau đó trừ đi phần chi phí đã bỏ ra ( thường là chi phí biến đổi) cho mỗi chuyến biển
rồi mới chia lợi nhuận. Thường lợi nhuận được chia theo tỉ lệ từ chủ tàu chiếm 60%
- 70% còn lại là thủy thủ chia theo vị trí và công sức làm việc. Vì ngoài chia lợi
nhuận cho thủy thủ họ còn phải chia cho “bạn” là những người chung lưới, tàu theo
tỉ lệ đầu tư.
2.2.3 Tổ chức chuyến biển
Mùa chính của nghề Rê thường là từ tháng 12 đến tháng 8 (âm lịch) năm sau.
Tàu thường không đi khai thác nhiều trong thời gian từ tháng 10 đến hết tháng
11(âm lịch) do thời tiết xấu và để bảo trì tu sửa tàu.
Tàu nghề lưới rê khai thác vào ban đêm, mỗi đêm đánh 1 mẻ lưới, thời gian thả
lưới mất 2 giờ, thời gian ngâm lưới khoảng 2 đến 4 giờ tuỳ theo con trăng, thời gian
kéo lưới và muối cá 4-6 giờ. Mỗi chuyến kéo dài 15 -25 ngày, mỗi tháng tàu khai
thác 1-2 chuyến từ ngày 17 đến ngày 12 âm lịch tháng sau tùy thuôc vào mùa vụ và
kích thước tàu. Tàu nhỏ khai thác mùa chính thường đi 2 chuyến/tháng, sau mỗi
chuyến tàu thường nghỉ 2-5 ngày để chuẩn bị. Tổng số ngày hoạt động trong năm là
230-250 ngày. Tuy thời gian đánh bắt có thay đổi, nhưng cách thức tổ chức một
chuyến biển về cơ bản vẫn không có gì thay đổi, bao gồm các bước sau:
+ Chuẩn bị
Bao gồm chuẩn bị ở bờ và ở ngư trường trước khi mẽ khai thác thực sự bắt đầu.
Chuẩn bị ở bờ: Trước khi ra khơi, một số công việc cần thiết phải chuẩn bị và
kiểm tra sau:
- 23 -
- Tàu, máy nên được kiểm tra lại, nếu có hư hỏng (hoặc dự đoán là có thể bị hư

hỏng trong quá trình đánh bắt sắp tới) thì nên sửa chữa, tăng cường hoặc gia cố
trước khi đi. Lưới cũng nên kiểm tra lại, nếu thấy rách hoặc mục nhiều quá thì nên
vá hoặc thay thế lưới mới.
- Xăng, dầu, nước đá, muối, lương thực, thực phẩm, thuốc men, cần được
chuẩn bị đầy đủ cho một chuyến đi dài ngày.
Chuẩn bị ở ngư trường:Khi đã đến ngư trường, trước khi thả lưới ta cần xem xét,
tính toán các điều kiện thực tế ở ngư trường, bao gồm:
- Đo đạc hoặc dự đoán độ sâu ngư trường và độ sâu mà đối tượng khai thác có
thể xuất hiện. Khi này ta điều chỉnh (nới dài ra hoặc thu ngắn lại) dây phao ganh
nhằm đưa lưới đến đúng độ sâu mà đàn cá đang hoạt động. Trong trường hợp đàn
cá ở gần nền đáy ta cũng nên xem xét khả năng giềng chì có thể bị vướng chướng
ngại vật nền đáy mà điều chỉnh dây phao ganh phù hợp.
- Dự đoán hướng di chuyển của đàn cá. Công tác thả lưới phải đảm bảo thả chặn
ngang được đường di chuyển của cá.
- Xem xét hướng dòng chảy (hướng nước) và hướng gió, cũng như tốc độ của
gió và nước để chọn mạn thả lưới và hướng thả cho phù hợp, sao cho lưới không bị
tắp (vướng) vào chân vịt tàu.
- Sau khi đã xem xét, đánh giá các điều kiện ngư trường thì bắt đầu thả lưới.[2]
+ Thả lưới
Trong quá trình thả lưới người thuyển trưởng nên cẩn thận, cho tàu chạy với tốc
độ chậm, điều khiển hướng thả lưới ngang với dòng chảy và chú ý coi chừng lưới
tắp vào chân vịt. Khi này người thủy thủ cố gắng ném lưới ra xa tàu và đảm bảo
lưới không bị rối và tránh mắt lưới móc vào nút áo người đang thao tác thả lưới.Nếu
có sự cố gì phải dừng tàu lại ngay và xử lý, cần đảm bảo nguyên tắc là “tàu dưới gió
và lưới dưới nước”, nghĩa là luôn để cho mạn làm việc của tàu nằm phía dưới gió
(để gió thỏi bãt tàu ra xa lưới) và lưới ở phía cuối nước (để nước đạp lưới ra xa tàu)
Thả cho trường hợp này có thể tránh cho lưới khỏi quấn chân vịt.[2]
+ Trôi lưới
Sau giai đoạn thả lưới là đến thời gian trôi lưới. Thời gian trôi lưới là thời gian
lưới được ngâm thả trôi trong nước cũng chính là thời gian khai thác (thời gian cá

