Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

TIỂU LUẬN SỰ PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.82 KB, 107 trang )

Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC
☼☼☼
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
ĐỀ TÀI : SỰ PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ KHUYẾT TẬT
Ở VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn : Tiến sĩ Nguyễn Thùy Linh
Sinh viên thực hiện : Vũ Trung Hiền
LỚP : K56 CÔNG TÁC XÃ HỘI
Hà Nội 2013
1
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT:
CTXH : Công tác xã hội
NKT : Người khuyết tật
NKT VĐ : Người khuyết tật vận động
HKT : Hội khuyết tật
HBT : Hai Bà Trưng
Bộ LĐ TB XH : Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
DANH MỤC BIỂU ĐỒ:
Biểu đồ 1 : Tỷ lệ NKT VĐ có việc làm
Biểu đồ 2 : Lý do chưa có việc làm
Biểu đồ 3 : Nhu cầu về các dịch vụ hỗ trợ việc làm
Biểu đồ 4: Cơ cấu NKT đã được tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ việc làm
Biểu đồ 5: Mức độ các loại dịch vụ hỗ trợ tiếp cận đến NKT VĐ Quận HBT
Biểu đồ 6: Tương quan giữa nhu cầu dịch vụ hỗ trợ việc làm và số NKT được tiếp
cận
DANH MỤC BÀNG
Bảng 1: Phân cấp nhu cầu theo mức của Maslow


Bảng 2 : Can thiệp cấp độ sơ cấp, thứ cấp và tam cấp
Bảng 3: Kết quả điều tra về thu nhập bình quân /tháng
Bảng 4: Các lĩnh vực công việc mà NKT VĐ Quận Hai Bà Trưng hướng tới :
Bảng 5: Kết quả điều tra về nhu cầu môi trường tinh thần
2
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
MỤC LỤC
A : PHẦN MỞ ĐẦU 9
1. Lý do chon đề tài: 9
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa nghĩa thực tiễn: 10
2.1 Ý nghĩa khoa học: 10
2.2 Ý nghĩa thực tiễn: 10
3. Mục đích nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu: 11
3.1 Mục đích nghiên cứu: 11
3.2 Mục tiêu nghiên cứu: 11
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi, khách thể nghiên cứu 12
4.1 Đối tượng nghiên cứu: 12
4.2 Khách thể nghiên cứu: 12
4.3 Phạm vi nghiên cứu: 12
4.3.1 Phạm vi khảo sát: 12
4.3.2 Phạm vi vấn đề nghiên cứu 12
5. Phương pháp nghiên cứu: 13
5.1 Phương pháp luận chung 13
5.2 Phương pháp thu thập thông tin 14
5.2.1 Phương pháp phỏng vấn sâu 14
5.2.2 Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi 14
5.2.3 Phương pháp phân tích tài liệu 15
6. Câu hỏi nghiên cứu: 15
7. Giả thuyết nghiên cứu: 15
B: PHẦN NỘI DUNG CHÍNH 16

Chương I. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài 16
I.1. Cơ sở lý luận của đề tài: 16
1. Lý thuyết hệ thống 16
2. Lý thuyết nhu cầu 18
3
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
2.1 Lý thuyết nhu cầu của Maslow 18
2.2 Lý thuyết nhu cầu của Frederick Herzberg 21
I.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 22
1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 22
2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề dạy nghề và việc làm
của NKT 25
3. Tình hình cung cấp Dịch vụ CTXH tại Việt Nam hiện nay 29
4. Mô hình trung tâm dịch vụ CTXH ( Do Bộ LĐ TB XH đề xuất năm
2011) 32
4.1 Chức năng 32
4.2 Hướng xây dựng các trung tâm dịch vụ CTXH trong tương lai. .34
5. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu 36
5.1 Quận Hai Bà Trưng 36
5.2 Hội KT Quận Hai Bà Trưng 36
5.2.1 Lịch sử thành lập 37
5.2.2 Cơ cấu tổ chức 37
5.2.3 Đối tượng 38
6. Các khái niệm công cụ 39
6.1 Khái niệm “Công tác xã hội” 39
6.2 Khái niệm “Người khuyết tật” 39
6.3 Khái niệm “Khuyết tật vận động” 41
6.4 Khái niệm “Nhu cầu” 41
6.5. Khái niệm “Dịch vụ Xã hội” 42
6.6 Khái niệm “Dịch vụ Công tác xã hội” 42

Chương II. Kết quả nghiên cứu 43
1 Thực trạng việc làm của NKT Vận động tại Quận HBT 43
1.1 Tỷ lệ NKT vận động có việc làm 43
1.2 Thu nhập của những NKT có việc làm 44
1.3 Cách thức giúp NKT kiếm được việc làm 45
4
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
1.4 Lý do chưa có việc làm và nguyên nhân thất nghiệp 45
2. Nhu cầu việc làm của NKT vận động tại quận HBT 49
2.1 Nhu cầu về loại hình công việc 49
2.2 Nhu cầu về các chế độ đãi ngộ khi làm việc 50
2.3 Nhu cầu về môi trường làm việc 53
2.4 Nhu cầu về các dịch vụ hỗ trợ vịêc làm 55
2.5 Kiểm nghiệm với lý thuyết nhu cầu của Maslow 57
3. Dịch vụ CTXH trong vịêc giải quyết nhu cầu việc làm của NKT vận
động quận HBT 59
3.1 NKT vận động Quận HBT và khái niệm “Dịch vụ CTXH” 59
3.2 Các loại dịch vụ hỗ trợ vịêc làm cho NKT VĐ ở quận HBT 62
3.3 Mức độ tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ vịêc làm với nhu cầu của NKT
với các dịch vụ này 63
3.4 Một số trung tâm, tổ chức tiêu biểu cung cấp các dịch vụ hỗ trợ việc
làm cho NKT vận động ở Quận Hai Bà Trưng 65
3.5 Đánh giá về hiệu quả đáp ứng của các dịch vụ hỗ trợ việc làm thông
qua ý kiến của NKT tham gia dịch vụ 66
3.6 Những nhận định về các dịch vụ hỗ trợ việc làm từ một số cán bộ
cung cấp dịch vụ 68
3.6.1 Các hoạt động hỗ trợ việc làm chủ yếu 68
3.6.2 Giá cung cấp dịch vụ của các trung tâm, tổ chức 70
3.6.3 Sự tham gia, cộng tác của nhân viên CTXH đối với các trung tâm,
tổ chức cung cấp dịch vụ 71

