ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
BÙI MINH HÀO
HOẠT ĐỘNG KINH TẾ HÀNG HÓA CỦA NGƯỜI DAO
ĐỎ TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA MIỀN NÚI
(TRƯỜNG HỢP Ở THÔN SẢ XÉNG, XÃ TẢ PHÌN, HUYỆN SA PA, TỈNH LÀO CAI)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Dân tộc học
Hà Nội, 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
BÙI MINH HÀO
HOẠT ĐỘNG KINH TẾ HÀNG HÓA CỦA NGƯỜI
DAO ĐỎ TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA MIỀN
NÚI
(TRƯỜNG HỢP Ở THÔN SẢ XÉNG, XÃ TẢ PHÌN, HUYỆN SA PA, TỈNH
LÀO CAI)
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Dân tộc học
Mã số: 60 31 03 10
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Trường Giang
Hà Nội, 2015
MỤC LỤC
DẪN LUẬN ......................................................................................................... 3
1. Lý do lựa chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề......................................... 4
3. Câu hỏi nghiên cứu và quá trình thực hiện ................................................... 6
4. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 8
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU, LỊCH SỬ
NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ VÀ CÁC TIẾN ĐỀ LÝ THUYẾT ......................... 9
1.1. Tổng quan về địa bàn và đối tượng nghiên cứu ................................... 9
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và quá trình đô thị hóa ở Sa
Pa ................................................................................................................... 9
1.1.2. Quá trình đô thị hóa ở Sa Pa ............................................................. 12
1.1.3. Tác động của đô thị hóa đến người Dao ở Sa Pa .............................. 17
1.2. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................. 23
1.3. Các tiền đề lý thuyết và phương pháp tiếp cận vấn đề ...................... 30
1.3.1. Các tiền đề về lý thuyết nghiên cứu .................................................. 30
1.3.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................... 33
Chương 2. QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI TỪ KINH TẾ TRUYỀN
THỐNG SANG NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA CỦA NGƯỜI DAO ĐỎ .... 35
2.1. Hoạt động kinh tế truyền thống của người Dao Đỏ ........................... 35
2.1.1. Kinh tế chiếm đoạt tự nhiên .............................................................. 35
2.1.2. Hoạt động kinh tế nông nghiệp ......................................................... 37
2.1.3. Hoạt động thủ công nghiệp ............................................................... 43
2.1.4. Hoạt động trao đổi sản phẩm ............................................................ 45
2.2. Sự biến đổi trong nền kinh tế truyền thống của người Dao Đỏ
theo hướng kinh tế hàng hóa ....................................................................... 47
2.3. Tiểu kết ................................................................................................... 49
Chương 3: CÁC HOẠT ĐỘNG KINH TẾ HÀNG HÓA CỦA NGƯỜI
DAO ĐỎ ............................................................................................................ 51
3.1. Kinh tế hàng hóa ở khu vực miền núi vùng đồng bào dân tộc
thiểu số ........................................................................................................... 51
3.2. Các hoạt động sản xuất hàng hóa......................................................... 55
3.2.1. Sản xuất hàng hóa nông phẩm .......................................................... 55
3.2.2. Sản xuất hàng hóa thủ công nghiệp................................................... 61
3.2.3. Hoạt động buôn bán, kinh doanh nhỏ và dịch vụ du lịch ................. 70
3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế hàng hóa của
người Dao Đỏ ................................................................................................. 80
3.4. Tiểu kết ................................................................................................... 83
Chương 4: HỆ QUẢ VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUÁ
TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀNG HÓA Ở NGƯỜI DAO ĐỎ ....... 84
4.1. Hệ quả của các hoạt động kinh tế hàng hóa đối với người Dao Đỏ .. 84
4.1.1. Thay đổi tư duy kinh tế ..................................................................... 84
4.1.2. Nâng cao đời sống kinh tế - xã hội ................................................... 86
4.1.3. Đẩy mạnh sự giao lưu, tiếp xúc văn hóa ........................................... 88
4.2. Các vấn đề khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa
ở miền núi ...................................................................................................... 90
4.3. Các vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa ở
người Dao Đỏ ................................................................................................. 92
4.3.1. Nguồn nhân lực, vốn đầu tư và thị trường tiêu thụ ........................... 92
4.3.2. Sự phân hóa xã hội và công tác xóa đói giảm nghèo ........................ 95
4.3.3. Bảo tồn văn hóa dân tộc và phát triển kinh tế - xã hội...................... 97
4.3.4. Sự di dân và biến động dân số .......................................................... 98
4.3.5. Phát triển kinh tế thị trường và hạn chế các mặt trái của nó ............. 99
4.4. Tiểu kết .............................................................................................. 100
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 106
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 116
DẪN LUẬN
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đảng và
nhân dân ta đã thu được những thành tựu to lớn về mọi mặt: “Đất nước đã
thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn
diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy
mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt” [19, Tr. 67]. Nhìn chung,
tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị đều có những bước
tiến dài so với các thời kỳ trước. Đất nước ngày càng phát triển nhanh, vị
thế trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, đời sống người dân được
nâng cao lên nhiều.
Nhưng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng đã bộc lộ
nhiều hạn chế. Một trong những hạn chế lớn là sự phát triển không đồng bộ
giữa các khu vực, các vùng lãnh thổ, mà cơ bản và quan trọng là sự chênh
lệch về trình độ phát triển giữa khu vực đồng bằng và khu vực miền núi.
Trong khi khu vực đồng bằng với các dải đô thị rộng lớn đã qua quá trình
đô thị hóa, với tốc độ phát triển nhanh chóng, hiện đại và ngày càng sầm
uất, thì khu vực miền núi dù có những bước phát triển nhanh nhưng không
thể theo kịp được tốc độ phát triển của vùng đồng bằng. Sự chênh lệch này
ngày càng gia tăng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Điều này gây ra nhiều khó khăn cho việc thực hiện các đường lối, chính
sách phát triển đất nước.
Miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, là địa bàn quan trọng
mang tính chiến lược của đất nước. Sau khi đất nước thống nhất, để hạn
chế sự phát triển chênh lệch giữa đồng bằng và miền núi, cũng như để củng
cố nền an ninh quốc phòng, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chủ trương,
chính sách ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Vấn đề này càng
1
được đẩy mạnh từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986). Các chính sách của
Đảng và Nhà nước trong nhiều năm qua đã có những tác động toàn diện và
sâu sắc tới đời sống của các dân tộc thiểu số. Nền kinh tế - xã hội và văn
hóa đã và đang có những bước dịch chuyển đột phá với nhiều yếu tố mới
xuất hiện. Các bước chuyển dịch này làm cho bức tranh dân tộc sáng sủa
hơn nhưng cũng thêm phần đa dạng và phức tạp.
Công cuộc đổi mới đang đưa nước ta phát triển nhanh chóng. Không
những tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng nhanh mà cơ cấu kinh tế đang
có những chuyển đổi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thị
trường hóa. Điều này thể hiện ở chỗ cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ và
cơ cấu kinh tế theo các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh đang ngày càng hoàn
thiện dần. Các vùng lãnh thổ phát huy được các lợi thế vốn có của mình
trong phát triển kinh tế - xã hội. Tỷ trọng các ngành nông nghiệp và lâm
nghiệp đang giảm, tỷ trọng các ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ
đang tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là tỷ trọng của các ngành dịch vụ.
