1
LỜI CẢM ƠN
Sau 3 tháng thực tập tốt nghiệp, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ từ các tập thể
và cá nhân, tôi đã hoàn thành nghiên cứu của mình và thu được những kết quả khả
quan. Qua đây, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất.
Trước hết tôi bày tỏ lòng biết ơn Trường Đại học Nha Trang, Khoa Nuôi trồng,
Bộ môn Bệnh học Thủy sản, các thầy cô giáo trong khoa đã t
ận tình chỉ dạy, cung cấp
những nền tảng kiến thức và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập
và thực hiện đề tài. Cám ơn sự hỗ trợ về kinh phí, cơ sở vật chất của dự án NORAD
trong quá trình thực hiện đề tài.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giảng viên hướng dẫn: TS. Đỗ
Thị Hòa đ
ã tận tình hướng dẫn và cung cấp những lời khuyên quý báu trong suốt thời
gian tôi thực hiện đề tài.
Tôi chân thành cảm ơn các thành viên của dự án NORAD, đặc biệt là KS.
Nguyễn Thị Nguyệt Huệ đã giúp đỡ tôi rất nhiều.
Trân trọng cảm ơn các thầy, cô, các anh chị, các bạn sinh viên thực tập tại phòng
bệnh học Thủy sản đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi, cung cấp thông tin, đ
óng góp ý
kiến cho tôi trong thời gian thực hiện đề tài và hoàn thành đồ án.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới bố mẹ, gia
đình, bạn bè, những người luôn sát cánh, động viên, chia sẻ, giúp đỡ tôi suốt thời gian
tôi học tập và thực hiện đề tài tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn.
Nguyễn Minh Hằng
2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
PHẦN 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2
1. VÀI NÉT VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 2
1.1. Hệ thống phân loại và thành phần loài 2
1.2. Đặc điểm hình thái 2
1.3. Đặc điểm phân bố 3
1.4. Thức ăn và tập tính bắt mồi 3
1.5. Đặc điểm sinh trưởng và sinh sản 3
1.5.1. Đặc điểm sinh trưởng 3
1.5.2 Đặc điểm sinh sản 4
2. TÌNH HÌNH BỆNH VÀ NGHIÊN CỨU BỆNH Ở CÁ MÚ 4
2.1. Tình hình nghiên cứu bệnh ở cá mú trên thế giới 4
2.1.1. Bệnh do virus 4
2.1.2. Bệnh do vi khuẩn 7
2.1.3. Bệnh kí sinh trùng 10
2.1.4. Bệnh do nấm 14
2.2. Tình hình nghiên cứu bệnh trên cá mú nuôi tại Việt Nam 14
2.2.1. Bệnh do virus 14
2.2.2. Bệnh do vi khuẩn 14
2.2.3. Bệnh ký sinh trùng 15
2.3. Tình hình nuôi và dịch bệnh trên cá mú tại Nha Trang - Khánh Hòa 16
PHẦN 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 18
1. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU 18
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 18
2.1. Phương pháp điều tra 20
2.2. Phương pháp nghiên cứu vi khuẩn 20
2.2.1. Dụng cụ hoá chất và môi trường nghiên cứu 20
2.2.2. Phương pháp thu mẫu và xử lý mẫu 21
2.2.3. Phương pháp nuôi cấy phân lập 21
2.2.4. Phương pháp nuôi cấy thuần chủng 22
2.2.5. Phương pháp nhuộm vi khuẩn 22
3
2.2.6. Phương pháp làm kháng sinh đồ 23
2.2.7. Phương pháp cảm nhiễm bệnh trên cá khoẻ 23
2.3. Phương pháp mô học 24
2.3.1. Yêu cầu thu mẫu dùng trong nghiên cứu mô 24
2.3.2. Quy trình nghiên cứu mô 25
2.4. Phương pháp nghiên cứu ký sinh trùng 25
2.4.1. Phương pháp xác định mức độ cảm nhiễm 25
2.4.2. Phương pháp phân loại ký sinh trùng 26
2.5. Phương pháp nghiên cứu nấm 26
3. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU 26
PHẦN 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 27
1. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VỀ TÌNH HÌNH NUÔI VÀ BỆNH Ở CÁ MÚ NUÔI TẠI
KHÁNH HÒA 27
1.1. Kết quả điều tra sơ bộ về tình hình nuôi cá mú tại Nha Trang – Khánh Hòa.27
1.2. Kết quả điều tra tinh hình bệnh ở cá mú nuôi tại Khánh Hòa 29
2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU BỆNH LỞ LOÉT TRÊN CÁ MÚ NUÔI TẠI
KHÁNH HÒA 33
2.1. Kết quả thu mẫu và đặc điểm mẫu 33
2.2. Kết quả nghiên cứu dấu hiệu bệnh xuất huyết lở loét 33
2.3. Kết quả nghiên cứu tác nhân gây bệnh 37
2.3.1. Kết quả nghiên cứu ký sinh trùng 37
2.3.2. Kết quả nghiên cứu nấm 38
2.3.3. Kết quả nghiên cứu vi khuẩn 38
2.3.4. Kết quả cảm nhiễm nhân tạo 45
PHẦN 4: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 51
1. KẾT LUẬN 51
1.1 Kết quả điều tra sơ bộ tình hình nuôi và bệnh trên cá mú nuôi tại Khánh Hòa 51
1.1.1. Sơ bộ tình hình nuôi cá mú tại Khánh Hòa. 51
1.1.2. Tình hình bệnh ở cá mú nuôi tại Khánh Hòa. 51
1.2. Kết quả nghiên cứu bệnh xuất huyết lở loét ở cá mú nuôi tại Khánh Hòa 51
1.2.1. Kết quả nghiên cứu dấu hiệu bệnh xuất huyết lở loét trên cá mú 51
1.2.2. Kết quả nghiên cứu ký sinh trùng và nấm 51
1.2.3. Nghiên cứu vi khuẩn 52
2. ĐỀ XUẤT Ý KIẾN. 52
4
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1: Một số bệnh thường gặp do Iridovirus gây ra 7
Bảng 3.1: Tình hình nuôi cá mú tại Khánh Hòa (n = 30) 30
Bảng 3.2: Kết quả điều tra tình hình bệnh trên cá mú nuôi
tại Nha Trang-Khánh Hòa (n = 30) 30
Bảng 3.3: Các thông tin về mẫu cá bệnh (n = 9) 33
Bảng 3.4: Tần số các dấu hiệu bệnh lý đặc trưng của cá mú
nhiễm
bệnh xuất huyết lở loét (n = 9) 35
Bảng 3.5: Thành phần ngoại ký sinh trùng trên cá mú bệnh lở
loét (n =9) 37
Bảng 3.6: Tỷ lệ và cường độ cả
m nhiễm KST ở cá mú bệnh lở
loét (n =9) 37
Bảng 3.7: Kết quả định danh và tần số bắt gặpcác loài vi khuẩn
trên mẫu cá bệnh 39
Bảng 3.8: Tỷ lệ cảm nhiễm (TLCN) (%) các loài vi khuẩn phân
lập
từ cá mú bệnh lở loét (n = 9) 40
Bảng 3.9: Đặc điểm hình thái, sinh vật hóa học của các loài vi
khuẩn đã phân lập
từ cá mú bệnh lở loét bằng các phản ứng hóa sinh. 42
Bảng 3.10: Kích thước cá cảm nhiễm
ở các lô thí nghiệm 45
Bảng 3.11: Kết quả cảm nhiễm 46
Bảng 3.12: Kết quả làm kháng sinh đồ trên 2 chủng vi khuẩn
V. parahaemolyticus và V. anguillarum. 49
5
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 1.1: Cá mú chấm tổ ong 2
Hình 2.1: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu 19