3.6.4 Khó khăn mà trung tâm, tổ chức gặp phải trong quá trình cung
cấp các dịch vụ hỗ trợ việc làm cho NKT VĐ Quận HBT 72
3.7 Đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu việc làm cho người khuyết tật
của những dịch vụ hỗ trợ việc làm hiện có 73
4.Giải pháp và khuyến nghị 75
4.1 Tới chính phủ 75
5
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
4.2 Tới UBND Quận Hai Bà Trưng 76
4.3 Tới Hội KT Quận Hai Bà Trưng và các tổ chức đoàn thể khác của
NKT trong Quận 77
4.4 Tới các trung tâm , tổ chức cung ứng dịch vụ hỗ trợ việc làm 78
4.5 Tới các trường đào tạo ngành Công tác xã hội trên Địa bàn thành
phố Hà Nội 78
C. PHẦN KẾT LUẬN 80
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82
E. PHỤ LỤC 84
1. Mẫu bảng hỏi 84
2. Một số phỏng vấn sâu 89
Bảng phỏng vấn sâu số 1 89
Bảng phỏng vấn sâu số 2 91
Bảng phỏng vấn sâu số 3 94
Bảng phỏng vấn sâu số 4 96
Bảng phỏng vấn sâu số 5 98
Bảng phỏng vấn sâu số 6 100
Bảng phỏng vấn sâu số 7 101
Bảng phỏng vấn sâu số 8 103
Bảng phỏng vấn sâu số 9 106
6
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Theo thống kê của tổng cục điều tra Dân số và Nhà ở thì trong số 78,5 triệu
người Việt Nam từ 5 tuổi trở lên ( số liệu thống kê năm 2009) có 6,1 triệu người ,
tương ứng với 7,8% dân số từ 5 tuổi trở lên là người khuyết tật. Như vậy, người
khuyết tật là một bộ phận dân số không nhỏ cần những sự quan tâm đặc biệt từ
phía chính phủ. Người khuyết tật ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn trở ngại trong
cuộc sống hàng ngày. Một trong những khó khăn trong đời sống của họ chính là
vấn đề việc làm của người khuyết tật . Chúng ta có thể thấy rằng, cho dù là ai, là
người khuyết tật hay người không khuyết tật thì đều có nhu cầu làm việc để nuôi
sống bản thân . Tuy nhiên, người khuyết tật bản thân họ lại bị hạn chế bởi điều
kiện thể chất trong khi lao động, đặc biệt là người khuyết tật vận động. NKT gặp
phảt rất nhiều rào cản trong quá trình học nghề và tìm việc làm phù hợp như sự kỳ
thị, sự phân biệt đối xử.
Hiện nay Đảng và Nhà nước đã xây dựng những chính sách và luật để giúp
cho NKT có cơ hội được làm việc,nhưng thực tế là rất nhiều người khuyết tật còn
khả năng lao động nhưng không tiếp cận được với các cơ hội đó. Mặt khác, chưa
có nhiều công ty, xí nghiệp tạo điều kiện cho người khuyết tật những điều kiện
làm việc phù hợp . Người khuyết tật hiện nay hầu hết chưa tiếp cận được các cơ
hội làm việc ổn định tại các công ty xí nghiệp mà chỉ lao đông tại các cơ sở cho
người khuyết tật. Việc giúp người khuyết tật giải quyết được vấn đề việc làm
không chỉ đem lại cho họ một nghề nghiệp để tự nuôi sống bản thân mà cũng là
giúp họ tái hòa nhập cộng đồng.
Như vậy, việc giải quyết nhu cầu việc làm cho người khuyết tật hiện nay là
rất cần thiết , nhưng các dịch vụ CTXH nhằm trợ giúp NKT tiếp cận với các cơ
hội việc làm còn rất thiếu. Ngay tại Quận Hai Bà Trưng nằm trong Thủ đô Hà Nội,
trung tâm văn hóa chính trị của đất nước thì vẫn còn rất thiếu những dịch vụ
CTXH để giải quyết nhu cầu việc làm cho người khuyết tật ở đây. Do vậy, việc
7
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam

tìm hiểu về các dịch vụ CTXH trong việc giúp NKT có được việc làm đáp ứng
được những nhu cầu của họ là rất cấp thiết.
Với thực trạng nêu trên nhóm sinh viên quyết định nghiên cứu để tìm hiểu
về " Dịch vụ CTXH trong giải quyết nhu cầu việc làm của người khuyết tật vận
động quận Hai Bà Trưng “ nhằm đưa ra một cái nhìn khái quát nhất về vấn đề này,
để từ đó có những căn cứ đúng đắn nhằm xây dựng những giải pháp và đề xuất
phù hợp .
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
2.1 Ý nghĩa khoa học.
Việc nghiên cứu đề tài trên một phần là củng cố tri thức, phương pháp
nghiên cứu khoa học xã hội cho người nghiên cứu. Đồng thời đề tài sẽ làm phong
phú thêm phạm vi nghiên cứu, lĩnh vực nghiên cứu cho xã hội học.Một mặt nghiên
cứu này muốn kiểm nghiệm tính ứng dụng của lý thuyết hệ thống và các lý thuyết
nhu cầu của Maslow và Herzberg để tìm hiểu mức độ cần thiết của nhu cầu việc
làm đối với NKT.
2.2 Ý nghĩa thực tiễn
Công tác xã hội là bộ môn khoa học luôn đi sát với thực tiễn và nhằm giúp
phát triển xã hội theo hướng tích cực .Nghiên cứu cũng vận dụng những kiến thức
của bộ môn Xã hội học trong vịêc thu thập thông tin và sử lý số liệu để tìm hiểu về
thực trạng và nhu cầu việc làm của NKT vận động Quận Hai Bà Trưng. Qua đó
đưa ra những nét khái quát nhất về thực trạng việc làm cũng như nhu cầu của NKT
vận động về vấn đề việc làm. Căn cứ vào những thực tiễn đó để có thể tìm ra
những xu hướng giải quyết phù hợp với bối cảnh kinh tế - văn hóa – xã hội Việt
Nam.
Mặt khác từ vấn đề nghiên cứu có thể vận dụng những kiến thức của công
tác xã hội để đánh giá mức độ đáp ứng của các dịch vụ CTXH nhằm trợ giúp NKT
quận Hai Bà Trưng trong vấn đề vịêc làm Đồng thời từ những kiến thức về CTXH
có thể đề xuất ra những giải pháp , khuyến nghị để khắc phục những mặt hạn chế,
8
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam

phát huy những mặt tích cực của các dịch vụ CTXH đã có. Hơn thế nữa, trong quá
trình nghiên cứu cũng rút ra được kiến thức cũng như kỹ năng và phương pháp
làm việc phù hợp và hiệu quả nhất đối với người khuyết tật vận động cho nhân
viên CTXH trong vấn đề này
3. Mục đích nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu khả năng đáp ứng của dịch vụ công tác xã hội trong việc đáp ứng
các nhu cầu việc làm của người khuyết tật vận động tại quận Hai Bà Trưng. Căn
cứ vào đó để xây dựng các mô hình dịch vụ công tác xã hội phù hợp với nhu cầu.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
• Tìm hiểu về thực trạng việc làm của người khuyết tật vận động tại quận Hai
Bà Trưng.
• Tìm hiểu nhu cầu việc làm của người khuyết tật vận động tại quận Hai Bà
Trưng.
• Thực trạng các dịch vụ công tác xã hội trong việc giải quyết các nhu cầu việc
làm của người khuyết tật vận động ở quận Hai Bà Trưng
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi, khách thể nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu.
Dịch vụ công tác xã hội đối trong giải quyết nhu cầu việc làm cho người
khuyết tật vận động tại quận Hai Bà Trưng.
4.2 Khách thể nghiên cứu
• Người khuyết tật vận động trong độ tuổi lao động đang sống tại quận Hai Bà
Trưng.
• Cán bộ hội KT Quận Hai Bà Trưng.
• Cán bộ cung cấp dịch vụ hỗ trợ việc làm cho NKT vận động quận Hai Bà
Trưng.
4.3 Phạm vi nghiên cứu:
9
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
4.3.1Phạm vi khảo sát:

• Không gian : Nghiên cứu tại quận Hai Bà Trưng.
• Thời gian : từ 28 tháng 2 năm 2013 đến 24 tháng 3 năm 2013
4.3.2 Phạm vi vấn đề nghiên cứu:
• Nhu cầu việc làm : bao gồm: nhu cầu về lương, chế độ đãi ngộ, môi trường
làm việc, loại hình công việc, nhu cầu về các dịch vụ công tác xã hội hỗ trợ việc
làm
• NKT Vận động : Chỉ tiến hành nghiên cứu trên các đối tượng NKT vận động
vẫn còn khả năng lao động và đang ở độ tuổi lao động được quy định trong Bộ
Luật Lao động . Tức là với Nam giới KT từ 15 đến 60 tuổi, Nữ giới KT từ 15 đến
55 tuổi
• Dịch vụ CTXH : Các hoạt động CTXH mang tính chuyên nghiệp hoặc không
chuyên cung cấp các họat động hỗ trợ về tinh thần và vất chất cho NKT nhằm xóa
bỏ những rào cản và bất bình đẳng trong vấn đề việc làm của NKT. Do ở Việt
Nam các dịch vụ CTXH mang tính chuyên nghiệp mới đang trong quá trình hình
thành nên nghiên cứu cũng xin được coi những họat động trợ giúp việc làm cho
NKT nằm trong các dịch vụ CTXH.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận chung:
• Chủ Nghĩa duy vật biện chứng, Chủ Nghĩa duy vật lịch sử.
Bất cứ một đề tài nghiên cứu nào được tiến hành cũng phải dựa trên cơ sở
nền tảng phương pháp luận. Nó có một vai trò vô cùng quan trọng, giúp đinh
hướng toàn bộ quá trình nghiên cứu về một vấn đề xã hội. Nhằm chứng minh cho
tính tất yếu khách quan của đề tài , nhóm sinh viên nghiên cứu đã sử dụng phương
pháp duy vật biện chứng và duy luận lịch sử làm cơ sở cho phương pháp luận đề
tài nghiên cứu của mình.
10
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
là phương pháp luận khoa học để nhận thức và lí giải các hiện tượng xã hội. Nó
khẳng định mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa các quá trình xã hội, có tính kế

thừa và phát triển trong suốt quá trình.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đòi hỏi quá trình nghiên cứu phải đặt vai trò
của các dịch vụ công tác xã hội trong nhiều mối quan hệ phức tạp. Đó là mối quan
hệ với người khuyết tật, với cán bộ trong Hội người khuyết tật quận hai bà trưng,
hay các nhân viên làm công tác xã hội, làm tình nguyện viên
Chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu các vai trò của Các dịch vụ công tác
xã hội trong các quá trình lịch sử như ở một số quốc gia Anh, Pháp, Mĩ, Thủy
Điển Thông qua các tài liệu các mô hình trợ giúp người khuyết tật trong vấn đề
việc làm được phát triển và mở rộng. Điều này khích lệ hoạt động nghiên cứu tìm
tòi trong việc phát triển mạng lưới dịch vụ công tác xã hội trong việc đáp ứng nhu
cầu cho người khuyết tật của toàn Việt Nam
5.2. Phương pháp thu thập thông tin:
5.2.1. Phương pháp phỏng vấn sâu
Đây là phương pháp thu thập thông tin thông qua hỏi và đáp. Người nghiên
cứu đặt ra câu hỏi cho đối tượng khảo sát, sau đó gi lại hoặc gi âm lại những gì mà
người nghiên cứu thu được. Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu sâu sắc về
các phản ứng, suy nghĩ, thái độ tình cảm, quan điểm, chính kiến của đối tượng
được phỏng vấn.
Phỏng vấn được sử dụng trong bài báo cáo này cho các đội tượng sau:
• Cán bộ hội người khuyết tật quận Hai Bà Trưng ( 3 người )
• Cán bộ cung cấp các dịch vụ hỗ trợ người khuyết tật ( 3 người )
11
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
• Người khuyết tật (5 người ) ( Được chọn ngẫu nhiên trong danh sách NKT
vận động trong độ tuổi lao động của Quận Hai Bà Trưng)
5.2.2.Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
Nhóm sinh viên đã thiết kế nội dung bảng hỏi ( Đính kèm ở phần Phụ lục)
nhằm mục đích thu thập thông tin phục vụ cho quá trình nghiên cứu. Được sự trợ
giúp của anh Trịnh Công Thanh – Chủ tịch HKT Quận Hai Bà Trưng và bác
Nguyễn Doãn Hải – Phó Chủ tịch HKT Quận Hai Bà Trưng, nhóm đã có được