Nhưng trong sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế của đất nước cũng đặt ra nhiều
vấn đề cần giải quyết. Trong khi cơ cấu kinh tế ở khu vực đồng bằng đang
trong quá trình hoàn thiện dần thì ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số lại mới bắt đầu bước vào quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Các điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội hai khu vực này khác nhau nên không thể áp
dụng các chính sách, biện pháp ở vùng đồng bằng lên vùng miền núi. Nó
đòi hỏi phải có những nghiên cứu khoa học nghiêm túc để hiểu rõ quá trình
chuyển đổi kinh tế, xã hội, văn hóa của các cộng đồng cụ thể.
Trong quá trình phát triển, vùng miền núi xuất hiện nhiều địa điểm
có điều kiện thuận lợi về mặt tự nhiên, kinh tế - xã hội và nhanh chóng
được đầu tư phát triển thành các đô thị vừa và nhỏ. Một không gian đô thị
miền núi đã, đang hình thành và ngày càng mở ra theo chiều rộng, phát
triển theo chiều sâu. Thực chất đây là biểu hiện của quá trình đô thị hóa ở
miền núi. Nhìn chung, quá trình đô thị hóa miền núi đã tác động mạnh mẽ
2
và sâu sắc tới đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số. Một trong những hệ
quả của nó là tạo điều kiện cho sự phát triển nền kinh tế hàng hóa ở miền
núi. Kinh tế hàng hóa xâm nhập vào đời sống kinh tế - xã hội và có xu
hướng phá vỡ nền kinh tế tự cung, tự cấp của đồng bào dân tộc thiểu số.
Kinh tế hàng hóa hình thành và phát triển làm cho đời sống của đồng bào
thay đổi nhanh chóng và toàn diện. Sự thay đổi diễn ra trên nhiều phương
diện từ kinh tế - xã hội đến văn hóa; từ suy nghĩ đến hành động; từ tư duy
kinh tế đến hoạt động kinh tế. Kinh tế hàng hóa đã tạo điều kiện cho đồng
bào phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống, tiếp cận nhanh hơn với
cuộc sống hiện đại. Nhưng đứng trước một nền sản xuất có tính chất, đặc
điểm hoàn toàn mới mẻ, các cá nhân và cộng đồng đã có những ứng xử
khác nhau tùy thuộc vào nhiều yếu tố tác động. Điều này đặt ra nhiều vấn
đề cấp thiết trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn và phát triển nền văn
hóa truyền thống các dân tộc, xóa đói giảm nghèo và hạn chế bất bình bẳng
trong xã hội. Vậy nên nghiên cứu quá trình chuyển đổi kinh tế và sự phát
triển của kinh tế hàng hóa ở các dân tộc thiểu số có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn.
Trước những yêu cầu đòi hỏi phải có những nhận thức đúng đắn về
quá trình chuyển đổi kinh tế - xã hội miền núi, đặc biệt là tìm hiểu về sự
phát triển của kinh tế hàng hóa ở các dân tộc thiểu số, tôi quyết định lựa
chọn đề tài nghiên cứu “Hoạt động kinh tế hàng hóa của người Dao Đỏ
trong quá trình đô thị hóa miền núi (Trường hợp ở thôn Sả Xéng, xã
Tả Phìn, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai)” làm luận văn Thạc sĩ Dân tộc học.
Lào Cai nói chung và Sa Pa nói riêng đang là khu vực điển hình cho
quá trình đô thị hóa vùng miền núi. Trong vài thập niên qua, đô thị hóa ở
Sa Pa đã phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu, nền kinh tế
hàng hóa phát triển mạnh hơn so với các vùng miền núi khác. Người Dao
Đỏ là một bộ phận quan trọng và có phần nhạy bén với kinh tế hàng hóa ở
Sa Pa. Họ cũng là một chủ thể quan trọng của nền kinh tế truyền thống ở
3
đây và họ đang góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội,
nhất là những hoạt động kinh tế hàng hóa trên địa bàn huyện. Đây cũng là
vấn đề tôi đã nghiên cứu và sưu tầm tư liệu từ ngày còn là sinh viên đại
học. Năm 2008 tôi đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp đại học liên quan
đến vấn đề này. Trong 7 năm qua, tôi vẫn tiếp tục tìm hiểu, bổ sung tư liệu
và nghiên cứu thực địa. Vậy nên lựa chọn đề tài này là một việc đi sâu hơn
nghiên cứu một vấn đề mà tôi đã có nhiều năm theo đuổi.
2. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề
Xuất phát từ một vấn đề lý luận rất lớn: các dân tộc ở các trình độ
phát triển khác nhau đã tiếp cận nền kinh tế hàng hóa như thế nào? tôi
muốn tìm hiểu về kinh tế hàng hóa của người Dao như là một ví dụ để tiếp
cận vấn đề lớn đó. Muốn vậy, phải hiểu rõ về lịch sử, văn hóa và quá trình
tộc người của nhóm Dao Đỏ ở Sả Xéng mà tôi lựa chọn làm đối tượng
nghiên cứu.
Với những tài liệu hiện có còn nhiều hạn chế, tôi mong muốn trình
bày các hoạt động kinh tế hàng hóa chính của người Dao Đỏ ở địa bàn
nghiên cứu từ sản xuất hàng hóa, trao đổi, buôn bán và kinh doanh các dịch
vụ nhỏ. Hy vọng với những trình bày này có thể lột tả được về quá trình
chuyển đổi kinh tế của người Dao Đỏ ở địa bàn nghiên cứu.
Nghiên cứu này cũng đặt mục tiêu phân tích và lý giải một số thay
đổi trong đời sống của người Dao ở Sả Xéng để xem xét sự tác động của
kinh tế hàng hóa đến một cộng đồng dân tộc. Ở đây muốn nhấn mạnh sự
thay đổi về văn hóa, bắt đầu từ thay đổi về con người, về suy nghĩ và hành
động của họ khi tham gia vào các hoạt động kinh tế hàng hóa. Nó là một ví
dụ về mối quan hệ giữa thị trường với văn hóa dân tộc. Mục đích chung
của cả quá trình thực hiện đề tài nhằm đưa ra một số ý kiến để bổ sung vào
những nhận thức trong sự chuyển đổi kinh tế của người Dao Đỏ ở địa bàn
4
nghiên cứu, hy vọng sẽ gợi mở được những ý kiến hợp lý hơn của người
quan tâm.