Hình 2.2: Sơ đồ nghiên cứu vi khuẩn 20
Hình 2.3: Sơ đồ phương pháp cảm nhiễm vi khuẩn 23
Hình 2.4: Các bước tiến hành trong kỹ thuật mô bệnh học 24
Hình 3.1: Tần số bắt gặp một số bệnh ở cá mú nuôi tại Khánh Hòa 31
Hình 3.2: Một số hình ảnh cá mú bệnh 34
Hình 3.3: Mô bệnh học của cơ cá khỏe (trái) và mô bệnh học ở cơ cá
bệnh (ph
ải) 36
Hình 3.4: Mô bệnh học của gan cá mú khỏe (phải) và cá mú bệnh (trái)36
Hình 3.5: Pseudorhabdosynochus epinepheli ký sinh ở mang cá 38
Hình 3.6: Benedenia sp ký sinh ở da cá 38
Hình 3.7: Tần số bắt gặp các loài vi khuẩn trên mẫu cá bệnh. 39
Hình 3.8: Tỷ lệ cảm nhiễm các loài vi khuẩn phân lập từ cá mú 40
Hình 3.9: Một số hình ảnh phân lập vi khuẩn từ cá bệnh 43
Hình 3.10: Bố trí các thí nghiệm gây cảm nhiễm trên cá mú. 46
Hình 3.11: Cá mú bị bệnh do cảm nhiễm vi khuẩn V. anguillarum (4 x
10
6
tb/mL) 47
Hình 3.12: Cá mú bị bệnh do cảm nhiễm vi khuẩn V. anguillarum ( 4 x
10
7
tb/mL) 48
Hình 3.13: V. anguillarum phân lập được sau cảm nhiễm mọc trên môi
trường TCBS 48
Hình 3.14: Một số hình ảnh kháng sinh đồ trên vi khuẩn 50
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
S ‰: Độ mặn
t
o
C: Nhiệt độ
TB: Trung bình
KST: Ký sinh trùng
CĐCN: Cường độ cảm nhiễm
TLCN: Tỷ lệ cảmnhiễm
VK: Vi khuẩn
6
MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển kinh tế cả nước, trong những năm gần đây, nghề nuôi
trồng thuỷ sản đã trở thành một trong những chiến lược phát triển kinh tế quan trọng của
Việt Nam, đặc biệt là nghề nuôi hải sản. Trong đó cá mú là một trong những đối tượng
nuôi đang được chú ý. Với những đặc điểm như lớn nhanh, thịt ngon, cá mú là một mặt
hàng được th
ị trường thế giới ưa chuộng. Nghề nuôi cá mú đang phát triển với tốc độ
khá nhanh ở các tỉnh ven biển: Quảng Ninh, Hải Phòng, Khánh Hòa, Phú Yên.
Khánh Hòa là một tỉnh có nghề nuôi cá biển khá phát triển và cá mú là một
trong những đối tượng nuôi phổ biến. Tuy nhiên, vấn đề quản lý môi trường, con
giống, thức ăn và bệnh đang là những khó khăn của nghề nuôi cá mú tại đây. Khí hậu
nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm tại n
ước ta thích hợp cho sự sinh trưởng phát triển của cá
nhưng cũng là điều kiện thuận lợi để các tác nhân gây bệnh: nấm, ký sinh trùng, vi
khuẩn phát triển, thêm vào đó là việc nuôi cá với mật độ dày, nguồn giống chủ yếu thu
gom từ tự nhiên hoặc nhập khẩu có thể đem mầm bệnh từ nơi khác đến và làm bệnh dễ
lây lan. Vì vậy, làm sao để phòng và trị bệnh hiệu quả đang là bài toán đặ
t ra cho nghề
nuôi cá mú.
Một trong những bệnh thường gặp nhất ở cá mú nuôi là bệnh xuất huyết lở loét.
Bệnh này gây chết rải rác đến hàng loạt trong các hệ thống nuôi, đặc biệt là nuôi lồng
bè. Mặc dù vậy, việc nghiên cứu tìm ra tác nhân gây bệnh vẫn đang trong giai đoạn
tiến hành, còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu làm rõ, người nuôi vẫn chưa được
trang bị phương pháp phòng trị bệnh hiệu qu
ả.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn nói trên, đề tài: “Nghiên cứu bệnh xuất huyết
lở loét ở cá mú (Epinephelus spp) nuôi tại Nha Trang, Khánh Hoà” được chúng tôi
thực hiện sẽ góp phần hoàn thiện nội dung nghiên cứu về bệnh ở các loài cá biển, làm
cơ sở cho biện pháp phòng trị bệnh ở cá mú trong thực tế sản xuất.
Đề tài được thực hiện với các nôi dung sau:
1. Tìm hiểu sơ bộ tình hình nuôi cá mú và mức độ ph
ổ biến của bệnh lở loét
trên cá mú tại Khánh Hòa
2. Mô tả dấu hiệu của bệnh xuất huyết lở loét
3. Tìm hiểu tác nhân chính gây bệnh và thử nghiệm kháng sinh trong điều
kiện phòng thí nghiệm
Do thời gian và vốn kiến thức còn hạn chế nên báo cáo không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Kính mong sự góp ý của thầy cô và các bạn.
7
PHẦN 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. VÀI NÉT VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Cá mú là một trong những loài cá biển có giá trị kinh tế cao, sống ở vùng biển
nhiệt đới và cận nhiêt đới. Họ cá mú gồm 75 giống và trên 400 loài. Hiện nay có nhiều
loài đang trở thành những đối tượng nuôi quan trọng như cá mú mè (Epinephelus
malabaricus), cá mú cọp (E. fuscoguttatus), cá mú chấm đỏ (E. akaara).
1.1. Hệ thống phân loại và thành phần loài.
Hệ thống phân loại cá mú:
Ngành Vertebrata
Lớp Osteichthys
Bộ
Perciformes
Họ Serranidae
Giống Epinephelus
Plectropomus
Hình 1.1: Cá mú chấm tổ ong
(Epinepheleus merra)
Họ cá mú (Serranidae) có 75 giống và trên 45 loài. Tại Việt Nam, theo kết quả
nghiên cứu của Lê Trọng Phấn (1993) cho biết cá mú tại Việt Nam có khoảng 48 loài
thuộc 11 giống. Điều này cho thấy thành phần giống loài cá mú tại Việt Nam khá
phong phú.
Vùng biển Thái Bình Dương có tới 37 loài, Trung Quốc có khoảng 31 loài, Nhật
Bản có 25 loài, Đài Loan có 27 loài, Hồng Kông có 17 loài (Nguyễn Nhật Thi, 1997).
1.2.
Đặc điểm hình thái
Cá mú có mình hơi dẹp, thân thuôn dài, miệng rộng và chếch, hàm dưới hơi nhô
ra phía trước, trên hàm có nhiều răng nhọn, sắc và nhỏ. Cá mú thường chỉ có một vây
lưng với phần vây cứng phát triển tốt. Tuy nhiên, vây lưng có thể chia làm hai phần
riêng biệt, phần mềm vây lưng dài hơn vây hậu môn. Vây hậu môn có 3 gai cứng, con
đực hơi dài hơn so với con cái. Màu sắc cơ thể cá cũng thay đổi thường xuyên tuỳ theo
8
điều kiện môi trường và giai đoạn phát triển của cơ thể (Đào Mạnh Sơn & Đỗ Văn
Nguyên, 1998).
1.3. Đặc điểm phân bố
Cá mú sống chủ yếu ở vùng biển Á nhiệt đới và vùng biển Nhiệt đới, giống
Epinephelus có phân bố rộng nhất. Cá mú phân bố từ Đông Châu Phi, Hồng Hải, Ả
Rập, Ấn Độ tới Indonesia, Philippine, Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam, Singapore và
B
ắc Úc (Đào Mạnh Sơn & Đỗ Văn Nguyên, 1998).
