Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Bài giảng môn Giáo dục chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.92 KB, 78 trang )


Chương mở đầu: NHẬP MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

I. KHÁI NIỆM VÀ ĐỐI TƯỢNG HỌC TẬP
1. Khái niệm
1.1. Chính trị và môn học Giáo dục chính trị
Chính trị là toàn bộ những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp,
các dân tộc, các quốc gia, các lực lượng xã hội mà cốt lõi của nó là vấn đề giành, giữ và thực
thi quyền lực nhà nước.
Giáo dục chính trị là bộ phận của công tác tư tưởng của Đảng giáo dục, thực hiện việc
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối, quan điểm
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Giáo dục chính trị gồm những nội dung cơ bản của các khoa học Triết học Mác - Lênin,
Chủ nghĩa xã hội khoa học, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường
lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của môn học
Mục tiêu chung:
Môn giáo dục chính trị nhằm giáo dục con người giác ngộ về chính trị, có tri thức khoa
học về chính trị, hình thành thế giới quan và nhân sinh quan khoa học, hiểu biết về chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối của Đảng, có ý thức trách nhiệm
xây dụng chủ nghĩa xã hội và mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu cụ thể:
Giáo dục chính trị là môn học nghiên cứu lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội nhằm
làm sáng tỏ các quy luật chung nhất của cách mạng Việt Nam, việc áp dụng các quy luật đó
vào thực tế hoạt động chính trị và tổ chức chính trị xã hội. Hiểu rõ về chính trị, giác ngộ về
chính trị để chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, trở thành người công dân tốt, người lao động có ích cho xã hội và người yêu
nước chân chính.
Yêu cầu của môn học:
Xây dựng cho học sinh niềm tin vào đường lối của Đảng, vào sự nghiệp công nghiệp hoá,


hiện đại hoá đất nước.
Xây dựng con người Việt Nam đủ khí phách bản lĩnh, phẩm chất, đạo đức và kiến thức
văn hoá tổng hợp, nhất là kiến thức về khoa học xã hội và nhân văn, về thế giới, về lịch sử đất
nước và con người Việt Nam. Người học cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tính độc lập
trong nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ thực tiễn cách
mạng Việt Nam, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn công tác và cuộc sống hàng ngày.
2. Đối tượng học tập
Đối tượng học tập, nghiên cứu môn học Giáo dục chính trị là những quan điểm cơ bản,
nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong phạm vi ba bộ phận cấu thành nó.
Hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam và đường lối cách
mạng của Đảng từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; quá
trình lãnh đạo đất nước thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.
II. PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP
1
1. Áp dụng các phương pháp học tập tích cực
Trong dạy và học, sử dụng kết hợp nhiều phương pháp: Phỏng vấn nhanh, hỏi - đáp, nêu
vấn đề, làm việc nhóm, phương pháp tình huống, phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic.
Ngoài ra có sự kết hợp các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp và
diễn dịch, cụ thể hoá và trừu tượng hóa thích hợp với từng nội dung của môn học.
2. Học tập liên hệ với nghề nghiệp tương lai và thực tiễn cuộc sống
Chú trọng gắn giảng dạy lý luận với tìm hiểu các vấn đề thực tiễn đang đặt ra, giúp người
học có phương pháp giải quyết vấn đề theo định hướng đúng đắn; gắn lý luận với hoàn thiện
nhân cách, đạo lý sống, nhất là nhân cách nghề nghiệp trong tương lai.
III. Ý NGHĨA HỌC TẬP
1. Góp phần hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học
1.1. Có thế giới quan khoa học
Giáo dục chính trị góp phần mài sắc tư duy, cung cấp những tri thức khoa học cũng như
những kinh nghiệm của cuộc sống con người và xã hội loài người để hình thành thế giới quan
khoa học. Đó là trang bị cho người học những quan điểm triết học, đạo đức, chính trị, thẩm

mỹ để hình thành một thế giới quan khoa học, cách mạng, có niềm tin vào sự nghiệp cách
mạng của nhân dân do Đảng lãnh đạo.
Thế giới quan khoa học góp phần điều chỉnh hành vi của con người với môi trường xung
quanh, định hướng cho nhận thức và hành động đúng đắn, không chỉ trong nhận thức thế giới
mà còn cải tạo thế giới.
1.2. Có phương pháp luận đúng đắn
Thế giới phong phú và đa dạng, muốn nhận thức được thế giới, con người cần có một
phương pháp luận đúng đắn, khoa học. Phải xem xét các sự vật trong mối liên hệ ràng buộc
lẫn nhau và trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng với một tư duy linh hoạt; phản
ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Đó chỉ có thể là phương pháp luận biện chứng.
2. Bồi dưỡng nhận thức, năng lực hành động và rèn luyện đạo đức
2.1. Bồi dưỡng nhận thức chính trị
Thứ nhất, góp phần cung cấp cho người học hiểu được hệ thống chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai, có tri thức lý luận khoa học, cách mạng góp phần thẩm định tính đúng đắn các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nâng cao ý thức tự giác
tu dưỡng đạo đức cách mạng, khắc phục chủ nghĩa cá nhân và xây dựng con người mới. Đồng
thời, góp phần đấu tranh chống lại những luận điểm sai trái xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường cách mạng Việt Nam.
2.1. Nâng cao năng lực hành động
Việc nắm vững tri thức chính trị giúp cho người học có khả năng tham gia vào các hoạt
động tư tưởng của Đảng và các nhiệm vụ chính trị - xã hội của Đảng, của các đoàn thể nhân
dân và của Nhà nước.
2.3. Rèn luyện phẩm chất đạo đức và tình cảm tốt đẹp
Có bản lĩnh chính trị vững vàng, yêu nước, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tích cực tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước;
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Trung thực và thẳng thắn, khiêm tốn, giản dị, nói
đi đôi với việc làm, có quan điểm quần chúng đúng đắn. Có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh

thần trách nhiệm trong công tác, có tình yêu nghề nghiệp./.
2
CHƯƠNG 1: CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
1. Khái niệm chủ nghĩa Mác- Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học của Mác, Ăngghen
và sự phát triển của V.I.Lênin; được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa những giá trị
trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, tổng kết các thành tựu của khoa học và thực tiễn thời
đại; là thế giới quan, phương pháp luận cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động;
là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế
độ áp bức, bóc lột và tiến tới thực hiện sự nghiệp giải phóng con người.
Chủ nghĩa Mác-Lênin được cấu thành từ ba bộ phận lý luận cơ bản có mối quan hệ
thống nhất biện chứng với nhau, đó là: Triết học Mác-Lênin, Kinh tế chính trị học Mác-Lênin
và Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Triết học Mác-Lênin là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; xây dựng thế giới quan và phương pháp luận chung
nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
Kinh tế chính trị học Mác-Lênin nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt
là những quy luật của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất mới – phương thức sản xuất cộng sản
chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là kết quả tất nhiên của sự vận dụng thế giới quan, phương
pháp luận triết học và kinh tế chính trị Mác-Lênin vào việc nghiên cứu làm sáng tỏ những quy
luật khách quan của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa - bước chuyển biến lịch sử từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
Như vậy, mặc dù ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác -Lênin có đối tượng
nghiên cứu cụ thể khác nhau nhưng đều nằm trong một hệ thống lý luận khoa học thống nhất
– đó là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi
chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng loài người.
2. Cơ sở khách quan của sự hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin

2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội.
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu đã phát triển mạnh mẽ trên nền tảng của cuộc
cách mạng công nghiệp được thực hiện trước tiên ở nước Anh vào cuối thế kỷ XVIII. Cuộc
cách mạng công nghiệp không những đánh dấu bước chuyển hóa từ nền sản xuất thủ công tư
bản chủ nghĩa sang nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa mà còn làm thay đổi sâu
sắc cục diện xã hội, trước hết là sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.
Mâu thuẫn sâu sắc giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa với quan hệ sản xuất
mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ qua cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1825 và
hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân chống lại chủ tư bản; tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa
của công nhân ngành dệt thành phố Liôn (Pháp) năm 1831, 1834; Phong trào Hiến chương
Anh (1838-1848), khởi nghĩa của công nhân dệt ở Silêdi (Đức) năm 1844 Đó là những
bằng chứng lịch sử thể hiện giai cấp vô sản đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, tiên
phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội.
3
Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản nảy sinh yêu cầu khách quan là nó phải được soi
sáng bằng lý luận khoa học. Chủ nghĩa Mác ra đời là sự đáp ứng yêu cầu khách quan đó; đồng
thời chính thực tiễn cách mạng đó cũng trở thành tiền đề thực tiễn cho sự khái quát và phát
triển lý luận của chủ nghĩa Mác.
2.2. Tiền đề lý luận
Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của lịch sử mà còn là
kết quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó trực tiếp nhất là triết học
cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Triết học cổ điển Đức, Mác và Ăngghen đã kế thừa và phê phán phép biện chứng duy
tâm của Hêghen để xây dựng phép biện chứng duy vật. Phê phán tính chất siêu hình, máy móc
và kế thừa thế giới quan duy vật trong triết học của Phơbach, hai ông đã xây dựng thành công
thế giới quan của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Kinh tế chính trị cổ điển Anh với các đại biểu là A.Xmith và Đ.Ricacđô, những người có
công lao to lớn trong việc xây dựng lý luận về giá trị của lao động, về nguồn gốc của lợi
nhuận, về tính chất quan trọng hàng đầu của quá trình sản xuất vật chất…khắc phục các

