Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (616.23 KB, 62 trang )


SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


1


LỜI MỞ ĐẦU


Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại là một trong những hoạt
động truyền thống và quan trọng, hoạt động này ngoài việc mang lại lợi nhuận
từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động, các chi phí hoạt
động…. thì cũng là một trong những nhân tố góp phần để thu hút khách hàng
sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động này cũng chứa đựng rất
nhiều rủi ro, có thể gây tổn thất lớn cho ngân hàng nếu xảy ra việc khách hàng
không trả nợ cho ngân hàng. Chỉ cần một khách hàng mất khả năng trả nợ thì
bao nhiêu công sức, lợi nhuận của ngân hàng sẽ bị xóa bỏ một cách nhanh
chóng, nếu đây là khoản vay lớn thì nó còn có thể ảnh hưởng xấu đến tình hình
tài chính và danh tiếng của ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại Việt Nam đang trong quá trình phát triển mạnh
về cả số lượng và quy mô hoạt động, sức cạnh tranh trên thị trường tài chính
Việt Nam giữa các ngân hàng ngày càng mạnh mẽ tạo ra áp lực rất lớn cho các
ngân hàng thương mại trong quá trình kinh doanh. Trong áp lực cạnh tranh
ấy Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB ) đã và đang có những bước
chuyển mình để có thể cạnh tranh và tồn tại trong môi trường ngày càng khắc
nghiệt ấy. Trong bước phát triển của mình ACB luôn coi quản lý rủi ro là một
công tác cực kỳ quan trọng và quản lý rủi ro tín dụng là một thành phần cần
được lưu ý nhất vì hoạt động tín dụng hàm chứa rất nhiều rủi ro, có thể gây ra
tổn thất lớn cho Ngân hàng về tài chính và uy tín. Chính vì vậy, việc xây dựng
một hệ thống quản lý tín dụng hiệu quả cho ngân hàng thương mại là một công


tác rất thiết thực nhằm giúp cho các ngân hàng có thể có khả năng phòng
chống rủi ro trong hoạt động tín dụng mà nguyên nhân của nó ngày càng trở
nên đa dạng và khó lường.
Thông qua đề tài:”Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Á Châu (ACB )” em muốn mọi người có thể thấy được cách mà ACB đã
áp dụng để quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng mình như thế nào.


SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


2

Chương
1

Tổng quan về hoạt động tín dụng và rủi ro tín
dụng

ngân
hàng
1.1 Hoạt động tín dụng

1.1.1 Khái niệm
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên
cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá
nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển
giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa
thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho
bên cho vay khi đến hạn thanh toán.

Căn cứ theo khoản 01 Điều 03 của Quy chế cho vay của Tổ chức Tín
dụng đối với khách hàng (ban hành kèm theo Quyết định số
1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước) thì “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó Tổ chức Tín
dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục
đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả
cả gốc và lãi.”
Căn cứ theo Điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX đã
được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp
thứ hai thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01 tháng 10 năm 1998 thì “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín
dụng sử dụng nguồn vốn tự có, vốn huy động để cấp tín dụng”
Căn cứ theo Điều 49 của Luật này về “Cấp tín dụng” thì Tổ chức tín dụng
được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết
khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính
và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
1.1.2 Bản chất

Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản
trên cơ sở hoàn trả và có các đặc trưng sau:

SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


3

- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là
cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản).
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản
cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng

hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách
khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc.
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở bên đi vay
cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.3 Phân loại hoạt động tín dụng

Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa
trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là
tiền đề để thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản
trị rủi ro tín dụng. Phân loại cho vay dựa vào các căn cứ sau đây:
- Dựa vào mục đích của cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các
loại sau:
+ Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp.
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân.
+ Cho vay mua bán bất động sản.
+ Cho vay sản xuất nông nghiệp.
+ Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu…
- Dựa vào thời hạn cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại
sau:
+ Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn đến 1 năm. Mục đích
của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản
lưu động.
+ Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 1 đến 5 năm. Mục
đích của loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
+ Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích
của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư.
- Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, hoạt động tín dụng có thể phân

SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực



4

chia thành các loại sau:
+ Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản
thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
+ Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho
tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào
khác.
- Dựa vào phương thức cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các
loại sau:
+ Cho vay theo món vay: là loại cho vay mà mỗi lần vay vốn, khách
hàng và tổ chức tín dụng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp
đồng tín dụng.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: là loại cho vay mà tổ chức tín dụng và
khách hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong
một khoảng thời gian nhất định.
+ Cho vay theo hạn mức thấu chi: là việc cho vay mà tổ chức tín
dụng thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số
tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng.
- Dựa vào xuất xứ tín dụng, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại
sau:
+ Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu,
đồng thời người đi vay trực tiếp trả nợ vay cho ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua
lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh
toán như là: Chiết khấu thương mại; bao thanh toán.
1.2 Rủi ro tín dụng


1.2.1 Khái niệm
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân
hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ
không đúng hạn cho ngân hàng.
Căn cứ vào khoản 01 Điều 02 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và

SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


5

sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ
chức tín dụng (Ban hành theo Quyết định số 493 /2005/QĐ-NHNN ngày
22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) thì “Rủi ro tín dụng trong hoạt
động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt
động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.”
Như vậy, có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ
mà trong đó ngân hàng là chủ nợ, mà khách hàng nợ lại không thực hiện
hoặc không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra
trong quá trình cho vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá,
cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán của ngân hàng.
Đây còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro
liên quan đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.2.2 Phân loại

Nếu căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân
chia thành các loại sau:
- Rủi ro giao dịch (Transaction rish): là một hình thức của rủi ro tín dụng

mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét
duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận chính là
rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân
tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu
quả để ra quyết định cho vay.
+ Rủi ro bảo đảm phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản
trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, hình
thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
+ Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và
hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và
kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục (Porfolio rish): là một hình thức của rủi ro tín
dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục

SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


6

cho vay của ngân hàng, được phân chia thành hai loại là rủi ro nội tại
(Intrinsic rish) và rủi ro tập trung (Concentration rish).
+ Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính
riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế.
Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách
hàng vay vốn.
+ Rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá
nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt
động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng
địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.

1.2.3 Nguyên nhân

Hoạt động tín dụng là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu của các ngân
hàng thương mại nhưng đây cũng chính là lĩnh vực nghiệp vụ phức tạp và ẩn
chứa nhiều rủi ro nhất. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến rủi
ro tín dụng là thực sự cần thiết để các ngân hàng thương mại có được các giải
pháp cần thiết để hạn chế rủi ro này và đạt được hiệu quả hoạt động cao nhất.
Như chúng ta đã biết, rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp
tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả
được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng. Rủi ro này có nguyên nhân
từ nhiều phía: từ phía người cho vay, từ phía người đi vay và cả từ môi trường
bên ngoài.
1.2.3.1 Nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng

Trước hết phải nói đến các ngân hàng còn thiếu một chính sách tín dụng nhất
quán, chính sách tín dụng ở đây phải bao gồm định hướng chung cho việc cho
vay, chế độ tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn, các quy định về bảo đảm tiền
vay, danh mục lựa chọn khách hàng trong từng giai đoạn,…
Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng từ phía ngân hàng có thể được khái quát cơ
bản dưới đây:
- Ngân hàng không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để phân tích
và đánh giá khách hàng,… dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của phương án
xin vay, hoặc xác định thời hạn cho vay và trả nợ không phù hợp với phương

SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


7

án kinh doanh của khách hàng.

- Sự lơi lỏng trong quá trình giám sát trong và sau khi cho vay nên không phát
hiện kịp thời hiện tượng sử dụng vốn sai mục đích.
- Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật đảm bảo
chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay.
- Chạy theo số lượng (hoặc theo kế hoạch) mà sao lãng việc coi trọng chất lượng
khoản vay, quá lạc quan và tin tưởng vào sự thành công của phương án kinh
doanh của khách hàng.
- Ngân hàng thiếu một bộ phận chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro, quản lý
hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc từng ngành nghề, sản phẩm
địa phương khác nhau để phân tán rủi ro, các dự báo cần thiết trong từng thời kỳ.
- Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số cán bộ tín dụng ngân hàng chưa đủ
tầm và vấn đề quản lý sử dụng, đãi ngộ cán bộ ngân hàng chưa thỏa đáng.
- Ngân hàng không giải quyết hợp lý quan hệ giữa nguồn vốn huy động và
nguồn vốn sử dụng, cụ thể là: dự trữ vốn quá ít so với nhu cầu bảo đảm thanh
toán, từ đó dẫn đến mất khả năng thanh toán nếu khách hàng có nhu cầu rút vốn
nhiều; hoặc dự trữ vốn quá nhiều, gây ứ đọng vốn, lãng phí trong sử dụng vốn;
hoặc lấy vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn quá mức quy định.
- Cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh, việc chạy theo
quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan tâm đến
chất lượng khoản vay.
1.2.3.2 Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng

- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay.
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh
doanh cụ thể, khả thi. Số lượng doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý
lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên, những vụ việc
phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh
hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
- Năng lực quản lý kinh doanh kém, đầu tư nhiều lĩnh vực vượt quá khả năng
quản lý. Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh

doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp

SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


8

nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh
doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra
quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương
án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
- Khách hàng vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng dưới một danh nghĩa hay nhiều
thực thể khác nhau nên thiếu sự phân tích trên tổng thể, khó theo dõi được dòng
tiền dẫn đến việc sử dụng vốn vay chồng chéo và mất khả năng thanh toán dây
chuyền.
- Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mô tài sản,
nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết
các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác,
rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ
nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp
cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực
chất. Do đó, khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh
nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế
và xác thực.
- Chưa thực sự thay đổi quan điểm, còn xem vốn ngân hàng là vốn nhà nước nếu
doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả thì ngân hàng chịu, ngân hàng thua lỗ thì
nhà nước chịu.
- Doanh nghiệp cố tình lừa đảo ngân hàng.
1.2.3.3 Nguyên nhân khách quan


