Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu lao động Việt Nam sang Hàn Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.48 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Chính sách kinh tế đối ngoại_1
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU LAO
ĐỘNG VIỆT NAM SANG HÀN QUỐC.
A- LỜI MỞ ĐẦU
Với quá trình hội nhập và phát triển mở cửa đất nước ra bên ngoài, Việt Nam đã
đạt được những kết quả đáng khen ngợi. Và chúng ta đang đưa ra những chính sách
cũng như các giải pháp giúp quá trình này thực hiện một cách hiệu quả, nhanh
chóng và đồng bộ hơn. Đi đôi với việc thực hiện tốt quá trình này chúng ta cũng cần
phải giải quyết những vấn đề cấp thiết của xã hội như lạm phát, vấn đề về cơ sở hạ
tầng…Trong đó vấn đề về việc làm cũng được đặt ra là vấn đề quan trọng bức thiết
cần được giải quyết ổn định xã hội. Và xuất khẩu lao động sang các nước phát triển
đang là chương trình trọng điểm của quốc gia nhằm giảm tỉ lệ thất nghiệp và hỗ trợ
nhiều địa phương thoát nghèo.
Hoạt động XKLĐ của Việt Nam đang ngày càng mở rộng đến nhiều quốc gia
và các vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, đáp ứng một phần nhu cầu về nguồn lao
động của các nước, với đủ các loại hình lao động khác nhau. Đồng thời, hoạt động
này đã tạo cho người lao động Việt Nam nhiều cơ hội làm việc, tìm kiếm được
nguồn thu nhập tốt. Tuy nhiên, xung quanh hoạt động XKLĐ đang tồn tại nhiều vấn
đề cần phải giải quyết. Chúng ta đã và đang xuất khẩu lao động sang nhiều thị
trường như Đài Loan, Mỹ, Qatar, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga… Trong đó Hàn Quốc
lâu nay vẫn được xem là thị trường chiến lược đối với ngành xuất khẩu lao động ở
nước ta. VN chính thức đặt quan hệ hợp tác với HQ trong lĩnh vực xuất khẩu lao
động từ năm 1993 .Đến nay, sau hơn 9 năm hợp tác, VN là nước đứng đầu trong số
15 nước thực hiện chương trình EPS với gần 60.000 lao động đang làm việc tại
Hàn Quốc. Hoạt động xuất khẩu lao động sang nước này đã mang lại rất nhiều lợi
ích cho bản thân người lao động và cho cả quốc gia. Nhưng hiện nay ngành xuất
khẩu lao động đang đứng trước nguy cơ mất thị trường Hàn Quốc.
Vậy thuận lợi của lao động Việt Nam khi xuất khẩu sang nước này là gì, những
khó khăn nào còn tồn tại , đâu là nguyên nhân và lối thoát nào cho vấn đề này?.
Hiểu được ý nghĩa thực tiễn của việc phải tìm hiểu câu trả lời cho những câu hỏi


trên, nhóm chúng em đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp
thúc đẩy xuất khẩu lao động Việt Nam sang Hàn Quốc”
Chính sách kinh tế đối ngoại_1
1
B- NỘI DUNG
I- THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VIỆT NAM SANG HÀN
QUỐC.
1) Khái quát chung:
1.1 Thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam sang Hàn
Quốc:
Trong thời đại toàn cầu hoá, lao động di chuyển từ nước này sang nước khác
đã trở thành hiện tượng khá phổ biến. Tuy không nhộn nhịp như tư bản và công
nghệ, lao động cũng là một yếu tố sản xuất ngày càng vượt biên giới tìm nơi có mức
thù lao cao hơn. Tuy nhiên, khác với sự di chuyển của lao động trí thức đã có từ
trước, xuất và nhập khẩu lao động giản đơn (unskilled labor, less-skilled labor) hay
lao động chân tay (blue-collar workers) là hiện tượng tương đối mới. Ở VN vấn đề
xuất khẩu lao động trong nhưng năm gần đây khá là phát triển .Lao động VN chủ
yếu xuất khẩu sang các nước như Đài Loan ,Hàn Quốc ,Singapore ,Malaysia ,và gần
đây là thêm các nước vùng Trung Đông như LiBi .
Số lượng người lao động cũng phân bố khác nhau ở các địa bàn. Theo số liệu
tổng kết của Bộ LĐ – TB & XH, từ năm 2007 đến tháng 6/2010 có 282.106 lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (biểu đồ 1.1).
Đài Loan Malaysia Hàn Quốc Trung Đông Nhật Bản Châu Phi
(Biểu đồ 1.1- Số liệu Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội)
Trong đó:
Chính sách kinh tế đối ngoại_1
2
• Đài Loan 89.887 người;
• Malaysia 39.817 người;
• Hàn Quốc 39.382 người;

