Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Quản lý chi ngân sách Nhà nước ở tỉnh Bình Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.56 KB, 80 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trải dài hơn 500 km, bao gồm
năm tỉnh, thành phố là: Thừa Thiên - Huế, Ðà Nẵng, Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Ðịnh (Quyết định số 1085/QĐ-TTg ngày 12/8/2008 của Thủ
tướng Chính phủ nhằm phát triển Vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung thành
trung tâm trung chuyển, giao thương chế biến của vùng sông Mêkông và khu
vực châu Á - Thái Bình Dương). Vùng này có nhiều lợi thế về địa lý, khoáng
sản, kinh tế biển, cảng biển sâu, có hàng loạt di sản văn hóa, thuận tiện giao
thông tiểu vùng lục địa và rất thuận lợi về giao thông đường biển, đường hàng
không quốc tế. Lợi thế ấy sau khi có các quyết định nêu trên đã được nâng lên
tầm cao mới, nhờ việc đẩy mạnh tốc độ đầu tư, xây dựng các công trình hạ
tầng về giao thông đường bộ, cảng biển, sân bay, hệ thống điện, nước, thông
tin liên lạc,…
Riêng tỉnh Bình Định có vị trí địa lý thuận lợi trong giao lưu phát triển
kinh tế xã hội, vị trí và vai trò quan trọng trong bảo vệ an ninh và quốc phòng.
Với vị trí trung tâm trên các tuyến giao lưu quốc tế và liên vùng, tuyến trục
Bắc Nam và Đông Tây của miền Trung, gần đường hàng hải quốc tế, là cửa
ngõ hướng biển của các nước trong Tiểu khu vực Mê Kông mở rộng, đặc biệt
là với các nước Lào, Campuchia và các tỉnh Đông Bắc Thái Lan.
Tuy nhiên, trong thời gian qua tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội
chung và từng ngành chưa tương xứng với tiềm năng. Cơ cấu kinh tế chuyển
dịch chậm và chưa bền vững, sản xuất nông, lâm, thuỷ sản thiếu ổn định; giá
trị sản xuất công nghiệp tăng thấp, quy mô sản xuất còn nhỏ; thu ngân sách
không đạt kế hoạch phấn đấu, huy động vốn đầu tư toàn xã hội còn hạn chế,
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài còn ít; tiến độ xây dựng các công trình cơ
bản trọng điểm chậm; chất lượng một số hoạt động văn hoá - xã hội chuyển
1
biến chưa đều, một số vấn đề xã hội còn bức xúc; đời sống nhân dân vùng
sâu, vùng xa và những vùng bị thiên tai còn nhiều khó khăn. Nguyên nhân cơ
bản của những tồn tại trên là chi NSNN của tỉnh Bình Định có cơ cấu chưa
hợp lý mà cơ bản là do quản lý chi ngân sách Tỉnh còn nhiều bất cập. Vì vậy,


để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Định một cách toàn diện thì
việc tăng cường quản lý chi ngân sách tỉnh Bình Định là việc làm cấp thiết.
Thực trạng trên đặt ra cho các nhà nghiên cứu cần phải hệ thống được
những cơ sở lý luận cần thiết và phân tích được thực trạng quản lý chi NSNN
tỉnh Bình Định xuất phát từ các đặc thù riêng của tỉnh. Từ đó rút ra được
nguyên nhân của tồn tại để có giải pháp quản lý chi ngân sách Nhà nước hiệu
quả hơn. Trước thực trạng đó tác giả chọn vấn đề: “Quản lý chi ngân sách
Nhà nước ở tỉnh Bình Định” làm chuyên đề nghiên cứu của mình.
• Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa và làm rõ thêm cơ sở lý luận về quản lý chi NSNN ở
tỉnh Bình Định.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý chi ngân sách nhà nước (NSNN) ở
tỉnh Bình Định, so sánh thực trạng này với một số tỉnh có điều kiện tương tự
khác để từ đó rút ra những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân trong
lĩnh vực này.
- Từ các hạn chế trên đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường
quản lý chi NSNN ở tỉnh Bình Định trong những năm tới.
• Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý chi NSNN ở tỉnh Bình Định.
- Phạm vi nghiên cứu:
2
Công tác quản lý chi NSNN ở tỉnh Bình Định giai đoạn 2006 - 2010,
giai đoạn ổn định ngân sách của tỉnh Bình Định.
Hiện nay, việc phân cấp quản lý NSNN được phân định rõ ràng giữa
trung ương và địa phương (chính quyền các cấp). Vì vậy, phạm vi nghiên
cứu của chuyên đề là nhiệm vụ quản lý về chi NSNN ở tỉnh Bình Định
(nhiệm vụ quản lý chi ngân sách cấp tỉnh).
• Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử kết hợp với phương pháp điều tra, phân tích, tổng hợp, thống kê.

• Kết cấu chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, chuyên đề gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về quản lý chi NSNN ở địa
phương
Chương 2: Thực trạng quản lý chi NSNN ở tỉnh Bình Định.
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý chi NSNN ở tỉnh Bình Định
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng đây là vấn đề nghiên cứu rộng lớn,
phức tạp và hạn chế về tài liệu nên chuyên đề khó tránh khỏi có sai sót. Vì
vậy rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Quý thầy cô giáo để nội dung
nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !
3
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN
LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐỊA PHƯƠNG
1.1. Ngân sách nhà nước
1.1.1. Khái niệm
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu kinh tế Cổ điển: “ngân sách
nhà nước là một văn kiện tài chính, mô tả các khoản thu chi của chính phủ
được thiết lập hàng năm”.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại: “NSNN là một
bảng liệt kê các khoảng thu chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định
của nhà nước”.
Theo Luật NSNN của Việt Nam: “NSNN là toàn bộ các khoản thu chi
của Nhà nước đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định và được thực hiện
trong một năm nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Vậy, về hình thức biểu hiện bên ngoài NSNN là một bảng liệt kê các
khoản thu chi bằng tiền của nhà nước, được dự kiến và được phép thực hiện
trong một khoản thời gian nhất định.
Về bản chất của NSNN: xét về bản chất kinh tế thì mọi hoạt động của
NSNN đều là hoạt động phân phối các nguồn tài nguyên quốc gia, vì vậy,