nhược điểm của nó như những biểu hiện của giá trị trong phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, bản chất bóc lột của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng với các đại biểu là Xanhximong, Phurie, R.Ôoen mặc dù
thể hiện rõ tinh thần nhân đạo, phê phán mạnh mẽ CNTB, dự đoán về những đặc trưng cơ bản
của xã hội tương lai, nhưng không luận chứng được một cách khoa học về bản chất của
CNTB, vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
2.3. Tiền đề khoa học tự nhiên
Cùng với những tiền đề kinh tế-xã hội và tiền đề lý luận, những thành tựu khoa học tự
nhiên cũng vừa là tiền đề, vừa là luận cứ và là những minh chứng khẳng định tính đúng đắn
về thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác; trong đó, trước hết phải kể đến phát
hiện qui luật bảo toàn và biến hóa năng lượng, thuyết tiến hóa và thuyết tế bào.
Qui luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng đã chứng minh khoa học về sự không tách
rời nhau, sự chuyển hóa lẫn nhau và được bảo toàn của các hình thức vận động của vật chất;
bác bỏ quan niệm duy tâm về sự được sinh ra của vật chất, bác bỏ quan niệm siêu hình về vật
chất.
Thuyết tế bào bác bỏ quan điểm duy tâm, tôn giáo về nguồn gốc siêu tự nhiên của vật
chất sống, bác bỏ quan niệm siêu hình về ranh giới tuyệt đối giữa các giống, loài.Khẳng định
quan điểm biện chứng về sự chuyển hóa của thế giới vật chất sống.
Thuyết tiến hóa đã chứng minh một cách khoa học về sự phát sinh phát triển một cách đa
dạng của thế giới vật chất. Khẳng định nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy
vật bằng cơ sở khoa học
3. Quá trình hình thành, phát triển của chủ nghĩa Mác- Lênin
3.1. Giai đoạn Mác - Ăngghen (1848 - 1895)
Các Mác (1818 - 1883), Ph. Ăngghen (1820 - 1895) đều là người Đức. Từ năm 1844, hai
ông bắt đầu gặp nhau, sớm thống nhất tư tưởng và hoạt động chính trị. Hai ông cùng nhau phát
hiện ra sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân và chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ
nghĩa duy vật, từ tinh thần dân chủ sang lập trường cách mạng.
Giai đoạn từ năm 1842 đến 1848 khi tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản ra đời là
giai đoạn hình thành và phát triển nền tảng của Chủ nghĩa Mác với ba bộ phận của nó.
Giai đoạn từ 1848 đến 1895 là giai đoạn hai ông bổ sung và phát triển học thuyết của

4
mình trong sự gắn bó mật thiết với thực tiễn cách mạng. Bằng hoạt động lý luận của mình,
Mác và Ăngghen đã đưa phong trào công nhân từ tự phát thành tự giác và chính phong trào
đó, học thuyết của các ông không ngừng phát triển.
3.2. Giai đoạn Lê nin bảo vệ và phát triển Chủ nghĩa Mác (1895-1924)
V. I. Lênin (1870 - 1924) đã đấu tranh, phê phán không khoan nhượng đối với mọi kẻ
thù, bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc.
Người phân tích sâu sắc những mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa đế quốc và khẳng định
cách mạng vô sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một vài nước, thậm chí ở một nước tư bản
kém phát triển. Cách mạng vô sản và phong trào giải phóng dân tộc có mối quan hệ khăng
khít với nhau. Muốn cho cách mạng vô sản thắng lợi tất yếu phải xây dựng một đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân. Đảng đó phải được tổ chức chặt chẽ và theo chủ nghĩa Mác.
Qua lãnh đạo thắng lợi cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 và
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga và Liên Xô (1917 - 1924), V.I. Lênin đã phát
triển những vấn đề lý luận mới. Đó là lý luận nhà nước và cách mạng, xây dựng chính quyền
Xô viết; phát triển kinh tế, khoa học - kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan
hệ sản xuất mới; công nghiệp hoá, điện khí hoá toàn quốc; thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa
3.3. Giai đoạn sau Lê nin (1924 cho đến nay)
Với sức mạnh của liên minh, công cuộc chống Phát xít trong chiến tranh thế giới thứ hai
không chỉ bảo vệ được thành quả cách mạng của giai cấp vô sản, mà còn đưa chủ nghĩa xã hội
phát triển ra ngoài biên giới Liên Xô, hình thành nên cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa do
Liên Xô dẫn đầu, với các thành viên như: Mông Cổ, Ba Lan, Rumani, Hunggari, Việt Nam,
Tiệp khắc, Nam Tư, Anbani, Bungari, Cộng hòa DCND Triều Tiên, CHDC Đức, Trung Quốc,
CuBa. Sự kiện này đã làm cho chủ nghĩa Tư bản không còn là hệ thống duy nhất mà song
song tồn tại là hệ thống chính trị xã hội đối lập với nó cả về bản chất và mục đích hành động
Song, do nhiều nguyên nhân mà một trong những nguyên nhân ấy là có những người
cộng sản chủ quan, vận dụng lý luận theo chủ nghĩa chiết trung nên từ những năm 90 của thế
kỷ thứ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa bị khủng hoảng và rơi vào giai đoạn thoái trào. Nhưng
ngay cả khi hệ thống xã hội chủ nghĩa bị khủng hoảng và rơi vào thoái trào thì tư tưởng xã hội

chủ nghĩa vẫn tồn tại trên phạm vi toàn cầu; quyết tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
vẫn được khẳng định ở nhiều quốc gia và chiều hướng đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
vẫn lan rộng ở các nước khu vực mỹ Latinh.
Đặc điểm của thời đại ngày nay là sự biến đồi nhanh chóng và đa dạng các mặt của đời
sống xã hội do cách mạng khoa học – công nghệ đem lại. Thế nhưng, cho dù xã hội biến đổi
nhanh chóng và đa dạng đến đâu thì bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn
không thay đổi. Chính vì vậy, để bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội mà trí tuệ, mồ hôi,
xương máu của nhiều thế hệ mới tạo dựng được; để có những bước phát triển vượt bậc trong
sự nghiệp giải phóng con người thì việc bảo vệ, kế thừa, phát triển chủ nghĩa Mac-Lênin và
đổi mới công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trở thành vấn đề cấp bách trên cả phương diện
lý luận và thực tiễn.
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Từ trước đến nay triết học có 2 trường phái đối lập nhau trong việc giải quyết vấn đề cơ
bản cảu triết học nhau là chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm.
Quan điểm duy tâm cho rằng bản chất thế giới là ý thức, ý thức là cái có trước, vật chất là
cái có sau, ý thức quyết định vật chất. Trong lịch sử, chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ
5
bản là chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
Chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất, thế giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý
thức. Chủ nghĩa duy vật đã trải qua 3 hình thức là chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại; chủ
nghĩa duy vật siêu hình thời cận đại (các nước Tây Âu thế kỷ XVII-XVIII) và của Chủ nghĩa
duy vật biện chứng do Mác và Ăngghen sáng lập từ những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó
được Lênin và những người kế tục ông bảo vệ và phát triển. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là
hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử.
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất
Trước khi chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời, nhìn chung, các nhà triết học duy vật
quan niệm vật chất là một hay một số chất tự có, đầu tiên, là cơ sở sản sinh ra toàn bộ thế giới.
Quan niệm của các nhà triết học duy vật trước Mác về vật chất tuy có những ưu điểm nhất
định trong việc giải thích cơ sở vật chất của sự tồn tại giới tự nhiên nhưng về căn bản vẫn còn

có hạn chế đó là các ông đã quy vật chất về một dạng vật thể cụ thể nào đó.
Trong bối cảnh lịch sử đó, Lênin đã tiến hành tổng kết những thành tựu khoa học tự
nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy
tâm, ông đã vạch rõ ý đồ xuyên tạc những thành tựu khoa học tự nhiên của những nhà triết
học duy tâm, khẳng định bản chất vật chất của thế giới và đưa ra định nghĩa kinh điển về vật
chất:
“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”
Định nghĩa này có thể hiểu theo nghĩa cơ bản sau:
Thứ nhất, với tư cách là phạm trù triết học (phân biệt với các khái niệm hay phạm trù của
các khoa học cụ thể khác) dùng để chỉ mọi thực tại khách quan. Thực tại đó biểu hiện sự tồn
tại của nó dưới các hình thức cụ thể là các sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan, độc lập với ý
thức của con người, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Hai là, thuộc tính cơ bản nhất, chung nhất của các dạng vật chất là tồn tại khách quan,
không phụ thuộc vào cảm giác, ý thức của con người. Có thể hiểu mọi thứ tồn tại khách quan
đều là vật chất.
Ba là, vật chất tồn tại khách quan thông qua các sự vật cụ thể. Khi vật chất tác động vào
giác quan, gây nên cảm giác. Được cảm giác của chúng ta ghi lại. Vì vậy con người có khả
năng nhận thức được thế giới. Với ý nghĩa đó, vật chất phải là cái có trước; còn cảm giác, ý
thức của con người là cái có sau, là cái phụ thuộc vào vật chất, chỉ là sự phản ánh đối với vật
chất, có nguồn gốc từ vật chất.
1.2. Vận động của vật chất
- Định nghĩa: là phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất
bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí
đơn giản cho đến tư duy.
- Các hình thức vận động cơ bản:
+ Vận động cơ học như: Sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
+ Vận động vật lý như: Là sự vận động của các phân tử, nguyên tử, các hạt cơ bản
+ Vận động hoá học như: Là các quá trình hóa hợp và phân giải các chất.

+ Vận động sinh học như: Là sự biến đổi của các cơ thể sống.
+ Vận động xã hội như: Vận động của các chế độ xã hội thông qua con người.
- Vận động là tuyệt đối còn đứng im là tương đối.
+ Vận động là tuyệt đối vì vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố
6
hữu của vật chất, nên không ở đâu, không lúc nào có vật chất mà lại không có vận động. Do
vậy, với nghĩa đó, vận động là tuyệt đối.
+ Đứng im là tương đối vì không có đứng im tương đối thì không thể có những sự vật cụ
thể, riêng lẻ, tồn tại ,xác định. Do vậy, không thể nhận thức được bất cứ cái gì. Nhưng đứng
im chỉ là tương đối vì nó chỉ xảy ra với một hình thức vận động, có tính chất cá biệt. Nó chỉ
xảy ra trong một số quan hệ nhất định chứ không xảy ra với tất cả mọi quan hệ cùng mộ lúc.
Đứng im là tạm thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một
thời gian nhất định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im
vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định.
- Ý nghĩa của vấn đề: cho ta cách nhìn sự vật một cách toàn diện, phát triển trong trạng
thái động; không cứng nhắc, cố định khi tình hình đã thay đổi.
1.3. Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Không gian là thuộc tính cố hữu, là hình thức tồn tại của vật chất, xét về mặt “quảng
tính”. Đó là vị trí, quy mô, trình tự sắp xếp của các sự vật, hiện tượng hoặc các bộ phận của
một sự vật, hiện tượng.
Thời gian là thuộc tính cố hữu, là hình thức tồn tại của vật chất, xét về mặt “trường tính”.
Đó là độ dài biến thiên của các quá trình, sự kế tiếp nhau trong vận động phát triển.
Ý nghĩa của vấn đề: là muốn nhận thức đúng sự vật, hiện tượng, nhất thiết phải có quan điểm
lịch sử cụ thể, xem xét nó trong không gian, thời gian nhất định.
1.4. Tính thống nhất của thế giới
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống
nhất ở tính vật chất. Theo quan điểm đó; được thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái có trước, tồn tại
khách quan, độc lập với ý thức con người.
Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không sinh ra, không mất đi.

Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ
chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn gốc vật
chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những qui luật khách quan, phổ biến của
thế giới vật chất.
1.5. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức
Với nghĩa bao quát nhất, khái niệm ý thức dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần, là sự
phản ánh năng động sáng tạo hiện thực khách quan của con người, trong đó gồm ba yếu tố cơ
bản nhất là tri thức, tình cảm và ý chí của con người.
Ý thức ra đời từ hai nguồn gốc: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức là bộ óc người và thế giới khách quan.
+ Bộ óc người: Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người,
là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ óc càng hoàn
thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức của con người càng
phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến hóa của loài người cũng là quá
trình phát triển năng lực của nhận thức, của tư duy và tại sao đời sống tinh thần của con người
bị rối loạn khi sinh lý thần kinh của con người không bình thường do bị tổn thương bộ óc.
+ Thế giới khách quan: tồn tại bên ngoài con người, chính đó là đối tượng, nội dung của
ý thức. Không có thế giới khách quan thì không có gì để ý thức phản ánh.
- Nguồn gốc xã hội : là lao động và ngôn ngữ.
+ Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm thay
đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là quá trình trong đó bản thân con
7
người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với giới tự nhiên. Đây
cũng là qúa trình làm thay đổi cấu trúc cơ thể, đem lại dáng đi thẳng bằng hai chân, giải
phóng hai tay, phát triển khí quan, phát triển bộ não,… của con người. Trong quá trình lao
động, con người tác động vào thế giới khách quan làm cho thế giới khách quan bộc lộ những
thuộc tính, những kết cấu, những qui luật vận động của nó, biểu hiện thành những hiện tượng
nhất định mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của
các giác quan, tác động vào bộ óc người, thông qua hoạt động của bộ não con người, tạo ra
khả năng hình thành nên những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.

+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức.
Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính xã hội.
Mối quan hệ giữa các thành viên trong quá trình lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải có
phương tiện để giao tiếp trao đổi tư tưởng. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển
ngay trong quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi mà
còn khái quát, tổng kết đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế
hệ này qua thế hệ khác.
Bản chất của ý thức
Bản chất của ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc của con người
một cách năng động, sáng tạo.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng hoạt
động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông
tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể tạo ra
những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận.
Theo Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con
người và được cải biến đi trong đó”.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là hình ảnh về thế
giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan qui định cả về nội dung, cả về hình thức
biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải biến thông qua
lăng kính chủ quan của con người.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức
gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các qui luật sinh học mà chủ
yếu là của các qui luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực
của xã hội qui định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của
thực tiễn xã hội.
1.6. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
* Vật chất quyết định đối với ý thức:
Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất là
nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với vật chất.

Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức đều hoặc là chính
bản thân thế giới vật chất, hoặc là những dạng tồn tại của vật chất nên vật chất là nguồn gốc
của ý thức.
* Ý thức có thể tác động trở lại vật chất
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu
cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực,
có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các qui luật khách quan, con người có năng
lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện những mục đích của mình, thế giới
8
được cải tạo – đó là sự tác động tích cực của ý thức; còn nếu ý thức của con người phản ánh
không đúng hiện thực khách quan, bản chất qui luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành
động của con người đã đi ngược lại các qui luật khách quan. Hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu
cực đối với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.
Ý nghĩa của vấn đề: Để đảm bảo sự thành công của hoạt động nhận thức hay thực tiễn,
con người phải luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan. Không nên lấy ý
kiến chủ quan của mình làm căn cứ cho lý luận, hành động, dễ dẫn đến sai lầm và thất bại.
Mặt khác, cần phải phát huy tính năng động chủ quan, tính sáng tạo của con người, phát huy
tác động tích cực của ý thức, không trông chờ, ỷ lại trong nhận thức và hành động cải tạo thế
giới.
1.7. Các nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
1.7.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự qui định, sự tác động và
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật,
hiện tượng trong thế giới.
Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của
thế giới, trong đó, những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật,
hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng, đó là các mối
liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng.
* Tính chất của các mối liên hệ:
- Tính khách quan: Vì mối liên hệ là cái vốn có của sự vật hiện tượng

- Tính phổ biến: Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay
quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác; đồng thời
cũng không có bất cứ sụ vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm
những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó.
Ví dụ:
+ Trong giới tự nhiên vô cơ: Nước chảy đá mòn; Nhiệt độ tăng lên dẫn đến trái đất nóng
lên…
+ Trong xã hội: Có các mối liên hệ giữa người với người - các tập đoàn, các giai cấp,
tầng lớp khác nhau liên hệ với nhau và liên hệ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội như: kinh
tế, chính trị, văn hóa, XH, tư tưởng…
- Tính đa dạng, phong phú: Các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những
mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vai trò, vị trí khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của
nó. Đó là mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, liên hệ chủ
yếu và thứ yếu…
* Ý nghĩa phương pháp luận:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có ý nghĩa quan trọng trong nhận thức, thực tiễn, nó là
cơ sở lý luận cho quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần xem
xét sự vật trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các
mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. Chỉ trên
cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống
thực tiễn. như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong
nhận thức và thực tiễn.
1.7.2. Nguyên lý về sự phát triển:
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng giảm thuần
9
túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật; đồng thời, nó cũng xem sự phát triển là
quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức tạp.
Trong phép biện chứng, khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động theo khuynh
hướng đi lên từ thấp đến cao,từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.

* Tính chất của sự phát triển:
- Tính khách quan biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Đó là quá
trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết mâu thuẫn trong sự vật,
hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý
thức con người.
- Tính phổ biến được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai
đoạn của sự vật, hiện tượng đó.
- Tính đa dạng, phong phú được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh hướng chung của
mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá
trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại ở những không gian và thời gian khác
nhau sự vật sẽ phát triển khác nhau.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
Nguyên lý phát triển, có ý nghia quan trọng trong đời sống, trong nhận thức. Nó là cơ sở
lý luận trực tiếp của nguyên tắc phương pháp luận phát triển.
Quan điểm phát triển luôn đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên. Phát triển là
một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch, đầy mâu thuẫn, vì vậy đòi hỏi chúng ta
phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập
với sự phát triển. Xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển cần phải đặt quá trình
đó trong nhiều giai đoạn khác nhau, trong mối quan hệ biện chứng giữa quá khứ, hiện tại và
tương lai trên cơ sở khuynh hướng phát triển đi lên. Đồng thời, phải phát huy vai trò nhân tố
chủ quan của con nguời để thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng theo đúng qui
luật.
1.8. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
Quy luật là những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các
yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng cùng loại.
1.8.1. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Mâu thuẫn biện chứng: là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập tồn tại trong cùng một SVHT,
các mặt đối lập liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau nhưng chúng cũng bài trừ và phủ

định nhau.
Mặt đối lập là những khuynh hướng, tính chất, đặc điểm mà trong quá trình vận động và
phát triển của sự vật, chúng đi theo chiều hướng trái ngược nhau.
Nội dung của quy luật:
- Bất kì sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa hai mặt đối lập.
- Thống nhất của các mặt đối lập đó là các mặt đối lập tồn tại trong cùng một SVHT, liên
hệ với nhau, tác động lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau.
- Các mặt đối lập vừa thống nhất lại vừa đấu tranh với nhau.
- Sự đấu tranh của các mặt đối lập đó là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ
định lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
Tuy nhiên đấu tranh là tuyệt đối còn thống nhất là tương đối:
+ Thống nhất là tương đối vì nó chỉ tạm thời, thoáng qua gắn liền với đứng im tương đối.
10
+ Đấu tranh là tuyệt đối vì nó diễn ra không ngừng trong suốt quá trình tồn tại của các
mặt đối lập từ đầu đến cuối.
* Một số loại mâu thuẫn:
- Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài:
+ Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa sự vật này với sự vật khác.
+ Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các mặt, các yếu tố trong cùng một sự vật.
- Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:
+ Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, nó quyết
định bản chất và quá trình phát triển của sự vật.
+ Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của
sự vật, nó không quy định bản chất của sự vật.
- Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu:
+ Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định
của sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó.
+ Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó
của sự vật nhưng nó không đóng vai trò cho phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối.
- Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng:

+ Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người có lợi
ích cơ bản đối lập nhau.
+ Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích cơ
bản thống nhất với nhau chỉ đối lập về lợi ích không cơ bản, tạm thời.
Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn đặc thù của xã hội, chỉ
tôn tại trong xã hội có giai cấp.
* Vị trí, ý nghĩa phương pháp luận:
- Vị trí: Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó vạch ra nguồn
gốc, động lực của sự phát triển và là “ hạt nhân” của phép biện chứng duy vật.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Mâu thuẫn là cái khách quan vốn có của sự vật, là nguồn gốc động lực của sự phát
triển. Do vậy, khi nghiên cứu sự vật phải nghiên cứu những mâu thuẫn của nó.
+ Mỗi mâu thuẫn có vị trí, vai trò khác nhau. Nên khi nghiên cứu và giải quyết các mâu
thuẫn phải có quan điểm lịch sử - cụ thể.
+ Giải quyết mâu thuẫn theo phương thức “đấu tranh” các mặt đối lập, chứ không theo
hướng dung hòa các mặt đối lập.
1.8.2. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và
ngược lại.
* Khái niệm chất, lượng:
- Khái niệm chất của sự vật là tổng hợp những thuộc tính khách quan, vốn có của sự vật,
hiện tượng, nói lên nó là cái gì, để phân biệt nó với cái khác.
- Khái niệm lượng: Lượng của sự vật không nói lên sự vật đó là cái gì mà chỉ nói lên con
số của những thuộc tính cấu thành nó, như về: độ lớn (to- nhỏ), quy mô (lớn- bé), trình
độ(cao- thấp), tốc độ (nhanh- chậm), màu sắc (đậm- nhạt).
* Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Hai
mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng
tất yếu sẽ dẫn tới sự chuyển hóa về chất của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, không phải sự thay
đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay
11

đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm
chất thay đổi được gọi là độ.
* Khái niệm độ chỉ tính qui định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng
giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện
tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn là nó, chứ chưa chuyển hóa thành
sự vật và hiện tượng khác.
Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng.
Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất. Giới
hạn đó chính là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện xác
định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận
động, phát triển của sự vật.
Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự
thay đổi về chất diễn ra dưới nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, được quyết định bởi mâu
thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: lớn và nhỏ, cục bộ và toàn
bộ, tự phát và tự giác…
Khi chất mới ra đời, sẽ tác động trở lại lượng mới. chất mới tác động tới lượng mới làm
thay đổi kết cấu, qui mô. Trình độ, nhịp độ của sự vận động và phát triển của sự vật.
* Vị trí, ý nghĩa phương pháp luận:
- Vị trí: Quy luật lượng- chất là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật, có vị trí vạch ra cách thức vận động, phát triển của sự vật, nghĩa là sự vận động bao giờ
cũng diễn ra theo cách từ những sự thay đổi dần về lượng dấn đến sự thay đổi về chất và
ngược lại.
- Ý nghĩa: Chống tư tưởng nôn nóng, vội vàng không chú ý tích lũy về lượng; Chống tư
tưởng ngại khó, ngại khổ không dám thực hiện bước nhảy.
1.8.3. Quy luật phủ định của phủ định:
* Phủ định biện chứng:
- Phủ định siêu hình là phủ định làm cho sự vật vận động thụt lùi, đi xuống, tan rã. Nghĩa
là không tạo điều kện cho sự phát triển.
- Phủ định biện chứng là phủ định gắn liền với sự vận động đi lên, vận động phát triển.
Nghĩa là nó tạo điều kiện cho sự phát triển.

- Phủ định biện chứng có các đặc điểm cơ bản sau:
+ Phủ định biện chứng là sự tự phủ định, do mâu thuẫn bên trong tạo ra. Đó là sự phủ
định khách quan vốn có của sự vật hiện tượng, không phải do lực lượng xã hội từ bên ngoài
gán ghép.
+ Phủ định biện chứng là sự phủ định có kế thừa. Kế thừa những yếu tố tích cực của sự
vật cũ. Nhưng không phải kế thừa tất cả mà là kế thừa có chọn lọc.
+ Phủ định biện chứng còn là sự phủ định vô tận. Cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái
mới không phải mới mãi mãi, nó sẽ cũ đi và bị cái mới khác phủ định. Vậy, không có lần phủ
định nào là phủ định cuối cùng.
* Nội dung cơ bản của quy luật:
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, phủ định biện chứng là một quá trình
vô tận, tạo nên khuynh hướng phát triển của sự vật từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn, diễn
ra có tính chất chu kỳ theo hình thức “xoáy ốc”.
Phủ định lần thứ nhất: làm cho sự vật cũ trở thành cái đối lập với chính nó. Twucs là
chuyển cái khẳng định, sang cái phủ định(A→B).
Phủ định lần thứ hai (phủ định của phủ định): sự vật ra đời, đối lập với cái đối lập, nên
12
sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn. Đây là đặc điểm cơ bản của
quy luật phủ định của phủ định.
Trong chuỗi phủ định tạo nên quá trình phát triển của sự vật, mỗi lần phủ định biện
chứng đều tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự phát triển tiếp theo của nó. Trải qua nhiều
lần phủ định, tức “phủ định của phủ định” sẽ tất yếu dẫn tới kết quả là sự vận động theo chiều
hướng đi lên của sự vật.
Tính chất chu kỳ của các quá trình phát triển thường diễn ra theo hình thức “xoáy ốc”, đó
cũng là tính chất “phủ định của phủ định”. Theo tính chất này, mỗi chu kỳ phát triển của sự
vật thường trải qua nhiều lần phủ định, nhưng không ít hơn hai lần.
Qui luật phủ định của phủ định khái quát tính chất chung, phổ biến của sự phát triển: đó
không phải là sự phát triển theo hình thức một con đường thẳng, mà phát triển theo hình thức
con đường “xoáy ốc”.
Khuynh hướng phát triển theo đường “xoáy ốc” thể hiện tính chất biện chứng của sự phát

triển, đó là tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc dường
như lặp lại, nhưng với một trình độ cao hơn. Sự tiếp nối của các vòng trong đường xoáy ốc
phản ánh quá trình phát triển vô tận từ thấp đến cao của sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Trong quá trình phát triển của sự vật, phủ định biện chứng đã đóng vai trò là những “vòng
khâu” của quá trình đó.
* * Vị trí, ý nghĩa phương pháp luận:
- Vị trí: Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật, có vị trí vạch ra khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật, nghĩa là sự vận
động phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà diễn ra theo đường xoáy ốc, quanh co,
phức tạp.
- Ý nghĩa: Theo quy luật phủ định của phủ định, trong thế giới khách quan, cái mới tất
yếu phải ra đời để thay thế cái cũ. Trong tự nhiên, cái mới ra đời và phát triển theo qui luật
khách quan. Vì vậy, chúng ta cần phải nâng cao tính tích cực của nhân tố chủ quan trong mọi
hoạt động, có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái mới
thắng lợi. Do đó, cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của
cái mới, làm trái với qui luật phủ định của phủ định.
Phải có quan điểm biện chứng trong quá trình kế thừa sự phát triển. Quan điểm đó đòi
hỏi phải khắc phục tư tưởng tả khuynh và hữu khuynh trong khi kế thừa cái cũ để phát triển
cái mới. Do đó, không được phủ định hoàn toàn cái cũ, cũng như không được kế thừa toàn bộ
cái cũ, mà phải kế thừa những nhân tố hợp quy luật và lọc bỏ, vượt qua, cải tạo cái tiêu cực,
trái quy luật nhằm thúc đẩy sự vật phát triển theo hướng tiến bộ.
1.9. Lý luận nhận thức duy vật biện chứng:
1.91. Bản chất của nhận thức
Bản chất của nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con người.
Nhưng đó không phải là sự phản ánh giản đơn, thụ động, mà là sự phản ánh chủ động tích
cực, sáng tạo của chủ thể trước khách thể.
Chủ thể nhận thức là con người với bản chất xã hội nên quá trình nhận thức bị chi phối
bởi điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị đặc biệt là năng lực nhận thức, tư duy của chủ thể.
Khách thể nhận thức là hiện thực khách quan trong phạm vi hoạt động của con người.
1.9.2. Các giai đoạn của nhận thức

Nhận thức là quá trình biện chứng từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và đến
thực tiễn…
- Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức,
13
phản ánh trực tiếp hiện thực khách quan bằng các giác quan, qua các hình thức cơ bản là cảm
giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác là hình thức đầu tiên của phản ánh hiện thực, là kết quả tác động của sự vật vào
giác quan con người. Nó chỉ phản ánh được những mặt, những thuộc tính riêng lẻ của sự vật
như nóng, lạnh, màu sắc, mùi vị… Cảm giác có vai trò to lớn trong quá trình nhận thức và
thay đổi khi được rèn luyện.
Tri giác là sự phản ánh đối tượng trong tính toàn vẹn, trực tiếp tổng hợp nhiều thuộc tính
khác nhau của sự vật do cảm giác đem lại. Từ tri giác, nhận thức cảm tính chuyển lên hình
thức cao hơn là biểu tượng.
Biểu tượng là hình ảnh về sự vật được tái hiện trong đầu một cách khái quát, khi không
còn tri giác trực tiếp với sự vật. Nó chỉ giữ lại những nét chung về bề ngoài của sự vật. Biểu
tượng cũng như cảm giác, tri giác, đều là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nhưng
biểu tượng phản ánh sự vật một cách gián tiếp và có thể sáng tạo ra một biểu tượng khác
tương tự.
Đặc điểm chung của giai đoạn nhận thức cảm tính là phản ánh có tính chất hiện thực,
trực tiếp, không thông qua khâu trung gian. Sự phản ánh đó tuy phong phú, sinh động, nhưng
chỉ là phản ánh bề ngoài, hiện tượng của sự vật.
- Tư duy trừu tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, dựa
trên cơ sở tài liệu do trực quan sinh động đưa lại. Chỉ qua giai đoạn này, nhận thức mới nắm
được bản chất, quy luật của hiện thực. Tư duy trừu tượng được biểu hiện dưới các hình thức
cơ bản: khái niệm, phán đoán, suy lý.
Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng phản ánh cái chung, bản chất, tất
yếu của sự vật. Khái niệm được hình thành là từ hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức
của con người. Khái niệm được diễn đạt bằng ngôn ngữ là từ ngữ, đó là vật liệu đầu tiên để
xây dựng nên những tri thức khoa học. Khi vận dụng, phải linh hoạt, mềm dẻo cho phù hợp.
Phán đoán là một hình thức của tư duy trừu tượng, dựa trên sự liên kết, vận dụng những