• Nhật Bản 19.590 người;
• Khu vực Trung Đông 32.196 người;
• Khu vực châu Phi 12.092 người.
-VN chính thức đặt quan hệ hợp tác với HQ trong lĩnh vực xuất khẩu ld từ năm
1993 - Trước đây, ta đưa lao động sang Hàn Quốc theo hình thức tu nghiệp sinh
thông qua một số doanh nghiệp dịch vụ. Từ năm 2004, theo Luật Cấp phép việc làm
cho người lao động nước ngoài của Hàn Quốc, hai bên đã ký thỏa thuận về đưa lao
động Việt Nam sang làm việc tại nước này theo hình thức phi lợi nhuận, người lao
động chỉ phải chịu chi phí 700 USD trước khi đi.
- Đến nay, sau hơn 9 năm hợp tác, VN là nước đứng đầu trong số 15 nước thực
hiện chương trình EPS với 55.608 LĐ đang làm việc tại Hàn Quốc.
Theo ông Lee Muyng Hee-Trưởng đại diện Cơ quan phát triển nguồn nhân lực
Hàn Quốc tại Việt Nam thì: năm 2010, chỉ tiêu tiếp nhận lao động mà Hàn Quốc
dành cho Việt Nam là 12.500 người. Trong kỳ thi thi kiểm tra năng lực tiếng Hàn
hồi tháng 4 đã có 30.571 người đăng ký dự thi và đã có 10.678 người đỗ, chiếm
30,5%. Đến nay, số lao động đã làm hồ sơ dự tuyển gửi sang Hàn Quốc là 9.700
người.
9 tháng đầu năm 2010, tổng số lao động nước ngoài được nhập cảnh vào Hàn Quốc
là 20.200 người, trong đó Việt nam đã có 3.209 lao động, chiếm 15,9%, đứng đầu
trong số 15 quốc gia phái cử.
-Lao động VN xuất khẩu sang Hàn Quốc nhiều thứ hai chỉ sau Đài Loan,
chiếm xấp xỉ 11,5% trong tổng số lao động xuất khẩu .Trong đó lao động nam
chiếm 87% số lao động tại Hàn Quốc .
Chính sách kinh tế đối ngoại_1
3
Nguồn: Cục Quản lý lao động ngoài nước
-Tiền từ các hợp đồng với công ty Hàn Quốc sử dụng lao động VN và tiền từ
người lao động gửi về làm tăng nguồn ngoại hối của quốc gia . Hằng năm ngoại hối
do lao động xuất khẩu sang Hàn Quốc gửi về qua đường chính thức khoảng 760
triệu USD.

-Cơ cấu lao động VN sang HQ là: tập trung vào các nghành là công nghiệp
,thuyền viên ,xây dựng. Trong đó sử dụng lao động xk nhiều nhất là lĩnh vực công
nghiệp chiếm gần 87% . Số còn lại làm việc trong các ngành nông nghiệp, xây dựng
và thủy sản.
Lượng lao động đã qua đào tạo tăng qua các năm .Từ năm 2006 đền năm 2008
tăng 7564 người (năm 2006 là 10577 người,năm 2008 là 18141 người).
Chính sách kinh tế đối ngoại_1
4
Hàn Quốc Ngành nghề Số LĐXK đã qua đào tạo
2006 2007 2008
Công nghiệp 8205 10462 14219 32886
Thuyền viên tàu cá 1219 1409 2380 5008
Vận tải biển 90 82 68 240
Xây dựng 1031 152 783 1966
Ngành nghề khác 32 82 691 805
Lao động lành nghề
(TDC)
1255 1579 8428 11262
Cộng 10577 12187 18141 40905
Nguồn: Cục Quản lý lao động ngoài nước
1.2 Các chính sách, giải pháp của Việt Nam trong việc tổ chức, quản lý
hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam sang Hàn Quốc
- Nhà nước đã đưa ra bộ luật cho người lao động ở nước ngoài:
Luật người lao động VN đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng của quốc hội
khóa XI, kỳ họp thứ 10 số 72/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006
Điều 5 của Luật người lao động Việt nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng quy định chính sách của nhà nước về người lao động đi làm việc ở nước ngoài
như sau:
1. Tạo điều kiện thuận lợi để công dân Việt nam có đủ điều kiện đi làm việc ở
nước ngoài.

2. Bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động đi làm việc ở nước
ngoài và của doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài.
3. Hỗ trợ đầu tư mở thị trường lao động mới, thị trường có thu nhập cao, thị
Chính sách kinh tế đối ngoại_1
5
trường tiếp nhận nhiều người lao động; hỗ trợ đào tạo lao động quản lý, dạy nghề,
ngoại ngữ cho người lao động
4. Có chính sách tín dụng ưu đãi cho các đối tượng chính sách xã hội đi làm
việc nước ngoài.
5. Khuyến khích đưa nhiều người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật đi
làm việc ở nước ngoài, đưa người lao động đi làm việc ở thị trường có thu nhập cao,
khuyến khích đưa người lao động đi làm việc tại công trình, dự án, cơ sở sản xuất,
kinh doanh do doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trúng thầu, nhận thầu, đầu tư thành
lập ở nước ngoài.
- Đã thành lập hiệp hội xuất khẩu lao động VN (VAMAS)
Hiệp hội xuất khẩu lao động VN( "Vietnam Association of Manpower
Supply") thành lập vào ngày 7 tháng 4 năm 2004 đã đưa ra được điều lệ của hiệp
hội xuất khẩu lao động.
(Đã được thông qua tại Đại hội thành lập vào ngày 7 tháng 4 năm 2004 và Bộ
Nội vụ phê duyệt tại Quyết định số 41/2004/QĐ-BNV, ngày 21 tháng 5 năm 2004)
Tính chất Hiệp hội
Hiệp hội Xuất khẩu lao động Việt Nam là một tổ chức Xã hội - Nghề nghiệp,
đại diện cho quyền lợi và lợi ích của cộng đồng các doanh nghiệp xuất khẩu lao
động Việt Nam (Hội viên của Hiệp hội),
Mục đích của Hiệp hội
Nhằm phối hợp, liên kết hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động,
các nhà quản lý về hoạt động xuất khẩu lao động, các cơ quan hữu quan, tổ chức và
cá nhân ở trong nước và ở nước ngoài quan tâm đóng góp, tạo điều kiện phát triển
sự nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam;

Vận động tập hợp, động viên khuyến khích hội viên nâng cao kiến thức,
nghiên cứu, đề xuất các giải pháp xử lý những vướng mắc trong lĩnh vực xuất khẩu
lao động, hỗ trợ nhau có hiệu quả, tạo điều kiện cho các hội viên phát triển bình
đẳng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên.
- Có nhiều chính sách hỗ trợ xuất khẩu lao động
- Hỗ trợ tiền cho người lao động học nghề để xuất khẩu lao động ( tỉnh Lâm
Đồng đã thực hiện)
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Lâm Đồng vừa cho biết, theo quyết
định mới đây của Uỷ ban Nhân dân tỉnh, đối tượng có nguyện vọng và có đủ điều
kiện đi lao động ở nước ngoài có hộ khẩu tại địa phương sẽ được tỉnh hỗ trợ tiền
Chính sách kinh tế đối ngoại_1
6
học nghề, học ngoại ngữ và giáo dục định hướng trước khi xuất khẩu lao động
- Khuyến khích hỗ trợ cho người lao động và doanh nghiệp ( tỉnh Thanh Hóa
thực hiện)
Tại kỳ họp thứ 13, HĐND tỉnh Thanh Hoá khóa XV đã thông qua các chính
sách lớn hỗ trợ NLĐ trong đào tạo nghề, vay vốn ,…
 Theo Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Nguyễn Thị Kim Ngân, Chính phủ
Việt Nam luôn coi trọng việc thực hiện các giải pháp để phát triển hoạt động đưa
người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài một cách bền vững với nhiều chính sách
khác nhau, trong đó tập trung vào 5 giải pháp trọng tâm:
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài.
Từ năm 1996 đến nay, Chính phủ đã lần lượt ban hành 4 Nghị định, đặc biệt
năm 2006, Quốc hội đã ban hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng và đã có hiệu lực từ ngày 1/7/2007. Với luật này, hoạt
động đưa người Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài có một khung pháp lý vững
chắc và đầy đủ để phát triển trong thời gian tới.
- Đàm phán với các nước nhận lao động Việt Nam để ký kết các thoả thuận
và hợp tác trong lĩnh vực tiếp nhận lao động Việt Nam sang làm việc.