Về mặt lý luận, việc tìm hiểu về kinh tế hàng hóa của người Dao Đỏ
để tìm thêm một lời giải đáp về việc các dân tộc thiểu ở các trình độ phát
triển khác nhau đã tiếp cận kinh tế thị trường như thế nào? Khi tiếp cận nền
kinh tế hàng hóa, họ lựa chọn cho mình sự an toàn hay lấy mục đích lợi
nhuận/lợi ích kinh tế làm đầu. Họ phát triển kinh tế theo các quy luật phát
triển kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, mà sự hình thành phát triển của nền
kinh tế hàng hóa là một mốc quan trọng cho quá trình phát triển đó. Tuy
nhiên, trong quá trình phát triển, do có các đặc thù riêng về điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội và văn hóa mà xuất hiện nhiều biểu hiện đặc trưng
khác nhau giữa các cộng đồng, các dân tộc.
Về mặt thực tiễn, đề tài tập trung phân tích sự phát triển của kinh tế
hàng hóa của người Dao Đỏ ở xã Tả Phìn dưới góc độ nhân học kinh tế.
Những phân tích như vậy có ý nghĩa cho việc xác định xu hướng phát triển
kinh tế - xã hội của đồng bào dân tộc. Nó cũng tạo điều kiện để giảm thiểu
các tác động tiêu cực của kinh tế hàng hóa đối với đồng bào dân tộc thiểu
số và giúp họ ổn định phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống của
mình.
Một đóng góp nhỏ nữa mà chúng tôi hướng đến là cung cấp thêm
những nguồn tài liệu thu thập được trong quá trình thực hiện đề tài, bao
gồm cả những tài liệu thành văn sưu tầm được và tài liệu tạo ra trong quá
trình nghiên cứu điền dã sẽ giúp ích cho những người quan tâm tìm hiểu
thêm về vấn đề này. Góp phần tạo thêm tư liệu cho các nghiên cứu về sự
hình thành thị trường ở miền núi và tác động của nó đến đời sống văn hóa
các dân tộc thiểu số.
5
3. Câu hỏi nghiên cứu và quá trình thực hiện
3.1. Câu hỏi nghiên cứu
Hiện nay, dưới tác động của quá trình đô thị hóa ở miền núi, kinh tế xã hội của người Dao Đỏ ở Tả Phìn đang diễn ra sự biến đổi mang tính chất
bước ngoặt từ nền kinh tế truyền thống tự cung, tự cấp, khép kín sang nền
kinh tế hàng hóa có yếu tố thị trường chi phối. Vậy, quá trình chuyển đổi
này diễn ra như thế nào?
Hoạt động kinh tế hàng hóa của người Dao Đỏ ở Tả Phìn diễn ra trên
các phương diện: sản xuất hàng hóa, trao đổi và buôn bán hàng hóa, kinh
doanh các dịch vụ nhỏ và dịch vụ du lịch. Giả thiết này đặt ra các câu hỏi:
Hoạt động kinh tế hàng hóa ở đây diễn ra như thế nào? Mức độ và tính
chất của nó ra sao? Những yếu tố nào tác động tới các hoạt động kinh tế
hàng hóa của người Dao Đỏ?
Hoạt động kinh tế hàng hóa của người Dao Đỏ đã tác động toàn diện
và sâu sắc đến đời sống của họ, tạo điều kiện để đồng bào phát triển kinh tế
- xã hội và nâng cao đời sống con người, nhưng nó cũng làm phát sinh
nhiều vấn đề bất cập cần phải giải quyết đúng đắn và hợp lý. Vậy, đó là
những hệ quả và vấn đề gì?
3.2. Quá trình thực hiện nghiên cứu và một số thuận lợi, khó khăn đã
gặp phải
Từ đầu năm 2008, trong quá trình lựa chọn đề tài để làm khóa luận
tốt nghiệp đại học, tôi đã thể hiện mối quan tâm đến sự hình thành thị
trường ở miền núi và tác động của nó đến đời sống kinh tế, văn hóa tộc
người. Tôi lựa chọn người Dao Đỏ làm đối tượng tìm hiểu và chọn thôn Sả
Xéng, xã Tả Phìn, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai làm địa bàn nghiên cứu.
Trong thời gian hơn một tháng ở địa bàn để thu thập tài liệu, tôi đã quan sát
được nhiều vấn đề quan trọng. Cùng với các tài liệu thứ cấp, tôi đã hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp về hoạt động kinh tế hàng hóa của người Dao
Đỏ ở Sả Xéng. Từ giữa năm 2009, khi tôi về làm cộng tác viên cho Sở Văn
6
hóa, thể thao và du lịch Lào Cai, tôi có nhiều điều kiện để sưu tầm tài liệu
thực địa và theo dõi sự biến đổi kinh tế, văn hóa của người Dao ở địa bàn
nghiên cứu. Lúc đó, đã xác định sẽ tiếp tục tìm hiểu vấn đề này để hiểu sâu
hơn và làm luận văn, luận án cho quá trình học tập sau này. Từ đó đến nay,
gần như mỗi năm, ở các thời gian khác nhau, tôi đều cố gắng để đi thực địa
được ít nhất một lần. Trải qua một thời gian khá dài theo dõi quá trình
chuyển đổi kinh tế của người Dao Đỏ ở Sả Xéng đã cho tôi nhiều suy nghĩ
thú vị. Nhiều vấn đề, khi mới tiếp xúc ban đầu tôi đã trình bày một cách
đơn giản. Nhưng sau nhiều năm quan sát, tôi suy nghĩ lại và thấy những
nhận thức lúc đầu của mình đã không còn phù hợp với sự biến đổi này và
không thể diễn giải đúng với hiện thực thay đổi đó. Tháng 5-2013 và tháng
8-2014, với hai lần đi thực địa dài ngày để lấy tài liệu và kiểm chứng một
số vấn đề cần thiết cho viết luận văn này. Đầu năm 2015, trước khi hoàn
thành bản luận văn, một lần nữa tôi quay lại địa bàn nhằm nghiên cứu, trao
đổi thêm với một số người, củng cố lại một số tài liệu mà trước đó cơ sở
khoa học chưa hoàn toàn chắc chắn. Có lẽ, những nhận thức hiện tại cần
tiếp tục theo dõi và bổ sung thêm tài liệu, dẫn chứng khác để hiểu sâu hơn
vấn đề quan trọng này.
Thuận lợi nhất của tôi khi thực hiện đề tài là quá trình được theo dõi
và sưu tầm tài liệu trong nhiều năm. Sau nhiều chuyến về địa bàn nghiên
cứu điền dã, đã tạo được mối quan hệ khá thân thiết với nhân dân địa
phương cũng như cán bộ quản lý các cấp. Điều này tạo điều kiện để tôi dễ
dàng tiếp cận đối tượng và dễ nhận được sự chia sẻ từ chính các chủ thể
vấn đề ở đây.
Trong nhiều năm qua, sự chuyển đổi kinh tế miền núi ở Tây Bắc
cũng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu
công phu đã được công bố. Đó là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng để
tôi tìm hiểu và lựa chọn hướng nghiên cứu của mình. Địa bàn nghiên cứu
có trình độ phát triển khá cao so với các vùng núi khác nên cơ sở hạ tầng,
7
giao thông đi lại cũng dễ dàng hơn, người dân giao tiếp tốt hơn cũng là một
thuận lợi đáng kể trong quá trình nghiên cứu. Bên cạnh đó là các trang thiết
bị hiện đại như máy ảnh, máy quay phim, máy ghi âm... tạo điều kiện để tôi
ghi lại và có thể tham khảo nhiều lần đối với các vấn đề quan trọng.