khái niệm đã có, nhằm khẳng định hay phủ định, một hay nhiều thuộc tính sự vật. Mỗi phán
đoán được biểu đạt bằng một “mệnh đề" nhất định.
Suy lý là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng. Nếu như phán đoán dựa trên sự liên kết
các khái niệm, thì suy lý dựa trên cơ sở những phán đoán đã được xác lập, và những mối liên
hệ có tính quy luật của những phán đoán đó, để đi đến những phán đoán mới có tính chất kết
luận.
Giai đoạn nhận thức lý tính tuy không phản ánh trực tiếp hiện thực khách quan, nhưng
phản ánh trừu tượng, khái quát, vạch ra bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng. Đó là nhận
thức đáng tin cậy, gần với chân lý khách quan, đáp ứng được mục đích của nhận thức.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của quá trình nhận thức, xét đến
cùng, đều bắt nguồn từ thực tiễn, đều lấy sự vật, hiện tượng làm đối tượng, nội dung phản
ánh. Giữa chúng có liên hệ mật thiết với nhau. Nhận thức cảm tính là tiền đề, điều kiện của
nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính không thể thực hiện gì hết nếu thiếu tài liệu của nhận thức
cảm tính đưa lại.
Như vậy, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng trở về thực
tiễn, là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý khách quan. Trong đó, thực tiễn vừa
là tiền đề xuất phát, vừa là điểm kết thúc của một vòng khâu, một quá trình nhận thức. Kết
thúc vòng khâu này lại là điểm khởi đầu của vòng khâu khác cao hơn. Đó là quá trình vô tận,
liên tục của sự nhận thức chân lý khách quan.
1.9.3. Khái niệm và các hình thức của thực tiễn:
14
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con
người nhằm cải tạo thế giới khách quan.
Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng dưới nhiều hình thức ngày càng phong phú, song có ba
hình thức cơ bản đó là:
- Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây
là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự
nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển
của mình.
- Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác

nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
- Hoạt động thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn.
Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần giống, giống
hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định những qui luật biến đổi,
phát triển của đối tượng nghiên cứu.
1.9.4. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
* Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức:
Mọi nhận thức của con người, xét đến cùng đều có nguồn gốc từ thực tiễn.Mọi khoa học
đều được xây dựng, khái quát, tổng kết từ thực tiễn. Thông qua hoạt động thực tiễn, con
người đã sáng tạo ra những công cụ ngày càng tinh xảo hơn: kính hiển vi, kính thiên văn, tàu
vũ trụ, máy vi tính…để nhận thức thế giới. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người ngày
càng hoàn thiện mình: các giác quan của con người ngày càng phát triển, ngôn ngữ ngày càng
phong phú.
* Thực tiễn là động lực và mục đích của nhận thức:
Thực tiễn thường xuyên vận động, phat triển nên nó luôn đặt ra những nhu cầu, nhiệm
vụ, phương hường mới cho nhận thức.Chính thực tiễn thúc đẩy sự ra đời và phát triển mạnh
mẽ của các ngành khoa học tự nhiên, xã hội như: tin học, dân số học, môi trường học, Hà Nội
học, Việt Nam học… đều từ thực tiễn của đời sỗng xã hội đòi hỏi. Mục đích nhận thức của
con người không chỉ để nhận thức, mà suy cho cùng nhận thức là để cải tạo hiện thực, cải tạo
thế giố theo nhu cầu, lợi ích của con người.
* Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý:
Chân lý là những tri thức của con người phù hợp với hiện thực khách quan và đã đượct
hực tiễn kiểm nghiệm.
Người ta không thể lấy nhận thức để kiểm tra nhận thức được, không thể lấy nhận thức
này làm chuẩn để kiểm tra nhận thức kia, vì chính bản thân nhận thức được dùng làm tiêu
chuẩn để kiểm tra nhận thức khác, chắc gì đã là nhận thức đúng. Cũng không thể lấy đa số
làm tiêu chuẩn của chân lý và chưa chắc ràng số đông là đúng. Và cũng không lấy lợi ích là
tiêu chuẩn chân lý vì trong xã hội nhất là trong xã hội có giai cấp đối kháng thì lợi ích của các
giai cấp là khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Cái lợi của giai cấp này có thể là cái hại của
giai cấp khác.

Do đó, CN Mác-Lênin khẳng định chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn của chân lý.
2. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
2.1. Vai trò của sản xuất và phương thức sản xuất
2.1.1. Vai trò của sản xuất
Sản xuất là một loại hình hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người, bao
gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình đó
gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất là yêu cầu
15
khách quan, là cơ sở của sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội; từ đó mới hình thành
các quan điểm tư tưởng, quan hệ xã hội và các thiết chế xã hội khác nhau. Sản xuất vật chất là
cơ sở của mọi sự tiến bộ xã hội.
2.1.2. Vai trò của phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức tiến hành sản xuất vật chất trong một giai đoạn nhất
định của lịch sử. Mỗi phương thức sản xuất gồm hai mặt cấu thành là lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, là trình độ chinh
phục tự nhiên của con người, là mặt tự nhiên của phương thức sản xuất. Lực lượng sản xuất
bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động. Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và
công cụ lao động, trong đó công cụ lao động là yếu tố động nhất, luôn đổi mới theo tiến trình
phát triển khách quan của sản xuất vật chất.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, là mặt xã hội
của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu của người lao động đối với
tư liệu sản xuất, quan hệ của họ trong quá trình tổ chức, quản lý và phân công lao động; quan hệ
của họ trong phân phối sản phẩm lao động. Ba mặt đó có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan
hệ sở hữu của người lao động đối với tư liệu sản xuất là mặt quyết định các mối quan hệ khác.
Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối với sự tồn tại, phát triển của xã hội:
Phương thức sản xuất quyết định tính chất của xã hội.
Phương thức sản xuất quyết định tổ chức kết cấu của xã hội.
Phương thức sản xuất quyết định sự chuyển hóa của xã hội loài người qua các giai đoạn
lịch sử khác nhau.

Ý nghĩa của vấn đề: Khi nghiên cứu mọi hiện tượng xã hội phải đi tìm nguồn gốc phát
sinh từ phương thức sản xuất, từ tất yếu kinh tế. Nhận thức đúng vai trò của phương thức sản
xuất trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với kinh tế tri thức.
2.2. Những quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển xã hội
2.2.1. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của mỗi quá trình sản xuất, bao gồm các yếu tố
tư liệu sản xuất và người lao động, trong đó người lao động là yếu tố cơ bản nhất, giữ vai trò
quyết định trong lực lượng sản xuất; còn quan hệ sản xuất là mối quan hệ xã hội giữa con
người với nhau trong quá trình sản xuất, đóng vai trò là hình thức kinh tế của quá trình ấy,
bao gồm các quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức - quản lý quá trình sản xuất
và quan hệ phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
Trong mỗi phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất gắn bó hữu cơ
với nhau. Lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của
phương thức sản xuất. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan
hệ nội dung và hình thức của quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất như thế nào về trình độ
thì quan hệ sản xuất phù hợp như thế ấy. Trình độ lực lượng sản xuất thủ công, với công cụ
thô sơ có tính chất cá nhân thì phù hợp với nó là quan hệ sản xuất cá thể. Khi trình độ lực
lượng sản xuất thay đổi thì quan hệ sản xuất cũng thay đổi theo. Do con người luôn tích luỹ
sáng kiến và kinh nghiệm, luôn cải tiến công cụ và phương pháp sản xuất nên lực lượng sản
xuất luôn phát triển.
Ngày nay, khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức kinh tế tri thức phát triển đã trở thành
16
lực lượng sản xuất trực tiếp. Lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ nào đó mà quan hệ sản
xuất cũ không còn phù hợp nữa nó sẽ cản trở hoặc mâu thuẫn gay gắt với lực lượng sản xuất.
Để tiếp tục phát triển, lực lượng sản xuất phải phá vỡ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ
sản xuất mới, phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất.
Vai trò tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất

Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Quan hệ sản xuất không phù hợp thì nó kìm hãm, thậm chí
phá vỡ lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất khi nó tạo ra những tiền đề, những điều kiện cho các yếu tố của lực lượng sản
xuất (người lao động, công cụ, đối tượng lao động) kết hợp với nhau một cách hài hoà để sản
xuất phát triển và đưa lại năng suất lao động cao.
Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất không phải chỉ thực hiện một
lần là xong mà diễn ra cả một quá trình. Mỗi khi sự phù hợp quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất bị phá vỡ là mỗi lần điều chỉnh, thay bằng sự phù hợp khác cao hơn.
Ý nghĩa của vấn đề: Ở đâu có đối tượng lao động thì ở đó cần có người lao động và công
cụ lao động tương ứng với trình độ, kỹ năng của người lao động. Phải làm rõ các quan hệ sở
hữu, cách thức tổ chức quản lý quá trình sản xuất và các hình thức phân phối phù hợp mới
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
2.1.2. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng
- Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình
thái- kinh tế xã hội nhất định bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của
hình thái kinh tế- xã hội trước và quan hệ sản xuất mầm móng của hình thái kinh tế- xã hội
tương lai.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm tư tưởng ( chính trị, đạo đức, pháp
quyền, triết học, nghệ thuật, tôn giáo…) và những thiết chế tương ứng ( nhà nước, đảng phái,
giáo hội…) được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định và phản ánh cơ sở hạ tầng đó.
- Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
* Cơ sở hạ tầng quyết định đối với kiến trúc thượng tầng:
Cơ sở hạ tầng như thế nào thì kiến trúc thượng tầng dựng trên nóa phải tương ứng như
thế để đảm bảo sự tương ứng.
Khi cơ sở hạ tầng biến đổi thì nó đòi hỏi kiến trúc thượng tầng cũng biến đổi theo để
đảm bảo sự tương ứng. Nghĩa là những biến đổi trong co sở hạ tầng sớm muộn cũng dẫn tới
sự biến đổi trong kiến trúc thượng tầng.

Khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi, cơ sở hạ tầng mới ra đời thì “ sớm” hay “ muộn” kiến trúc
thượng tầng cũ cũng mất đi và kiến trúc thượng tầng mới cũng ra đời theo để đảm bảo sự
tương ứng.
* Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng:
Trong bất kì tình huống nào thì kiến trúc thượng tầng cũng ra sức bảo vệ cơ sở hạ tầng
đã sinh ra nó ngay cả khi cơ sở hạ tầng đã lạc hậu và phản tiến bộ.
Nếu kiến trúc thượng tầng tiên tiến thì nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội, ngược lại
nếu nóa không phù hợp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Mỗi bộ phận của kiến trúc thượng tầng đều tác động trở lại cơ sở hạ tầng theo những
hình thức khác nhau trong đó nhà nước là bộ phận có vai trò quan trọng nhất và có hiệu lực
17
mạnh mẽ nhất. Do đó các giai cấp thống trị đều có ý tưởng xây dựng nhà nước mạnh, thật sự
trở thành một công cụ bạo lực để tập trung quyền lực kinh tế và chính trị nhằm thống trị giai
cấp khác và toàn xã hội.
Ý nghĩa của vấn đề: Kinh tế quyết định chính trị, muốn hiểu các hiện tượng, quá trình xã
hội phải xem xét cơ sở kinh tế nảy sinh các hiện tượng xã hội đó. Nhưng chính trị là biểu hiện
tập trung của kinh tế, có khả năng thúc đẩy, phát triển kinh tế.
2.3. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội:
2.3.1. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
Tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, bao gồm điều
kiện địa lý tự nhiên, dân số và phương thức sản xuất trong đó phương thức sản xuất có vai trò
quyết định nhất đới với sự phát triển của tồn tại xã hội
Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, là kết quả của sự phản ánh của ý
thức con người đới với một tồn tại xã hội nhất định.
Ý thức xã hội bao gồm hai cấp độ khác nhau là tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Tâm lý xã
hội là các hiện tượng ý thức như tình cảm, tâm trạng, thói quen, động cơ, thái độ…Hệ tư
tưởng là những quan điểm tư tưởng, những học thuyết về đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, pháp
quyền, chính trị… phản ánh và bảo vệ lợij ích của một giai cấp nhất định trong xã hội.
2.3.2.Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội:
Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội nhưng không phản ánh giản đơn, máy móc,

thụ động mà có tính độc lập tương đối. Điều đó được thể hiện:
Một là, ý thức xã hội thường lạc hậu và bảo thủ hơn so với tồn tại xã hội. Nghĩa là khi
tồn tại xã hội nào đó đã bị xóa bỏ nhưng ý thức xã hội phản ánh nó chưa mất theo ngay mà
còn tồn tại một thời gian, thậm chí có những bộ phận ý thức xã hội tồn tại khá lâu dài. Chẳng
hạn ở nước ta hiện nay, xã hội phong kiến đã bị xóa bỏ từ lâu nhưng ý thức phong kiến còn
tồn tại khá nhiều trong cán bộ, nhân dân. Đó là tư tưởng trọng nam khinh nữ.
Hai là, một bộ phận ý thức xã hội lại có khả năng vượt trước tồn tại xã hội để dự báo một
tương lai. Đó là một bộ phận ý thức tiên tiến, khoa học phản ánh đứng đắn những quy luật
phát triển của xã hội và nguyện vộng lợi ích chính đáng của đông đảo quần chúng nhân dân.
Chẳng hạn chủ nghĩa Mác-Leenin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân ra đời cách đây hàng
trăm năm nhưng đã dự báo một xã hội tương lai , xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Ba là, ý thức xã hội có tính kế thừa những tinh hoa và giá trị tinh thần tốt đẹp của truyền
thống dân tộc và nhân loại để làm phong phú đời sống tinh thần. Sự kế thừa này nhìn chung là
có tính chất chọn lọc và biến cải để phù hợp với dân tộc và thời đại. Chẳng hạn, tư tưởng Hồ
Chí Minh kế thừa quan điểm “ trung” “ hiếu” của Nho giáo nhưng trên tinh thần mới: ;Trung
với nước, hiếu với dân”.
3. Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác-Lênin
3.1. Học thuyết giá trị
Học thuyết giá trị là xuất phát điểm trong toàn bộ lý luận kinh tế của C. Mác. Bằng việc
phân tích hàng hoá, Mác vạch ra quan hệ giữa người với người thông qua quan hệ trao đổi hàng
hoá, đó chính là lao động, cơ sở của giá trị hàng hoá.
3.1.1. Khái niệm và điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa:
Sản xuất hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để bán
trên thị trường.
Sản xuất hàng hoá ra đời khi có hai điều kiện:
Một là: có phân công lao động xã hội.
18
Hai là: có chế độ tư hữu hoặc các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
3.1.2. Hàng hóa và các thuộc tính
Hàng hoá là sản phẩm của lao động, dùng để thoả mãn một nhu cầu nhất định nào đó

của con người thông qua trao đổi mua bán.
Hàng hoá có hai thuộc tính cơ bản là giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của hàng hoá để thoả mãn nhu cầu nào đó
của con người. Giá trị sử dụng đó do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hoá quyết định.
Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi trước hết biểu hiện như là một quan hệ số lượng, là một tỷ lệ theo đó
những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác. Giá trị của
hàng hoá là lượng lao động xã hội cần thiết của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng
hoá, còn giá trị trao đổi chỉ là hình thái biểu hiện của giá trị hàng hoá. Sở dĩ giá trị của hàng
hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, vì một loại hàng hoá đưa ra thị trường là
do nhiều người sản xuất ra nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề
là không giống nhau, nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hoá của họ khác nhau,
do đó lượng giá trị cá biệt của hàng hoá mà từng người sản xuất ra là khác nhau. Để trao đổi
hàng hoá đó với nhau, không thể căn cứ vào giá trị cá biệt của hàng hoá mà phải căn cứ vào
giá trị xã hội của nó, vào lượng lao động xã hội cần thiết hay thời gian lao động xã hội cần
thiết để sản xuất ra hàng hoá đó.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá
trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với một trình độ kỹ thuật trung bình và cường
độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định. Thời gian lao động xã hội cần thiết
không phải cố định, nó phụ thuộc vào năng suất lao động xã hội và chất lượng của lao động.
Năng suất lao động xã hội là năng lực sản xuất của lao động được tính bằng số lượng sản
phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian cần thiết để sản xuất
ra một đơn vị sản phẩm.
Năng suất lao động tỷ lệ nghịch với thời gian lao động xã hội để sản xuất ra hàng hoá
hay tỷ lệ nghịch với giá trị của hàng hoá. Chất lượng của lao động hay mức độ phức tạp của
lao động tỷ lệ thuận với giá trị của hàng hoá. Theo mức độ phức tạp của lao động có thể chia
lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động của
bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được. Lao
động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được huấn luyện đào tạo thành lao động lành nghề.
Việc sản xuất và trao đổi hàng hoá thể hiện sự liên hệ giữa những người sản xuất riêng

lẻ với nhau, do thị trường làm trung gian. Sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá tất
yếu sẽ dẫn đến sự xuất hiện của tiền tệ. Tiền là sản phẩm của lưu thông hàng hoá, bắt đầu từ
những hành vi trao đổi riêng lẻ ngẫu nhiên, qua nhiều bước, cuối cùng đến hình thái tiền tệ.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Ở đâu có
sản xuất hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị. Trao đổi
hàng hoá phải theo nguyên tắc ngang giá, dựa trên cơ sở hao phí sức lao động xã hội cần thiết.
Giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên trước hết giá cả
phụ thuộc vào giá trị. Hàng hoá nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại.
Tuy nhiên trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như
19
cạnh tranh, cung cầu, sức mua của người tiêu dùng… Tuy nhiên nó hoàn toàn nằm trong cơ
chế hoạt động của quy luật giá trị.
Ý nghĩa của học thuyết
Nghiên cứu học thuyết giá trị, hiểu rõ quy luật giá trị sẽ có kiến thức điều tiết sản xuất và lưu
thông hàng hoá; kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Từ đó giúp cho chúng ta hiểu rõ nguyên nhân của việc lựa chọn
tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá; nguyên nhân của sự phân hoá xã hội thành người
giàu, người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội để có phương hướng, giải pháp khắc phục.
3.2. Học thuyết giá trị thặng dư
Trên thị trường, tư bản được biểu hiện trước hết bằng một số tiền nhất định, mặc dù
không phải lúc nào tiền cũng là tư bản. Với tính cách là tiền trong lưu thông hàng hoá giản
đơn, tiền vận động theo công thức: H-T-H; còn với tính cách là tư bản, tiền vận động theo
công thức T-H-T’. Sự xuất hiện của tư bản là kết quả của mối liên hệ ấy tiếp tục phát triển
hơn nữa: sức lao động của con người trở thành hàng hoá.
Sức lao động là toàn bộ những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong một con người
và được người đó sử dụng vào sản xuất hàng hoá.
Sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có hai điều kiện: người lao động hoàn toàn tự do
về thân thể có toàn quyền bán sức lao động của mình trong một thời gian nhất định; người có
sức lao động bị tước đoạt mọi tư liệu sản xuất để sống anh ta buộc phải bán sức lao động của
mình. Cũng như mọi hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và

giá trị sử dụng.
Giá trị hàng hoá sức lao động là toàn bộ những tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và
tái sản xuất ra sức lao động. Giá trị hàng hoá sức lao động bao gồm: giá trị tư liệu sinh hoạt
cần thiết đủ để duy trì sức lao động của người công nhân ở trạng thái sinh hoạt bình thường;
chi phí đào tạo tuỳ theo tính chất phức tạp của lao động; giá trị những tư liệu sinh hoạt cho
những người thay thế, tức con cái của công nhân để hàng hoá sức lao động trở thành bất tử.
Tiền công hay tiền lương là sự biểu thị bằng tiền giá trị sức lao động, hoặc là giá cả của sức
lao động.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao
động để sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó. Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra
một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao
động là giá trị thặng dư.
Trên thực tế, giá trị của hàng hoá sức lao động biểu hiện bằng: công nhân làm thuê bán
sức lao động của mình cho người chủ nhà máy, chủ công cụ lao động, chủ ruộng đất. Giá trị
sử dụng của hàng hoá sức lao động biểu hiện: người công nhân dùng một phần ngày lao động
để bù vào chi phí nuôi bản thân và nuôi gia đình mình (tiền công), phần còn lại thì làm không
công, tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản, đó là nguồn gốc lợi nhuận, nguồn gốc giàu có của
giai cấp tư bản. Đó cũng là nội dung căn bản nhất của học thuyết giá trị thăng dư – hòn đá
tảng của học thuyết kinh tế của Mác.
Ví dụ: Một nhà tư bản sản xuất sợi, để sản xuất 10kg sợi cần 10kg bông và giá của 10kg
bông là 10$. Để biến số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6giờ và hao
mòn máy móc là 2$, giá trị sức lao động trong một ngày theo đúng giá trị trên thị trường là
3$; trong 1giờ lao động, người công nhân tạo ra một lượng giá trị là 0,5$, giả sử quá trình sản
xuất sợi đã hao phí theo thời gian lao động xã hội cần thiết.
Nếu nhà tư bản chỉ bắt người công nhân lao động trong 6giờ, thì nhà tư bản ứng ra 15$
20
và thu về 10kg sợi có giá trị cũng là 15$. Như vậy, nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đủ để
bù đắp lại giá trị sức lao động ( 6giờ), thì chưa có sản xuất ra giá trị thặng dư, và đó không
phải là mục đích của nhà tư bản.
Nhưng nhà tư bản mua sức lao động trong 1 ngày. Sau khi mua quyền sử dụng hàng hoá