Cho đến nay, Việt Nam đã ký các hiệp định với các nước Hàn Quốc. Đối với
các nước nhận lao động Việt Nam nhưng chưa có hiệp định hoặc thoả thuận, chúng
ta đã tiếp xúc, đàm phán và tạo ra sự hợp tác chính thức với Chính phủ Hàn Quốc
trên thực tế nhằm phối hợp quản lý, bảo vệ quyền lợi của người lao động
Việt Nam.
- Coi trọng công tác quản lý, giám sát hoạt động đưa người lao động đi làm
việc ở Hàn Quốc.
Bộ LĐ-TB&XH cùng các bộ, ngành liên quan và chính quyền địa phương
thường xuyên theo dõi, phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực này, gây ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động.
- Tổ chức bảo vệ quyền lợi người lao động làm việc ở nước ngoài.
Chính phủ Việt Nam giao cho các đại diện Việt Nam ở nước ngoài bảo vệ
quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người lao động. Tại các các nước có nhiều lao
động Việt Nam làm việc, đã thành lập các Ban Quản lý lao động trong cơ quan đại
diện để thực hiện nhiệm vụ này. Ngoài ra, luật pháp Việt Nam cũng quy định các
doanh nghiệp làm dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
Chính sách kinh tế đối ngoại_1
7
phải có trách nhiệm cử đại diện các nước nhận lao động để bảo vệ quyền lợi người
lao động.
- Hỗ trợ người lao động có đủ năng lực và kiến thức cần thiết để có thể tự
bảo vệ quyền lợi của mình khi làm việc ở nước ngoài.
Mọi người đi làm việc ở nước ngoài được đào tạo, bồi dưỡng về tay nghề,
kiến thức pháp luật, phong tục tập quán, các ứng xử trong công việc và cuộc sống
của nước sẽ đến làm việc.
- Marketing trong XKLĐ :
Tiến hành nghiên cứu thị trường XKLĐ phân tích và đưa ra những chiến lược
là sách lược cho hoạt động xklđ và các biện pháp tiến hành cho từng điều kiện cụ
thể .
Quảng bá hàng hóa sức lao động . Đây chính là việc xây dựng thương hiệu

cho hàng hóa sức lao động Việt Nam.
2 Thuận lợi và khó khăn của hoạt động xuất khẩu lao động sang thị
trường Hàn Quốc
2.1 Thuận lợi :
- Một là, VN có nguồn lao động dồi dào ,giá nhân công rẻ ,hơn nữa lao
động VN có truyền thống cần cù ,chăm chỉ ,ham học hỏi tiếp thu cái mới , nên là
nơi được các nhà sử dụng lao động nước ngoài muốn hợp tác để thuê lao động .
- Hai là, lao động ngày càng được đào tạo bài bản , tay nghề được nâng cao
nhiều hơn . Nếu số ld đã qua đào tạo xuất khẩu sang HQ năm 2006 là 10577 thì đến
năm 2008 là 18141 ,như vậy là tăng 7564 lao động hay hơn 71 %.
- Ba là, Thủ tục để sang Hàn quốc làm việc ngày 1 đơn giản hơn với mức
chi phí thấp .Không đòi hỏi trình độ tay nghề, chỉ cần vượt qua kỳ kiểm tra tiếng
Hàn và với chi phí hơn 600USD, LĐVN đã có cơ hội đi làm việc tại Hàn Quốc theo
chương trình thực hiện theo Luật cấp phép cho LĐ nước ngoài (EPS). . Người lao
động nước ngoài nói chung cũng như người lao động Việt Nam làm việc tại Hàn
Quốc theo chương trình này được pháp luật Hàn Quốc bảo vệ, được đối xử bình
đẳng và hưởng những quyền lợi cơ như người lao động Hàn Quốc. Người lao động
Việt Nam tại Hàn Quốc đều có việc làm và thu nhập ổn định. Mức thu nhập trung
bình khoảng trên 1000 USD/ người/tháng. Nếu làm thêm giờ hoặc làm việc vào ban
đêm, ngày lễ, ngày nghỉ cuối tuần thì người lao động được hưởng tiền lương cao
hơn. Với những ưu đãi trên, Hàn Quốc là mảnh đất khá màu mỡ để người lao động
nhắm đến, nhất là lao động muốn thoát nghèo.
Chính sách kinh tế đối ngoại_1
8
- Bốn là, Chính phủ đưa ra nhiều chính sách để đẩy mạnh XKLD .Tháng
4/2009 vừa qua, Chính phủ đã phê duyệt đề án hỗ trợ 61 huyện nghèo, đẩy mạnh
xuất khẩu lao động cũng là một yếu tố tích cực, hỗ trợ cho thị trường lao động xuất
khẩu lao động Việt Nam có điều kịên đối phó với khó khăn thực tại, có cơ hội đầu
tư phát triển chất lượng nguồn nhân lực và sãn sàng cung ứng kịp thời khi nền kinh
tế thế giới bắt đầu hồi phục, có tác động tốt tới những thị trường truyền thống với