NSNN thể hiện các mối quan hệ kinh tế trong phân phối, đó là hệ thống các
quan hệ kinh tế giữa một bên là Nhà nước với một bên là các tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, các tầng lớp dân cư. Xét về tính chất xã hội thì NSNN luôn là
một công cụ kinh tế của Nhà nước, nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm
vụ của Nhà nước.
Về thời gian: NSNN được thực hiện trong một năm (năm này được gọi
là năm ngân sách hay năm tài khóa).
4
1.1.2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước vừa là nguồn lực để nuôi dưỡng bộ máy nhà nước,
vừa là công cụ hữu hiệu để nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế và giải
quyết các vấn đề xã hội nên có những đặc điểm sau:
Các hoạt động tạo lập và sử dụng quỹ NSNN luôn gắn chặt với
quyền lực kinh tế, chính trị của nhà nước và việc thực hiện các chức năng
của nhà nước.
Các hoạt động thu, chi của NSNN đều được tiến hành trên cơ sở pháp
lý, các quy định có liên quan đến NSNN do nhà nước ban hành.
Nguồn tài chính chủ yếu hình thành nên NSNN là từ giá trị sản phẩm
thặng dư của xã hội và được hình thành chủ yếu qua quá trình phân phối lại
mà trong đó thuế là hình thức thu phổ biến.
1.2. Chi ngân sách nhà nước
1.2.1. Khái niệm chi NSNN
Chi NSNN là quá trình phân phối, sử dụng quỹ NSNN theo những
nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước.
Chi tiêu của NSNN diễn ra trên phạm vi rộng, đa dạng về hình thức.
Trong quản lý NSNN ở nước ta hiện nay người ta chủ yếu phân loại nội dung
chi của nó theo một số nhóm lớn như: chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên
và chi khác.
1.2.2. Đặc điểm của chi NSNN
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách

nhà nước theo những nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện các nhiệm vụ
của Nhà nước. Nói cách khác, chi ngân sách nhà nước chính là việc cung cấp
5
nguồn lực tài chính cho việc thực hiện các nhiệm vụ của bộ máy nhà nước.
Chi ngân sách nhà nước có những đặc điểm:
- Chi ngân sách nhà nước luôn gắn với nhiệm vụ kinh tế, chính trị,
xã hội mà Nhà nước đảm nhận. Mức độ và phạm vi chi ngân sách nhà nước
phụ thuộc vào nhiệm vụ của Nhà nước trong từng giai đoạn phát triển kinh
tế - xã hội.
- Tính hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước thể hiện ở tầm
vĩ mô và mang tính chất toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hoá, an ninh, quốc phòng…
- Chi ngân sách nhà nước là những khoản chi mang tính chất cấp phát,
mang tính không hoàn trả trực tiếp.
1.2.3. Phân loại chi NSNN
Phân loại chi NSNN là sắp xếp các số liệu chi theo tiêu thức nhất định
nhằm làm cho các số liệu phù hợp và hỗ trợ quá trình tổng hợp, trình bày, giải
thích, phân tích, và ra quyết định của nhà quản lý. Vì vậy, khi thực hiện
những mục đích khác nhau, phân loại chi ngân sách nhà nước có những tiêu
thức phân loại khác nhau.
• Phân loại theo ngành kinh tế
Đây là cách phân loại dựa vào chức năng của chính phủ đối với nền
kinh tế xã hội thể hiện qua các ngành kinh tế như: nông nghiệp - lâm nghiệp -
thủy lợi; thủy sản; công nghiệp khai thác mỏ; công nghiệp chế biến; xây
dựng; khách sạn nhà hàng và du lịch; giao thông vận tải; kho bãi và thông tin
liên lạc; tài chính, tín dụng; khoa học và công nghệ; quản lý nhà nước và an
ninh quốc phòng; giáo dục và đào tạo; y tế và các hoạt động xã hội; hoạt động
văn hóa và thể thao…
6
Phân loại theo ngành kinh tế nhằm so sánh chi NSNN giữa các nước

được thuận lợi theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) và cẩm nang Thống
kê Tài chính của chính phủ (GFS) do Liên Hiệp Quốc xây dựng. Hơn nữa
cách phân loại này còn giúp chính sách chi ngân sách phù hợp với chức năng
nhiệm vụ cụ thể của nhà nước trong từng thời kỳ.
• Phân loại chi ngân sách nhà nước theo nội dung kinh tế
Căn cứ vào nội dung kinh tế của các khoản chi, NSNN có thể được chia
thành các nhóm và trong từng nhóm lại được chia thành các tiểu nhóm, tiếp
đến là mục và cuối cùng là tiểu mục.
Theo nhóm thì các khoản chi được chia thành 4 nhóm:
- Chi thường xuyên.
- Chi đầu tư phát triển.
- Chi cho vay hỗ trợ quỹ và tham gia góp vốn của chính phủ.
- Chi trả nợ gốc các khoản vay của nhà nước.
Chi thường xuyên là các khoản chi có thời hạn tác động ngắn thường
dưới một năm. Nhìn chung, đây là các khoản chi chủ yếu phục vụ cho chức
năng quản lý và điều hành xã hội một cách thường xuyên của nhà nước trong
các lĩnh vực như: quốc phòng, an ninh, sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, văn
hóa, thông tin, thể dục thể thao, khoa học, công nghệ…
Thuộc nhóm chi thường xuyên gồm có:
- Chi thanh toán cho các cá nhân như tiền lương; tiền công; phụ cấp
lương; học bổng sinh viên; tiền thưởng; phúc lợi tập thể; các khoản đóng góp
như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn…
7
- Chi về hàng hóa, dịch vụ đó là các khoản chi về điện nước, vệ sinh
môi trường; vật tư văn phòng; dịch vụ thông tin, tuyên truyền, liên lạc,
hội nghị, công tác phí; chi phí nghiệp vụ chuyên môn của từng ngành như
in ấn, đồng phục, trang phục…
- Chi trả lãi tiền vay và các khoản lệ phí liên quan đến các khoản vay.
- Các khoản chi khác như: chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, chi xử lý
tài sản được xác lập sỡ hữu nhà nước…