danh sách của toàn bộ hội viên của HKT Quận.
Từ danh sách đó nhóm nghiên cứu đã lọc tìm những đối tượng là NKT vận
động và nằm trong độ tuổi lao động. Số NKT vận động trong danh sách hội viên
của Quận Hai Bà Trưng là 93 người nằm rải rác ở 20 phường trong Quận. Nhóm
đã chọn ra 50 người theo cách chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản để tiến hành trưng
cầu ý kiến qua bảng hỏi. Trong 1 tuần từ 18/3/2013 đến 23/3/2013, nhóm đã chủ
động đến địa bàn để thu thập đủ 50 bảng hỏi. Sở dĩ nhóm chọn con số 50 người để
điều tra bảng hỏi là vì quy mô thời gian và kinh phí không cho phép nhóm có thể
tiến hành điều tra hết 93 người.
Cách thức chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản :
• Trong tổng số 93 NKT VĐ trong độ tuổi lao động ( Nam : từ 15 đến 60, Nữ :
Từ 15 đến 55), nhóm đã lập lại 1 danh sách toàn bộ 93 NKT VĐ đó thành 3 nhóm,
mỗi nhóm 31 người.
• Gán cho mỗi đơn vị trong danh sách của tổng thể một số thứ tự từ 1 đến 93.
Danh sách được lập theo 1 trật tự hoàn toàn ngẫu nhiên.
• Trong số 93 người này chọn ra 50 người bằng cách chọn ra 15 người ở 2
nhóm, nhóm còn lại chọn ra 20 người. Như vậy là đủ 50 mẫu (15 + 15 + 20 = 50)
5.2.3. Phương pháp phân tích tài liệu
12
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
Trong quá trình nghiên cứu, nhóm sinh viên đã đọc và phân tích một số tài
liệu liên quan đến vấn đề việc làm của người khuyết tật nhằm phục vụ cho đề tài
nghiên cứu.
6. Câu hỏi Nghiên cứu
• Thực trạng việc làm của người khuyết tật vận động trong độ tuổi lao động tại
quận Hai Bà Trưng như thế nào?
• Nhu cầu việc làm của người khuyết tật vận động trong độ tuổi lao động tại
quận Hai Bà Trưng ra sao?
• Thực trạng dịch vụ công tác xã hội trong việc giải quyết nhu cầu việc làm
cho người khuyết tật vận động ở quận Hai Bà Trưng hiện nay như thế nào?

7. Giả thuyết nghiên cứu
• Người khuyết tật vận động tại quận Hai Bà Trưng trong độ tuổi lao động
chưa được đáp ứng nhu cầu việc làm một cách phù hợp. Chỉ có một bộ phận người
khuyết tật có việc làm nhưng công việc chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của
họ. Họ chưa có nhiều cơ hội để có thể theo học tại các trung tâm dạy nghề hoặc
làm việc tại các công ty xí nghiệp. Các công ty xí nghiệp hiện nay chưa tạo điều
kiện về cơ sở vật chất phù hợp để người khuyết tật có thể làm việc . Mức thu nhập
của những NKT có việc làm hầu hết là thấp, chỉ đủ để trang trải một phần chi phí
sinh hoạt.
• Người khuyết tật vận động có những nhu cầu rất đặc thù về việc làm và khác
với những người không khuyết tật hay với những NKT mang dạng tật khác
( Khuyết tật về mắt, khuyết tật về thính giác, khuyết tật trí tuệ …). Họ có nhiều
nhu cầu làm những công việc như : làm hương, làm tăm tre, đũa, đồ lưu niệm, thủ
công mỹ nghệ, công nghệ thông tin…Họ cũng có nhu cầu về mức lương để có thể
nuôi sống đủ bản thân. Họ cũng cần có chế độ đãi ngộ bình đẳng và có những ưu
tiên nhất định.Họ cần có một môi trường làm việc an toàn, thân thiện, có phương
tiện hỗ trợ chuyên dụng ( xe lăn, đường riêng cho xe lăn, nhà vệ sinh phù hợp…),
và cũng như người không khuyết tật, họ cần có bảo hiểm lao động để tránh rủi ro
13
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
và yên tâm làm việc. NKT cũng rất mong được tiếp cận những dịch vụ hỗ trợ việc
làm để tìm được một công việc phù hợp và trang bị cho họ những kiến thức kĩ
năng cần thiết đáp ứng được nhu cầu lao động của các chủ lao động.
• Về thực trạng dịch vụ công tác xã hội: NKT VĐ Quận Hai Bà Trưng chưa
được biết tới nhiều tới các dịch vụ CTXH. Một bộ phận NKT đã được tiếp cận với
các dịch vụ hỗ trợ việc làm, tuy nhiên số lượng còn rất hạn chế. Các dịch vụ hỗ
trợ việc làm này chưa mang tính CTXH chuyên nghiệp nhưng đã cung cấp được
một số điều kiện để trợ giúp NKT. Đã có 1 số trung tâm, tổ chức cung cấp các
dịch vụ hỗ trợ việc làm cho NKT nhưng không nằm trong địa bàn Quận. Nhìn
chung là các dịch vụ đã tiếp cận được với NKT mới đáp ứng được một bộ phận

nhỏ những NKT có nhu cầu trong quận. Về chất lượng thì các dịch vụ này mới chỉ
trợ giúp NKT ở mức độ trung bình.
B. PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
Chương I. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài
I.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1. Lý thuyết hệ thống:
Con người không chỉ đơn giản thực hiện các chức năng cá nhân của riêng
mình, mà con người còn được sống được tương tác với môi trường, sống trong
một hệ thống. Có thể hệ thống đó đang được hình thành, hoặc đã có hay đã mất
đi.Thuyết hệ thống là một trong những lý thuyết quan trọng được vận dụng phổ
biến trong công tác xã hội. Khi thực hiện tiến hành giúp đỡ cá nhân, nhân viên
công tác xã hội cần phải chỉ ra thân chủ của mình đang thiếu và cần đến những hệ
14
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
thống nào trợ giúp nào và giúp đỡ cá nhân đó có thể tiếp cận và tham gia các hệ
thống. Lý thuyết này dựa trên giả thuyết rằng, mỗi cá nhân đều trực thuộc vào môi
trường sống. Cả cá nhân và môi trường được coi như một thể thống nhất mà trong
đó các yếu tố liên hệ và ràng buộc nhau rất chặt chẽ. Thuyết hệ thống trong công
tác xã hội bắt nguồn từ lý thuyết hệ thống tổng quát của Bertalanffy. Thuyết này
dựa trên quan điểm lý thuyết sinh học cho rằng mọi tổ chức hữu cơ đều là những
hệ thống, được tạo nên từ các hệ thống và đồng thời bản thân các tiểu hệ thống
cũng là một phần của hệ thống lớn.
Các cá nhân và môi trường bên ngoài cũng như hệ thống các môi trường
bên ngoài sẽ có nhiều tương tác với nhau, bên cạnh đó để cá nhân được hoạt động
hiệu quả hơn thì thuyết hệ thống được sử dụng rộng rãi trong công tác xã hội cá
nhân vì thuyết này giúp cho nhân viên xã hội hiểu được cá nhân trong các hệ
thống.
Chúng ta có thể thấy rằng thuyết hệ thống giúp các nhà công tác xã hội có
những hiểu biết về các thể chế, sự tương tác của các hệ thống này với nhau. Với
các cá nhân biết mọi cách thức mà mọi cá nhân tương tác với nhau, những nhân tố