lao động Việt Nam. Rất nhiều đề án đào tạo ,nâng cao chất lượng lao động được
giao cho các cơ quan chức năng thực hiện .Bộ ngoại giao phối hợp với bộ LĐ
TB&XH luôn tìm kiếm và kí kết nhiều bản hợp đồng XKLĐ sang HQ .
- Năm là, Hàn Quốc là 1 đất nước có nền chính trị ổn định. Người lao động
khi sang đây được hưởng chế độ và làm việc theo thời hạn trong hợp đồng .Tình
hình chính trị có ảnh hưởng không hề nhỏ tới vấn đề xuất khẩu lao động . Như ta
biết vào năm 2011 tại Libya đã xảy ra biến cố chính trị khiến hàn nghìn lao động
VN tại đây hoang mang ,lo sợ và rất khó khăn mới có thể trở về nước được .
2.2 Khó khăn :
Nhưng hiện nay ngành xuất khẩu lao động đang đứng trước nguy cơ mất
thị trường Hàn Quốc, thực trạng của tình hình này được trình bày rõ hơn dưới
đây.
- Một là, thời gian qua, số lượng người lao động nước ngoài, đặc biệt là
lao động Việt Nam cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc đang ở mức đáng lo ngại và
ngày càng gia tăng làm ảnh hưởng đến hình ảnh của lao động Việt Nam nói chung
và quan hệ hợp tác lao động giữa Việt Nam và Hàn Quốc nói riêng.Theo thống kê
của Bộ Lao động và Việc làm Hàn Quốc, trong tổng số trên 60.000 lao động Việt
Nam hiện đang làm việc tại Hàn Quốc, có 8.780 người đang cư trú bất hợp pháp,
đứng đầu về số lượng so với các quốc gia phái cử (Trung Quốc là 5.100 người;
Philippin là 4.958 người; Indonesia là 3.728 người; Mông Cổ là 3.515 người; Thái
Lan là 3.216 người). Nghiêm trọng hơn là tình trạng người lao động bỏ trốn ngay
sau khi nhập cảnh vào Hàn Quốc cũng tăng lên trong thời gian gần đây.
- Hai là, người lao động Việt Nam cũng bị phía Hàn Quốc xếp vào tốp dẫn
đầu so với các nước khác về yêu cầu đòi chuyển đổi chỗ làm việc với các lý do
không chính đáng (chiếm tỷ lệ 32%).
Đặc biệt chủ sử dụng lao động trong ngành nông nghiệp và ngư nghiệp bày tỏ
sự không hài lòng với người lao động Việt Nam đang tăng lên, đã phần nào ảnh
hưởng đến việc lựa chọn lao động Việt Nam trên mạng Internet. Từ các phàn nàn
này, các Hiệp hội Ngư nghiệp, Hiệp hội Nông nghiệp, Hiệp hội Các doanh nghiệp
vừa và nhỏ của Hàn Quốc đã có những đánh giá không tích cực về lao động Việt

Nam. Đây thực sự là thông tin buồn đối với ngành xuất khẩu lao động vốn đang gặp
Chính sách kinh tế đối ngoại_1
9
khó khăn như hiện nay. Nhiều lao động Việt Nam khi sang Hàn Quốc đã rất bất ngờ
trước điều kiện và môi trường làm việc nặng nhọc. Do không được xác định tinh
thần, các lao động ta thường phản ứng bằng cách xin chuyển xưởng sản xuất
Ông Hwang Chang Bae, Giám đốc Trung tâm hỗ trợ người lao động nước
ngoài thành phố Incheon cho biết: Người lao động đòi chuyển xưởng bởi nhiều lý
do, nào là lương thấp, điều kiện phúc lợi không tốt, thích chuyển đến gần trung tâm
thành phố Nhiều người chỉ biết đến cái lợi trước mắt Làm ít nhưng lại muốn
lương cao, là tâm lý chung của nhiều lao động VN, hơi một tý là bỏ việc, chuyển
chỗ làm, bất chấp các quy định theo hợp đồng đã ký, đó là căn bệnh trầm kha của
nhiều lao động VN tại Hàn Quốc.
Thực trạng lao động VN bỏ trốn, tự ý chuyển chỗ làm ngày càng lan rộng,
đang gióng lên một hồi chuông báo động về công tác quản lý lao động VN tại Hàn
Quốc
- Ba là, không chỉ ở Hàn Quốc mà còn ở các nước khác nữa lao động Việt
Nam có thói quen sống và làm việc thiếu kỉ luật, buông thả… Tuy lao động Việt
Nam được giới chủ Hàn Quốc đánh giá khá cao về sự khéo léo, tính cần cù, chịu
khó nhưng tác phong làm việc vẫn mang đậm tính nông nghiệp, chưa có tác phong
làm việc của một nước công nghiệp. Tính kỷ luật, khả năng chấp hành và thực hiện
nội quy trong quá trình sản xuất của của lao động nước ta lại bộc lộ nhiều yếu kém,
gây ảnh hưởng không nhỏ đến hình ảnh trong mắt chủ sử dụng lao động.
Có thể lấy ví dụ cụ thể tại huyện Đak Rông, trong số 60/96 lao động đã xuất
cảnh phải về lại địa phương năm 2009 có đến 50 người dân tộc thiểu số (83,33%);
năm 2010 có 109 LĐ/197 LĐ xuất cảnh phải về lại địa phương, trong đó người dân
tộc thiểu số chiếm 89,91% (98 người). Theo điều tra, nguyên nhân chính dẫn đến
tình trạng lao động Việt Nam phải về nước trước thời hạn do thói quen sống và làm
việc thiếu kỷ luật, buông thả Không ít người trong nhóm về nước sớm đã phá hợp
đồng lao động với lý do nhớ nhà, không thích nghi được với cộng động mới ở nước