Chi đầu tư phát triển là những khoản chi có thời hạn tác động dài,
thường trên một năm, hình thành nên những tài sản vật chất có khả năng
tạo được nguồn thu, đầu tư phát triển trực tiếp làm tăng cơ sở vật chất
của đất nước.
Các khoản chi đầu tư phát triển bao gồm:
Chi đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không có khả
năng thu hồi vốn như: các công trình giao thông, điện lực, bưu chính, viễn
thông, các công trình văn hóa, giáo dục, y tế, phúc lợi công cộng…; chi mua
hàng hóa vật tư dự trữ của nhà nước; đầu tư hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp
nhà nước; góp vốn cổ phần liên doanh vào các doanh nghiệp cần thiết phải có
sự tham gia của nhà nước; chi cho các công trình mục tiêu của quốc gia, dự án
của nhà nước.
Việc phân loại các khoản chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển là
cần thiết trong quản lý NSNN, nó cho phép đánh giá hiệu quả hoạt động của
các đơn vị sử dụng ngân sách, hiệu quả của chi cho đầu tư phát triển, và thay
đổi cơ cấu giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển nhằm đảm bảo sự
phát triển bền vững, ổn định của nhiệm vụ chi NSNN.
8
Phân loại theo tổ chức bộ máy hành chính nhà nước là cần thiết để xác
định rõ trách nhiệm quản lý chi công cộng cho từng bộ phận, ngành, cơ quan,
đơn vị và cũng cần thiết cho quản lý thực hiện ngân sách hàng ngày, ví dụ:
giao dịch thu, chi qua kho bạc nhà nước. Theo cách phân loại này chi ngân
sách được phân loại theo bộ, cục, sở ban hoặc cơ quan, đơn vị thụ hưởng kinh
phí NSNN theo cấp quản lý: trung ương, tỉnh, huyện hay xã.
Chi NSNN còn được phân loại theo đơn vị dự toán các cấp bao gồm:
cấp I, cấp II, cấp III nhằm làm rõ trách nhiệm từng cấp trong quản lý ngân
sách nói chung và kế toán, kiểm toán và quyết toán NSNN nói riêng.
- Đơn vị dự toán cấp I là đơn vị trực tiếp nhận dự toán ngân sách hàng
năm do Thủ tướng Chính phủ hoặc UBND giao. Đơn vị dự toán cấp I thực
hiện phân bổ, giao dự toán ngân sách cho đơn vị cấp dưới trực thuộc; chịu

trách nhiệm trước Nhà nước về việc tổ chức, thực hiện công tác kế toán và
quyết toán ngân sách của đơn vị mình và công tác kế toán và quyết toán ngân
sách của các đơn vị cấp dưới trực thuộc.
- Đơn vị dự toán cấp II là cấp dưới đơn vị dự toán cấp I, các đơn vị dự
toán cấp II giao dự toán và phân bổ dự toán được giao cho đơn vị dự toán cấp
III (trường hợp được ủy quyền của đơn vị dự toán cấp I), chịu trách nhiệm tổ
chức thực hiện công tác kế toán và quyết toán ngân sách của đơn vị mình và
công tác kế toán và quyết toán ngân sách của các đơn vị cấp dưới.
- Đơn vị dự toán cấp III là đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách, được
đơn vị dự toán cấp I hoặc cấp II giao dự toán ngân sách, có trách nhiệm tổ
chức thực hiện công tác kế toán và quyết toán ngân sách của đơn vị mình và
đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc (nếu có).
9
- Đơn vị cấp dưới của đơn vị dự toán cấp III được nhận kinh phí để
thực hiện phần công việc cụ thể, khi chi tiêu phải thực hiện công tác kế toán
và quyết toán.
1.2.4. Vai trò của chi NSNN đối với nền kinh tế
Bảo đảm duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước
Nhu cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước được ngân sách nhà nước đảm
bảo để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Đó là các nguồn lực để trả
lương cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan của Nhà
nước; để xây dựng cơ sở vật chất đảm bảo hoạt động cho bộ máy này.
Thu hút vốn đầu tư
Việc thu hút vốn đầu tư của khu vực tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
thể hiện thông qua các khoản chi cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Việc
Nhà nước tạo ra các hàng hoá công tạo điều kiện nâng cao chất lượng sống
của dân chúng và góp phần điều chỉnh nền kinh tế theo những mong muốn
của Nhà nước.
Điều chỉnh chu kỳ kinh tế
Chi ngân sách nhà nước hình thành nên một thị trường đặc biệt. Chính