nào sẽ giúp hỗ trợ cho sự thay đổi sẽ tham gia vào tiến trình giúp đỡ này. Mọi
người trong mọi hoàn cảnh sống đều có những hoạt động và có những phản ứng
ảnh hưởng tới nhau vì thế khi tiến hành can thiệp hoặc giúp đỡ một người chắc
chắn sẽ ảnh hưởng tới những yếu tố xung quanh. Vì thế khi thực hiện vai trò dựa
trên hoạt động công tác xã hội chúng ta phải nhìn nhận vấn đề thay đổi trên nhiều
phương diện và nhiều mức độ khác nhau trên cả các hệ thống ví dụ như gia đình,
nhà trường, cộng đồng, xã hội
Có ba hệ thống chính:
• Hệ thống phi chính thức ( hệ thống thân tình tự nhiên) như: gia đình, họ
hàng, người thân, bạn bè đồng nghiệp
• Hệ thống chính thức (hệ thống chính quy): Nhà trường, bệnh viện, trường
học, cơ quan làm việc …
15
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
• Hệ thống xã hội: Đây là hệ thống lớn, vĩ mô.Các tổ chức xã hội như: Hội
phụ nữ, hội người cao tuổi, hội Chữ Thập Đỏ …
Sự phân biệt trên chỉ mang tính tương đối vì đối với cá nhân này hệ thống
trợ giúp có thể là hệ thống chính thức nhưng đối với các cá nhân khác nó lại là hệ
thống xã hội hay phi chính thức.
Như vậy thông qua thuyết lý thuyết hệ thống, chúng ta thấy rằng đối với
người khuyết tật vận động của quận Hai Bà Trưng, các hệ thống có thể hỗ trợ
được họ bao gồm: gia đình, bạn bè trong hội người khuyết tật, các tổ chức dành
cho người khuyết tật, các cơ sở dạy nghề, các công ti tuyển lao động là người
khuyết tật vận động, các trung tâm dịch vụ công tác xã hội cung cấp, tư vấn hỗ trợ
việc làm, tình nguyện viên Trong quá trình tiếp xúc và can thiệp, chúng ta cần
phát huy hiệu quả sự hỗ trợ từ các hệ thống này.
2. Lý thuyết nhu cầu
2.1. Lý thuyết nhu cầu của Maslow
Abraham Maslow (1908 – 1970) Là nhà tâm lí học người Mỹ, sinh ra ở
New York, ông quan tâm phân tích về hành vi của con người. Giới nghiên cứu

thừa nhận rằng, ông là một trong những lí thuyết gia xuất sắc về nhu cầu và động
cơ của con người trong lao động. Ông là một trong những người tiếp tục con
đường nghiên cứu của Elton Mayo và nổi tiếng với thang nhu cầu.
Sau khi quan sát và phân tích theo phương pháp lâm sàng nhu cầu và động
cơ của người lao động, tác giả khám phá ra hai nguyên tắc:
• Nhu cầu của con người có thể được xếp thành thứ bậc;
• Nhu cầu bậc cao chỉ được đáp ứng khi nhu cầu bậc thấp đã được đáp ứng.
Trên cơ sở hai nguyên tắc đó, tác giả sắp xếp nhu cầu của con người theo
năm bậc như sau:
• Bậc 1: Nhu cầu thể sinh lí hay nhu cầu tồn tại (ăn, uống, mặc, ngủ, đi lại )
16
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
• Bậc 2: Nhu cầu an toàn và được bảo vệ về mặt thể chất (có một nơi ở và
công việc)
• Bậc 3: Nhu cầu xã hội hay nhu cầu thuộc về một thành phần xã hội nào đó
(được chấp nhận, được hiểu, được yêu mến, cho và nhận…)
• Bậc 4: Nhu cầu hình ảnh bản thân (mến mộ mình)(cảm giác hữu ích, được
thừa nhận xã hội, được đánh giá cao và được tôn trọng);
• Bậc 5: Nhu cầu hoàn thiện bản thân và sáng tạo.Con người tồn tại trong xã
hội ai cũng có những nhu cầu nhất định, những nhu cầu đó có thể giống nhau,
nhưng cũng có thể là khác nhau tùy thuộc vào mức độ cũng như hoàn cảnh cụ thể
của từng cá nhân.Theo Abraham Maslow ông sắp xếp nhu cầu của con người theo
thứ tự bậc thanh từ thấp tới cao. Maslow cho rằng mỗi cá nhân đều có 5 bậc thang
nhu cầu cơ bản nhất.
Bảng 1: Phân cấp nhu cầu theo mức của Maslow
Nhu cầu cơ bản, nhu cầu sinh lí: Đây được coi là nhu cầu cơ bản nhất của
con người, bởi lẽ để có thể duy trì được cuộc sống của con người như ăn, mặc,
ở ) Maslow quan niệm rằng khi nhu cầu này chưa được thỏa mãn tới mức cần
thiết thì nhu cầu khác sẽ không thúc đẩy được con người.
Mức cao Nhu cầu về sự tự hoàn thiện