Xét về phân bố sinh thái, cá mú ưa sống ở khu vực rạn san hô, một số khác
sống ở vùng đáy đá đáy bùn hay cỏ biển (James và ctv, 1996)
Ở biển Việt Nam, giống Epinephelus phân bố rộng từ Bắc tới Nam (Lê Trọng
Phấn, 1993). Cá mú mỡ (E. tauvina), cá mú đen (E. heeberi) phân bố phổ biến tại vùng
biển vịnh Bắc Bộ. Vùng biển miề
n Trung chủ yếu phân bố cá loài cá mú chấm đỏ (E.
akaara). Vùng biển Đông có cá mú chấm đỏ (E. akaara) và cá mú mỡ (E. tauvina)
(Nguyễn Nhật Thi, 1997)
1.4. Thức ăn và tập tính bắt mồi
Cá mú thuộc loài động vật ăn thịt vì vậy thức ăn chủ yếu của chúng là các loài
giáp xác, cá, và động vật không xương sống. Tập tính bắt mồi của chúng là rình bắt
mồi ở các khe đá, bụi rong và bụi san hô. Chúng săn mồ
i nhanh nhất vào lúc sáng sớm
và chạng vạng tối. Đôi khi vì đợi con mồi mà chúng không ra khỏi nơi ẩn nấp (Lê
Trọng Phấn, 1993)
1.5. Đặc điểm sinh trưởng và sinh sản
1.5.1. Đặc điểm sinh trưởng
Theo Đào Mạnh Sơn và Đỗ Văn Nguyên (1993) cá mú có thể chia làm hai
nhóm: nhóm có tốc độ sinh trưởng nhanh và nhóm có tốc độ sinh trưởng chậm. Nhóm
có tốc độ sinh trưởng chậm như: cá mú sọc ngang (Epinephelus fasciatus); cá mú đuôi
dài (Tosana niwae) kích thước t
ối đa chỉ 10 cm, cá song sao (E. fasico) và cá song sáu
sọc (E. sexfasciatus). Nhóm có tốc độ sinh trưởng nhanh gồm: cá song mỡ
(Epinephelus tauvina) có chiều dài tối đa 235 cm và trọng lượng đạt 137 kg; loài
Promiccrop lanactatus chiều dài đạt 360 cm và trọng lượng đạt 350 kg.
9
1.5.2 Đặc điểm sinh sản.
Cá mú thành thục khoảng 3 tuổi khi có khối lượng khoảng 3 kg. Cá mú có hiện
tượng độc đáo là biến đổi giới tính, một số con khi còn nhỏ là con cái lớn lên biến thành
con đực. Thời điểm biến tính phụ thuộc loài và điều kiện môi trường sống. Cá Mú Mỡ
(Epinephelus tauvina) xảy ra biến tính khi cơ thể cá dài 65 - 75 cm và khối lượng trên
10 kg. Cá mú đỏ (Epinephelus akaara) cá cái chuyển thành cá đực khi cơ th
ể dài 28 - 34
cm với khối lượng từ 0,5 - 1 kg. Đây cũng là cơ sở khoa học của việc sử dụng Hormone
chuyển giới tính trong quá trình sản xuất nhân tạo giống cá mú. Người ta sử dụng
Testosteron và 17
α
- Methyltestoteron với liều lượng khác nhau cho từng loài cá.
Các yếu tố môi trường như: nhiệt độ, độ mặn, dòng chảy ảnh hưởng đến sự chín
muồi của tuyến sinh dục. Việc tiêm HCG và Pubergen, não thuỳ thể và LRHA vào cơ
thể cá kích thích quá trình chín của tuyến sinh dục đẻ trứng và phóng tinh. Chúng có
thể được sử dụng độc lập hay kết hợp tuỳ theo từng loài nhằm đem lại hiệu quả tốt
nhấ
t.
Mùa vụ sinh sản của cá mú tập trung nhất vào tháng 5 - 6, nhưng thường kéo
dài từ tháng 3 - 8. Cá đẻ ở vị trí nước sâu, trứng và ấu trùng theo dòng nước và thuỷ
triều trôi nổi vào vùng nước ven bờ (Đào Mạnh Sơn & Đỗ Văn Nguyên, 1998). Sức
sinh sản từ 1.000.000 – 5.000.000 trứng. Trứng có đường kính trung bình 0,8 mm,
đường kính giọt dầu 0,19 mm. Trứng nở ra cá bột sau 18 - 20 giờ ở nhiệt độ 27 - 29
o
C.
Thời điểm đẻ vào lúc thuỷ triều đạt mức cao (trên 2 m) và từ 16 h đến nửa đêm
(Ruangpanit và ctv, 1989)
2. TÌNH HÌNH BỆNH VÀ NGHIÊN CỨU BỆNH Ở CÁ MÚ
2.1. Tình hình nghiên cứu bệnh ở cá mú trên thế giới.
Trên thế giới, đặc biệt là một số nước Đông Nam Á như Malaysia, Singapore,
Nhật Bản, cá mú và bệnh trên cá mú được nghiên cứu khá nhiều. Các công trình
nghiên cứu đều cho thấy cá mú là nhóm mẫn cảm với bệnh vì hầu hết các bệnh thông
th
ường trên cá biển đều bắt gặp ở cá mú bao gồm: các bệnh virus, vi khuẩn, kí sinh
trùng và nấm.
2.1.1. Bệnh do virus
Các nghiên cứu cho thấy có hai loài virus thường gây bệnh trên cá mú là virus
Nodavirus gây bệnh VNN và bệnh do virus Iridovirus
10
a. Bệnh VNN (Viral Nervous Necrosis)
Tác nhân chính gây bệnh VNN là Nodavius, virus này có vật chất di truyền là
một ARN thuộc giống Betanodavirus với kích thước 25 - 30 nm (Kazuya Nagasawa và
ctv, 2004). Bệnh VNN có phân bố rộng, xuất hiện ở nhiều nước từ Châu Mỹ đến Châu
Âu: Pháp, Đức, Italy và Châu Á: Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Brunei,
Singapore, Philipine.
Nodavirus có ký chủ khá rộng bao gồm hơn 20 loài cá như: cá vược Châu Âu,
cá bơn sao, bơn Nhật Bản, tráp đỏ, nóc, bơn Đại Tây Dương, mú lưng gù. Các loài cá
mú có thể bị
cảm nhiễm virus này bao gồm: Epinephelus malabaricus; E. bruneus;
Cromileptes altivelis.
Dấu hiêu bệnh lý bên ngoài của bệnh là hiện tượng cá bơi nhanh, không định
hướng, quay tròn hoặc xoắn cơ thể. Cá trưởng thành và cá bố mẹ bụng có thể phình to,
bơi lờ đờ, màu sắc cơ thể nhợt nhạt, bỏ ăn. Các dấu hiệu bên trong cá bị nhiễm VNN:
gan chuyển màu nhợt nhạt, ruột chứa đầy dịch hơi xanh và nâu. Tuy nhiên, đối v
ới cá
giai đoạn nhỏ thì dấu hiệu của bệnh không rõ ràng. Virus gây bệnh được tìm thấy ở
não, tuỷ sống, tuyến sinh dục, gan, dạ dày và ruột.
VNN được đánh giá là bệnh truyền nhiễm gây tác hại lớn nhất với cá biển đặc
biệt là giai đoạn cá giống: cá hương khi bị nhiễm VNN có thể chết tới 70%, cá cỡ 2,5 -
7,5 cm chết tới 100%, khi cá đạt kích cỡ lớn hơn 15 cm thì tỉ lệ ch
ết giảm hơn (dưới
20%).