phủ tiêu thụ một khối lượng hàng hoá khổng lồ đã làm cho tổng cầu của nền
kinh tế được gia tăng một cách đáng kể. Tổng cầu nền kinh tế tăng làm nâng
cao khả năng thu hút vốn và kích thích sản xuất phát triển hơn nữa. Như vậy,
thị trường của chính phủ lại trở thành công cụ kinh tế quan trọng của chính
phủ nhằm tích cực tái tạo lại cân bằng của thị trường hàng hoá khi bị mất cân
đối bằng cách tác động vào các quan hệ cung cầu thông qua tăng hay giảm
mức độ chi tiêu công ở thị trường này.
10
Tái phân phối thu nhập xã hội
Nhà nước sử dụng công cụ thuế và chi tiêu công để tái phân phối lại thu
nhập xã hội, với công cụ thuế mang tính chất động viên nguồn thu cho Nhà
nước thì công cụ chi tiêu công mang tính chất chuyển giao thu nhập đó đến
những người có thu nhập thấp qua các chương trình phúc lợi xã hội.
1.3. Quản lý chi ngân sách nhà nước ở địa phương
1.3.1. Khái niệm quản lý chi NSNN
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách
nhà nước theo những nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện các nhiệm vụ
của Nhà nước. Nói cách khác, chi ngân sách nhà nước chính là việc cung cấp
nguồn lực tài chính cho việc thực hiện các nhiệm vụ của bộ máy nhà nước.
1.3.2. Nguyên tắc quản lý chi NSNN
Ngân sách nhà nước là công cụ kinh tế của nhà nước nhằm thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, trong khi đó thu ngân sách nhà nước
thường là hạn chế. Vì vậy, mục tiêu quản lý chi NSNN là đạt được hiệu quả
cao nhất trong nguồn thu hạn chế, do đó cần tuân thủ các nguyên tắc trong
quản lý chi NSNN sau:
Nguyên tắc trong dự toán: Các khoản chi ngân sách nhà nước
phải trong dự toán đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và tuân thủ
theo chế độ, định mức quy định.
Nguyên tắc phân bổ hiệu quả: Kế hoạch chi ngân sách nhà nước phải
phù hợp với những ưu tiên trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước nhằm phân bổ có hiệu quả nguồn lực của Nhà nước.
Nguyên tắc sử dụng có hiệu quả: Nguyên tắc này đòi hỏi có sự đánh
giá việc sử dụng các khoản chi ngân sách nhà nước xem tính hiệu quả đạt
11
được đến đâu. Cần có cơ chế kiểm tra, giám sát đối với các khoản chi ngân
sách nhà nước để đảm bảo tính hiệu quả của những khoản chi này.
1.3.3. Nội dung quản lý chi NSNN ở địa phương
Chi NSĐP là quá trình phân bổ sử dụng quỹ ngân sách địa phương
nhằm duy trì các hoạt động của chính quyền địa phương, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương. Chi NSĐP bao gồm:
a) Chi đầu tư phát triển
Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội do
địa phương quản lý;
Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ
chức tài chính nhà nước theo quy định pháp luật;
Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
b) Chi thường xuyên
Các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội, văn
hóa thông tin văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ,
môi trường, và các hoạt động sự nghiệp khác do địa phương quản lý;
Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội (phần giao cho địa
phương);
Hoạt động của các cơ quan Nhà nước, cơ quan Đảng và các tổ chức
chính trị - xã hội ở địa phương;
Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị - xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội
ở địa phương theo quy định của pháp luật;
Thực hiện các chính sách xã hội đối với các đối tượng do địa phương
quản lý;
12
Chương trình quốc gia do Chính phủ giao cho địa phương quản lý;

Trợ giá theo chính sách của nhà nước;
Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
c) Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền huy động cho đầu tư, quy định
chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính của cấp Tỉnh
d) Chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới
Phân chia ra các nhóm chi này giúp ta phân tích được cơ cấu và tỷ
trọng các khoản chi trong tổng chi NSĐP từ đó giúp cho các nhà hoạch định
chính sách nghiên cứu đưa ra các chính sách và giải pháp phù hợp trong quản
lý, giúp cho các cấp chính quyền địa phương và các cơ quan chuyên môn trực
thuộc có định hướng rõ ràng trong thực hiện quản lý và kiểm soát chi theo
đúng quy định.
Chi NSĐP gắn với nhiệm vụ của bộ máy hành pháp tại địa phương và
đảm bảo ổn định xã hội tại địa bàn, là những khoản chi không gắn với hoàn
trả trực tiếp, đặc biệt là các khoản chi cho các hoạt động văn hóa xã hội an
ninh quốc phòng, thực hiện các chính sách xã hội….Chi NSĐP ảnh hưởng rất
lớn đến sự vận động của các luồng tiền tệ, có tác động của tổng cung, tổng
cầu tiền tệ và sự ổn định của kinh tế xã hội của từng địa phương. Chi NSĐP
luôn gắn với quyền lực nhà nước và luôn gắn với tất cả các hoạt động của nhà
nước và địa phương trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Hiệu quả
của chi NSNN và chi NSĐP khác với hiệu quả chi từ doanh nghiệp; hiệu quả
chi NSĐP được xem xét ở tầm vĩ mô và gắn với kinh tế - xã hội, an ninh,
quốc phòng, đối ngoại. Hiệu quả chi vốn từ doanh nghiệp thường gắn với
kinh tế là chủ yếu.
13
Quản lý chi NSNN thường quản lý theo chu trình ngân sách, bao gồm
các nội dung cơ bản sau:
- Quản lý dự toán chi ngân sách.
- Quản lý việc chấp hành, thực hiện dự toán chi ngân sách.
- Quản lý quyết toán chi ngân sách.
Trong quản lý chi ngân sách phải đảm bảo được các nội dung cơ bản