sở tại, bất đồng ngôn ngữ…
- Bốn là, ngôn ngữ không thành thạo khiến lao động cũng không đáp ứng
đúng các phần việc mà chủ giao. Mặc dù lao động Việt Nam luôn đạt điểm cao trong
các kỳ thi kiểm tra tiếng Hàn (gần 80% ứng viên dự tuyển trúng tuyển trong các đợt
kiểm tra) nhưng thực tế khi nhập cảnh Hàn Quốc, có những lao động thậm chí không
nói được một câu tiếng Hàn. Thực trạng này xuất phát từ khâu luyện thi theo bộ đề
được quy định. Lao động Việt Nam chỉ tập trung theo các mẫu câu có trong bộ đề
nhưng các tình huống trên thực tế lại không giống như vậy, vì thế mà thường "cười
héo" đứng như "vịt nghe sấm" trong các tình huống giao tiếp với chủ. Đây cũng là
một tình trạng đang xảy ra phổ biến cần có những giải pháp khắc phục nó.
Chính sách kinh tế đối ngoại_1
10
Cũng bởi bất đồng ngôn ngữ, xung khắc về văn hóa và sự khắt khe, hà khắc
của giới chủ mà đã xảy ra nhiều vụ việc đáng tiếc. Mới đây nhất, ngày 23/3/2011,
lao động Nguyễn Việt Ân, sinh năm 1987, quê ở Vĩnh Long, nhập cảnh Hàn Quốc
tháng 12/2007 đã dùng dao đâm liên tiếp, cướp đi tính mạng của một người Hàn
Quốc. Dẫu là nguyên nhân gì đi nữa, nhưng có một sự thật là giới chủ Hàn Quốc đã
dần chuyển hướng sử dụng lao động Indonesia, Thái Lan, Campuchia, Philipines
thay cho lao động VN.
-Năm là, quá trình làm thủ tục cho lao động nhập cảnh từ khi có hợp đồng
tuyển dụng của chúng ta vẫn còn chậm so với các nước khác. Theo Bộ Lao động
Hàn Quốc, Việt Nam là quốc gia có đông lao động được tuyển dụng nhất nên việc
kéo dài quá trình làm thủ tục nhập cảnh cho lao động vào Hàn Quốc sẽ làm ảnh
hưởng đến việc thực hiện chương trình và phân bổ chỉ tiêu hàng năm.
- Sáu là, có một tỷ lệ không nhỏ lao động không đủ sức khỏe làm việc nhưng
không hiểu sao vẫn trót lọt với giấy chứng nhận sức khỏe loại A. Có nhiều lao động
mắc bệnh viêm gan B nhưng vẫn xin được giấy khám sức khỏe tốt, tuy nhiên, sau
khi theo đoàn sang đến sân bay Hàn Quốc thì họ bỏ chốn khỏi đoàn….
Trên đây là những thuận lợi cũng như những khó khăn mà Việt Nam đang phải
đối mặt khi xuất khẩu lao động sang Hàn Quốc.