Trong những năm gần đây, VNN đã thực sự trở thành mối đe dọa đối với ngành
nuôi trồng thuỷ sản trên thế giới. Năm 1994 - 1995, bệnh này đã gây chết 80 - 90% cá
bột và cá giống loài E. akaara ở nhật. Fukuda và ctv (1995) cũng khẳng định rằng
Nodavirus chính là tác nhân gây bệnh cho E. septemfasciatus ở Nhật, bệnh thường xảy
ra khi nhiệt độ cao (tháng 7 - 8). Bệnh VNN cũng
được báo cáo tại một số nước khác:
tại Triều Tiên, bệnh có thể gây chết tới 80% số cá chỉ trong một vài tuần (Salem và
ctv, 1996). Tại Thái Lan, bệnh thường xảy ra trên cá mú E. malabaricus, gây chết
100% nếu cá ở giai đoạn nhỏ, cá lớn chết 20% (Danaxado và ctv, 1995). Bệnh có thể
xuất hiện ở hầu hết các giai đoạn phát triển của cá nhưng khả năng nhiễm bệnh nặng
nhất là giai đoạ
n ấu trùng dưới 20 ngày tuổi.
11
Như vậy, có thể thấy rằng bệnh VNN gây tác hại rất nghiêm trọng cho nghề
nuôi cá biển, đặc biệt là trong sản xuất giống nhân tạo, vì vậy để giảm thiểu tác hại của
bệnh VNN, các biện pháp phòng bệnh tổng hợp được áp dụng: chọn đàn giống cá bố
mẹ sạch bệnh, vệ sinh dụng cụ bằng Chlorine (100 ppm), loại bỏ cá chết, cá yếu ra
khỏi đàn cá nuôi. Hiện nay các nghiên cứu về bệnh VNN vẫn được triển khai nhằm
hạn chế tác hại của bệnh.
b. Bệnh do Iridovirus
Iridovirus là nhóm gây bệnh phổ biến, phân loại họ Iridovirus bao gồm
Iridovirus, Chloriridovirus, Ranavirus, Lymphocystivirus (Danayadol và ctv, 1995).
Bệnh do Iridovius được thông báo đầu tiên vào năm 1990. Năm 1992, bệnh này
xuất hiện trên cá mú mỡ tại Singapore ở giai đoạn cá giống và cá hương. Ở Đài Loan
bệnh xuất hiện vào hầu hết các giai đoạn nuôi (Chou và ctv, 1998)
12
Bảng 1.1: Một số bệnh thường gặp do Iridovirus gây ra
Tên bệnh
Kích thước
Iridovirus
Dấu hiệu bệnh lý
Fish
Lymphocystis
Disease (FLD)
130 - 330 nm
− Dấu hiệu bên ngoài: xuất hiện các u bướu nhỏ
dày trên 5 mm phát triển trên mang, da, vây.
− Dấu hiệu bên trong xuất hiện tế bào lympho
nhiễm virus.
Grouper
Iridovirus Disease
Of Taiwan
(TGIVD)
200 - 240 nm
− Cá bỏ ăn, trọng lượng giảm dần, hôn mê, thiếu
máu
− Kích thước tế bào ở lá lách lớn lên khác thường.
− Khả năng nhiễm bệnh 100% từ cá bệnh sang cá
khoẻ chỉ trong 11 ngày.
Blister Disease 140 - 160 nm
− Cá bỏ ăn, trên da và vây xuất hiện vết phồng lên
có màu trắng.
Sleepy Grouper
Disease (SGD)
130 - 160 nm
− Cá tách khỏi đàn, bơi chậm trên mặt nước hoặc
đáy 3 - 4 ngày.
− Cá bỏ ăn, hôn mê. Vây cử động yếu. Mang tái
nhợt, cử động liên tục để lấy oxi trong không khí.
− Thường chết vào ban đêm hoặc sáng sớm với tỉ lệ
chết lên đến 50%.
Red Seabream
Iridovirus (RSIV)
130 - 196 nm
− Cá kém ăn, phân đục.
− Khi bệnh nặng, cơ thể tối sẫm.
− Sau 8 - 10 ngày nhiễm, tỉ lệ chết rất cao.
Grouper
Iridovirus Disease
(GIVD)
200 - 240 nm
− Cá bơi lội không bình thường, bỏ ăn, hôn mê.
− Màu sắc vây và đuôi tối nhạt
− Khi bệnh nặng, cá nổi lên mặt nước sau đó chìm
xuống đáy bể chết
Grouper Spawar
Iridovirus Disease
(GSIVD)
120 - 135 nm
- Dấu hiệu bên ngoài không biểu hiện rõ, chỉ thấy
màu sắc cơ thể nhợt nhạt.
− Cá chết đột ngột.
Nguồn:
2.1.2. Bệnh do vi khuẩn
Các nghiên cứu về bệnh do vi khuẩn trên cá biển đã được tiến hành nhiều năm
trước đây, kết quả cho thấy tác nhân phổ biến gây bệnh thuộc các nhóm vi khuẩn:
13
Vibrio spp; Pseudomonas spp; Pasterella piscicida; Flexibacter spp gây bệnh trên cá
mú (Epinephelus spp), cá chẽm (Lates calcarifer) và cá hồng (Lujanus spp) (Inglis và
ctv, 1983). Tại Thái Lan, Aeromonas spp, Flexibacter spp và Streptococcus được xác
định là tác nhân gây bệnh trên cá mú nuôi lồng. Ở Nhật Bản, Pasteurella piscicida gây
bệnh trên cá mú chấm đỏ (E. akaara) (Muroga và ctv, 1997).
Dưới đây là một số bệnh vi khuẩn thường gặp ở cá biển.
a. Bệnh Vibriosis
Các vi khuẩn thuộc nhóm Vibrio gây bệnh nhiễm trùng máu và xuất huyết trên
cá biển. Đã xác định
được 4 loài Vibrio thường gặp nhất trên các mẫu cá bệnh: Vibrio
paraheamolyticus, V. alginolyticus, V. anguillarum, V. damsela (Davis & Park, 1962;
Horne, 1982; Colwell & Games, 1984).
Vi khuẩn Vibrio spp có ký chủ rộng và thường xuất hiện trên một số loại cá mú
như: Epinephelus malabaricus, E. tauvina, E. coioides và E. bleekeri. Đặc biệt, hai
loài vi khuẩn V. paraheamolyticus và V. alginolyticus được xác định là thường gặp
trên cá mú nuôi tại Singapore, vi khuẩn Vibrio cũng gây tỉ lệ chết lớn trên cá mú mỡ
(E. tauvina) giai đoạn 2 - 4 cm. Bệnh đã được thông báo ở nhiều nước thuộc khu vực
Đông Nam Á: Malaysia, Triều Tiên, Indonesia, Thái Lan, Singapore, Philippine. Phần
lớn cá nhiễm bệnh Vibriosis đều có các biểu hiện chung là giảm ăn dẫn đến bỏ ăn, cơ
thể tối sẫm, vây thối rữa, mòn cụt, cơ thể bị lở loét, mắt lồi, mờ đục. Xuất huyết ở nội
tạng và các cơ quan trong cơ thể. Cá bị bệnh nặng có thể hôn mê, bơi g
ần mặt nước và
không giữ được thăng bằng.
Bệnh Vibriosis gây tác hại đáng kể cho nghề nuôi cá biển. Khả năng gây chết
của bệnh là trên 50% và tùy thuộc vào sự quản lý môi trường và cho ăn. Vi khuẩn dễ
dàng xâm nhập khi có tác nhân cơ hội mở đường là ký sinh trùng (Monogenea và
Protozoa) gây tổn thương tại mang và da. Bệnh dễ bùng nổ tại độ mặn 30 - 35 ‰. Các
đặc điểm trên đây là cơ sở khoa họ
c giúp đề ra các biện pháp phòng bệnh.
b . Bệnh do Pseudomonadiasis
Đây là một bệnh xuất huyết do vi khuẩn thuộc nhóm Pseudomonas. Từ mẫu cá
bệnh đã phân lập được một số loài vi khuẩn thuộc nhóm này như: P. chlororaphis,
P. anguilliseptica, P. flourescens, P. putida, trong đó P. anguilliseptica được xem là
tác nhân gây bệnh nguy hiểm nhất cho các loài cá nuôi (Austin, 1999)
14
Nhóm vi khuẩn Pseudomonas đã bắt gặp ở cá mú mỡ (E. tauvina) nuôi lồng tại
Malaysia. Nhóm vi khuẩn này có thể gây bệnh cho tất cả các giai đoạn phát triển của
cá mú (Tendencia và ctv, 2004). Riêng Pseudomonas flouresceus gây bệnh trên cá mú
mỡ (E. tauvina), bệnh thường xuất hiện từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau (Nash và ctv,
1987). Cá dễ dàng bị nhiễm khuẩn khi bị sốc do nhiệt độ nước thay đổi đột ngột hoặc
trong điều kiện nước xấu và nghèo dinh d
ưỡng. Khi nhiễm bệnh, cá bị xuất huyết trên
khắp cơ thể, mắt bị đục, lở loét da, vây và đuôi.
c. Bệnh Flexibacteriosis
Tác nhân gây bệnh là nhóm vi khuẩn Flexibacter spp gây ra. Bệnh thường gây
tác hại lớn ở giai đoạn cá giống khi nhiệt độ nước cao hơn 15
o
C (Magarinos và ctv,
1995) Các loài cá bơn, cá hồi, cá chẽm, cá tráp đã được báo cáo là những loài từng
nhiễm bệnh này.