Khó khăn cơ bản trong quá trình thực hiện nghiên cứu là do khoảng
cách giữa địa bàn nghiên cứu và Hà Nội khá xa nên quá trình đi lại sưu tầm
tư liệu và nghiên cứu thực địa gặp nhiều khó khăn, tốn kém, Sa Pa lại là địa
điểm du lịch, người dân địa phương đã quen với các dịch vụ du lịch,họkinh
doanh nhiều mặt hàng và tính tiền các dịch vụ đối với người nghiên cứu
giống như du khách nên người nghiên cứu gặp không ít khó khăn về kinh
tế.
4. Bố cục của luận văn
Ngoài phần dẫn luận và phần kết luận thì luận văn được chia làm 4
chương gồm:
Chương 1: Tổng quan về đối tượng nghiên cứu, lịch sử nghiên
cứu vấn đề và các tiền đề lý thuyết
Chương 2: Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế truyền thống
sang nền kinh tế hàng hóa của người Dao Đỏ
Chương 3: Các hoạt động kinh tế hàng hóa của người Dao Đỏ ở
thôn Sả Xéng, xã Tả Phìn, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai
Chương 4: Hệ quả và các vấn đề đặt ra trong quá trình phát
triển kinh tế hàng hóa ở người Dao Đỏ
Phần cuối trong luận văn gồm các phụ lục có liên quan đến đề tài
nghiên cứu, bao gồm: các bản đồ, tranh ảnh và một số tài liệu khác.
8
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU, LỊCH SỬ
NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ VÀ CÁC TIẾN ĐỀ LÝ THUYẾT
1.1. Tổng quan về địa bàn và đối tượng nghiên cứu
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và quá trình đô thị hóa ở Sa Pa
1.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Sa Pa là một huyện vùng cao nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Lào Cai,
thuộc vùng núi Tây Bắc của Việt Nam. Từ thành phố Lào Cai, theo đường
Quốc lộ 4D đi lên khoảng gần 40km là đến thị trấn Sa Pa - trung tâm của
huyện Sa Pa. Từ lâu nay, Sa Pa nổi tiếng là một điểm du lịch hấp dẫn với
thắng cảnh thiên nhiên thơ mộng, huyền ảo và bản sắc văn hóa tộc người
độc đáo. Chính những nét đẹp này đã thu hút một lượng khách du lịch lớn
trong và ngoài nước đến Sa Pa hàng năm, nó tạo cho địa phương một
nguồn thu nhập khá lớn từ du lịch và nhiều cơ hội để phát triển kinh tế.
Về địa - hành chính: Sa Pa thuộc vùng núi triền Đông của dãy Hoàng
Liên Sơn với toạ độ địa lí khoảng 22o20’ vĩ độ Bắc và 103o52’ kinh độ
Đông. Giới hạn hành chính của huyện Sa Pa như sau: phía Bắc giáp huyện
Bát Xát, phía Nam giáp huyện Văn Bàn, phía Đông giáp huyện Bảo Thắng
và thị xã Cam Đường, phía Tây giáp huyện Than Uyên và huyện Phong
Thổ (Lai Châu). Sa Pa có vị trí địa lý thuận lợi cho hoạt động giao lưu với
các khu vực xung quanh, là nơi tiếp xúc của nhiều luồng di cư trong lịch
sử. Điều đó tạo cho địa phương những đặc thù về cảnh quan và văn hóa.1
Địa hình Sa Pa chủ yếu là các đồi núi và các thung lũng nhỏ hẹp. Có
nhiều núi cao thuộc dãy Hoàng Liên Sơn, trong đó có đỉnh Phan Xi Păng
(cao 3.143m) được coi là nóc nhà của Đông Dương. Các dãy núi liên kết
tạo nên địa hình đồi núi cắt xẻ và các thung lũng nhỏ hẹp đặc trưng cho
điều kiện tự nhiên của vùng. Đồi núi trùng điệp, bao quanh các thung lũng
1
Xem thêm các tập bản đồ hành chính Lào Cai, Xem cuốn Lịch sử đảng bộ Sa Pa, tập I của Đảng bộ
huyện Sa Pa (1995). Nxb. CTQG, Hà Nội.
9
bị cắt xẻ mạnh đã cản trở hoạt động giao thông và nhiều điều kiện phát
triển khác của địa phương. Nhưng bù lại, với đặc điểm địa hình đặc trưng
đã tạo ra cảnh quan hùng vĩ của Sa Pa. Ở các sườn đồi thấp nhiều đất
Feralit vàng đỏ, đất đá Branit và đất mùn Alít… rất thích hợp để trồng các
cây công nghiệp, cây ăn quả và các loài cây dược liệu khác. Ở các thung
lũng chủ yếu là đất thịt trung tính, ít chua, lượng mùn tuy thấp, độ dinh
dưỡng không cao nhưng có thể trồng được các vựa lúa để nuôi sống đồng
bào các dân tộc trong huyện. Các thung lũng thường là nơi tập trung khá
đông các dân tộc thiểu số.
Về khí hậu: Sa Pa nằm trong vành đai khí hậu cận nhiệt đới, á ôn đới
của Bắc bán cầu, có mùa hè mát mẻ với nhiệt độ không quá 20 oC, mùa
đông và xuân thì lạnh giá, nhiều khi nhiệt độ xuống dưới 0 oC nên có hiện
tượng tuyết rơi. Đó là một điều diệu kỳ ở vùng khí hậu cận nhiệt đới như
nước ta. Độ cao trung bình của Sa Pa so với mặt nước biển là khoảng
1.700m, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 15-16oC, lượng mưa trung bình
năm khoảng 2.860mm, độ ẩm trung bình khoảng 88%. Khí hậu Sa Pa phân
hóa và thay đổi thường xuyên. Trong một ngày ta cũng có thể cảm nhận
được khí hậu của các mùa khác nhau. Đặc biệt, ở Sa Pa rất nhiều sương
mù, số ngày có sương mù trung bình trong năm lên đến gần 140 ngày 2.
Điều này tạo cho Sa Pa một không khí huyền ảo làm say lòng nhiều khách
du lịch. Khí hậu Sa Pa thích hợp để trồng nhiều cây công nghiệp, cây ăn
quả (đào, mận, nho…) cây dược liệu và các cây nông nghiệp quan trọng
như lúa, ngô, rau… Nó cho phép phát triển một nền nông nghiệp với cơ
cấu cây trồng đa dạng.
2
Các số liệu về khí hậu Sa Pa xin xem thêm Trần Thị Huệ (2004): Tác động của du lịch đối với đời sống
một số dân tộc ở huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. LV-TS Dân tộc học, Khoa Lịch Sử, ĐH KHXH&NV Hà
Nội.