như vấn đề về kỷ luật tài khóa; vấn đề kết nối giữa kế hoạch, chính sách và
ngân sách; vấn đề điều tiết hoạt động; vấn đề hệ thống thông tin quản lý tài
chính; vấn đề giám sát đảm bảo tính tuân thủ và tính hiệu quả của chi ngân
sách.
1.3.4. Các phương thức quản lý chi ngân sách nhà nước ở địa phương
a) Quản lý chi ngân sách theo kiểu hành chính, truyền thống
Quản lý hành chính là phương thức quản lý NSNN truyền thống. Quản
lý NSNN hành chính còn được gọi là quản lý NSNN theo hạng mục. Phương
thức này bắt nguồn từ cơ sở thực hiện phân bổ nguồn lực công là phân chia
chiếc bánh ngân sách cho từng đầu vào cụ thể nhằm duy trì hoạt động của các
cơ quan, tổ chức trong khu vực công, điển hình là chi lương, chi nguyên vật
liệu đầu vào, chi quản lý khác… hàng năm.
Mục đích của quản lý hành chính là đảm bảo rằng ngân sách được sử
dụng đúng cho từng hạng mục đã được phân bổ. Việc sử các khoản ngân sách
này tạo ra kết quả như thế nào không được quan tâm đúng mức. Nói cách
khác, trong phương thức quản lý hành chính, các cơ quan, tổ chức, các cá
nhân có lien quan được xem như một cỗ máy, sử dụng ngân sách theo các
cách thức đã được ấn định, không có quyền chủ động trong lựa chọn phương
14
án sử dụng ngân sách. Do đó, không chịu trách nhiệm về kết quả sử dụng
ngân sách.
Quản lý ngân sách truyền thống dựa chủ yếu trên cơ sở tổng nguồn lực
hiện có và dự báo sẽ có trong năm để xây dựng dự toán và phân bổ ngân sách.
Theo đó, các chế độ quản lý, các định mức chi tiêu, mục lục ngân sách,…
được thiết lập để kiểm soát theo phương châm càng chặt chẽ càng tốt.
Phương thức quản lý hành chính, truyền thống, từng năm một, dựa
theo nguồn lực đầu vào để phân bổ cho các cơ quan, đơn vị vừa không hiệu
quả trong việc theo đuổi các mục đích đặt ra - đảm bảo các khoản ngân sách
phân bổ được sử dụng đúng mục đích, vừa gắn với các kết quả quản lý không
cao - phân bổ nguồn lực ngân sách diễn ra dàn trải, tùy tiện; hiệu quả kinh tế

trong sử dụng ngân sách thấp.
b) Quản lý chi ngân sách theo khuôn khổ chi tiêu trung hạn gắn với
kết quả đầu ra
Một phương thức quản lý mới đang được áp dụng phổ biến ở các nước
hiện nay trong quản lý chi NSNN là quản lý chi NSNN theo khuôn khổ chi
tiêu trung hạn.
Khuôn khổ chi tiêu trung hạn (MTEF: Medium - Term Expenditure
Framework) là một quy trình soạn lập ngân sách và xây dựng kế hoạch minh
bạch. Nó đề ra một trần nguồn lực trung hạn được phân bổ từ trên xuống
nhằm đảm bảo kỷ luật tài chính đòi hỏi việc xây dựng các dự toán chi phí
thực hiện chính sách từ dưới lên, thống nhất với các chính sách theo các ưu
tiên chiến lược. Đây là một quy trình mang tính chính trị trong đó ngân sách
được xem là một cam kết chính sách cũng như là một cam kết chi tiêu.
Sơ đồ 1.1: Quy trình lập ngân sách theo phương pháp MTEF
15
BƯỚC 1 BƯỚC 2 BƯỚC 5
BƯỚC 7

BƯỚC 3 BƯỚC 4 BƯỚC 6
Bước 1: Dự báo khả năng nguồn lực trên cơ sở các dự báo về tăng
trưởng kinh tế, thu trong tỉnh và nguồn vốn tài trợ thông qua việc xây dựng
một khuôn khổ kinh tế vĩ mô.
Bước 2: Xây dựng các hạn mức kinh phí sơ bộ bằng cách phân bổ tổng
nguồn lực cho các ngành theo các ưu tiên của Chính phủ và của địa phương,
các hạn mức này phải được chính phủ và UBND thông qua.
Bước 3: Dự báo các nhu cầu chi tiêu ngành tầm trung hạn trên cơ sở ưu
tiên của Chính phủ, của địa phương và nhu cầu mỗi ngành. Việc xác định các
ưu tiên ngành đòi hỏi phải tiến hành rà soát, đánh giá ngành qua đó Tỉnh, đơn
vị sử dụng ngân sách sẽ: rà soát nhiệm vụ, mục đích, mục tiêu và các nhiệm
vụ của họ; thống nhất về các hoạt động cần thiết để đạt được các mục tiêu.

Việc này đòi hỏi phải xem xét các hoạt động hiện tại tức là liệu chúng có phù
hợp với các chính sách và ưu tiên của tỉnh hay không và liệu có phải thực
hiện các hoạt động mới hay không.
Bước 4: Tính toán các chi phí và thứ tự ưu tiên thực hiện các hoạt
động trong 3 năm:
16
Khuôn khổ
kinh tế vĩ mô
3 năm
Các hạn mức
kinh phí sơ bộ 3
năm
Rà soát mục đích,
mục tiêu, đầu ra và
các hoạt động
Lên chi phí và
thứ tự ưu tiên
các hoạt động
Xây dựng các
dự toán thống
nhất 3 năm
Thảo luận chính sách
và các hạn mức kinh
phí chính thức
Rà soát và phê
duyệt các dự
toán
+ Dự toán chi phí thực hiện các hoạt động, chương trình (chi thường
xuyên và chi đầu tư XDCB).
+ Sắp xếp thứ tự ưu tiên cho phù hợp với thu ngân sách và nguồn lực

của địa phương và xác định những hoạt động cần tiếp tục, những hoạt động
nên thu hẹp, những hoạt động cần chấm dứt.
Bước 5: Thảo luận chính sách và hạn mức kinh phí. Sau khi tiến hành
rà soát đánh giá, Ủy ban nhân dân tỉnh sẽ trình bày những thông tin này trong
các cuộc thảo luận ở tầm chính sách và hạn mức kinh phí ở từng cấp, đơn vị
sử dụng ngân sách cho thời kỳ trung hạn. Sau đó xem xét lại, nếu thấy không
thể đạt được một số mục tiêu trong khuôn khổ hạn mức ngành và nguồn lực
của địa phương thì sẽ tiến hành phân bổ lại.
Bước 6: Sử dụng các dự báo trong MTEF để xây dựng các dự
toán trong 3 năm.
Bước 7: Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thảo luận ở tầm ngân sách, rà soát
hoàn thiện và thông qua các dự toán 3 năm, Hội đồng nhân dân phê chuẩn
năm thứ nhất của quy trình MTEF.
Quy trình MTEF sẽ là cơ sở lý luận để đánh giá quá trình lập ngân sách
trên địa bàn tỉnh đã được hoàn thiện chưa? Trên cơ sở các đặc điểm và điều
kiện thực tế trên địa bàn tỉnh để thực hiện quy trình quản lý này.
Như vậy, lập dự toán chi ngân sách theo kế hoạch chi tiêu trung hạn đã
giúp chính quyền địa phương đưa các đề xuất ngân sách vào một khuôn khổ
trung hạn giống như một khuôn khổ chính sách gắn với nguồn lực tài chính.
Cho dù ngân sách hàng năm vẫn tiếp tục được chính quyền địa phương quyết
định hàng năm nhưng nó đảm bảo sự nhất quán ngân sách hàng năm với các
kế hoạch ngân sách trong một số năm tiếp theo, và làm rõ được sự tác động
cũng như khả năng bền vững của cách phân bổ ngân sách đó. Phương pháp
17
lập dự toán chi ngân sách này cho phép các kế hoạch trung hạn luôn được cập
nhật và trở nên sát thực tế hơn, đồng thời duy trì được sự ổn định theo chu kỳ.
MTEF đã giúp chính quyền địa phương xây dựng một khuôn khổ tài
khóa, qua đó xác định mức chi tiêu trong khuôn khổ nguồn thu có thể đảm
bảo sự bền vững và ổn định kinh tế vĩ mô trong trung hạn. Khuôn khổ này cơ
bản sẽ là cơ sở để kiểm tra tính bền vững của các đề xuất ngân sách của các