Nhu cầu về sự kính mến và lòng tự trọng
Nhu cầu về quyền sở hữu và tình cảm( được yêu
thương)
Mức thấp Nhu cầu về an toàn và an ninh
Nhu cầu về thể chất và sinh lí
17
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
Nhu cầu về sự an toàn: Là những nhu cầu tránh sự nguy hiểm về thân thể
của con người. Con người luôn cần cảm giác được an toàn, nếu lúc nào cũng chỉ lo
sợ cho sự an toàn của mình thì sẽ không làm được việc gì khác.
Nhu cầu về xã hội hay nhu cầu được yêu thương: Con người là thành viên
của toàn xã hội nên họ được và mong muốn người khác chấp nhận, được yêu
thương gắn bó. Cấp độ nhu cầu này cho thấy con người có nhu cầu để giao tiếp để
có thể phát triển về mọi mặt cuộc sống.
Nhu cầu được quý trọng: Khi con người bắt đầu được thỏa mãn nhu cầu
được chấp nhận trong xã hội thì họ muốn được người khác tôn trọng và quý trọng
mình. Nhu cầu này dẫn tới sự thỏa mãn như: quyền lực, địa vị, lòng tin. Đây là
mong muốn của con người khi nhận được sự chú ý, quan tâm và sự tôn trọng của
mọi người xung quanh và hơn nữa mong muốn bản thân mình là một mắt xinh
quan trọng trong sự phân công lao động xã hội. Họ mong muốn mình sẽ trở thành
một người có ích cho xã hội và cho toàn thể cộng đồng. Chính vì thế mà con
người mong muốn được người khác tôn trọng và quý mến họ.
Nhu cầu được thể hiện mình: Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong
cách phân tầng của ông. Đó là sự mong muốn để đạt tới chỗ mà môt người có thể
đạt tới. Nghĩa là làm cho tiềm năng của người đó đạt mức tối đa để có thể thực
hiện được những mục tiêu cụ thể nào đó. Đây có thể coi là khát vọng là mong
muốn của con người.
Trong từng hoàn cảnh cụ thể khác nhau thì cá nhân cần đạt được những nhu
cầu khác nhau và tùy vào mỗi cá nhân mà nhu cầu ưu tiên của họ là khác nhau.
Đối với nhân viên công tác xã hội cần tìm hiểu xem xét những nhu cầu mà thân

chủ cần để đưa ra những phương pháp can thiệp tốt nhất và phù hợp nhất.Đối với
người khuyết tật vận động quận hai bà trưng, họ được sống trong môi trường cùng
với những người khuyết tật khác, đa số họ đã có nhu cầu cơ bản và nhu cầu an
toàn khi sống trong môi trường đó. Tuy nhiên họ lại đang rất thiếu thốn những nhu
cầu cao hơn, khi cuộc sống của họ đang gặp nhiều vấn đề, đó là nhu cầu được tôn
18
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
trọng à khẳng định bản thân. Nghĩa là mong muốn nhu cầu về việc làm, mong
muốn được hỗ trợ và được giúp đỡ.
2.2. Lý thuyết nhu cầu của Frederick Herzberg
Frederick Herzberg (1923 – 2000) Một trong những lý thuyết quan trọng
trong lĩnh vực khoa học xã hội phải kể tới thuyết nhu cầu của Frederick Heberg.
Ông được xem như là cha đẻ của lý thuyết mở rộng nhiệm vụ để tăng động cơ của
người lao động và là người hoàn thiện lý thuyết của A. Maslow . Qua nhiều
nghiên cứu của mình, tác giả khám phá ra các nhân tố “đủ” và nhóm các nhân tố
“cần”. Hay nói cách khác, ví dụ trong quản lý người lao động không phải cứ tìm
cách loại bỏ các nhân tố cản trở lao động thì người lao động sẽ trở nên hứng thú
làm việc. Từ kết luận đó, tác giả đã xây dựng lý thuyết của mình theo hai nhóm
nhân tố. Vì vậy, chúng ta có thể gọi lý thuyết của Herzberg là lý thuyết hai nhóm
nhân tố. Như vậy trong cuộc sống, đặc biệt ở nhiều lĩnh vực khác nhau lý thuyết
nhu cầu của ông luôn được ứng dụng một cách hết sức rộng rãi. Điển hình như
trong quản lý lao động. Cụ thể:
Nhóm nhân tố cần (nhân tố ngoại tại): Tác giả gọi nhóm nhân tố này là
các nhân tố vệ sinh vì chúng liên quan mật thiết đến sức khoẻ của người lao động (
đặc biệt với người khuyết tật họ rất mong muốn được những yếu tố này do tình
trạng sức khỏe bị hạn chế). Đây là những nhân tố thuộc về “không khí lao động”,
bao gồm:
- Điều kiện vật chất
- Lương bổng
- Chiến lược doanh nghiệp

- Cán bộ quản lý
- An toàn việc làm
- Tổ chức lao động
- Quản lí lao động
19
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
Như vậy, chỉ mỗi mình “không khí lao động” không đủ để duy trì một mức độ
thoả mãn cao ở người lao động. Từ đó, không ai đảm bảo được rằng, người lao
động có động cơ lao động cao hay thấp.
Những nhân tố đủ (nhân tố nội tại): Tác giả gọi các nhân tố này là “động
cơ thực”. Nếu nhà quản lí kích hoạt được các nhân tố ấy, thì người lao động sẽ
phát huy được tối đa năng lực của mình để đóng góp cho doanh nghiệp (lao động
khuyết tật không phải là ngoại lệ):
- Sự thừa nhận xã hội
- Sự đánh giá của mọi người
- Sự mến mộ của mọi người
- Tinh thần trách nhiệm
- Quyền lợi thực gắn với lao động
- Quyền tự do, tự quyết trong lao động
- Sự hoàn thiện bản thân
- Tính chất nhiệm vụ được giao
- Thăng tiến nghề nghiệp, xã hội
Đối với lĩnh vực việc làm của người khuyết tật vận động quận Hai Bà
Trưng, khi họ được sống trong môi trường làm việc với rất nhiều người xung
quanh, họ cũng mong muốn được có cả "cần" và "đủ", tất cả những yếu tố đó sẽ
chi phối tới họ, đáp ứng nhu cầu của họ trong thực tế, họ mong muốn có được việc
làm, được giúp đỡ và được hỗ trợ từ nhiều phía.
I.2 Cơ sở thực tiễn của đề tài
1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu :
Trong cuộc sống, con người luôn là trung tâm đóng vai trò hết sức quan