- 24 -
đóng vào lưới). Thời gian trôi lưới tùy thuộc vào ý muốn của người khai thác, ở
ngoài biển, thời gian trôi lưới thường tính từ lúc mặt trời lặn cho đến khoảng 11-12
giờ khuya, khoảng sau 4-5 giờ thì bắt thu lưới.
Trong thời gian này công việc tương đối nhàn hạ, chỉ cần cử 1-2 người trực theo
dõi quan sát lưới và tình hình khu vực xung quanh. Một số công việc cần chú ý
trong thời gian này là:
- Xem xét tính trạng trôi của lưới, để kịp điều chỉnh phương thả lưới sao cho cắt
ngang đường di chuyển của cá
- Xem xét, so sánh với hải đồ để đánh giá xem coi lưới trong quá trình trôi có đi
qua vùng có chướng ngại vật nền đáy hay không để kịp thời điều chỉnh hoặc thu
lưới.
- Xem xét các phương tiện, tàu bè đi lại xung quanh gần khu vực ta thả lưới,
nếu có khả năng tàu bạn cắt ngang hướng thả lưới của ta thỉ kịp thời báo động cho
bạn biết là ta đang thả lưới để tàu bạn tìm cách tránh cắt lưới.[2]
+ Thu lưới và bắt cá
Sau thời gian thả lưới thì đến giai đoạn thu lưới và bắt cá. Đây là công đoạn nặng
nhọc nhất, cần rất nhiều người: 3-4 người kéo lưới, 1-2 người gỡ cá và 1 người điều
khiển tàu chạy dọc theo chiều dài giềng phao với tốc độ chậm để giúp thu lưới
nhanh và giảm được lực thu kéo lưới.Trong quá trình thu lưới và bắt cá ta có thể:
- Vừa thu lưới, vừa bắt cá nếu cá đóng ít và đóng rãi rác suốt chiều dài vàng lưới.
- Thu lưới trước, bắt cá sau nếu cá nhiều và gỡ không kịp. Khi này ta vẫn tiếp tục
gỡ cùng lúc với thu lưới, nhưng gỡ được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu, còn lại thì sau
khi thu lưới xong sẽ gỡ tiếp.[2]
+ Bảo quản và tiêu thụ
Bảo quản cá bằng muối hoặc đá trong trường hợp tàu khai thác dài ngày. Sản
phẩm nghề Rê được ướp đá. Sản lượng cá đánh bắt được thường bán ở ngoài biển
và bán tại các bến cá. Mỗi tàu thường bán sản phẩm của mình cho một hoặc hai
nậu vựa cố định. Tuy nhiên, năm gần đây do nậu vựa ép giá cá trong khi thực tế lại
cao hơn nhiều cho nên nhiều tàu chuyển sang bán tự do (ai trả giá cao hơn thì

bán).
- 25 -
Phương pháp bảo quản cá rất đơn giản chủ yếu ướp đá, có nhiều nơi không cần
bảo quản bởi vì hiện nay có đội thu mua hải sản ngay trên nước nên các tàu thuyền
sau khi đánh bắt được thường bán ngay cho các tàu đi thu mua hoặc đem bán tại các
cảng cá và chợ cá nào thuận tiện cho mình nhất, không nhất thiết phải bán cá ở một
chỗ nhất định.
Do đặc điểm của nghề lưới rê là chắn ngang hướng cá di chuyển cho nên thông
thường nghề này chỉ hoạt động vào ban đêm và vào những ngày trời tối trăng để cá
khó thấy lưới chắn hướng di chuyển của chúng.
2.3 Đặc điểm hoạt động đánh bắt hải sản nghề lưới Rê tại Nha Trang nói chung
và Vĩnh Phước nói riêng
2.3.1 Cơ cấu đội tàu lưới Rê:
Đến cuối năm 2006, toàn tỉnh có 5.517 tàu thuyền gắn máy với tổng công suất
224.775 CV.
Bảng 1. Phân loại năng lực tàu thuyền theo công suất
Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006

Nhóm công
suất
Số
lượng
Tỉ lệ
( % )
Số
lượng

Tỉ lệ
( % )
Số

lượng
Tỉ lệ
( % )
Số
lượng
Tỉ lệ
( % )
Dưới 20 CV 1.220 35,4 1.225 35,5 2.684 49,5 2.684 48,7
Từ 21-45 CV 1.290 37,5 1.292 37,4 1.578 29,1 1.578 28,6
Từ 46-89 CV 670 19,4 673 19,5 786 14,5 786 14,2
Từ 90-149 CV 195 5,7 236 5,6 312 5,8 412 7,5
Từ 150-399 CV 69 2,0 69 2,0 54 1,0 54 0,9
Trên 400 CV - - - - 3 0,1 3 0,1
Tổng số 3.444 100,0 3.495 100,0

5.417 100,0 5.517 100,0
(Nguồn Sở Thuỷ sản Khánh Hoà, 2007)
Qua bảng trên ta thấy rằng các nhóm tàu có công suất nhỏ hơn 89cv trong năm
2006 so với năm 2005 thì không tăng nữa. Đó là do tỉnh đã có chính sách hạn chế
tàu khai thác có công suất nhỏ. Còn nhóm tàu có công suất lớn hơn 150cv do khai
thác xa bờ bị lỗ nên tạm thời tỉnh chưa có chính sách đầu tư thêm.
Mặt khác nhóm tàu có công suất từ 90cv – 149cv năm 2006 tăng nhiều so với
năm 2005 do hoạt động của đội tàu này đạt hiệu quả kinh tế nhất trong các nhóm
công suất trong những năm trở lại đây.

×