10
1.1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội và cơ cấu dân tộc ở Sa Pa
Cơ cấu kinh tế chủ yếu của Sa Pa là nông - lâm nghiệp, dịch vụ du
lịch, thương mại, công nghiệp. Nền nông nghiệp truyền thống khép kín, tự
cấp tự túc và mang tính đặc trưng của các dân tộc. Nông nghiệp cũng là
ngành kinh tế chính của đồng bào các dân tộc trên địa bàn. Dịch vụ du lịch
và thương mại phát triển tương đối mạnh, nhất là trong vài thập niên qua,
trở thành nguồn thu quan trọng và ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong cơ
cấu kinh tế. Công nghiệp trên địa bàn phát triển chậm, chủ yếu là công
nghiệp xây dựng cơ bản, tỷ trọng công nghiệp đang ngày càng thu hẹp lại
cùng nông - lâm nghiệp. Nhưng trong tương lai, một số ngành công nghiệp
nhẹ và công nghiệp chế biến sẽ được chú trọng phát triển để đáp ứng nhu
cầu của nhân dân.
Về cơ cấu dân tộc: Huyện Sa Pa là địa bàn có nhiều dân tộc cùng
sinh sống. Theo các vết tích lịch sử thì từ hàng nghìn năm trước đã có
người sinh sống ở nơi đây (những dấu vết ở bãi đá cổ chứng minh điều này,
dù rằng đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa đọc được ý nghĩa của các ký
hiệu trên bãi đá cổ). Hiện nay, trên địa bàn Sa Pa có 6 dân tộc cùng sinh
sống. Trong đó, người Hmông, Dao và Kinh là chủ yếu, còn các dân tộc
như Giáy, Tày, Xá Phó thì số lượng ít hơn. Các dân tộc hiện nay chủ yếu
sống định canh định cư, tình trạng du canh du cư gần như được giải quyết.
Đời sống của đồng bào tương đối ổn định và ngày càng được nâng cao.
Bảng 1.1. Cơ cấu dân tộc ở huyện Sa Pa năm 2014
Dân tộc
Dân
Tổng
Hmông
Dao
Kinh
Tày
Giáy
Xá Phó
tộc
khác
Dân số
(người)
Tỷ lệ
(%)
61.324 31.297
100,0
51,0
15.326 11.175 1.752
25,0
18,2
2,9
981
712
81
1,6
1,2
0,01
Nguồn: Số liệu thống kê của Ủy ban nhân dân huyện Sa Pa cuối năm 2014
11
Với cơ cấu dân tộc đa dạng đã tạo cho Sa Pa một một bức tranh văn
hóa phong phú, đây là điều kiện thuận lợi nếu biết cách khai thác hợp lý về
phương diện du lịch văn hóa tộc người. Mặt khác, sự đa dạng tộc người
cũng làm cho tình hình xã hội thêm phần phức tạp, dễ xảy ra xung đột tộc
người và khó khăn trong việc quản lý.
Nói chung, tình hình kinh tế - xã hội huyện Sa Pa có nhiều điều kiện
thuận lợi để khai thác trong quá trình phát triển kinh tế. Sự ổn định về xã
hội là một yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội nói chung và du
lịch nói riêng. Tuy rằng đa dạng tộc người là một thuận lợi trong phát triển,
nhưng cũng cần nhận thức được sự phức tạp của tình hình, phải có hiểu biết
về văn hóa của các dân tộc để giải quyết các vấn đề phát sinh.
1.1.2. Quá trình đô thị hóa ở Sa Pa
1.1.2.1. Đô thị hóa miền núi
Đô thị hóa (Urbanization) là một quy luật phổ biến trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Đặc điểm và tốc độ của quá trình đô thị hóa ở mỗi quốc gia và vùng lãnh
thổ khác nhau, tùy thuộc vào các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và văn
hóa. Và những nhận thức về quá trình đô thị hóa cũng không giống nhau.
Vậy, quá trình đô thị hóa là gì?
Các nhà xã hội học xem quá trình đô thị hóa là một khái niệm được
dùng với ba nghĩa khác nhau: 1). Chỉ sự tăng trưởng nhanh chóng và quá
mức trung bình số những người sống ở đô thị so với toàn bộ dân cư của
một nước hay một lục địa. 2). Chỉ sự tăng trưởng về dân cư và/hoặc diện
tích của các thành phố. 3). Chỉ sự mở rộng văn hóa và lối sống đô thị. [30,
Tr. 151-152].
Từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Đô thị hóa là quá trình
biến đổi và phân bố các lực lượng sản xuất, bố trí dân cư, những vùng
không phải đô thị thành đô thị. Tiền đề cơ bản của đô thị hóa là sự phát
12
triển của công nghiệp, thương mại, dịch vụ… thu hút nhiều nhân lực từ
nông thôn đến sinh sống, làm việc, làm cho tỷ trọng dân cư ở các đô thị
tăng nhanh”. [83, Tr. 836-837]. Định nghĩa này có vẻ hợp lý với trường
hợp Việt Nam hơn. Nhưng vẫn chưa đầy đủ vì như ngoài sức hút và sự phát
triển của đô thị (mà định nghĩa đã nêu) thì sự lan toả, mở rộng của lối sống
đô thị, văn hóa đô thị tới các vùng không phải đô thị có phải là đô thị hóa
không? Để hiểu rõ vấn đề này ta xem xét hai khái niệm quan trọng khác là
đô thị hóa nông thôn và đô thị hóa ngoại vi:
Đô thị hóa nông thôn “là quá trình phát triển nông thôn và phổ biến
lối sống thành thị cho nông thôn, như xây dựng nhà ở, tạo các tiện nghi
sinh hoạt, lập các hệ thống dịch vụ công cộng, tạo các ngành nghề mới, kể
cả công nghiệp, tổ chức các sinh hoạt văn hóa, giáo dục” [83, Tr. 837].
Đô thị hóa ngoại vi “là quá trình phát triển mạnh vùng ngoại vi của
các thành phố lớn do kết quả của sự phát triển công nghiệp, cơ sở hạ tầng
sản xuất và đời sống, hệ thống nhà ở, công trình công cộng, dịch vụ. Quá
trình đô thị hóa ngoại vi các thành phố lớn sẽ hình thành những vùng đô thị
rộng lớn, tạo ra các cụm đô thị, các liên đô thị. Đô thị hóa ngoại vi góp
phần thúc đẩy nhanh đô thị hóa nông thôn và phổ biến lối sống thành thị”
[83, Tr. 837].
Như vậy, ta có thể hiểu đô thị hóa là một quá trình chuyển đổi mà:
Về kinh tế: Kinh tế tự cung, tự cấp truyền thống bị phá vỡ, nền kinh
tế thị trường phát triển ngày càng nhanh chóng, cơ cấu kinh tế thay đổi theo
hướng tỷ trọng nông nghệp giảm xuống và tỷ trọng các ngành phi nông
nghiệp tăng lên. Năng suất lao động tăng nhanh.
Về xã hội: Xã hội nông thôn truyền thống bị biến đổi, các yếu tố đô
thị xâm nhập và phát triển, số nông dân thuần nông nghiệp ngày càng giảm,
số công nhân, viên chức ngày càng tăng.