sức lao động đó thuộc về nhà tư bản. Vì vậy, nhà tư bản bắt công nhân làm việc 12giờ trong
một ngày. Khi đó, nhà tư bản bỏ ra 20$ tiền bông, 4$ hao mòn máy móc, 3$ tiền mua sức lao
động trong 1ngày, và thu về 20kg sợi có giá trị là 30$. Như vậy nhà tư bản chỉ bỏ ra tổng
cộng 27$, nhưng đã thu về 30$, tức đem lại một giá trị thặng dư là 3$. Đây mới là quá trình
sản xuất tư bản chủ nghĩa, tiền tệ ứng ra ban đầu đã chuyển hoá thành tư bản, nhà tư bản theo
đuổi và thực hiện được mục đích đề ra của mình.
Như vậy, tư bản không phải là vật, là tiền mặc dù hình thức biểu hiện ban đầu của nó là
một lượng tiền nhất định, mà là một quan hệ sản xuất xã hội. Tư bản là giá trị mang lại giá trị
thăng dư bằng cách bóc lột lao động không công của người công nhân làm thuê. Sở dĩ tư bản
có thể làm được điều này là do người công nhân không có công cụ, phương tiện để vật hoá lao
động của mình, để sống, để tồn tại, người công nhân buộc phải bán sức lao động của mình.
Sau khi mua sức lao động theo đúng giá trị của nó, nhà tư bản có quyền sử dụng hàng hoá sức
lao động này. Trong ví dụ trên, khi sử dụng hàng hoá sức lao động, nó tạo ra lượng giá trị mới
(6$) lớn hơn giá trị của bản thân nó (3$). Bản chất của tư bản là thể hiện quan hệ sản xuất xã
hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt lao động không công, giá trị thăng dư do giai cấp
công nhân sáng tạo ra. Để chiếm đoạt ngày càng nhiều giá trị thăng dư, các nhà tư bản không
từ bất kỳ thủ đoạn, biện pháp như: kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, giảm tiền
công, …(sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối); giảm giá trị của hàng hoá sức lao động bằng
cách áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ, cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất lao động
xã hội (sản xuất giá trị thặng dư tương đối).
Tư bản, do lao động không công của người công nhân tạo ra, lại trở thành phương tiện
bóc lột người công nhân, thông qua quá trình chuyển hoá một phần giá trị thăng dư thành tư
bản hay tư bản hoá một bộ phận giá trị thặng dư. Trong công nghiệp, do ưu thế của nền sản
xuất lớn tư bản chủ nghĩa với trình độ khoa học - kỹ thuật ngày càng hiện đại, năng suất lao
động ngày càng cao đã làm phá sản các tiểu chủ, những người sản xuất hàng hoá nhỏ; trong
nông nghiệp ưu thế của nền sản xuất nông nghiệp kiểu tư bản chủ nghĩa với việc dùng máy
móc, chuyên môn, chuyên canh hoá sản xuất,… làm kinh tế nông dân bị suy tàn, phá sản vì kỹ
thuật lạc hậu, sản xuất manh mún của mình, tước đoạt tư liệu sản xuất của họ và biến họ trở
thành những người vô sản hay buộc họ phải tham gia vào đội ngũ những người làm thuê.
- Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa trước hết là quá trình lao động, là chung cho mọi xã

hội, đồng thời là quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, là cái riêng (đặc thù) trong đó người
công nhân bị nhà tư bản thống trị, sản phẩm làm ra không thuộc về anh ta mà thuộc nhà tư
bản. Hay nói cách khác, ngày lao động của công nhân bao giờ cũng được chia thành hai phần:
phần ngày lao động mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang với giá trị sức lao
động của mình gọi là thời gian lao động cần thiết và lao động trong khoảng thời gian đó là lao
động cần thiết. Phần còn lại của ngày lao động gọi là thời gian lao động thặng dư, và lao động
trong khoảng thời gian đó gọi là lao động thặng dư.
- Sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta nhận thấy mâu thuẫn
của công thức chung của tư bản đã được giải quyết: việc chuyển hoá của tiền thành tư bản
diễn ra trong lưu thông, mà đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó. Chỉ có trong lưu thông
nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hoá đặc biệt, đó là hàng hoá sức lao động. Sau đó nhà
tư bản sử dụng hàng hoá đặc biệt đó trong sản xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản
21
xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư bản mới chuyển thành tư bản.
* Khái niệm tư bản bất biến, tư bản khả biến; giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng
dư tương đối:
Tư bản bất biến là bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất, giá trị của nó được bản
toàn và chuyển vào sản phẩm, tức là không thay đổi về lượng giá trị trong quá trình sản xuất.
Tư bản khả biến là bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra, nhưng
thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng về lượng giá trị trong quá
trình sản xuất.
SX giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư được thực hiện
bằng cách kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều kiện thời gian lao động
tất yếu (cần thiết) không thay đổi.
SX giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư được thực hiện
bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu (cần thiết) để kéo dài một cách tương ứng thời gian
lao động thặng dư trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi trên cơ sở tăng năng suất lao
động xã hội.
* Giá trị khoa học và thực tiễn của học thuyết giá trị thặng dư
Học thuyết giá trị thặng dư là sự biểu hiện mẫu mực của việc vận dụng quan điểm duy

vật về lịch sử vào sự phân tích các quá trình kinh tế trong chủ nghĩa tư bản. Nó làm sâu sắc
hơn những tri thức về sự vận động của các quan hệ “vật - vật” biểu hiện mối quan hệ “người -
người”, về quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng, về thực chất quan hệ kinh tế giữa các
giai cấp, về các quy luật kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa, cung cấp các tri thức về lịch sử
phát triển của sản xuất xã hội nói chung về chủ nghĩa tư bản nói riêng, là cơ sở khoa học để
phân tích các nguyên nhân, dự báo triển vọng chiều hướng phát triển kinh tế và xã hội.
Trên cơ sở nhận thức khoa học về quy luật sản xuất ra giá trị thăng dư là quy luật tuyệt
đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy định mục đích, động cơ vận động và phát
triển của toàn bộ xã hội tư bản, học thuyết giá trị thặng dư của chủ nghĩa Mác – Lênin đã góp
phần đắc lực xây dựng thế giới quan cách mạng và niềm tin sâu sắc vào cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm xoá bỏ mọi chế độ áp bức bóc lột, xây dựng
xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
Học thuyết giá trị thặng dư đã bóc trần mọi bí mật của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, nó
không chỉ chứng minh một cách khoa học toàn bộ giai cấp tư sản bóc lột toàn bộ giai cấp
công nhân làm thuê, mà còn chỉ rõ cách thức bóc lột của giai cấp tư sản. Nó luận chứng một
cách thuyết phục những mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản và sự phát triển ngày càng sâu
sắc của những mâu thuẫn này, nhất là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản, chứng minh sự
sụp đổ tất yếu của phương thức sản xuất này, mặc dù ngày nay nó đã có nhiều sự điều chỉnh,
theo quy luật: “những kẻ đi tước đoạt, sẽ bị tước đoạt”.
Học thuyết giá trị thặng dư của chủ nghĩa Mác – Lênin đã trang bị cho giai cấp công
nhân và nhân dân lao động công cụ nhận thức các quy luật kinh tế để thực hiện nhiệm vụ cải
tạo thế giới, là cơ sở khoa học để đề ra đường lối, chính sách kinh tế tác động vào hoạt động
kinh tế và cũng là cơ sở để nhận thức sâu sắc đường lối, chính sách kinh tế trong công cuộc
xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
3.3. Chủ nghĩa tư bản độc quyền:
Đầu thế kỷ XX, khoa học, kỹ thuật phát triển dẫn đến sự phát triển nhanh của lực lượng
sản xuất. Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc
quyền với 5 đặc điểm cơ bản:
22
Một là, sự tập trung sản xuất và tích tụ tư bản đã làm hình thành các tổ chức độc quyền.