Ở cá mú, Flexibacter spp gây bệnh ở mang và vây. Các loài Flexibacter sp,
Cytophaga sp và Flavobacterium sp gây bệnh ở mang và thường gặp nhất trên cá mú
nâu và cá mú mè ở Brunei, chúng có thể gây tỉ lệ chết hơn 80% ở giai đoạn cá giống
(Hamid và ctv, 2001). Ban đầu vi khuẩn tấn công vào bề mặt mang, phát triển rộng
làm hoại tử tế bào tơ mang dẫn đến tình trạng mang bị lở loét, khiến cá b
ị cản trở hô
hấp. Dấu hiệu ban đầu của bệnh là hiện tượng cá bơi lờ đờ, màu sắc thân sậm hơn, bỏ
ăn, sau đó cá bơi gần mặt nước, nắp mang phồng lên, các tơ mang dính lại với nhau,
mang tiết nhiều dịch nhờn. Bệnh thường xảy ra khi chất lượng nước kém do mưa to,
các chất lơ lửng trong nước bám vào mang và nồng độ oxy thấp tạo điều kiện cho vi
khuẩn phát triển (Kasornchandra và ctv, 2002). F. maritimus còn kết hợp với vi khuẩn
Vibrio sp gây bệnh mòn vây, xuất huyết ở cá mú chuột tại Indonesia. Cá nhiễm bệnh
có thể chết đến 80% đàn cá trong vài ngày nếu không được xử lý kịp thời. Bệnh
thường xảy ra khi độ mặn cao khoảng 30 - 35 ‰ (Zafran và ctv, 1998)
d. Bệnh Streptococcosis.
Streptococcocus còn được gọi là bệnh mụn đỏ trên thân (Red Boil Disease) và
thường xuất hiện cùng với bệnh Vibriosis. Tác nhân gây bệnh là vi khuẩn
Streptococcus spp, Gram dương, đường kính nhỏ hơn 2
μ
m, hình cầu hoặc hình oval,
thường xếp thành cặp hoặc nối chuỗi.
15
Cá nhiễm bệnh thường có nhiều mụn sưng đỏ trên da, sau đó vỡ ra làm hoại tử
phần cơ, những vết thương tổn này có thể mở đường cho các vi khuẩn khác xâm nhập.
Cá bệnh có thể xử lý bằng cách trộn vào thức ăn Oxonilic acid (20 mg/kg) và tắm cá
bằng Prefuran (2 ppm) trong 1h (Tendencia và ctv, 2004).
Bệnh đã được phát hiện trên cá mú chấm nâu và cá mú mè ở Brunei, Malaysia,
Singapore, Thái Lan (Hamid và ctv, 2001). Bệnh không gây chết ở cá trưởng thành
nhưng lại thường xuất hiện ở giai
đoạn cá bột, cá giống và gây tỷ lệ chết khoảng 10 %.
(Tendencia và ctv, 2004)
Nhìn chung các bệnh do vi khuẩn đều có thể phòng ngừa bằng cách: duy trì mật
độ nuôi thích hợp. Duy trì sự lưu thông nước cho lồng nuôi bằng cách vệ sinh và thay
lồng để giảm thiểu sinh vật bám. Thức ăn tươi và nhân tạo cho cá phải được bảo quản
tốt.
Xử lý tắm cá bằng nước ngọt trong 15 - 30 phút. Tắm cá nhanh bằng dung dịch
Formalin và Iodin. Có thể sử dụng một số loại kháng sinh không bị cấm trong nuôi
trồng thủy sản để điều trị bệnh vi khuẩn. Tuy vậy, cần chú ý đến các nguyên tắc khi sử
dụng kháng sinh (sử dụng đúng thuốc, đúng thời gian, liều lượng quy định) để hạn chế
hiện tượng kháng thuốc của vi khuẩn. Vấn đề kháng kháng sinh của vi khuẩn hiện nay
vẫn đang là một thách thức đối với ngành bệnh học thủy sản.
2.1.3. Bệnh kí sinh trùng
Bệnh kí sinh trùng là một trong số những bệnh thường gặp nhất ở cá mú. Các
nghiên cứu về bệnh ký sinh trùng trên cá mú cho thấy mức độ cảm nhiễm của cá nuôi
lớn hơn 3 lần so với cá tự nhiên. Mức độ cảm nhiễm cùng một loại kí sinh trùng trên
cùng một loài cá ở các vùng địa lý khác nhau thường khác nhau. Nhiều nghiên cứu cho
thấy khi KST với cường độ cảm nhiễm cao thường gây tác hạ
i lớn với cá mú, đặc biệt
là ở giai đoạn cá giống. KST thường gặp nhất là nhóm động vật đơn bào (Protozoa).
Ngoài ra nhiều loài thuộc nhóm ngoại ký sinh thường gây thương tổn trên bề mặt cơ
thể tạo điều kiện cho các tác nhân khác xâm nhập và gây bệnh như sán lá đơn chủ,
giáp xác, đỉa, giun tròn,…
a. Bệnh do Protozoa
Protozoa ký sinh được báo cáo gây bệnh trên cá mú (Serranidae) ở giai đoạn cá
giống (Chong và ctv, 1986) chủ yếu thuộc các nhóm sau:
16
- Bệnh Amyloodioniosis:
Bệnh này còn gọi là bệnh đốm trắng do Amyloodinium ocellatum gây ra. Chúng
thuộc nhóm ngoại ký sinh, cơ thể có hai roi dài để vận động và các đĩa bám với cấu tạo
đặc biệt giúp chúng bám lên da và mang. Loài này đã gây bệnh trên cá mú (Epinephelus
spp và Cromileptes altivelis) giai đoạn cá giống ở Malaysia và Indonesia (Zafran và ctv,
2000).
Cá nhiễm bệnh tiết nhiều nhớt và xuất hiện các đốm trắng trên da, mang. Cá bơi
lội không bình thường và tập trung trên mặt nước, màu sắc c
ơ thể đen hơn, xuất huyết
ở một số vị trí trên da, mang nhợt nhạt, cường độ hô hấp tăng. Đàn cá khi nhiễm bệnh
nặng có thể chết rải rác đến hàng loạt. Biện pháp xử lý hiệu quả là tắm cá trong nước
ngọt với CuSO
4
(0,5 ppm) (3 - 5 ngày) hoặc tắm formalin (100 ppm) trong 10 - 15
phút, sục khí mạnh (Zafran và ctv, 2000).
- Bệnh Cryptocaryonosis
Bệnh Cryptocaryonosis do Cryptocaryon irritans gây ra, kích thước của chúng
0,3 – 0,5 mm, có dạng hình tròn và có nhiều tiêm mao trên bề mặt cơ thể (Yambot và
ctv, 2003).