Về văn hóa: Lối sống nông thôn, văn minh nông nghiệp ngày càng
thu hẹp lại cùng với sự bành trướng của lối sống đô thị, văn hóa thành thị
13
và văn minh công nghiệp (hay sau đó là văn minh trí tuệ) ngày càng sâu
rộng. Nó làm cho nhiều giá trị văn hóa truyền thống bị thay đổi.
Đô thị hóa miền núi là một trường hợp đặc biệt của đô thị hóa nông
thôn. Do vậy, ta có thể hiểu đô thị hóa miền núi là quá trình đô thị hóa với
đầy đủ các nội dung của nó và diễn ra trong bối cảnh kinh tế - xã hội của
vùng miền núi. Trong điều kiện nước ta, đô thị hóa miền núi diễn ra đa
dạng và mang tính đặc trưng của từng khu vực. Nếu đô thị hóa ở đồng bằng
đi cùng với sự công nghiệp hóa nhanh chóng và sự tham gia của người
Kinh là chủ yếu, thì đô thị hóa miền núi, công nghiệp tham gia không phải
với vai trò chủ đạo mà vai trò đó lại thuộc về thương mại và dịch vụ, tham
gia quá trình đô thị hóa miền núi bao gồm nhiều tộc người, trong đó có
nhiều dân tộc thiểu số bên cạnh người Kinh.
Đô thị hóa miền núi xuất hiện trong quá trình đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội vùng miền núi. Đặc điểm của nó là sự tham gia của nhiều
dân tộc cả đa số lẫn thiểu số, với sự phát triển của nhiều ngành nghề mà
quan trọng là vai trò của thương mại và dịch vụ, công nghiệp và có phần
của nông nghiệp. Ở Việt Nam, quá trình đô thị hóa miền núi chỉ đang ở giai
đoạn đầu và xu hướng sẽ mở rộng và phát triển nhanh trong tương lai.
1.1.2.2. Đô thị hóa ở Sa Pa
Lịch sử phát triển của đô thị Sa Pa: Theo Nguyễn Văn Vãn (2005)
thì Sa Pa là một thị trấn nhỏ có lịch sử phát triển hơn trăm năm nay. Chính
các nhà địa lí Pháp đã đặt chân lên cùng này vào cuối thế kỷ XIX và phát
hiện ra vẻ đẹp tự nhiên huyền ảo và khí hậu mát mẻ của Sa Pa. Sau khi
chiếm được Lào Cai (1886), Thực dân Pháp gấp rút tiến hành đánh chiếm
khu vực Sa Pa, lúc đó có tên là Hồng Hồ (suối nước đỏ). Đầu năm 1887,
người Pháp đặt chân lên Sa Pa và quyết định lấy vùng Hồng Hồ làm trung
tâm lập châu Sa Pa, mở chiến dịch dồn dân vùng Hồng Hồ (chủ yếu là
người Hmông) xuống chân núi Hoàng Liên lập nên làng Sín Chải (trong
tiếng Hmông, “sín chải” có nghĩa là “làng mới”), chuyển chợ từ Sa Pả ở
14
phía Đông Hồng Hồ lên vùng trung tâm và giữ nguyên tên gọi Sa Pả (mà
tiếng Pháp đọc là Chapa (hay Sa Pa) và sau đó vùng Hồng Hồ gọi là Sa Pa
cho đến ngày nay. Từ đó Pháp bắt đầu xây dựng các cơ sở hạ tầng từ các
đường giao thông đến công trình kiến trúc tôn giáo như nhà thờ, thánh
đường và các nhà nghỉ, khách sạn phục vụ cho khách nghỉ dưỡng3. Thời
Pháp, khu du lịch nghỉ dưỡng Sa Pa gồm hai khu vực phân tách rõ ràng là
khu dân sự và khu quân sự. Khu dân sự do các nhà đầu tư xây dựng và
quản lý. Họ hầu hết là các nhà tư sản người Pháp, bỏ tiền xây dựng nhà
nghỉ, khách sạn và các dịch vụ khác để cho khách du lịch thuê. Khách du
lịch chủ yếu là tầng lớp thượng lưu trong xã hội lúc đó. Còn khu quân sự
do quân đội Pháp quản lý. Họ xây dựng để cho các sỹ quan cao cấp lên đây
nghỉ dưỡng trong thời gian nghỉ phép định kỳ. Trong khu quân sự có quân
khố đỏ phục vụ kiêm bảo vệ. Vào thời đó, Sa Pa đã thành một thị trấn khá
sầm uất với hàng trăm nhà nghỉ, khách sạn của Pháp xây dựng 4 (có một số
nhà đầu tư là người Việt tham gia kinh doanh).
Sau khi giải phóng miền Bắc (1954), thị trấn Sa Pa lại tiếp tục bước
vào giai đoạn phát triển mới. Người Kinh từ dưới xuôi bắt đầu di dân lên
xây dựng và phát triển kinh tế ở đây. Nhưng thời gian này, do tập trung
toàn bộ sức lực của cả nước vào chiến tranh giải phóng miền Nam nên việc
xây dựng các công trình cũng bị hạn chế. Sau khi đất nước thống nhất
(1975) thì khu vực miền núi cũng được quan tâm đầu tư. Đặc biệt, trong
gần ba thập niên qua, với sự phát triển nhanh chóng của ngành du lịch và
sự mở rộng của quá trình đô thị hóa, hàng trăm nhà nghỉ, khách sạn và nhà
hàng mọc lên; đường sá được xây dựng và sửa sang, không chỉ các tuyến
3
Trong cuốn Một số vấn đề về lịch sử - văn hóa Lào Cai. Nxb Chính trị Quốc Gia Hà Nội - 2005, Tác giả
Nguyễn Văn Vãn đã nói về việc xây dựng Sa Pa của người Pháp qua các công trình xây dưng như: Năm
1909 đến 1912 đã xây dựng tuyến đường Sa Pa đi Lào Cai, năm 1924 mở rộng đường xe ô tô từ Lào Cai
lên Sa Pa, năm 1925 xây dựng xong thủy điện Cát Cát công suất 100kw. Năm 1930 xây dựng cao trạm Sa
Pa, rải nhựa đường nội thị và đường ô tô Lào Cai - Sa Pa, xây dựng hệ thống dẫn nước sinh hoạt.
4
Theo Lịch sử Đảng bộ Lào Cai. Tập I, II. Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội – 1994, thì đến năm 1943, ở
Sa Pa có hơn 200 biệt thự do Pháp xây dựng để phục vụ cho việc nghỉ dưỡng.
15
đường chính, đường nội thị mà cả các tuyến đường đi sang các làng bản
của các dân tộc ở xung quanh có cảnh đẹp và văn hóa độc đáo để phục vụ
khách du lịch đi tham quan cảnh quan thiên nhiên và du lịch văn hóa tộc
người. Các tuyến đường đi San Sả Hồ, Tả Van, Bản Hồ, Tả Phìn… và các
khách sạn lớn như khách sạn Công Đoàn, khách sạn Victoria, khách sạn
Châu Long… được xây dựng để phục vụ khách du lịch. Cùng với đó, dân
số ở thị trấn cũng không ngừng tăng lên. Mặc dù tỷ lệ dân số thành thị so
với nông thôn vẫn còn thấp (ở mức 14-15%).