Quá trình thay thế các xí nghiệp nhỏ, phân tán bằng cách xí nghiệp lớn có vốn tư bản lớn,
đông công nhân và làm ra một khối lượng sản phẩm lớn. Sự tích tụ và tập trung tư bản đã dẫn
tới sự tích tụ và tập trung sản xuất, đến một mức độ nhất định sẽ hình thành các tổ chức độc
quyền. Liên minh giữa các nhà tư bản để nắm phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại
hàng hoá nào đó nhằm thu lợi nhuận cao.
Hai là, hình thành tư bản tài chính và đầu sỏ tài chính. Đồng thời với sự tích tụ và tập
trung sản xuất công nghiệp, trong ngân hàng cũng có tích tụ và tập trung tư bản, hình thành
nên các ngân hàng lớn cạnh tranh với nhau, ra đời các tổ chức độc quyền ngân hàng. Do nắm
được lượng tư bản tiền tệ lớn, các ngân hàng có khả năng chi phối nhiều hoạt động kinh tế- xã
hội.
Tư bản tài chính là loại tư bản được hình thành trên cơ sở xâm nhập lẫn nhau giữa tư
bản công nghiệp và tư bản ngân hàng. Tư bản ngân hàng tham gia vào các tổ chức độc quyền
sản xuất công nghiệp để theo dõi việc sử dụng vốn vay. Để hạn chế sự chi phối của ngân
hàng, các nhà tư bản công nghiệp cũng can thiệp vào hoạt động của tư bản ngân hàng bằng
cách mua cổ phiếu hoặc thành lập ngân hàng cho riêng mình. Hai quá trình thâm nhập ấy gắn
kết với nhau, làm cho tư bản công nghiệp và tư bản ngân hàng dần trở nên thống nhất, hình
thành nên nhóm tư bản tài chính. Các nhóm tư bản tài chính có tiềm lực đủ mạnh trở thành
các đầu sỏ tài chính, thao túng đời sống kinh tế - chính trị ở các nước.
Ba là, xuất khẩu tư bản là thủ đoạn để các nhà tư bản ở các nước phát triển tiến hành
bóc lột các nước chậm phát triển thông qua trao đổi không ngang giá. Xuất khẩu tư bản là
xuất khẩu giá trị ra nước ngoài nhưng tiến hành dưới hình thức đầu tư tiền ra nước ngoài để tổ
chức sản xuất hoặc cho vay nặng, bóc lột giá trị thặng dư và một số nguồn lợi khác ở các
nước nhập khẩu tư bản.
Bốn là, sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền. Khi lượng hàng hoá
sản xuất tăng, nảy sinh nhu cầu thị trường và nguyên liệu ngoài nước. Mặt khác, hàng hoá bán
ở nước ngoài cũng như đầu tư tư bản ở ngoài thu được lợi nhuận lớn hơn so với bán hàng hoá
và đầu tư trong nước nên giữa các nước tư bản diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt giành thị
trường thế giới. Những thoả thuận có tính chất lũng đoạn giữa các tổ chức độc quyền trong
việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá, tạo nên những tổ chức độc quyền quốc tế. Liên
minh giữa các tổ chức độc quyền lớn của các nước để phân chia thị trường thế giới, độc chiếm

nguồn nguyên liệu, quy định quy mô sản xuất, định ra giá cả độc quyền nhằm thu lợi nhuận
độc quyền cao.
Năm là, sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc là hệ quả tất yếu
của sự phân chia thế giới về kinh tế, biểu hiện ở việc các nước đế quốc xâm chiếm và thuộc
địa hoá những nước chậm phát triển hòng độc chiếm nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ
hàng hoá và địa điểm lập căn cứ quân sự. Quá trình phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản ở
các nước diễn ra không đều diễn ra sự tranh chấp thị trường. Phương pháp phổ biến là tổ chức
chiến tranh để phân chia lại thị trường thế giới.
Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh
mẽ với trình độ từ kỹ thuật thủ công, kỹ thuật cơ khí sang tự động hoá, tin học hoá và công
nghệ và công nghệ ngày càng hiện đại. Cùng với quá trình đó là quá trình giải phóng sức lao
động, nâng cao hiệu quả khám phá và chinh phục thiên nhiên của con người.
23
- Ý nghĩa của học thuyết
Chủ nghĩa tư bản độc quyền thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển đạt tới mức điển
hình trong lịch sử sản xuất của nhân loại. Sự phát triển cả về chiều rộng, chiều sâu đã dẫn đến
phân công lao động xã hội, sản xuất tập trung với quy mô hợp lý. Quá trình sản xuất được liên
kết và phụ thuộc lẫn nhau thành hệ thống. Trình độ chuyên môn hoá sản xuất và hợp tác lao
động, mối liên hệ kinh tế giữa các ngành, các lĩnh vực ngày càng chặt chẽ. Sản xuất độc
quyền góp phần xây dựng tác phong công nghiệp, thay đổi thói quen của người sản xuất nhỏ,
hoàn thiện hơn một bước nền dân chủ tư sản so với trước.
Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản độc quyền gắn với quá trình bóc lột chiếm lợi nhuận cao;
bản chất bóc lột thể hiện rõ dưới nhiều hình thức. Các mâu thuẫn xã hội vốn có trong xã hội
tư bản không những không khắc phục nổi mà càng gay gắt hơn. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất phát triển cao với chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ngày càng lớn lên về quy mô và
phạm vi. Sự cạnh tranh quyết liệt là nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến xung đột và chiến tranh đe doạ
hòa bình và ổn định của nhân dân toàn thế giới.
4. Lý luận về chủ nghĩa xã hội của Chủ nghĩa Mác - Lênin
4.1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó
4.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân:

C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng một số thuật ngữ khác nhau về giai cấp công nhân như
giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp thế kỷ
XIX… Các ông coi giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động không phải chủ
sở hữu của phương tiện sản xuất mà phải bán sức lao động, tạo ra giá trị thặng dư để có tiền
lương cho mình và làm giàu cho xã hội. Họ là con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản
chủ nghĩa, đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại.
Ph. Ăngghen định nghĩa: “Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm
sống bằng việc bán lao động của mình, chứ không phải kiếm sống bằng lợi nhuận của bất cứ
tư bản nào Nói tóm lại, giai cấp vô sản hay giai cấp những người vô sản là giai cấp lao
động trong thế kỷ XIX”
1
.
V.I.Lênin bổ sung, giai cấp công nhân sau cách mạng vô sản, giành được chính quyền
đã trở thành người chủ, lãnh đạo nhân dân lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay, cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức phát triển, công nhân có
trình độ ngày càng cao, làm việc ở những ngành ứng dụng công nghệ cao, khái niệm công
nhân đã có những thay đổi. Đảng ta định nghĩa: “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực
lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm
công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản
xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”
2
.
4.1.2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
- Về địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa
V.I.Lênin khẳng định: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ
vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”
3
.
Giai cấp công nhân là sản phẩm của sản xuất công nghiệp hiện đại, đại biểu cho sự phát
1

C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, HN, t.4, tr. 456.
2
Đảng CSVN. Văn kiện Hội nghị BCH TƯ Đảng lần thứ 6, khoá X, Nxb CTQG. HN, 2009. tr. 287
3
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1980, t.23, tr.1.
24
triển của lực lượng sản xuất tiến bộ, ngày càng phát triển trước xu hướng phát triển của xu
hướng phát triển nhanh chóng của công nghiệp hiện đại xã hội tương lai.
Do không có hoặc tư liệu sản xuất, là vô sản làm thuê trong xã hội tư bản, chịu sự cạnh
tranh, tác động của thị trường nên giai cấp công nhân có lợi ích căn bản đối lập với lợi ích của
giai cấp hữu sản là giai cấp tư sản. Nguyện vọng và lợi ích căn bản của giai cấp công nhân là
xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, giành lấy chính quyền, tổ chức xây dựng chế độ mới
với chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Sản xuất công nghiệp tư bản chủ nghĩa càng phát triển, sự phụ thuộc nhau trong sản xuất
càng tăng, các trung tâm công nghiệp, đô thị xuất hiện, tạo điều kiện cho công nhân sống tập
trung. Họ có điều kiện đoàn kết với nhau trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản. Lợi ích
của công nhân về cơ bản là phù hợp với lợi ích của quần chúng lao động nên giai cấp công
nhân có thể là lực lượng trung tâm, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp khác trong cuộc đấu tranh
chống lại giai cấp tư sản để giải phóng mình và toàn xã hội.
- Về đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân
Do địa vị kinh tế - xã hội khách quan, giai cấp công nhân có những đặc điểm chính trị-
xã hội mà các giai cấp khác không thể có đựợc.
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến vì họ đại biểu cho phương thức sản xuất
hiện đại nhất, gắn với khoa học và công nghệ tiên tiến - xu hướng của xã hội tương lai.
Thứ hai, giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để. Trong xã hội tư bản, họ
luôn đi đầu đấu tranh vì không có gì để mất, nếu được thì được tất cả. Trong sản xuất, công
nhân luôn đổi mới, cải cách điều kiện làm việc, nâng cao năng suất lao động. Mục đích của họ
không chỉ là giải phóng mình mà còn giải phóng toàn bộ xã hội.
Thứ ba, giai cấp công nhân có ý thức tổ chức kỷ luật cao vì họ lao động trong hệ
thống sản xuất có tính chất dây chuyền với yêu cầu nghiêm ngặt về kỷ luật lao động và

thói quen của lối sống đô thị tập trung, tuân thủ pháp luật nhà nước
Thứ tư, giai cấp công nhân có tinh thần quốc tế vô sản vì sản xuất công nghiệp tư bản
chủ nghĩa có tính chất quốc tế; lao động của họ có tính chất quốc tế. Chủ nghĩa tư bản là một
lực lượng quốc tế. Muốn chiến thắng nó, cần phải có sự đoàn kết quốc tế.
4.1.3. Tất yếu và quy luật hình thành chính đảng của giai cấp công nhân
Đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản diễn ra ngay từ đầu khi nó mới
ra đời. Sản xuất tư bản càng phát triển, đấu tranh của công nhân từ tự phát sẽ lớn dần, từ phá
máy móc, lãn công đến bãi công, đấu tranh kinh tế đến đấu tranh chính trị. Trong quá trình đó
họ tất yếu tổ chức ra công đoàn, hội nghề nghiệp của mình.
Sự thất bại của các cuộc đấu tranh tự phát quy mô lớn của giai cấp công nhân thế giới
những năm 30 - 40 thế kỷ XIX đòi hỏi phải có lý luận dẫn đường. Chủ nghĩa Mác đã tìm thấy
ở giai cấp công nhân và phong trào công nhân như một lực lượng vật chất to lớn. Giai cấp
công nhân nhìn thấy ở chủ nghĩa Mác như một vũ khí tinh thần dẫn đường cho đấu tranh của
mình. Sự kết hợp chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân tất yếu ra đời tổ chức chính đảng
của giai cấp công nhân. Đó là quy luật chung ra đời chính đảng của giai cấp công nhân ở các
nước tư bản phát triển trong thế kỷ XIX.
Tư tưởng của V.I. Lênin khẳng định Đảng cộng sản là đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân được xây dựng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng là đội tiên phong của giai cấp
25

×