ngành, các chính quyền ở địa phương bằng cách áp dụng các mức trần như:
mức bội chi, vay nợ…
Quản lý chi ngân sách theo kết quả đầu ra
Quản lý NSNN theo kết quả đầu ra là hoạt động quản lý ngân sách dựa
trên cơ sở tiếp cận các thông tin đầu ra giúp cho Nhà nước thực hiện phân bổ
nguồn lực một cách có hiệu quả. Việc so sánh phương pháp quản lý ngân sách
theo kết quả đầu ra với các phương pháp quản lý ngân sách khác sẽ giúp cho
chúng ta thấy rõ hơn ưu việc của phương pháp này.
Sơ đồ 1.2: So sánh phương pháp ngân sách theo kết quả đầu ra với
các phương pháp ngân sách công khác
Phương pháp ngân sách theo chương trình
INPUTS OUTPUTS
OUTCOMES
Phương pháp ngân sách theo khoản mục
Phương pháp ngân sách theo công việc thực hiện
Phương pháp ngân sách theo kết quả đầu ra
18
PROGRAM
Lập ngân sách theo kết quả đầu ra là quy trình kết nối các kế hoạch
phân bổ ngân sách với các kết quả đầu ra cụ thể ở mức độ chi tiết nhất định,
tùy thuộc vào năng lực quản lý và lĩnh vực chuyên ngành.
Đặc điểm của phương thức lập ngân sách theo kết quả đầu ra:
+ Ngân sách lập theo tính chất mở, công khai, minh bạch.
+ Các nguồn tài chính được tập hợp toàn bộ trong dự toán ngân
sách của Nhà nước.
+ Ngân sách được lập theo thời gian trung hạn.
+ Ngân sách được lập căn cứ theo nhu cầu thực tế, hướng tới người thụ
hưởng và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
+ Ngân sách được hợp nhất giữa kế hoạch chi thường xuyên và chi
đầu tư phát triển.

+ Ngân sách được lập dựa trên nguồn lực được tính trong thời gian
trung hạn nên cần có sự cam kết chặt chẽ.
+ Việc phân bổ ngân sách dựa trên thứ tự ưu tiên chiến lược.
+ Nhà quản lý được trao trách nhiệm hơn trong quản lý ngân sách nhà
nước.
Qua đặc điểm trên ta thấy, khi chuyển sang phương pháp quản lý chi
ngân sách mới, đó là theo kết quả đầu ra thì việc đánh giá hiệu quả của chi
NSNN được thực hiện thuận lợi hơn rất nhiều. Quản lý theo kết quả đầu ra
được xem là quản lý nguồn lực trên kết quả cụ thể, có thể đo lường được.
Trong quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra, có một mối liên kết mang tính
kỹ thuật, hợp lý giữa các thước đo kết quả với việc phân bổ nguồn lực, trong
đó thể hiện rõ mức sản lượng đạt được tương ứng với nguồn lực nhất định. Vì
vậy, việc đánh giá hiệu quả của quản lý chi NSNN trở nên thuận lợi hơn rất
19
nhiều so với các phương pháp quản lý trước đó. Có thể hình dung được sự
thuận lợi đó qua sơ đồ quản lý NSNN theo kết quả đầu ra như sau:
Sơ đồ 1.3: Sơ đồ mô tả quá trình quản lý theo kết quả đầu ra

Kết quả đầu ra của chi ngân sách là các kết quả, các ảnh hưởng của
những tác động do việc nhà nước, các cơ quan công quyền, các tổ chức, đơn
vị sự nghiệp sử dụng chi ngân sách để cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho cộng
đồng. Kết quả đầu ra giải thích lý do hành động của nhà nước và minh chứng
cho những hoạt động của nhà nước nhằm thúc đẩy sự phát triển hay kiềm hãm
sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Kết quả đầu ra tốt tức là biện pháp của
nhà nước đã tác động tích cực đối với cộng đồng, đối với nền kinh tế. Ngược
lại kết quả đầu ra không tốt tức là nhà nước đang quản lý không hiệu quả
ngân sách, người dân dễ dàng thấy được sự yếu kém này, từ đó giảm lòng tin
của người dân về vai trò của nhà nước trong điều hành nền kinh tế - xã hội.
1.3.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý chi NSNN ở địa phương
1.3.5.1. Các nhân tố chủ quan