- Sự thay đổi của môi trường tự nhiên như: thiên tai, dịch bệnh, bão lụt gây
tổn thất cho khách hàng vay vốn kinh doanh.
- Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới.
Bởi vì nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông
nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và
nguyên liệu), dầu thô, may gia công,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và
giá cả thế giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu.
- Sự tấn công của hàng nhập lậu. Với hàng trăm km biên giới trên bộ và trên biển
cùng địa hình địa lý phức tạp và tình hình nghèo khó của dân cư vùng biên giới,

SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


9

cuộc chiến đấu với hàng nhập lậu đã kéo dài dai dẳng từ rất nhiều năm qua mà
kết quả là hàng lậu vẫn tràn lan tại các thành phố lớn, làm điêu đứng các
doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp
này.
- Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự kém hiệu quả của cơ
quan pháp luật cấp địa phương trong việc triển khai.
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản
dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có, song việc triển khai vào hoạt động ngân
hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều bất cập.
- Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước. Bên
cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm
bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng; năng lực cán
bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu; nội dung và phương pháp

thanh tra, giám sát còn lạc hậu, chậm được đổi mới; vai trò kiểm toán chưa được
phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu; thanh tra
tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền
tệ và giám sát rủi ro còn yếu;…
- Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập. Hiện nay, trung tâm thông tin tín dụng
ngân hàng (CIC) của Ngân hàng nhà nước đã hoạt động hơn một thập niên và đã
đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông
tin tín dụng. Tuy nhiên, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật, chưa
đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin.
- Sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chỉ số giá cả tăng, nguyên vật
liệu đầu vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách hàng, khó
khăn tài chính dẫn đến không có khả năng trả nợ.
1.2.4 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đến hoạt động kinh doanh của ngân
hàng và nền kinh tế xã hội
1.2.4.1 Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Khi rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã

SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


10

cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy
động khi đến hạn, điều này sẽ làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu
chi, vòng quay vốn tín dụng giảm làm cho ngân hàng kinh doanh không hiệu
quả, chi phí của ngân hàng tăng lên so với dự kiến.
Nếu một khoản vay nào đó bị mất khả năng thu hồi thì ngân hàng phải sử dụng
các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền, đến một chừng mực nào
đấy, ngân hàng không có đủ nguồn vốn để trả cho người gửi tiền thì ngân hàng
sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến nguy cơ gặp rủi

ro thanh khoản. Và kết quả là làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài
chính giảm sút, uy tín, sức cạnh tranh giảm không những trong thị trường nội
địa mà còn lan rộng ra các nước, kết quả kinh doanh của ngân hàng ngày càng
xấu có thể dẫn ngân hàng đến thua lỗ hoặc đưa đến bờ vực phá sản nếu không
có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời.
1.2.4.2 Ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội

Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của ngân hàng là một tổ chức trung gian
tài chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức,
các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất quyền sở hữu
những khoản cho vay là quyền sở hữu của người đã gửi tiền vào ngân hàng. Bởi
vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra thì không những ngân hàng chịu thiệt hại mà
quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng.
Khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở
các ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân
hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp phải khó khăn.
Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó
khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ
nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất
nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến
nền kinh tế thế giới vì ngày nay, nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào
nền kinh tế khu vực và thế giới. Kinh nghiệm cho ta thấy cuộc khủng hoảng
tài chính Châu Á (1997) và mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ

SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


11


(2001-2002) và cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay đã làm rung chuyển toàn
cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất nhanh
nên rủi ro tín dụng tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các
nước có liên quan.
* Tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau:
nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay,
nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn
đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục
được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nến kinh tế nói
chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị
ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm
thiểu rủi ro trong cho vay.
1.2.5 Một số phương pháp quản lý rủi ro tín dụng
.
Tín dụng là hoạt động chính yếu của ngân hàng. Nếu quản lý tốt, tín dụng sẽ
góp phần đáng kể trong việc tạo ra lợi nhuận và làm tăng giá trị ngân hàng.
Ngược lại, nếu quản lý kém, tín dụng có thể gây ra tổn thất lớn
v
à làm giảm
giá trị ngân hàng. Một trong những mục tiêu quan trọng của quản lý tín dụng
là làm giảm tối đa rủi ro tín dụng. Muốn vậy, ngân hàng cần phải lượng hóa
và đánh giá được rủi ro tín dụng để từ đó có các biện pháp quản lý hiệu quả.
1.2.5.1 Lượng hóa rủi ro tín dụng
.
Lượng hóa rủi ro tín dụng là việc xây dựng mô hình thích hợp để lượng
hóa mức độ rủi ro của khách hàng, từ đó xác định phần bù rủi ro và giới hạn
tín dụng an toàn tối đa đối với một khách hàng cũng như để trích lập dự phòng
rủi ro. Sau đây là các mô hình được áp dụng tương đối phổ biến:
* Mô hình chất lượng 6 C
:

(1) Tư cách người vay (Character)
Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích xin vay của khách hàng, mục đích xin
vay của khách hàng có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành của ngân
hàng và phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của khách hàng hay không,
đồng thời xem xét lịch sử đi vay và trả nợ đối với khách hàng cũ; còn khách
hàng mới thì cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác như từ: trung tâm

SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


12

phòng ngừa rủi ro, từ ngân hàng bạn, từ các cơ quan thông tin đại chúng,…
(2) Năng lực của người vay (Capacity)
Tùy thuộc vào quy định pháp luật của quốc gia. Đòi hỏi người đi vay phải có
năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.
(3) Thu nhập của người đi vay (Cash)
Trước hết, phải xác định được nguồn trả nợ của người vay như luồng tiền từ
doanh thu bán hàng hay thu nhập, tiền từ bán thanh lý tài sản, hoặc tiền từ phát
hành chứng khoán,…
(4) Bảo đảm tiền vay (Collateral)
Đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín dụng và là nguồn tài sản thứ hai có thể
dùng để trả nợ vay cho ngân hàng.
(5) Các điều kiện (Conditions)
Ngân hàng quy định các điều kiện tùy theo chính sách tín dụng từng thời kỳ
như cho vay hàng xuất khẩu với điều kiện thâu ngân phải qua ngân hàng, nhằm
thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương theo từng thời kỳ.
(6) Kiểm soát (Control)
Tập trung vào những vấn đề như sự thay đổi của luật pháp có liên quan và
quy chế hoạt động mới có ảnh hưởng xấu đến người vay hay không? Yêu

cầu tín dụng của người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng hay
không?
* Mô hình xếp hạng của Moody và Standard & poor’s:

Rủi ro tín dụng trong cho vay và đầu tư thường được thể hiện bằng việc xếp
hạng trái phiếu và khoản cho vay. Việc xếp hạng này được thực hiện bởi một
số dịch vụ xếp hạng tư nhân trong đó có Moody và Standard & Poor’s là
những dịch vụ tốt nhất.
Đối với Standard & Poor’s xếp hạng cao nhất từ Aaa nhưng với Moody thì cao
nhất là AAA. Việc xếp hạng giảm dần từ Aa (Standard & Poor’s ) và AA
(Moody ) sau đó thấp dần để phản ánh rủi ro không được hoàn vốn cao. Trong
đó, chứng khoán (khoản cho vay) trong 4 loại đầu được xem như loại chứng
khoán (cho vay) mà ngân hàng nên đầu tư, còn các loại chứng khoán (khoản
cho vay) bên dưới được xếp hạng thấp hơn thì ngân hàng không đầu tư (không

SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


13

cho vay). Nhưng thực tế vì phải xem xét mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa rủi ro và
lợi nhuận nên những chứng khoán (khoản cho vay) tuy được xếp hạng thấp (rủi
ro không hoàn vốn cao) nhưng lại co lợi nhuận cao nên đôi lúc ngân hàng vẫn
chấp nhận đầu tư vào các loại chứng khoán (cho vay) này.
Mô hình xếp hạng của công ty Moody và Standard & Poor’s:

Nguồn Xếp hạng Tình trạng
Standard &
Poor’s


Aaa Chất lượng cao nhất, rủi ro thấp nhất*
Aa Chất lượng cao*
A Chất lượng trên trung bình*
Baa Chất lượng trung bình*
Ba
Chất lượng trung bình mang yếu tố đầu cơ
B Chất lượng dưới trung bình
Caa Chất lượng kém
Ca Mang tính đầu cơ, có thể vỡ nợ
C Chất lượng kém nhất, triển vọng xấu
Moody

AAA Chất lượng cao nhất, rủi ro thấp nhất*
AA Chất lượng cao*
A Chất lượng trên trung bình*
BBB Chất lượng trung bình*
BB
Chất lượng trung bình mang yếu tố đầu cơ
B Chất lượng dưới trung bình
CCC Chất lượng kém
CC Mang tính đầu cơ, có thể vỡ nợ
C Chất lượng kém nhất, triển vọng xấu



SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


14


* Mô hình điểm số Z (Z – Credit scoring model):
Đây là mô hình do E.I. Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh
nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro
tín dụng đối với người đi vay và phụ thuộc vào:
- Trị số của các chỉ số tài chính của người vay.
- Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của
người vay trong quá khứ.
Từ đó Altman đã xây dựng mô hình điểm như sau:
Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5
Trong đó:
X1 = Hệ số vốn lưu động / tổng tài sản
X2 = Hệ số lãi chưa phân phối / tổng tài sản
X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi vay / tổng tài sản
X4 = Hệ số giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu / giá trị hạch toán
của nợ
X5 = Hệ số doanh thu / tổng tài sản