trọng, là nhân tố quyết định trong mọi hoạt động thông qua mối quan hệ
giữa con người với con người, con người và xã hội. Các mối quan hệ đó biểu
hiện ở nguyên tắc bình đẳng bất kể con người khác nhau về trí lực, thể lực và
các đặc điểm khác đều có giá trị và tầm quan trọng ngang nhau. Điều này có
20
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
nghĩa là tất cả mọi người, cần được đối xử công bằng và có cơ hội bình đẳng
để tham gia các hoạt động xã hội, kể cả thị trường lao động và vấn đề việc
làm.
Trên thế giới nói chung và ngay cả Việt Nam, người khuyết tật được đề cập
rất nhiều trong nghiên cứu khoa học xã hội. Tuy vậy, chúng ta cũng thấy rằng
nghiên cứu vấn đề việc làm với người khuyết tật vận động thì vẫn chưa có nhiều.
Nếu có thường chỉ đề cập tới người khuyết tật nói chung chứ ít đề cập tới người
khuyết tật vận động nói riêng . Đơn cử như nghiên cứu năm 2010 của Nguyễn
Quang Lê, đề tài “ Bước đầu tìm hiểu khó khăn và biểu hiện vượt khó của người
khuyết tật vận động để tiến tới xây dựng chỉ số vượt khó của người khuyết tật.
Nghiên cứu này cũng chỉ đề cập đến khái niệm người khuyết tật vận động, những
khó khăn mà người khuyết tật gặp phải và các biện pháp tâm lí - giáo dục nhằm
trợ giúp người khuyết tật vượt qua mọi khó khăn, giúp họ đương đầu với cuộc
sống của mình để hòa nhập vào cộng đồng và cùng với toàn xã hội.
Theo con số thống kê từ cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam
năm 2009 thì nước ta có khoảng 6,1 triệu người khuyết tật, trong đó số lượng NKT
vận động vào khoảng 2,9 triệu người
1
. Đó là một con số không hề nhỏ. Cộng
đồng NKT vận động gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống, ngoài những khó
khăn do thể chất thì họ còn gặp nhiều vấn đề về tâm lý hay những rào cản từ sự kì
thị và phân biệt đối xử. Trong vấn đề việc làm, the số liệu thống kê thì trên toàn
Quốc, chỉ có 61% tỷ lệ NKT vận động tham gia lực lượng lao động và việc làm.
Như vậy một trong những vấn đề của người khuyết tật cần được quan tâm

trước mắt chính là vấn đề về việc làm. Cụ thể hơn là những nhu cầu việc làm của
họ, các dịch vụ nhằm hỗ trợ, hay giúp họ tiếp cận với những công việc phù hợp.
Trên thế giới đã có những mô hình cung cấp dịch vụ việc làm cho người khuyết
1
Số liệu được lấy trong cuốn “Người Khuyết tật ở Việt Nam – Một số kết quả chủ yếu
từ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009” do UNFPA xuất bản
21
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
tật, nhất là người khuyết tật vận động để họ có thể phát huy tối đa năng lực của
mình, và họ đã đạt được những thành công nhất định.
Tại Việt Nam, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều nghị định, thông tư, luật
liên quan đến dạy nghề và tạo việc làm cho người lao động là người khuyết tật
như: (1) Nghị định của chính phủ số 116/2004/NĐ – CP ngày 23 tháng 4 năm
2004 đã sửa đổi, bổ sung 7 điều của Nghị định số 81/CP ngày 23 tháng 11 năm
1995 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về
lao động là người khuyết tật có 19 điều; (2) Luật dạy nghề cho người tàn tật
khuyết tật của quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 số 76/2006/QH11 ngày 29 tháng
11 năm 2006; (3) Thông tư liên bộ hướng dẫn chính sách cấp và cho vay vốn đối
với các cơ sở sản xuất kinh doanh của người tàn tật… Như vậy trong những năm
vừa qua, Đảng và Nhà Nước ta đã dành một khoản ngân sách để giúp người
khuyết tật có thể phục hồi và phát triển được sức khoẻ, dạy nghề và có chính sách
cho vay lãi xuất thấp để có thể cho họ tự tạo được việc làm ( điều 125, Bộ luật lao
động thương binh và xã hội). Tuy nhiên câu hỏi cần được đặt ra là : “Các văn bản
quy định này đã thực sự đi vào cuộc sống chưa? Người khuyết tật thực sự đã được
tiếp cận với các chính sách hỗ trợ này chưa?”
Ngoài những khía cạnh trên cũng có rất nhiều các tài liệu, tạp chí các công
trình nghiên cứu liên quan đến việc đáp ứng nhu cầu việc làm của người khuyết
tật. Điển hình là nghiên cứu của Bộ lao động thương binh xã hội với đề tài” Vai
trò của tổ chức người tàn tật trong việc xây dựng các chính sách, chương trình
quốc gia về về dạy nghề và việc làm cho người khuyết tật của bộ thương binh lao

động và xã hội.H.,1993 75TR”. Nghiên cứu này cũng nói đến việc xây dựng và
thực hiện các chính sách cho người khuyết tật để họ được đáp ứng nhu cầu việc
làm của mình, Họ được tư vấn hỗ trợ dạy nghề, qua đây người khuyết tật biết được
những nơi có thể nhận mình vào làm việc, để có thể có một công việc phù hợp với
bản thân.
22
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
Tuy nhiên nói chung, đa số các đề tài chỉ nghiên cứu hướng tới giải quyết
việc làm cho người khuyết tật bằng cách dạy nghề trực tiếp hoặc hỗ trợ tâm lí.Mặc
dù vậy người khuyết tật vận động và người khuyết tật nói chung có nhu cầu về
việc làm đặc thù, nhưng mức độ đáp ứng các nhu cầu đó còn rất hạn chế. Hơn nữa
hầu như không có nghiên cứu nào nhắc đến các dịch vụ công tác xã hội nhằm giải
quyết nhu cầu việc làm của người khuyết tật hay đánh giá mức độ đáp ứng của các
dịch vụ công tác xã hội đó. Hầu hết là các nghiên cứu chỉ nêu lên sự cần thiết của
việc giúp người khuyết tật có thể tìm được một công việc mới để đáp ứng nhu cầu
bản thân, nhưng chưa nói lên được những nhu cầu riêng của họ và xây dựng mô
hình dịch vụ công tác xã hội phù hợp để đáp ứng những nhu cầu đó.
Lĩnh vực nghiên cứu công tác xã hội với người khuyết tật nói chung và
người khuyết tật vận động nói riêng còn tương đối mới mẻ.Nên bài báo cáo này
xin được nêu ra thực trạng việc làm của người khuyết tật vận động Quận Hai Bà
Trưng – TP Hà Nội, tìm hiểu những nhu cầu của họ về việc làm và từ đó nghiên
cứu về thực trạng các dịch vụ công tác xã hội hiện nay trong việc giải quyết các
nhu cầu việc làm đó.
2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề dạy nghề và việc làm của
NKT:
2
Cho đến nay, hệ thống văn bản pháp luật, chính sách trong đó đề cập tới
NKT nói chung và vấn đề hỗ trợ NKT về nghề nghiệp, việc làm nói riêng đã được
quan tâm và từng bước hoàn thiện.
Điều 13 của Bộ luật Lao động có hiệu lực năm 1994 khẳng định Chính