Nhóm nhân tố chủ quan bao gồm: năng lực quản lý của người lãnh
đạo các cơ quan quản lý trong bộ máy quản lý chi ngân sách nhà nước, trình
độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, tổ chức bộ máy quản lý chi ngân sách nhà
nước cũng như quy trình nghiệp vụ, công nghệ quản lý chi NSNN ở địa
phương.
20
Đầu vào
Chương trình
Sản phẩm đầu ra
Kết quả đầu ra
So
sánh
hiệu
quả
Hiệu
suất
sử
dụng
nguồn
lực
Mức
độ
thành
công
Chi phíSo
sánh
KT
- Năng lực quản lý của người lãnh đạo bộ máy chi ngân sách nhà
nước ở địa phương, bao gồm các nội dung sau: năng lực đề ra chiến lược
trong hoạt động ngân sách; đưa ra được các kế hoạch triển khai các công

việc hợp lý, rõ ràng; tạo nên một cơ cấu tổ chức hợp lý, có hiệu quả, có
sự phân định rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn giữa các nhân viên, cũng
như giữa các khâu, các bộ phận của bộ máy quản lý chi ngân sách nhà
nước ở địa phương. Năng lực quản lý của người lãnh đạo có tầm quan
trọng đặc biệt đối với công tác quản lý ngân sách nhà nước nói chung và
quản lý chi ngân sách nhà nước ở từng địa phương nói riêng. Nếu năng
lực của người lãnh đạo yếu, bộ máy tổ chức không hợp lý, các chiến lược
không phù hợp với thực tế thì việc quản lý chi ngân sách nhà nước sẽ
không hiệu quả, dễ gây tình trạng chi vượt quá thu, chi mất cân đối trong
phát triển, phân bổ chi không hợp lý; có thể dẫn đến tình trạng thâm hụt
ngân sách, không thúc đẩy được sự phát triển của nền kinh tế, đảm bảo
các vấn đề xã hội…
Ngoài ra, đối với người lãnh đạo cũng cần tránh bệnh chạy theo thành
tích, bệnh cục bộ địa phương, bệnh quan liêu mệnh lệnh, coi thường pháp
luật, xem trình tự thủ tục là thứ gò bó quyền lực của mình. Đây cũng có thể
được coi là một trong những yếu tố làm giảm hiệu quả, thậm chí còn gây
những hậu quả như thất thoát, lãng phí, tham nhũng,… trong công tác quản lý
chi ngân sách nhà nước ở địa phương.
- Năng lực chuyên môn của các bộ phận quản lý chi ngân sách nhà nước
ở địa phương lại là yếu tố quyết định hiệu quả chi ngân sách nhà nước. Nếu
cán bộ quản lý có năng lực chuyên môn cao sẽ giảm thiểu được sai lệch trong
cung cấp thông tin của đối tượng sử dụng vốn ngân sách nhà nước, kiểm soát
được toàn bộ nội dung chi, nguyên tắc chi và tuân thủ theo các quy định về
quản lý chi NSNN đảm bảo theo dự toán đã đề ra.
21
Bên cạnh năng lực chuyên môn thì đối với cán bộ công chức cũng cần
phải tránh bệnh xu nịnh, chiều ý cấp trên, là thói quen xin cho, hạch sách
thiếu ý thức chịu trách nhiệm cá nhân. Thậm chí là sa sút về phẩm chất đạo
đức như đòi hối lộ, đưa đút lót, thông đồng, móc ngoặc, gian lận… đây là
những nhân tố ảnh hưởng không tốt tới quá trình quản lý chi ngân sách nhà

nước đặc biệt là chi cho đầu tư phát triển (do vốn đầu tư phát triển thường
lớn) gây giảm hiệu quả sử dụng vốn NSNN nghiêm trọng.
- Tổ chức bộ máy quản lý chi ngân sách nhà nước ở địa phương và việc
vận dụng quy trình nghiệp vụ quản lý vào thực tiễn địa phương: hoạt động
quản lý chi ngân sách được triển khai có thuận lợi và hiệu quả hay không phụ
thuộc rất lớn vào tổ chức bộ máy quản lý chi ngân sách nhà nước và quy trình
nghiệp vụ, trong đó đặc biệt là quy trình nghiệp vụ quản lý. Tổ chức bộ máy
và quy trình quản lý, quyền hạn trách nhiệm của từng khâu, từng bộ phận,
mối quan hệ của từng bộ phận trong quá trình thực hiện từ lập, chấp hành,
quyết toán và kiểm toán chi NSNN có tác động rất lớn đến quản lý chi ngân
sách nhà nước. Tổ chức bộ máy quản lý phù hợp sẽ nâng cao chất lượng quản
lý, hạn chế tình trạng sai phạm rủi ro trong quản lý. Quy trình quản lý được
bố trí càng khoa học, rõ ràng thì càng góp phần quan trọng làm nâng cao chất
lượng của thông tin tới cấp ra quyết định quản lý chi ngân sách nhà nước,
giảm các yếu tố sai lệch thông tin. Từ đó nâng cao được hiệu quả hoạt động
quản lý chi ngân sách nhà nước ở địa phương.
- Việc ứng dụng công nghệ tin học vào trong cuộc sống ngày nay đã
và đang thực sự chứng tỏ vai trò không thể thiếu được của nó. Thực tế đã
chứng minh với việc ứng dụng công nghệ tin học vào trong công tác quản
lý chi ngân sách nhà nước nói chung và quản lý chi ngân sách nhà nước ở
địa phương nói riêng sẽ giúp tiết kiệm được thời gian xử lý công việc,
đảm bảo được tính chính xác, nhanh chóng và thống nhất về mặt dữ liệu,
22
tạo tiền đề cho những quy trình cải cách về mặt nghiệp vụ một cách hiệu
quả. Chính vì lẽ đó mà công nghệ tin học là một trong những nhân tố ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác quản lý chi ngân sách nhà nước ở
địa phương.
1.3.5.2. Các nhân tố khách quan
Nhóm nhân tố bên ngoài bao gồm: khả năng về nguồn lực ngân sách
nhà nước, các cơ chế chính sách, các quy định về quản lý chi ngân sách nhà