Trị số Z càng cao, thì xác suất vỡ nợ của người đi vay càng thấp. Ngược lại,
khi trị số Z thấp hoặc là một số âm thì đó là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm
có nguy cơ vỡ nợ cao.
Theo mô hình cho điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số thấp hơn
1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao.
* Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng
:
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng mô hình cho điểm
tín dụng bao gồm: Hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ
thuộc, sở hữu nhà, điện thoại cố định, số tài khoản cá nhân, thời gian công tác.
Bảng dưới đây là những hạn mục và điểm thường được sử dụng ở các
ngân hàng của Hoa Kỳ.
STT Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng Điểm

1
Nghề nghiệp của người
vay

- Chuyên gia hay phụ trách kinh doanh

10

SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


15

- Công nhân có kinh nghiệm
8
- Nhân viên văn phòng
7
- Sinh viên
5
- Công nhân không có kinh nghiệm 4
- Công nhân bán thất nghiệp 2
2 Trạng thái nhà ở


- Nhà riêng

6

- Nhà thuê hay căn hộ
4


-
Sống cùng bạn hay người thân

2
3

Xếp hạng tín
dụng



- Tốt
10

- Trung bình

5

- Không có hồ sơ

2

-
Tồi

0
4
Kinh nghiệm nghề nghiệp



- Nhiều hơn 1 năm
5

-
Từ 1 năm trở xuống

2

SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


16

5
Thời gian sống tại địa chỉ hiện hành


- Nhiều hơn 1 năm
2

-
Từ một năm trở xuống

1
6
Điện thoại cố
định




- Có

2
-
Không có

0
7
Số người sống cùng (phụ thuộc)

- Không

3
- Một
3
- Hai
4
- Ba
4
- Nhiều hơn ba
2
8 Các tài khoản tại ngân hàng
- Cả tài khoản tiết kiệm và phát hành Sec
4
- Chỉ tài khoản tiết kiệm
3
- Chỉ tài khoản phát hành Sec
2
- Không có

0

Khách hàng có điểm số cao nhất theo mô hình với 8 mục tiêu trên là 43
điểm, thấp nhất là 9 điểm. Giả sử ngân hàng biết mức 28 điểm là ranh giới
giữa khách hàng có tín dụng tốt và khách hàng có tín dụng xấu, từ đó ngân
hàng hình
thành khung chính sách tín dụng theo mô hình điểm số như sau:

SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


17


Tổng số điểm của khách hàng

Quyết định tín dụng

Từ 28 điểm trở xuống

Từ chối tín dụng

29 - 30
điểm

Cho vay đến 500 USD

31 - 33
điểm


Cho vay đến 1.000 USD

34 – 36 điểm

Cho vay đến 2.500 USD

37 – 38 điểm

Cho vay đến 3.500 USD

39 – 40 điểm

Cho vay đến 5.000 USD

41 – 43 điểm

Cho vay đến 5.000 USD


1.2.5.2 Đánh giá rủi ro tín dụng
Các chỉ số thường được sử dụng để đánh giá rủi ro tín dụng là:
* Tỷ lệ nợ quá hạn:
Dư nợ quá
hạn

Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100%
Tổng dư nợ cho
vay

Quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước cho phép dư nợ quá hạn của các

Ngân hàng thương mại không được vượt quá 5%, nghĩa là trong 100 đồng vốn
ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn tối đa chỉ được phép là 5 đồng.
Nợ quá hạn (non performing loan – NPL) là khoản nợ mà một phần
hoặc

toàn bộ nợ gốc và / hoặc lãi đã quá hạn.
Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả
đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ. Để đảm
bảo quản lý chặt chẽ, các khoản nợ quá hạn trong hệ thống ngân
h
àng thương
mại Việt Nam được phân loại theo thời gian và được phân chia theo thời hạn
thành các nhóm sau:
+ Nợ quá hạn dưới 90 ngày – Nợ cần chú ý.
+ Nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày – Nợ dưới tiêu chuẩn.
+ Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày – Nợ nghi ngờ.
+ Nợ quá hạn trên 361 ngày – Nợ có khả năng mất vốn.

SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


18

* Tỷ trọng nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay


Nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ không thể
đòi,…) là khoản nợ mang các đặc trưng sau:
+ Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các
cam kết này đã hết hạn.

+ Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn
đến có khả năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi.
+ Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị
phát mãi không đủ trang trải nợ gốc và lãi.
+ Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày.
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005, nợ xấu của tổ
chức tín dụng bao gồm các nhóm nợ như sau:
 Nhóm nợ dưới tiêu chuẩn: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là
không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn và có khả năng tổn thất
một phần nợ gốc và lãi. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã
cơ cấu lại.
 Nhóm nợ nghi ngờ: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả năng
tổn thất cao. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày; Các khoản
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã
cơ cấu lại.
 Nhóm nợ có khả năng mất vốn: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá
là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn trên
360 ngày; Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý; Các khoản nợ đã cơ cấu
lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
Theo quy định hiện nay, tỷ lệ này không được vượt quá 3%.
 Hệ số rủi ro tín dụng



SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


19



Tổng dư nợ cho
vay

Hệ số rủi ro tín dụng = x 100%
Tổng tài sản có


Hệ số này cho ta thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài sản có, khoản
mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng đồng thời
rủi ro tín dụng cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng
được chia thành 3 nhóm:
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu: là những khoản
cho vay có mức độ rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân
hàng. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của
ngân hàng.
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt: là những khoản cho
vay có mức độ rủi ro thấp nhưng có thể mang lại thu nhập không cao cho ngân
hàng. Đây cũng là những khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ
cho vay của ngân hàng.
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình: là những khoản
cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mạng lại cho
ngân hàng là vừa phải. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng
dư nợ cho vay của ngân hàng.
* Tỷ lệ xóa nợ

Các khoản xóa nợ
ròng

Tỷ lệ xóa nợ = x 100%

Tổng tài sản


1.2.5.3 Phương pháp quản lý rủi ro tín dụng.
Thực hiện đúng các quy định của pháp luật về cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài
chính, chiết khấu, bao thanh toán và bảo đảm tiền vay. Xem xét và quyết định
việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản hoặc không có bảo đảm bằng tài sản, cho
vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, tránh các vướng mắc khi xử
lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ vay. Đặc biệt chú trọng thực hiện các giải pháp
nâng cao chất lượng tín dụng, không để nợ xấu gia tăng.

SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


20

Phải tăng cường kiểm tra, giám sát việc chấp hành các nguyên tắc, thủ tục cho
vay và cấp tín dụng khác, tránh xảy ra sự cố gây thất thoát tài sản; sắp xếp lại
tổ chức bộ máy, tăng cường công tác đào tạo cán bộ để đáp ứng yêu cầu kinh
doanh ngân hàng trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với hoạt động kinh
doanh, đối tượng khách hàng, tính chất rủi ro của khoản nợ của tổ chức tín
dụng.
Thực hiện chính sách quản lý rủi ro tín dụng, mô hình giám sát rủi ro tín dụng,
phương pháp xác định và đo lường rủi ro tín dụng có hiệu quả, trong đó bao
gồm cách thức đánh giá về khả năng trả nợ của khách hàng, hợp đồng tín dụng,
các tài sản bảo đảm, khả năng thu hồi nợ và quản lý nợ của tổ chức tín dụng.
Thực hiện các quy định bảo đảm kiểm soát rủi ro và an toàn hoạt động tín
dụng:
+ Xây dựng và thực hiện đồng bộ hệ thống các quy chế, quy trình nội bộ về

quản lý rủi ro; trong đó đặc biệt chú trọng việc xây dựng chính sách khách hàng
vay vốn, sổ tay tín dụng, quy định về đánh giá, xếp hạng khách hàng vay, đánh
giá chất lượng tín dụng và xử lý các khoản nợ xấu.
+ Mở rộng tín dụng trung và dài hạn ở mức thích hợp, đảm bảo cân đối thời
hạn cho vay với thời hạn của nguồn vốn huy động.
+ Thực hiện đúng quy định về giới hạn cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính,
bao thanh toán đối với một khách hàng và các tỷ lệ an toàn hoạt động kinh
doanh.
Đối với các trường hợp chây ỳ nhận nợ và trả nợ vay, các tổ chức tín dụng cần
áp dụng các biện pháp kiên quyết, đúng pháp luật để thu hồi nợ vay, kể cả việc
xử lý tài sản thế chấp, cầm cố và bảo lãnh, khởi kiện lên cơ quan tòa án.
Phân tán rủi ro trong cho vay: không dồn vốn cho vay quá nhiều đối với một
khách hàng hoặc không tập trung cho vay quá nhiều vào một ngành, lĩnh vực
kinh tế có rủi ro cao.
Thực hiện tốt việc thẩm định khách hàng và khả năng trả nợ trước khi quyết
định tín dụng.
Mua bảo hiểm cho các khoản tiền gửi, tiền vay.

SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


21

Phải có chính sách tín dụng hợp lý và duy trì các khoản dự phòng để đối phó với
rủi ro.
Trước khi cho một khách hàng vay, ngân hàng phải xem xét các điều kiện cơ bản
như là: Khả năng trả nợ của khách hàng so với mức cho vay; Trị giá tài sản đảm
bảo so với mức cho vay; Giới hạn tổng dư nợ cho vay một khách hàng, một
nhóm khách hàng có liên quan;…























SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


22

Chương
2

Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ

phần Á
Châu

2.1 Giới thiệu khái quát về Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) được thành lập theo Giấy
phép số 0032/NH-GP do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cấp ngày 24/4/1993,
và Giấy phép số 533/GP-UB do Ủy ban Nhân dân TP.HCM cấp ngày
13/5/1993. Ngày 04/6/1993 ACB chính thức đi vào hoạt động, là một trong
những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam được thành lập
trong bối cảnh đất nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường và trụ sở
chính được đặt tại 442 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3 TP.HCM.
- Về Quy mô hoạt động:
+ Năm 2006: Vốn chủ sở hữu là 1.630 tỷ đồng; Tổng tài sản là 44.346 tỷ
đồng; Về mạng lưới kênh phân phối, tính đến cuối năm 2006, toàn hệ thống
ACB có 80 chi nhánh và phòng giao dịch với tổng số nhân viên là 2.892, trong
đó 90% số nhân viên có trình độ Đại học và Sau đại học.
+ Năm 2007: Vốn chủ sở hữu là 6.258 tỷ đồng; Tổng tài sản là 85.392 tỷ
đồng; Về mạng lưới kênh phân phối, tính đến cuối năm 2007, toàn hệ thống
ACB có 111 chi nhánh và phòng giao dịch tại những vùng kinh tế phát triển trên
toàn quốc với tổng số nhân viên là 4.600, trong đó 93% số nhân viên có trình độ
Đại học và Sau đại học.
+Năm 2009: Vốn chủ sở hữu là 9.640 tỷ đồng; Tổng tài sản là 167.724 tỷ
đồng; Về mạng lưới kênh phân phối,tính đến cuối năm 2009, toàn hệ thống ACB
có 256 chi nhánh và phòng giao dịch tại nhiều địa phương trong cả nước với
tổng số nhân viên là 6.669.
- Quá trình phát triển và một số sự kiện đáng chú ý:
+ Năm 1996, ACB là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của
Việt Nam phát hành thẻ tín dụng quốc tế ACB-MasterCard.
+ Năm 1997, ACB phát hành thẻ tín dụng quốc tế ACB-Visa. Và cũng


SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


23

trong năm này, ACB bắt đầu tiếp cận nghiệp vụ ngân hàng hiện đại dưới hình
thức của một chương trình đào tạo nghiệp vụ ngân hàng toàn diện kéo dài hai
năm do giảng viên nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng thực hiện. Thông qua
chương trình này, ACB đã nắm bắt một cách hệ thống các nguyên tắc vận hành
của một ngân hàng hiện đại, các chuẩn mực và thông lệ trong quản lý rủi ro,
đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ, và nghiên cứu ứng dụng trong điều
kiện Việt Nam.
+ Năm 1999, ACB triển khai chương trình hiện đại hóa công nghệ
thông tin ngân hàng, xây dựng hệ thống mạng diện rộng, nhằm trực tuyến hóa
và tin học hóa hoạt động giao dịch. Và cuối năm 2001, ACB chính thức vận
hành hệ thống công nghệ ngân hàng lõi là TCBS (The Complete Banking
Solution: Giải pháp ngân hàng toàn diện), cho phép tất cả chi nhánh và phòng
giao dịch nối mạng với nhau, giao dịch tức thời, dùng chung cơ sở dữ liệu tập
trung.
+ Năm 2000, sau những bước chuẩn bị từ năm 1997, ACB đã thực hiện
tái cấu trúc như là một bộ phận của chiến lược phát triển trong nửa đầu thập
niên 2000. Cơ cấu tổ chức được thay đổi theo định hướng kinh doanh và hỗ trợ.
Các khối kinh doanh gồm có: Khối khách hàng cá nhân, Khối khách hàng
doanh nghiệp và Khối ngân quỹ. Các đơn vị hỗ trợ gồm có: Khối công nghệ
thông tin; Khối giám sát điều hành; Khối phát triển kinh doanh, Khối quản trị
nguồn lực và một số phòng ban do Tổng Giám đốc trực tiếp chỉ đạo. Hoạt động
kinh doanh của Hội sở được chuyển giao cho Sở giao dịch (TPHCM). Việc
tái cấu trúc nhằm đảm bảo tính chỉ đạo xuyên suốt toàn hệ thống, sản phẩm
được quản lý theo định hướng khách hàng và được thiết kế phù hợp với từng

phân đoạn khách hàng, quan tâm đúng mức việc phát triển kinh doanh và quản
lý rủi ro.
+ Năm 2003, ACB xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn ISO 9001:2000 và được công nhận đạt tiêu chuẩn trong các lĩnh vực:
Huy động vốn; Cho vay ngắn hạn và trung - dài hạn; Thanh toán quốc tế; và
cung ứng các nguồn lực tại Hội sở.


SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


24

+ Năm 2005, ACB và Ngân hàng Standard Chartered (SCB) ký kết thỏa
thuận hỗ trợ kỹ thuật toàn diện. Và SCB trở thành cổ đông chiến lược của ACB.
ACB triển khai giai đoạn hai của chương trình hiện đại hóa công nghệ ngân
hàng bao gồm các cấu phần: nâng cấp máy chủ, thay thế phần mềm xử lý giao
dịch thẻ ngân hàng bằng một phần mềm mới có khả năng tích hợp với công
nghệ lõi hiện nay và lắp đặt hệ thống máy ATM.
+ Năm 2006, ACB được Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội chấp
thuận cho đăng ký giao dịch tại trung tâm kể từ ngày 31/10/2006 theo
Quyết định số 21/QĐ-TTGDHN ngày 31/10/2006.
+ Năm 2007, ACB mở rộng mạng lưới hoạt động, thành lập mới 31 chi
nhánh và phòng giao dịch, thành lập Công ty cho thuê tài chính ACB, hợp tác
với các đối tác như Open Solutions (OSI) - Thiên Nam, hợp tác với Microsoft
về việc áp dụng công nghệ thông tin vào vận hành và quản lý, hợp tác với Ngân
hàng Standard Chartered về việc phát hành trái phiếu. ACB phát hành 10
triệu cổ phiếu và thu được hơn 1.800 tỷ.
+ Trong năm 2009 ACB vinh dự được nhận giải thưởng “ Ngân hàng tốt
nhất Việt Nam” do nhiều tạp chí có uy tín bình chọn, thành lập mới 50 chi nhánh