phủ, các doanh nghiệp và toàn thể xã hội phải có trách nhiệm tạo công ăn việc
làm và đảm bảo rằng tất cả những ai có khả năng làm việc đều được làm việc.
Chương XI, Mục III nêu những quy định cụ thể cho người lao động bị khuyết
tật. Điều 125 của Mục này khẳng định Chính phủ bảo vệ quyền được làm
2
Nhóm nghiên cứu đã căn cứ vào phần “Chính sách xã hội về nghề nghiệp, việc làm đối với NKT” trong bài phát biểu :” Việc làm
cho người khuyết tật tại Việt Nam – Từ chính sách đến thực tiễn và vai trò của CTXH” của Thạc sĩ Phạm Huy Cường – Khoa Xã hội
– ĐH KHXH&NV được in trong kỷ yếu “Hội thảo Quốc tế chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về CTXH và An sinh xã hội”, tháng 11 năm
2012.
23
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
việc của người khuyết tật và khuyến khích tạo việc làm cho họ.
Hàng năm, Chính phủ dành một khoản ngân sách nhất định để hỗ trợ
người khuyết tật phục hồi chức năng, nâng cao năng lực làm việc và dạy nghề.
Chính phủ có chủ trương cho vay với lãi suất thấp để tạo công ăn việc làm cho
người khuyết tật. Các cơ sở dạy nghề hoặc sản xuất nhận người khuyết tật vào
làm sẽ được hỗ trợ hoặc được miễn hoặc giảm thuế và sẽ được cho vay với lãi
suất thấp. Các cơ sở không nhận người khuyết tật vào làm sẽ phải đóng một
khoản tiền cho Quỹ Việc làm để trợ giúp người khuyết tật.
Theo Điều 126, thời gian làm việc cho người lao động là người khuyết tật
là 7 tiếng/ngày và 42 giờ/tuần. Điều 126 cũng nêu quy định và điều kiện làm
việc cho người lao động là người khuyết tật. Theo Điều 128, người lao động là
cựu chiến binh bị khuyết tật còn được nhận trợ cấp đặc biệt ngoài những lợi ích
trên.
Nghị quyết số 81/CP của Chính phủ có hiệu lực ngày 23 tháng 11 năm
1995 quy định người khuyết tật học ở trung tâm dạy nghề của chính phủ sẽ được
giảm học phí 50% nếu họ mất từ 21% - 40% khả năng lao động và miễn 100%
nếu họ mất từ 41% khả năng lao động trở lên. Trong thời gian học tập nếu người
khuyết tật không có lương, không được hưởng trợ cấp nào khác hoặc học bổng sẽ
được trợ cấp xã hội 100.000 đồng/người/tháng. Nghị quyết này cũng nêu một

loạt các quy định về việc trợ cấp cho người khuyết tật trong thời gian học nghề
hoặc tìm việc làm.
Thông tư số 23/TCT của Bộ Tài chính về việc miễn thuế cho cho những
đơn vị sản xuất nhận người khuyết tật nêu những quy định về việc miễn thuế
(gồm thuế doanh thu, thuế nhà đất, thuế thu nhập, thuế sử dụng đất nông
nghiệp) cho những doanh nghiệp đáp ứng được những quy định đã nêu.
Chương IV của pháp lệnh cũng nêu các quy định về việc làm và dạy nghề
cho người khuyết tật. Chính phủ và các tổ chức kinh tế phải có trách nhiệm tạo
điều kiện thuận lợi cho NKT lựa chọn việc làm, hình thức dạy nghề và hình thức
24
Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
làm việc phù hợp. Trung tâm dạy nghề và cơ sở sản xuất nhận người khuyết tật sẽ
được Chính phủ cho vay vốn, được trợ cấp thiết bị giảng dạy và thiết bị sản xuất
cũng như được miễn thuế.
Nghị quyết số 55/ND-CP của Chính phủ quy định rõ những người
khuyết tật có nhu cầu hướng nghiệp, dạy nghề, tư vấn và việc làm cần được các
trung tâm dịch vụ việc làm giúp đỡ bằng cách như giảm hoặc miễn phí dịch vụ.
Trong trường hợp người khuyết tật đã được thuê làm việc, họ sẽ được vay vốn
với lãi suất ưu đãi theo quy định của Pháp luật. Điều 10 quy định trường hoặc
cơ sở dạy nghề cần miễn hoặc giảm học phí và những đóng góp khác hoặc cấp
học bổng hoặc trợ cấp cho học sinh khuyết tật đang học ở những cơ sở dạy
nghề hoặc đang được đào tạo nghề ở các trường công.
Điều 21 của Pháp lệnh và Điều 13 của Nghị quyết số 55/CP quy định
rằng các tổ chức hành chính sự nghiệp có nhu cầu tuyển dụng nhân viên mới
hoặc nhu cầu ký hợp đồng lao động phải thông báo rộng rãi nhu cầu này và
không được từ chối người khuyết tật nếu họ có đủ năng lực làm việc.Tiêu
chuẩn tuyển chọn cần phải được áp dụng cho cả người khuyết tật và người
không khuyết tật ngoại trừ một số trường hợp cụ thể.
Năm 2010, Luật Người khuyết tật đã được Quốc hội nước ta thông qua,
theo đó phạm vi điều chỉnh là quy định về quyền và nghĩa vụ của NKT; trách

nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với NKT. Chương V của Luật Người
khuyết tật gồm các quy định riêng về dạy nghề và việc làm: Điều 32 khẳng định
Nhà nước bảo đảm để NKT được tư vấn học nghề miễn phí phù hợp với năng lực
của bản thân, bên cạnh đó quy định các chính sách để phát triển các cơ sở dạy
nghề và điều kiện học nghề phù hợp với NKT. Điều 33 khẳng định các chính sách
bảo đảm cho quá trình NKT tham gia vào các môi trường nghề nghiệp, việc làm
được thuận lợi đồng thời cũng khuyến khích NKT có thể tự tạo việc làm cho bản
thân thông qua việc cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm cũng
25

×