 Nguyên nhân:
- Việt Nam có xuất phát điểm thấp, đi lên từ nước nông nghiệp và đang trên
con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa , mặt khác, lao động xuất khẩu chủ yếu là
lao động phổ thông nên chưa có tác phong công nghiệp và khó thích nghi với môi
trường công nghiệp của HQ. Trong khi đó, Hàn Quốc là quốc gia công nghiệp hóa,
cường độ làm việc cao, áp lực công việc lớn, do vậy nếu không có sự đào tạo định
hướng chuẩn mực từ trong nước, lao động Việt Nam sẽ có những lệch lạc trong
nhận thức về môi trường lao động tại nước này.
- Chúng ta chưa tạo được một cơ chế thuận lợi để người lao động tiếp cận
được với các nguồn thông tin về các vấn đề liên quan tới hoạt động XKLĐ. Vì thế,
người lao động thường chỉ tìm hiểu thông tin thông qua những người quen biết,
những người đã đi làm ở người ngoài trở về và không ít những trường hợp phải nhờ
“cò” mồi với nhiều thông tin không chính xác. Sự thiếu thông tin khiến cho những
người lao động dễ bị lừa đảo và không cân nhắc được hết các lợi ích và rủi ro cho
mình, đẩy chi phí người lao động phải trả để được sang HQ lên cao, thậm chí lên tới
100- 200 triệu trong khi theo quy định chỉ từ 10-12 triệu. Trong khi đó, với chương
trình làm việc tại HQ trong 3 năm, lương trung bình 900-1100$/tháng không thể bù
đắp được chi phí nên người lao động phải bỏ chốn ở lại hoặc chuyển đổi công việc
với mức thu nhập cao hơn.
Chính sách kinh tế đối ngoại_1
11
- Các cơ quan quản lý còn tỏ ra thiếu hiệu quả. Ở các địa phương, nơi có
các doanh nghiệp dịch vụ XKLĐ, đã không nắm bắt được tình hình thực tế nên
không biết được các hoạt động của các doanh nghiệp, các trung tâm XKLĐ này.
Khi xảy ra sai phạm rồi, các cơ quan quản lý mới biết. Nhưng thiệt hại đã xảy ra,
những người của các doanh nghiệp dịch vụ đó đã chuyển đi nơi khác (vì hầu hết các
trụ sở là do họ thuê). Cuối cùng, người lao động vẫn là người phải gánh chịu hậu
quả. Còn với các cơ quan đại diện ở Hàn Quốc, việc bảo vệ quyền lợi người lao
động bên nước bạn cũng chưa hiệu quả và sát với thực tế.
- Cách thức tuyển chọn lao động sang Hàn Quốc không sát với thực tế.

Cuộc thi tiếng Hàn để tuyển chọn lao động sang HQ vẫn mang tính hình thức, luyện
thi theo bộ đề nên người lao động vẫn chưa thực sự được đào tạo thông thạo tiếng
Hàn.
- Hệ thống pháp luật còn thiếu chặt chẽ, thiếu các chế tài, biện pháp xử lý
đối với các hành vi vi phạm.
- Hoạt động XKLĐ là một hoạt động cần có sự phối hợp giữa các các quốc
gia có mối quan hệ XKLĐ. Trong quá trình hợp tác này, chúng ta cần phải ký kết
các điều ước quốc tế để tạo ra sự thuận lợi cho hoạt động XKLĐ, cũng như có
những cơ chế hữu hiệu nhất để bảo vệ quyền và lợi ích của người Việt Nam lao
động ở nước ngoài
Những nguyên nhân chính trên đây là căn cứ để Nhà nước đưa ra các biện
pháp, chính sách phù hợp nhằm nâng cao về lượng cũng như về chất của hoạt động
xuất khảu lao động sang Hàn Quốc nói riêng và các nước khác nói chung sẽ được
trình bày dưới đây.
II- KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI
Hàn Quốc là một thị trường tiềm năng mà Chính phủ Việt Nam cần chú
trọng. Vì thế, nhiều chuyên gia trong lĩnh vực này cho rằng, nên có một cái nhìn sâu
hơn cho công tác xuất khẩu lao động, nhằm chuyên nghiệp hóa lĩnh vực này. Đó là:
1. Có chiến lược đào tạo, giáo dục nhằm nâng cao chất lượng lao động.
Tập trung vào các kỹ năng cần thiết như ngoại ngữ, các kỹ năng nhằm thích
nghi với môi trường làm việc ở Hàn Quốc. Giáo dục một cách bài bản về ý thức cho
người lao động thay vì đứng trước nguy cơ mất thị trường mới loay hoay đi tìm các
giải pháp một cách "đối phó", "mất bò mới lo làm chuồng" như hiện nay.
2. Minh bạch hóa thông tin cho người lao động.
Chính phủ Việt Nam cũng cần phải có những hành động để minh bạch hóa
thông tin cho người lao động về công việc, chế độ chăm sóc sức khỏe, điều kiện
Chính sách kinh tế đối ngoại_1
12
sống, tiền lương… ở đất nước Hàn Quốc cho người lao động , đồng thời, cũng phải
minh bạch hóa thông tin của người lao động về trình độ, sức khỏe…của người lao