Bảng 1.2: Cơ cấu dân cư thành thị - nông thôn huyện Sa Pa giai đoạn
2010-2014
Năm
Đơn vị
2010
2011
2012
2013
2014
Tổng
Người
54.026
55.936
57.846
59.672
61.324
Người
8.546
8.996
9.625
10.334
10.986
Tỷ lệ
%
15,81
16,08
16,64
17,32
17,91
Người
45.480
46.940
48.221
49.338
50.338
Tỷ lệ
%
84,19
83,92
83,36
82,68
82,09
Thành
thị
Nông
thôn
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thống kê của Ủy ban nhân dân huyện Sa Pa
qua các năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014
Bên cạnh đó, vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của huyện cũng được
đầu tư rất lớn. Các khoản đầu tư này bao gồm của ngân sách huyện, ngân
sách tỉnh, Trung ương và cả đầu tư nước ngoài. Đầu tư vào phát triển du
lịch là một hướng rất được chú trọng. Cũng với sự đầu tư phát triển, lối
16
sống thành thị đang lan tỏa các vùng xung quanh thị trấn. Đô thị hóa đang
phát triển và mở rộng ở Sa Pa.
Tính chất và đặc điểm của đô thị hóa ở Sa Pa: Quá trình đô thị hóa ở
Sa Pa là một điển hình cho đô thị hóa miền núi: Đô thị hóa đi lên với tốc độ
chậm, theo chiều rộng là chủ yếu. Sự phát triển của đô thị đang ở giai đoạn
mở rộng quy mô và lối sống đô thị. Chất lượng cuộc sống trong nội thị
chưa được chú trọng nâng cao (đô thị hóa theo chiều sâu) nên cuộc sống
của thị dân ở đây vẫn còn bấp bênh. Hơn nữa, đô thị hóa ở Sa Pa không đi
cùng với quá trình công nghiệp hóa, mà chịu tác động mạnh của thương
mại và du lịch. Sự hưng khởi của du lịch và sự phát triển thương mại là
động lực cho quá trình đô thị hóa. Công nghiệp không đóng vai trò nhiều
trong đô thị hóa. Thương mại là một ngành quan trọng, nhưng nó chỉ phát
triển khi lực lượng sản xuất đạt trình độ nhất định, dựa vào sự chuyên môn
hóa và phân công lao động. Có như vậy mới phát triển ổn định. Còn du lịch
chủ yếu dựa vào tự nhiên và phụ thuộc vào điều kiện thời tiết. Đô thị hóa
dựa vào hai lĩnh vực này sẽ rất khó dự đoán chiều hướng và quy hoạch đô
thị cũng khó khăn.
1.1.3. Tác động của đô thị hóa đến người Dao ở Sa Pa
1.1.3.1. Người Dao ở Sa Pa
Người Dao ở Sa Pa với dân số 15.326 người (2014), chiếm 25% dân
số toàn huyện, là dân tộc có dân số đứng thứ hai trong huyện (sau người
Hmông). Người Dao ở Sa Pa chủ yếu thuộc ngành Dao Đỏ (Miền Xí), là
một bộ phận quan trọng của người Dao ở Việt Nam. (Tên Dao Đỏ là tên
gọi theo màu sắc y phục của người phụ nữ).
Về địa bàn cư trú: người Dao có mặt ở hầu hết huyện Sa Pa. Họ tập
trung thành các làng bản và sinh sống bên cạnh các làng bản người Hmông,
Giáy và các dân tộc khác. Do đặc điểm sống quần cư nên họ sống tập trung
ở một số xã chủ yếu. Nếu nhìn trên quy mô tổng thể từ cấp xã trở lên thì lối
17
sống xen kẽ cài răng lược giữa các dân tộc là phổ biến. Nhưng trên phương
diện cấp thôn bản thì tính đơn tộc là chủ yếu, mặc dù không phải là tất cả
(vì có một số người Kinh và dân tộc khác sống trong các thôn bản đó).
Về hoạt động kinh tế: Trong xã hội truyền thống, người Dao chủ yếu
sinh sống bằng nông nghiệp, trong đó trồng trọt và chăn nuôi là chủ yếu.
Trồng trọt gồm hai hình thức là canh tác nương rẫy và canh tác ruộng nước
(ruộng bậc thang). Trên nương trồng ngô là chủ yếu, bên cạnh còn có
khoai, rau xanh, đỗ tương và các cây thực phẩm khác. Ruộng bậc thang
trồng chủ yếu là lúa nước. Trình độ sản xuất trên ruộng bậc thang của
người Dao phát triển với năng suất tương đối cao. Chăn nuôi cũng có một
vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Người Dao chủ yếu chăn
nuôi các loài như trâu, bò, dê, ngựa, lợn, gà, vịt… Bên cạnh nông nghiệp là
các ngành thủ công nghiệp tương đối phát triển, chủ yếu hướng vào sản
xuất các đồ dùng thiết yếu cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày cũng như
phục vụ nhu cầu sản xuất. Trong đó có một số nghề quan trọng của người
Dao như dệt thổ cẩm, làm đồ bạc, đan lát… Riêng công nghiệp và thương
mại là hai ngành mới xuất hiện trong mấy năm gần đây.
Về văn hóa - xã hội: Người Dao ở Sa Pa cũng như các cộng đồng
người Dao ở các nơi khác, đến nay vẫn còn lưu giữ được nhiều yếu tố văn
hóa truyền thống của dân tộc mình. Từ trang phục đến lối sống của họ hiện
nay vẫn còn giữ được nhiều nét truyền thống. Đặc biệt, trong đời sống sinh
hoạt văn hóa, người Dao ở Sa Pa còn giữ được nhiều sinh hoạt văn hóa đặc
sắc như tục cấp sắc, tết nhảy (lễ Pút Tòng), lễ cúng tổ tiên và thờ Bàn
Vương… Hiện nay, dù các hoạt động văn hóa này có nhiều biến đổi nhưng
nó vẫn giữ được sức sống trong đời sống văn hóa. Các hoạt động văn hóa
là một yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
của người Dao ở Sa Pa trong quá trình đô thị hóa. Nhưng nó đặt ra vấn đề
là làm sao để phát triển nhanh chóng mà vẫn giữ được các bản sắc văn hóa
dân tộc.