nước ở địa phương, môi trường tự nhiên, kinh tế xã hội.
- Khả năng về nguồn lực ngân sách nhà nước ảnh hưởng lớn đến quản
lý chi NSNN ở địa phương vì các lý do sau:
Thứ nhất, dự toán về chi ngân sách được lập luôn luôn dựa và tính
toán có khoa học của nguồn thu ngân sách, tức là căn cứ vào thực tiễn thu
ngân sách các năm trước và dự báo tăng thu trong năm nay mà đề ra kế hoạch
thu ngân sách, vì vậy, chi ngân sách không được vượt quá thu ngân sách,
đồng thời cũng căn cứ vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương
để lập dự toán chi NSNN hàng năm. Đối với các địa phương có nguồn thu lớn
thì không phụ thuộc vào NSTW cấp thì chủ động hơn trong việc lập dự toán
chi ngân sách và quản lý chi ngân sách của mình.
Thứ hai, khi nền kinh tế phát triển kém hoặc bước vào giai đoạn
khủng hoảng làm cho tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế đạt thấp, thu nhập
bình quân đầu người cũng thấp là những nhân tố ảnh hưởng đến nguồn thu
ngân sách, làm cho thu ngân sách nhà nước không đảm bảo sẽ dẫn đến tình
trạng chi ngân sách luôn bị động, dẫn đến phải điều chỉnh việc phân phối
nguồn vốn ngân sách nhà nước theo ý muốn chủ quan làm cho việc thực hiện
các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội theo kế hoạch đã đề ra bị đảo lộn. Như
vậy, vì không có nguồn vốn ngân sách nhà nước đảm bảo, sẽ dẫn đến chi tiêu
23
không có mục đích rõ ràng và nhất quán. Có thể nói vai trò quản lý chi ngân
sách nhà nước của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bị ảnh hưởng một
cách đáng kể.
- Trong kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, pháp luật đã trở
thành một bộ phận không thể thiếu trong việc quản lý Nhà nước nói chung và
quản lý chi ngân sách nhà nước nói riêng. Chúng ta đang hướng tới Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, điều đó đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật và
bảo vệ pháp luật tiên tiến. Bên cạnh đó ý thức pháp luật của người dân trong
xã hội phải được đề cao và đạt đến trình độ giáo dục pháp luật cao. Hệ thống
pháp luật với vai trò hướng dẫn và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế

trong xã hội hoạt động theo trật tự, trong khuôn khổ pháp luật, đảm bảo sự
công bằng, an toàn và hiệu quả đòi hỏi phải rất đầy đủ, chuẩn tắc và đồng bộ.
Vì vậy, hệ thống pháp luật, các chính sách liên quan đến quản lý chi NSNN ở
địa phương sẽ có tác dụng kiềm hãm hay thúc đẩy hoạt động quản lý hiệu quả
hay không hiệu quả chi NSNN ở địa phương.
Môi trường pháp lý là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn tới quản lý chi
ngân sách nhà nước. Chẳng hạn, định mức chi tiêu của Nhà nước là một trong
những căn cứ quan trọng để xây dựng dự toán, phân bổ dự toán và kiểm soát
chi tiêu, cũng là một trong những chỉ tiêu để đánh giá chất lượng quản lý và
điều hành ngân sách nhà nước của các cấp chính quyền địa phương. Việc ban
hành các định mức chi một cách khoa học, cụ thể, kịp thời sẽ góp phần không
nhỏ trong việc quản lý chi tiêu ngân sách nhà nước được chặt chẽ hơn, hiệu
quả hơn. Hay như, sự phân định trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan, các
cấp chính quyền trong việc quản lý chi ngân sách nhà nước cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng công tác quản lý chi. Chỉ trên cơ sở phân công
trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng của từng cơ quan, địa phương sẽ tạo điều kiện
24
cho công tác quản lý chi ngân sách nhà nước đạt hiệu quả, không lãng phí
công sức, tiền của. Sự phân định trách nhiệm, quyền hạn phải được tôn trọng
và thể chế hóa thành Luật để các cơ quan cũng như từng cá nhân có liên quan
biết được phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của mình trong thực hiện nhiệm
vụ, qua đó công việc được tiến hành trôi chảy, dựa trên nguyên tác rõ ràng,
minh bạch không đùn đẩy trách nhiệm, và trách nhiệm giải trình rõ ràng sẽ
góp phần nâng cao chất lượng quản lý chi ngân sách nhà nước ở địa phương.
- Môi trường kinh tế xã hội, có thể nói chi ngân sách nhà nước luôn chịu
ảnh hưởng của môi trường kinh tế, xã hội. Với môi trường kinh tế ổn định,
các khoản thu sẽ ổn định vì vậy các khoản chi trong dự toán được cung cấp
đầy đủ. Ngược lại khi nền kinh tế mất ổn định, mức tăng trưởng kinh tế chậm,
Nhà nước thắt chặt tín dụng để kìm chế lạm phát, thắt chặt chi tiêu do thu
giảm, vì vậy, các khoản chi theo dự toán có thể không đạt kế hoạch, một số

các khoản chi phải cắt giảm hoàn toàn
- Môi trường tự nhiên, chi NSNN hàng năm ở địa phương phụ thuộc
một phần vào điều kiện tự nhiên ở địa phương đó. Chẳng hạn, ở địa phương
hay có thiên tai như bão lụt thì ngân sách thường đầu tư rất nhiều cho việc
phòng ngừa thiên tai (kênh, rạch, đê chắn…) hoặc khắc phục thiên tai; hoặc
địa phương có địa hình chủ yếu là đồi núi, dốc thì chú ý đầu tư cho giao thông
thuận lợi để có thể phát triển kinh tế và phát triển các ngành nghề phù hợp với
điều kiện địa hình đó.
Với những nhận thức về ngân sách nhà nước, chi ngân sách nhà nước, nội
dung chi ngân sách nhà nước ở địa phương, những nhân tố ảnh hưởng đến
công tác quản lý chi ngân sách nhà nước ở địa phương sẽ giúp chúng ta có
được tư duy và cách nhìn một cách khách quan, khoa học trong việc đánh giá
thực trạng công tác quản lý chi ngân sách nhà nước ở địa phương trong những
25

×