động Việt Nam cho chủ sử dụng lao động. Truyền đạt thông tin để người lao động
hiểu và ý thức được môi trường lao động Hàn Quốc để từ đó nâng cao trách nhiệm
cá nhân người lao động.
3. Chấn chỉnh sắp xếp lại các đơn vị tham gia xuất khẩu lao động.
Kiên quyết dẹp bỏ những đơn vị thiếu năng lực hoạt động, xử lý theo pháp luật
tất cả các hành vi làm trái qui định, lừa đảo.
Mạnh dạn qui hoạch lại các doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu lao động, có
phân cấp kiểm tra, đánh giá năng lực và kế hoạch thực hiện khả thi của từng doanh
nghiệp với những hợp đồng sẽ được thực hiện.
Xây dựng hệ thống liên kết giữa doanh nghiệp xuất khẩu lao động, cơ sở đào
tạo và các cơ sở sản xuất nhằm phục vụ cho mục đích đào tạo một cách có hệ thống.
4. Tăng cường năng lực của các cơ quan quản lý lao động xuất khẩu ra
nước ngoài.
Xiết lại bộ máy quản lý về xuất khẩu lao động ở các cấp nhằm tăng cường hiêụ
lực quản lý nhà nước đối với công việc.
Tăng cường chức năng, trách nhiệm của cơ quản quản lý lao động nước ngoài
nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Bằng những cán bộ có kinh nghiệm
nghề nghiệp, tâm huyết, giỏi ngoại ngữ có kiến thức cơ bản về ngoại giao, linh hoạt
trong xử lý các vấn đề nảy sinh mà quan trọng nhất là phải có tinh thần dân tộc, xây
dựng đội ngũ này cũng phải qua đào tạo cơ bản, được duy trì qua từng nhiệm kỳ, có
tính chuyên nghiệp bắt buộc, luôn luôn được bổ sung và thanh lọc.
5. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách chặt chẽ, hợp lý.
Đảm bảo đầy đủ các chế tài nhằm xử lý các hoạt động, hành vi vi phạm của
các cá nhân, tổ chức trong hoạt động xuất khẩu lao động ra nước ngoài nói chung và
HQ nói riêng.
Chính phủ nên có những chính sách ưu đãi đối với những lao động thực hiện
tốt các quy định và có những biện pháp đối với những lao động không thực hiện tốt.
6. Tăng cường mối quan hệ hợp tác đôi bên cùng có lợi với cơ quan đại
diện Ngoại giao, các thương vụ Việt Nam ở nước ngoài.
Tranh thủ những kinh nghiệm quý báu của họ trong việc quản lý, giải quyết

những vướng mắc cho công dân Việt Nam về thủ tục giấy tờ.
Phối hợp với nước bạn trong việc quản lý và bảo vệ người quyền lợi người lao
Chính sách kinh tế đối ngoại_1
13
động ở nước họ.
7. Tái sử dụng, giải quyết công ăn việc làm hợp lý.
Sau khi người lao động về nước, Nhà nước cần có những chính sách tái sử
dụng họ vào những ngành nghề thích hợp mà họ đã có kỹ năng. Hỗ trợ đào tạo thêm
để thích nghi với những ngành nghề mới, công việc mới trong nước.
8. Đẩy mạnh giá trị xuất khẩu lao động.
Trong một tầm nhìn dài hạn, thay vì đẩy mạnh số lượng lao động như hiện nay
Chính phủ cần có những chính sách đẩy mạnh lao động đi làm việc trong các lĩnh
vực công nghệ cao, muốn vậy công tác giáo dục trình độ người lao động trong
tương lai cần phải coi trọng hàng đầu. Và ngành nghề đào tạo chủ yếu là trong
ngành công nghệ kỹ thuật cao. Như vậy, người lao động Việt Nam sẽ được chủ Hàn
Quốc đánh giá cao.
Chính sách kinh tế đối ngoại_1
14
C- KẾT LUẬN
Như vậy, sau khi nghiên cứu hoạt động xuất khẩu lao động từ Việt Nam
sang Hàn Quốc trong những năm qua, chúng ta đã có cái nhìn rõ ràng hơn về thực
trạng của vấn đề cũng như những thuận lợi và khó khăn mà Việt Nam gặp phải.
Bằng những lập luận của mình, bài phân tích đã đưa ra những định hướng về giải
pháp trong thời gian tới. Thực tế nhận thấy rằng, Hàn Quốc là một thị trường điển
hình trong hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam. Mặt khác, với lợi thế so
sánh là nguồn lao động dồi dào, Việt Nam sẽ phải chú trọng để khai thác lợi thế này
một cách có hiệu quả lâu dài. Vì vậy, những bài học kinh nghiệm và giải pháp rút ra
trên đây sẽ là những đóng góp trong việc phát triển thị trường Hàn Quốc cũng như
các thị trường xuất khẩu lao động khác mà Việt Nam đã, đang và sẽ hướng tới,
đòng thời, phát triển hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam trong thời gian

tới.
Chính sách kinh tế đối ngoại_1
15
D- DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật người lao động Việt nam đi làm việc ở nước ngoài
2. Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 24 (440) tháng 12/2008
3. ( Cục quản lý lao
động ngoài nước).
4. ( Bộ lao động thương binh xã hội )
5. (Sài Gòn Minh Luật )
6.
7. ( Thời báo kinh tế Việt Nam)
8.
Chính sách kinh tế đối ngoại_1
16

×