18
1.1.3.2. Người Dao ở thôn Sả Xéng, xã Tả Phìn, huyện Sa Pa
Tả Phìn là một xã vùng cao nằm ở phía Bắc của huyện Sa Pa, cách
thị trấn Sa Pa khoảng 12 km. Từ Sa Pa theo quốc lộ 4D về Lào Cai, đi hơn
4km thì rẽ trái có đường đi lên Tả Phìn. Đường đi lên Tả Phìn rất dốc và rất
khó đi. Trong mấy năm nay con đường du lịch từ Sa Pa lên Tả Phìn được
mở rộng và đổ nhựa nên việc đi lại cũng dễ dàng hơn. Qua nhiều đồi cao và
dốc là một thung lũng tương đối lớn. Đó là thung lũng Tả Phìn. Hai chữ
“Tả Phìn” trong tiếng Dao có nghĩa là một vùng rộng lớn và bằng phẳng
(“Tả” là vùng rộng lớn, “Phìn” là phẳng. Ở đây, ta có thể hiểu đó là một
thung lũng lớn). Thực ra đó là một vùng núi thấp gần nhau được bao quanh
bởi các núi cao. Với diện tích tự nhiên 2.718,3ha, Tả Phìn là một xã tương
đối nhỏ trong huyện Sa Pa (chiếm hơn 4% diện tích toàn huyện). Dân số
của xã là 2.847 người (2007) chiếm 5,2% dân số toàn huyện. Chúng ta có
thể xem một vài chỉ số so sánh giữa xã Tả Phìn và huyện Sa Pa qua bảng số
liệu sau:
Bảng 1.3. Một số chỉ số nông nghiệp của huyện Sa Pa và xã Tả Phìn
năm 2013
Các chỉ số
Huyện Sa Pa
Xã Tả Phìn
67.864
2.725
Bình quân đất tự nhiên (ha/người)
1,48
1,18
Diện tích đất nông nghiệp (ha)
5.366
389,62
Bình quân đất nông nghiệp (ha/người)
0,115
0,168
Diện tích trồng lương thực (ha)
3.631
305,9
Diện tích trồng lúa (ha)
2.337
183,3
523
21
Diện tích đất tự nhiên (ha)
Diện tích cây ăn quả (ha)
Nguồn: - Niên giám thống kê của UBND huyện Sa Pa năm 2013
- Báo cáo tổng kết kinh tế - xã hội của NBND xã Tả Phìn năm 2013
19
Mặc dù là một xã nhỏ trong huyện, bình quân đất tự nhiên không
bằng toàn huyện, nhưng ngược lại, là xã có diện tích đất nông nghiệp tương
đối lớn, chiếm 7,26% đất nông nghiệp toàn huyện. Điều này làm cho bình
quân đất nông nghiệp của xã lớn hơn mức chung của toàn huyện. Đây là
một điều kiện quan trọng để Tả Phìn phát triển nông nghiệp và trở thành
một vựa lúa lớn của huyện Sa Pa.
Dân cư ở Tả Phìn bao gồm 4 dân tộc là Hmông, Dao, Kinh và người
Giáy. Hmông là dân tộc chiếm tỷ lệ dân số cao nhất, tiếp đó đến Dao và
Kinh. Người Giáy trước đây không có hộ nào sinh sống ở xã Tả Phìn, hiện
tại có 1 hộ mới chuyển đến sinh sống tại đây. Người Hmông và người Dao
ở Tả Phìn là các cộng đồng còn lưu giữ được nhiều nét văn hóa truyền
thống. Người Hmông và người Dao sinh sống trong các thôn khác nhau
trong xã. Riêng người Kinh, năm 2007, chỉ có 23 hộ người Kinh nhưng đến
nay đã có 47 hộ, sống chủ yếu ở khu vực trung tâm xã và chủ yếu làm nghề
buôn bán tạp hóa, quán ăn…
Bảng 1.4: Cơ cấu dân tộc xã Tả Phìn năm 2014
Dân tộc
Số Hộ
Tỷ lệ %
Số Khẩu
Tỷ Lệ %
Hmông
332
55,4
1.708
56,2
Dao
219
36,6
1.189
39,2
Kinh
47
7,8
138
4,5
Giáy
1
0,2
4
0,1
Tổng
599
3.039
100
Nguồn: Số liệu thống kê của UBND xã Tả Phìn năm 2014
Người Hmông và người Dao ở xã Tả Phìn sống chủ yếu bằng nông
nghiệp trồng trọt và chăn nuôi. Họ trồng ngô và các loại hoa màu trên
nương, trồng lúa ở ruộng bậc thang. Cả thung lũng Tả Phìn là một hệ thống
ruộng bậc thang. Nếu đúng mùa lúa chín thì các ruộng bậc thang tạo nên
20
một cảnh quan đẹp mắt. Chăn nuôi chủ yếu là các loài gia súc như trâu, bò,
dê, ngựa, lợn và gia cầm (chủ yếu là gà). Bên cạnh nông nghiệp, thủ công
nghiệp cũng khá phát triển để đáp ứng nhu cầu của đồng bào.
Sả Xéng là thôn trung tâm của xã Tả Phìn. Hầu hết dân cư trong thôn
đều là người Dao và người Kinh. Bức tranh cư trú của người Dao trong
thôn bị chia cắt ra thành nhiều mảng, trong đó có bốn nhóm tập trung.
Nhóm thứ nhất ở ngoài cùng gần trường trung học cơ sở xã, nhóm thứ hai ở
phía Đông của xã, nhóm thứ ba ở trung tâm của xã và nhóm cuối cùng ở
phía Bắc, nơi có hang động du lịch Tả Phìn. Cả bốn nhóm này tập trung
gần trục đường du lịch Sa Pa lên Tả Phìn. Trong đó, hai nhóm ở trung tâm
xã và ở gần hang động tập trung đông dân cư hơn. Đây cũng là hai trung
tâm phát triển nhất của xã.
Người Dao ở Sả Xéng (và cả Tả Phìn) tự gọi mình là người Miền,
Chằn Miền có nghĩa là người Dao. Họ thuộc ngành Dao Đỏ (Miền Xí).
Trong công trình của Nguyễn Khắc Tụng (2004) đã phân chia nhóm người
Dao ở Việt Nam, theo đó người Dao Đỏ thuộc nhóm Đại Bản, phương ngữ
gọi chữ “người” là “miền”5. Người Dao gọi những người láng giềng
Hmông của họ là Chằn Miều (Người Mông) và gọi người Kinh là Chăn
Chay. Đặc biệt, người Dao Đỏ ở Sả Xéng có nghề thủ công rất phát triển,
nhất là thêu thổ cẩm, nghề rèn, nghề làm đồ bạc. Những công việc này
không chỉ để phục vụ cuộc sống của mình mà còn đem ra trao đổi. Họ sống
hòa đồng với các dân tộc cận cư, có quan hệ đoàn kết với các dân tộc khác.
Tóm lại, người Dao ở Sa Pa nói chung, ở Sả Xéng nói riêng là một
cộng đồng cư dân nông nghiệp. Họ sống định canh định cư trong các thôn
bản nhất định, đời sống kinh tế - xã hội của họ đang ngày càng được ổn
định. Về mặt văn hóa, bên cạnh các yếu tố văn hóa truyền thống dân tộc, họ
5
Theo phân nhóm của Nguyễn Khắc Tụng (2004) thì người Dao ở Việt Nam có hai phương ngữ chính:
Phương ngữ thứ nhất gọi “người” là “miền” bao gồm hai nhóm Đại Bản (gồm Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt
và Dao Thanh Phán) và Tiểu Bản (chỉ có Dao Tiền); phương ngữ thứ hai gọi “người” là “mùn” cũng gồm
hai nhóm: nhóm Khố Bạch (chỉ có Dao Quần Trắng) và nhóm Lan tiẻn (gồm Dao Thanh Y và Dao Áo
Dài).
21