Cá bệnh thường có nhiều đốm trắng đục trên da, mang vì vậy bệnh này cũng
được gọi là bệnh đốm trắng. Cá giảm ăn, nổi từng đàn trên mặt nước, bơi lờ đờ, trên
thân có nhiều chỗ xuất huyết, mắt lồ
i, hoạt động hô hấp khó khăn. Những vết mòn trên
da dần loét ra mở đường cho các tác nhân gây bệnh khác đặc biệt là vi khuẩn. Bệnh có
thể điều trị bằng cách tắm cá trong nước ngọt khoảng 15 phút hoặc xử lý 0,5 ppm
CuSO
4
trong 5 - 7 ngày (Cruz-Lacierda và ctv, 2004). Ở cá mú bệnh này đã bắt gặp ở
các loài như: Epinephelus bontoides, E. coioides, E. malabaricus, E. tauvina nuôi lồng
ở Indonesia, Malaysia và Singapore và Thái Lan (Chao và ctv, 1994)
- Bệnh trùng bánh xe (Trichodiniosis)
Bệnh Trichodiniosis gây ra bởi bọn Protozoa thuộc các giống khác nhau:
Trichodina, Trichodinella và Tripartiella.
Cá nhiễm bệnh thường tiết nhiều nhớt ở da và mang. Bệnh nặng có thể gây chết
ở giai đoạn cá nhỏ, các KST này làm tổn thương tơ mang dẫn đến cản trở hoạt
động hô
hấp. Có thể hạn chế được tác hại do trùng bánh xe bằng biện pháp tắm cá trong nước
ngọt 15 phút và sục khí mạnh (Chong và ctv, 1986), (Leong và ctv, 1997). Hiện nay
17
nhiều nước trên thế giới đã có báo cáo về bệnh này ở các loài cá mú nuôi như: Brunei,
Indonesia, Malaysia, Singapore, Thái lan. Các loài cá mú đã từng bắt gặp bệnh này là:
Epinephelus bontoides, E. coioides, E. malabaricus, E. tauvina, E. bleekeri, E. suillus.
- Bệnh trùng vi bào tử (Microsporidiosis)
Bệnh này gây ra bởi bọn trùng vi bào tử, bọn này thuộc KST nội sinh có kích
thước 3 - 10
μ
m, vòng đời của bọn vi bào tử này chưa được nghiên cứu sâu.
Cá bị bệnh có triệu chứng chướng bụng, có nhiều khối u màu đen hoặc nâu với
kích thước khác nhau trong mô mỡ hoặc nội quan do vi bào tử đã xâm nhập và tạo
thành các khối u nhỏ trong mô cá bệnh. Bệnh lan truyền bằng bào tử qua đường tiêu
hóa. Bệnh này đã được báo cáo ở cá mú Epinephelus spp ở Trung Quốc và Thái Lan
(Cruz-Lacierda và ctv, 2004).
b. Bệnh do giun sán ký sinh
- Bệnh sán lá đơn chủ (Monogeneans)
Tác nhân gây bệnh là sán lá đơn chủ thuộc bọn ngoại ký sinh, chúng dùng đĩa
bám và móc bám để bám lên mang, mắt và da của ký chủ. Một số sán lá ký sinh ở
mang như Pseudorhabdosynochus spp, Diplectanum spp, Megalocotyloides spp, sán
ký sinh ở da như Benedenia spp, Neobenedenia spp. Hầu hết chúng có kích thước nhỏ
bé.
Cá nhiễm bệnh nặng có thể bị mù mắt, xuất huyết, tổn thương tơ mang hoặc
gây lở loét trên da mở đường cho các tác nhân khác, đặc biệt là vi khuẩn xâm nhập và
gây bệnh. Sán lá
đơn chủ ký sinh ở hầu hết các loài cá nuôi trong đó có cá mú, chúng
có thể cảm nhiễm trên nhiều loài cá mú: E. coioides, E. fuscoguttatus, E. lanceolatus,
E. malabaricus, E. tauvina. Bệnh đã được thông báo tại Malaysia, Myanmar,
Philipines, Singapore, Thái Lan và Trung Quốc (Leong và ctv, 1997). Bệnh có thể gây
chết hàng loạt cá con cỡ 10 - 15 cm và nếu cường độ nhiễm cao có thể gây chết cá lớn.
Biện pháp tắm Oxy già (H
2
O
2
) 100 ppm hay formalin (100 ppm) trong 10 - 15 phút có
hiệu quả khi điều trị bệnh này (Cruz-Lacierda và ctv, 2004).
- Bệnh sán lá song chủ (Digeneans-Trematodes)
Tác nhân gây bệnh thuộc nhóm Trematodes. Sán lá song chủ có vòng đời phát
triển phức tạp gồm nhiều giai đoạn và phải qua 2 - 3 ký chủ trung gian là nhuyễn thể
và giáp xác trước khi nhiễm vào cá.
18
Các nghiên cứu cho thấy các sán lá song chủ ký sinh đều gây hại cho cá nhưng
tác hại không lớn như sán lá đơn chủ. Chúng thường cảm nhiễm trên các loài cá mú
như: E. coioides, E. malabaricus, E. tauvina nuôi lồng tại Malaysia, Myanmar,
Philippine và Thái Lan. Nhóm Trematoda thường gặp trên cá mú chủ yếu là
Prosorhynchus pacificus. Hiện nay việc phòng trị bệnh này chưa có biện pháp hữu
hiệu, chủ yếu là tiêu diệt các ký chủ trung gian trong hệ thống nuôi (Cruz-Lacierda và
ctv, 2004).
- Bệnh do giun tròn (Nematodes)
Giun tròn thuộc bọn nội ký sinh, chúng có kích thước lớn, thường dài t
ừ 1 - 2
cm, có bọn dài đến hơn 20 cm (Philometra sp). Ở cá mú thường gặp giun tròn nhóm
Philometra sp., Anisakis sp. và Raphidascaris sp. Chúng thường ký sinh trong ruột, dạ
dày, cơ, tuyến sinh dục. Cá bị nhiễm nặng cơ thể bị đổi màu, gầy yếu và chậm lớn.
Các báo cáo cho thấy giun tròn cảm nhiễm trên cá mú Epinephelus coioides
và E. malabaricus ở Indonesia, Malaysia, Thái Lan. Để hạn chế tác hại của bệnh này
cần áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp như: tránh cho ăn cá tạp bị nhi
ễm, xử
lý ao đìa bằng vôi để loại trừ trứng giun, ký chủ trung gian (copepods). (Leong và ctv,
1997).
c. Bệnh do giáp xác ký sinh (Crustacean)
Giáp xác thường gặp ở cá mú thuộc nhóm giáp xác chân chèo Caligid
copepoda (Caligus sp., C. epidemicus và Lepeophtheirus sp.) và giáp xác chân chèo
Isopoda (Rhexanella sp). Chúng ký sinh ở tất cả các giai đoạn phát triển của cá và gây
tác hại nghiêm trọng nhất ở giai đoạn cá con.
Khi nhiễm bệnh nặng, cá thường có biểu hiện bơi lội bất thường, ngứa ngáy
khó chịu, cọ nhi
ều vào thành lồng gây lở loét. Các vết lở loét trên da mở đường cho
các tác nhân gây bệnh khác xâm nhập. Bệnh đã được thông báo ở Indonesia, Malaysia,
Thái Lan, Philippines và thường xuất hiện trên các loài cá mú như: Epinephelus
coioides, E. malabaricus, E. fuscoguttatusn. Biện pháp tắm nước ngọt hoặc Oxy già
(150 ppm) hay formalin (100 – 150 ppm) trong 10 - 15 phút có thể hạn chế tác hại của
bệnh này (Cruz-Lacierda và ctv, 2004), (Leong và ctv, 1994).