và phòng giao dịch; hợp tác cùng SCB phát hành thẻ đồng thương hiệu và kết
nối hệ thống máy ATM với SCB. Đồng thời ACB còn nhận được huân chương
lao động hạng nhì và cờ thi đua của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam.
- Trong hoạt động, ACB luôn tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với
ngân sách nhà nước, bảo toàn và phát triển vốn. Và ACB cũng đã khẳng định
được vị trí là một thương hiệu mạnh trong và ngoài nước. Tại Việt nam, ACB
xếp hạng là “1 trong 500 thương hiệu nổi tiếng tại Việt nam” (do VCCI
bình chọn năm 2005); và là nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ xuất sắc trong lĩnh
vực tài chính ngân hàng (Chương trình “Tin & Dùng Việt Nam 2006” do Thời
báo kinh tế Việt Nam tổ chức). Liên tiếp trong hai năm 2005 và 2006, ACB là
ngân hàng đầu tiên của Việt Nam nhận được 3 giải thưởng quốc tế danh giá
do các tổ chức và tạp chí uy tín trong ngành ngân hàng trao tặng: The Banker,
the Asean banker và Euromoney. Và trong năm 2007, ACB là đơn vị đầu tiên
và duy nhất trong ngành ngân hàng Việt Nam được Hội đồng tư vấn doanh

SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực


25

nghiệp (BAC) của Hiệp hội ASEAN tặng giải thưởng “Doanh nghiệp ASEAN
xuất sắc nhất” trong lĩnh vực phát triển đội ngũ lao động.
- Song song với các thành tích đạt được trong kinh doanh, ACB còn được công
nhận là doanh nghiệp tích cực hoạt động xã hội và có nhiều đóng góp cho sự
phát triển chung của cộng đồng. Điển hình là công tác ủng hộ đồng bào bị
thiên tai, hỗ trợ phẫu thuật cho 600 người mù nghèo, đóng góp xây dựng
trường học và tài trợ học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo…Trong năm
2009, ACB đã chi tổng cộng trên 9,5 tỷ đồng cho các hoạt động quan hệ cộng
đồng. Đồng thời, ACB còn thực hiện tốt công tác chăm lo đời sống cho cán bộ
công nhân viên, phát huy công tác Đảng, Đoàn thể tại đơn vị.

- Về kế hoạch phát triển trong tương lai, trong năm 2010 ACB khẳng định việc
ACB sẽ tiếp tục giữ vị thế hàng đầu trong hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam.
ACB
dự định kết thúc năm
2010 với 3.600
tỷ đồng
lợi
nhuận
trước
thuế của
T
ập
đoàn,
210.000
tỷ đồng tổng tài sản,
170.000
tỷ đồng huy động từ
dân cư và tổ chức kinh
t
ế
,

96.000
tỷ đồng dư nợ cho
va
y
,
trong
khi

nợ xấu duy
tr
ì

ở mức dưới
1%.
Ngoài ra,
ACB
sẽ tiếp tục
kiện
toàn năng
lực
của tổ chức bằng
việc
tiến hành trả lương theo năng suất, cải tiến giáo trình và chất lượng đào tạo
cũng như tuyển dụng để đảm bảo tìm được đúng người và phân công đúng
việc để mỗi thành viên của tổ chức phát huy được tối đa năng lực của mình.
Một trong những công việc hệ trọng mà
ACB
phải thực hiện trong năm 2010 là
xây
dựng
cho
được chiến
lược
phát triển trong 5 – 10 năm tới. Và để thực hiện
chiến lược trên, ACB sẽ tiếp tục tích cực phát triển hệ thống kênh phân phối
không chỉ là các chi nhánh và phòng giao dịch mà còn là hệ thống máy ATM
và kênh ngân hàng điện tử để nâng cao năng lực phục vụ khách hàng và thu hút
khách hàng mới, nâng cao chất lượng dịch vụ và cho ra đời nhiều sản phẩm

gắn với nhu cầu của người dân, xây dựng phong cách phục vụ của nhân viên
theo hướng chuyên nghiệp và áp dụng hệ thống công nghệ hiện đại cho hoạt
động ngân hàng.
2.1.2 Kết quả hoạt động kinh doanh trong thời gian qua

Sau 17 năm hoạt động, ACB luôn giữ vững sự tăng trưởng mạnh mẽ và
ổn định. Và điều này được thể hiện bằng các chỉ số tài chính qua các năm như
sau:

×