19
2.1.4. Bệnh do nấm
Các nghiên cứu về bệnh nấm trên cá biển còn ít. Các nghiên cứu về hội chứng
lở loét ở cá (Epizootic Ulcerative Syndrome - EUS) tìm thấy nấm Aphanomyces
invadans là một trong những tác nhân chính gây triệu chứng lở loét cá ở Nhật, Úc và
một số nước Châu Á (Lilley và ctv, 1998)
Loại nấm chủ yếu gây bệnh trên cá mú thuộc nhóm Lagenidium spp và chúng
được xem là tác nhân cơ hội (Kanchanakhan, 2000) bởi chúng chỉ có khả năng xâm
nhập và gây bệnh qua các vết tổn thương bên ngoài cơ thể
khi cá bị xây xát hoặc
nhiễm ký sinh trùng (Yvonne & Sadovy, 2000). Những cá đạt đến cỡ thương phẩm
thường bị nhiễm nấm Ichthiophonus spp. Cá nhiễm nấm kém ăn, gầy yếu, da xù xì
kèm theo sự xuất hiện vết loét . Gan, thận, lá lách sưng và có đốm trắng nhỏ (Kazuya
Nagasawa và ctv, 2004)
2.2. Tình hình nghiên cứu bệnh trên cá mú nuôi tại Việt Nam
2.2.1. Bệnh do virus
Tại Việt Nam, bệnh do virus chưa được nghiên cứu nhiều dù gây thiệt hại đáng
kể cho nghề nuôi và sả
n xuất giống nhân tạo. Phần lớn cá bệnh được phát hiện thông
qua dấu hiệu bệnh lý, xét nghiệm PCR, quan sát mẫu mô. Các nghiên cứu nhằm đưa ra
các biện pháp phòng bệnh hiệu quả đang thực sự cần thiết đối với nghề nuôi cá mú tại
Việt Nam.
Theo Đỗ Thị Hòa và ctv (2004) Iridovirus là tác nhân gây bệnh cá mú ngủ
thường gặp ở cá biển đặc biệt là cá mú nuôi lồng: mú chấm cam (E. coioides); mú mỡ
(E. tauvina); mú mè (E. malabaricus). Tác gi
ả Bùi Quang Tề cũng khẳng định bệnh có
dấu hiệu giống cá mú ngủ xuất hiện trên cá mú lồng ở vịnh Hạ Long vào thời điểm
tháng 3 - 8. Ngoài ra vùng biển Khánh Hòa cũng thường gặp bệnh có dấu hiệu tương
tự VNN, đồng thời Nodavirus đã được phát hiện trên cá mú nuôi lồng tại Hạ Long (Đỗ
Thị Hòa và ctv, 2004).
2.2.2. Bệnh do vi khuẩn
Những nghiên cứu về bệnh vi khuẩn trên cá mú tại Việ
t Nam cũng cho những
kết quả phù hợp với các nghiên cứu khác trên thế giới. Nhóm vi khuẩn Vibrio spp;
Pseudomonas spp; Pasteurella piscicida được khẳng định là các nhóm vi khuẩn
thường gây bệnh cho cá mú, đặc biệt là vi khuẩn Vibrio.
20
Năm 1996 - 2000, Bùi Quang Tề đã phân lập được vi khuẩn Pseudomonas spp
và 6 loài Vibrio (V. anguillarum; V. alginolyticus; V. vulnificus; V. paraheamolyticus;
V. damsela; V. cholerae), đặc biệt V. alginolyticus và V. vulnificus có tần số bắt gặp
cao nhất trên các mẫu cá bệnh. Ngoài ra, V. paraheamolyticus; V. anguillarum; V.
alginolyticus cũng được tìm từ mẫu cá biển bị bệnh ở Việt Nam (Phạm Thị Vân và ctv,
2000). Năm 2001, Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản I phân lập được 3 loài
Vibrio: V. alginolyticus, V. vulnificus, V. cholerae trên mẫu cá mú lồng ở Hải Phòng
và Quảng Ninh. Năm 2002, 3 loài vi khuẩn được tìm thấy trên mẫu cá bệnh tại Vân
Đồn – Quảng Ninh: V. alginolyticus, V. vulnificus, V. cholerae. Cùng thời gian này,
Mycobacterium và Vibrio spp được thông báo là tác nhân gây bệnh đốm trắng và đốm
đỏ trên cá mú lồng tại Cát Hải – Hải Phòng. Kết quả nghiên cứu của Đào Thị Huyền
(2003) khẳng định V. anguillarum và Edwarsiella ictaluri gây bệnh lở loét ở cá mú tại
Nha Trang - Khánh Hòa. Đặng Thị Minh Trang (2005) kết luận V. alginolyticus là tác
nhân chính gây bệnh lở loét tại Khánh Hòa.
Phần lớn các nghiên cứu về bệnh do vi khuẩn trên cá cá mú tại Việt Nam nhằm
tìm ra tác nhân gây bệnh chính và đang trong giai đoạn thử nghiệm các loại kháng sinh
có khả năng điều trị bệnh cao trong điều kiện thí nghiệm.
2.2.3. Bệnh ký sinh trùng
Các nghiên cứu về bệnh ký sinh trùng tại Việt Nam được chú ý sớm hơn cả,
nhưng lại chủ yếu tập trung trên cá nước ngọt, số lượng các nghiên cứu về khu hệ ký
sinh trùng trên cá bi
ển chưa nhiều. Những năm gần đây, khi nghề nuôi cá biển bắt đấu
phát triển tại Việt Nam thì việc nghiên cứu về ký sinh trùng trên cá nước mặn đang
được tiến hành nhiều hơn.
Năm 1959 - 1961: nghiên cứu của Nguyễn Khắc Bá (1997) cho biết khu hệ ký
sinh trùng ở cá biển tại Vịnh Bắc Bộ gồm 90 loài. Năm 1978 - 1980, Đỗ Thị Hòa và
Nguyễn Thị Muội thực hiện đề tài: “Đi
ều tra thành phần giống loài ký sinh trùng ký
sinh trên cá ở vùng biển Phú Khánh”, đã phát hiện 80 loài kí sinh trùng thuộc 55
giống, 17 bộ thuộc 6 lớp: Monogenea, Trematoda, Nematode, Cestoidean,
Acanthocephalan và Crustacean. Trong 80 loài ký sinh trùng có tới 46 loài sán lá, 18
loài giun tròn, 7 loài giun đầu móc và 9 loài giáp xác. Trong đó cá bị nhiễm nhiều nhất
là sán lá đơn chủ (5 loài), sán lá song chủ (2 loài), giáp xác (2 loài), trùng bánh xe (2
21
loài) và trùng miệng lệch (1 loài). Trong thời gian từ năm 1996 - 2000, Bùi Quang Tề
và ctv thực hiện đề tài “Chẩn đoán và phòng trị một số bệnh truyền nhiễm ở cá nuôi
lồng và thủy đặc sản”. Đã phát hiện 13 loài ký sinh trùng thuộc 12 giống, 11 họ, 4 lớp,
3 ngành trên 3 loài cá mú: cá mú mỡ (E. tauvina) gặp 12 loài, cá mú sáu sọc (E.
sexfasciatus) gặp 10 loài, cá mú chuối (E. moara) gặp 9 loài. Đặc biệt tỉ lệ cảm nhiễm
sán lá đơn chủ Pseudorhabdosynochus epinepheli, Cycloplectanum cupatum,
Diplectalum hargisi, Haliotrema sp ở
3 loài cá mú trên rất lớn (71,4% - 93,8%), sán lá
song chủ Prosorhynchus epinepheli, Helicometra fasciata, Magnacetabulum setari (26
- 46%), sán lá đơn chủ Benedenia epinepheli và ầu trùng của chúng ký sinh trên da cá
rất cao (25% - 35%). Trùng đơn bào và giáp xác ký sinh có tỉ lệ cảm nhiễm thấp nhất.
Nghiên cứu gần đây về thành phần ký sinh trùng trên cá mú (Epinephelus spp)
của Võ Thế Dũng và ctv (2005) có 22 loài KST thuộc 17 giống, 12 họ, 11 bộ, 9 lớp, 8
ngành được tìm thấy trên 225 con cá mú tự nhiên, nuôi ao và lồng tại Khánh Hòa.
Trong đó Trichodina có tỉ lệ cảm nhiễm cao nhất (74,2%) và có đến 8 loài Monogena
ký sinh ở da và mang với tỉ lệ cảm nhiễm 31,9%
Các nghiên cứu về bệnh trên cá biển tại Việt Nam chưa nhiều do nghề nuôi cá
biển tại Việt Nam mới trong giai đoạn đầu phát triển. Trên thế giới, các nghiên cứu về
bệnh cá biển đã có một bề dày lịch sử với nhiều thành tựu đáng kể, đặc biệt là tại các
quốc gia có nghề nuôi biển phát triển như: Nhậ
t Bản, Na Uy, Đài Loan, Indonesia.
Chính các nghiên cứu sâu về bệnh đã góp phần giúp nghề nuôi hải sản của những nước
này phát triển ổn định và thành công. Điều này cho thấy cần thiết phải triển khai nhiều
hơn nữa những nghiên cứu về bệnh trên cá biển tại Việt Nam, đặc biệt là với các đối
tượng nuôi đang được chú ý nhiều như cá mú.
2.3. Tình hình nuôi và dịch bệnh trên cá mú tại Nha Trang - Khánh Hòa
Theo các báo cáo về bệnh cá mú t
ại Khánh Hòa, trong những năm gần đây,
nghề nuôi cá mú tại Khánh Hòa đã phát triển, chỉ trong khoảng thời gian 4 năm (năm
2000 - 2004), diện tích nuôi tăng từ 4 ha lên đến 108 ha, sản lượng tăng từ 10 tấn lên
240 tấn vào năm 2004 (Đặng Thị Minh Trang, 2005).Tuy nhiên, nghề nuôi cá mú tại
Khánh Hòa vẫn chưa có quy hoạch cụ thể, do đó nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm,
tạo điều kiện cho bệnh xuất hiện nhiều và phức t
ạp hơn. Bên cạnh đó đa số người dân
nuôi theo kinh nghiệm, trình độ kỹ thuật thấp, quá trình nuôi chưa có biện pháp phòng
22
trị bệnh hiệu quả. Nghề nuôi cá mú tại Nha Trang - Khánh Hòa gặp một số khó khăn
như: con giống khan hiếm, chất lượng giống không ổn định, chủ yếu phải nhập giống
từ Đài Loan, chất lượng không đảm bảo do công tác kiểm dịch chưa chặt chẽ. Thức ăn
được sử dụng chủ yếu là cá tạp tuy giá rẻ và có giá trị dinh dưỡng, song đã bộc lộ
không ít nhược điểm: dễ gây ô nhiễm môi trường, tiềm ẩn nguy cơ gây bệnh.
Theo báo cáo của Đặng Thị Minh Trang (2005), cá mú nuôi tại Khánh Hòa đều
gặp một số các bệnh như lở loét, chướng bụng, trắng thân, kí sinh trùng, trong đó
77,8% số hộ nuôi cá tại Cam Ranh và 83,3% hộ nuôi cá mú tại Nha Trang đều gặp
bệnh xuất huyết lở loét, bệnh lây lan nhanh và khả năng gây chết cao (> 50%). Đặc
biệt ở hình thức nuôi lồng tỷ lệ mắc b
ệnh này cao hơn so với nuôi ao do mật độ nuôi
cao, cá dễ bị trầy xước do va vào thành lồng hoặc do thao tác phân cỡ và tắm cá. Bệnh
ký sinh trùng có tần số bắt gặp tại Nha Trang là 80% và tại Cam Ranh là 48%, các loài
ký sinh trùng thường gặp là: sán lá đơn chủ, giun, giáp xác, trùng bánh xe. Bệnh chết
hàng loạt không rõ nguyên nhân cũng thường gặp ở cá mú nuôi và đã gây thiệt hại lớn
(tỉ lệ chết trên 50%), cá chết đột ngột không rõ dấu hiệu đặc trưng bên ngoài.
Hiện nay, nghề nuôi cá biể
n nói chung và nghề nuôi cá mú nói riêng tại Nha
Trang – Khánh Hòa đang cần có các biện pháp cụ thể nhằm phát triển ổn định: Quy
hoạch các vùng nuôi một cách có hệ thống và khoa học. Người nuôi cần được hỗ trợ
về kỹ thuật, đặc biệt là quản lý môi trường, cho ăn, phòng ngừa dịch bệnh. Công tác
kiểm dịch cần được thực hiện chặt chẽ nhằm ngăn ngừa có hiệu quả sự lây lan dịch
bệ
nh giữa các vùng nuôi khác nhau. Đồng thời cần phải triển khai các nghiên cứu về
bệnh trên cá mú, đặc biêt là các bệnh gây tác hại lớn, để tạo cơ sở cho việc phòng trị
bệnh có hiệu quả.
23
PHẦN 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh xuất huyết lở loét trên cá mú
Thời gian nghiên cứu
Từ ngày 5/8 đến ngày 10/11/2007
Địa điểm nghiên cứu
- Thu mẫu cá mú lở loét tại các hộ nuôi thương phẩm ở Nha Trang – Khánh Hòa
- Phân tích mẫu cá bệnh tại phòng thí nghiệm – Bộ môn bệnh học Thủy Sản – ĐH
Nha Trang.
- Bố trí thí nghiệm cảm nhiễm tạ
i trại nghiên cứu thực nghiệm tư nhân, Đặng Tất –
Nha Trang – Khánh Hòa.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
24
Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu của đề tài:
Hình 2.1: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu
Tình
hình
nuôi cá
mú
Làm kháng sinh đồ
Kết luận và đề xuất ý kiến
Nghiên cứu bệnh xuất huyết lở loét trên
cá mú nuôi tại Nha Tran
g
-Khánh Hòa
Điều tra tình hình nuôi và
bệnh thường gặp trên cá mú
Tìm hiểu tác
nhân
g
â
y
bệnh
Quan
sát dấu
hiệu
bệnh lý
Nghiên
cứu
dấu
hiệu
mô học
Mô tả dấu
hiệu bệnh
Xác định sinh vật được nghi
n
g
ờ là tác nhân
g
â
y
b
ệ
nh
Thí nghiệm gây cảm
nhiễm t
r
ên cá khỏe
Thu mẫu cá bệnh
Phát
hiện
nấm,
KST
trên cá
bệnh
Phân
lập,
định
danh vi
khuẩn
trên cá
bệnh
Bệnh
và biện
pháp
phòng,
trị
25
2.1. Phương pháp điều tra
- Nguồn số liệu thứ cấp: Để có được các thông tin về vùng nuôi và phân bố của
vùng nuôi cá mú tại Khánh Hòa, chúng tôi đã gặp gỡ trực tiếp những người làm công
tác quản lý nghề NTTS tại Sở Thủy sản và Phòng kinh tế của các huyện để thu thập
các thông tin này.
- Nguồn số liệu sơ cấp: Lập phiếu điều tra và tiến hành phỏng vấn trực tiế
p một
số hộ nuôi cá mú tại tỉnh Khánh Hòa. Số hộ được phỏng vấn là: n = 30 hộ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu vi khuẩn
Hình 2.2: Sơ đồ nghiên cứu vi khuẩn
2.2.1. Dụng cụ hoá chất và môi trường nghiên cứu
- Phòng vô trùng
- Tủ ấm để nuôi cấy vi khuẩn
Cá bị bệnh
Giải phẫu lấy bệnh phẩm từ vết loét, gan, thận.
Nuôi cấy trên môi trường phân lập (NA; TCBS)
Định danh vi khuẩn.
Làm kháng sinh đồ
Xác định tác nhân và đề xuất biện
p
háp phòng t
r
ị.
Cảm nhiễm trên cá khoẻ
Nhuộm Gram
Hình thái khuẩn lạc
Làm các phản ứng sinh hoá