Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tiểu luận môn định giá đất Phân loại vùng đất, hạng đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.64 KB, 10 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất đai là một loại tài nguyên tự nhiên, một loại tài nguyên sản xuất,
bao gồm cả lục địa và mặt nước trên bề mặt trái đất. Theo quan điểm kinh tế
học thì đất đai không chỉ bao gồm mặt đất còn bao gồm cả tài nguyên trong
lòng đất và tất cả mọi thứ sinh sôi trên mặt đất và trong lòng đất không do
lao động và con người làm ra, tức là bao gồm nước mặt đất và nước ngầm,
thổ nhưỡng, thực vật và động vật. Với nghĩa chung nhất, đó là lớp bề mặt
của trái đất, bao gồm đồng ruộng, đồng cỏ, bãi chăn thả, cây rừng, bãi
hoang, mặt nước, đầm lầy và bãi đá Với nghĩa hẹp thì đất đai biểu hiện
khối lượng và tính chất của quyền lợi hoặc tài sản mà một người có thể
chiếm đối với đất. Nó có thể bao gồm lợi ích trên đất về mặt pháp lý cũng
như những quyền theo tập quán không thành văn.
Đất đai là tài sản quốc gia vô cùng quý giá, được chuyển tiếp qua các
thế hệ và được coi là một dạng tài sản trong phương thức tích lũy của cải vật
chất của xã hội. Bên cạnh đó, đất đai còn được coi là một loại tài sản đặc
biệt vì bản thân nó không do lao động làm ra, mà lao động tác động vào đất
đai để biến nó tự trạng thái hoang hóa trở thành sử dụng vào đa mục đích.
Đất đai có định về vị trí, có giới hạn về không gian và vô hạn về thời gian sử
dụng , ngoài ra đất đai còn có khả năng sinh lợi, mỗi vùng đất, loại đất và vị
trí khác nhau đất có khả năng sinh lợi khác nhau. Vì vậy cần phải tiến hành
xác định vị trí của đất đai để làm cơ sở định giá đất.
II. NÔỊ DUNG
2.1. Phân loại vùng đất, hạng đất.
a) Xác định vùng đất
Nguyên tắc phân vùng đất ở nông thôn được quy định ở Ðiều 8 Nghị
định 188/2004/NĐ-CP và Khoản 6 Nghị định 123/2007/NĐ – CP như sau:
1. Ðồng bằng là vùng đất thấp, tương đối bằng phẳng và có độ cao
ngang với mặt nước biển. Mật độ dân số đông, kết cấu hạ tầng và điều kiện
sản xuất lưu thông hàng hoá thuận lợi hơn trung du, miền núi.
2. Trung du là vùng đất có độ cao vừa phải (thấp hơn miền núi, cao
hơn đồng bằng), bao gồm đại bộ phận diện tích là đồi. Mật độ dân số thấp


hơn đồng bằng, cao hơn miền núi, kết cấu hạ tầng và điều kiện sản xuất lưu
thông hàng hoá kém thuận lợi hơn so với đồng bằng nhưng thuận lợi hơn
miền núi.
3. Miền núi là vùng đất cao hơn vùng trung du, bao gồm đại bộ phận
diện tích là núi cao, địa hình phức tạp. Mật độ dân số thấp; kết cấu hạ tầng
và điều kiện sản xuất lưu thông hàng hoá kém thuận lợi hơn trung du.
Các xã được công nhận là miền núi theo quy định của Uỷ ban Dân tộc và
Miền núi (nay là Uỷ ban Dân tộc).
Căn cứ vào nguyên tắc phân vùng đất ở nông thôn, tiến hành xác định vùng
đất đối với khu vực cần xác định giá đất, để giới hạn giá tối đa và giá tối
thiểu của từng vùng đất đối với địa phương.
b) Xác định hạng đất, vị trí
Điều 8, Nghị định 188/2004/NĐ-CP quy định: hạng đất để định giá
đất áp dụng theo hạng đất tính thuế sử dụng đất nông nghiệp ở địa phương,
được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định hiện hành của Nhà nước.
Trường hợp các tỉnh đã phân hạng đất, mà hạng đất đó đang được áp dụng
để tính thuế sử dụng đất nông nghiệp thì sử dụng kết quả phân hạng đất đó
để định giá đất và chỉ thay đổi khi cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy
định của Nhà Nước.
Ðiều 7, Luật Thuế Sử dụng Đất Nông nghiệp (ngày 10/7/1993) quy định:
Ðất trồng cây hàng năm và đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản được chia
làm 6 hạng, đất trồng cây lâu năm được chia làm 5 hạng.
Nghị định số 73/CP ngày 25/10/1993 quy định căn cứ để phân hạng đất tính
thuế sử dụng đất nông nghiệp là các yếu tố chất đất, vị trí, địa hình, điều
kiện khí hậu, thời tiết và điều kiện tưới tiêu. Tiêu chuẩn của từng yếu tố
được xác định như sau :
1. Yếu tố chất đất là độ phì của đất thích hợp với từng loại cây trồng;
đối với đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản còn bao gồm độ muối và nguồn
dinh dưỡng của nước.
2. Yếu tố vị trí của đất là khoảng cách so với nơi cư trú của người sử

dụng đất, khoảng cách so với thị trường tiêu thụ nông sản phẩm theo từng
trường hợp cụ thể.
3. Yếu tố địa hình của đất là độ bằng phẳng, độ dốc, độ trũng hoặc ngập
úng của thửa đất.
4. Yếu tố điều kiện khí hậu, thời tiết là nhiệt độ trung bình hàng năm và
các tháng trong năm; lượng mưa trung bình hàng năm và các tháng trong
năm; số tháng khô hạn trong năm; tần suất xuất hiện lũ, bão, sương muối,
gió khô nóng trong năm và từng tháng; độ ẩm ảnh hưởng đến sinh trưởng
của cây trồng.
5. Yếu tố điều kiện tưới tiêu đối với đất trồng cây hàng năm là mức độ
tưới tiêu chủ động; đối với đất trồng cây lâu năm là mức độ gần, xa nguồn
nước hoặc không có nguồn nước và điều kiện thoát nước.
2.3. Xác định vùng đất, hạng đất và vị trí của từng loại đất cụ thể
ở nông thôn để định giá đất.
1. Nhóm đất nông nghiệp.
a. Đối với đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất nuôi
trồng thủy sản, đất rừng sản xuất, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ và
đất nông nghiệp khác (theo quy định tại điểm đ khoản 4 Điều 6 Nghị định số
181/2004/NĐ-CP), giá đất được quy định phân biệt theo vị trí đất của 3 loại
xã theo địa giới hành chính: đồng bằng, trung du, miền núi. Vị trí của đất
được xác định căn cứ vào khoảng cách từ nơi cư trú của cộng đồng người sử
dụng đất tới nơi sản xuất, khoảng cách từ nơi sản xuất tới thị trường tiêu thụ
tập trung và mức độ thuận tiện về giao thông. Phân biệt các vị trí đất có kết
hợp giữa yếu tố khoảng cách với các yếu tố chất đất, địa hình, khí hậu, thời
tiết và điều kiện tưới tiêu theo ba vùng: đồng bằng, trung du, miền núi được
phân biệt trên cơ sở địa giới hành chính cấp xã. Vị trí đất được xác định theo
nguyên tắc: vị trí số 1 áp dụng đối với đất có khoảng cách từ nơi cư trú của
cộng đồng người sử dụng đất tới nơi sản xuất, khoảng cách từ nơi sản xuất
so với thị trường tiêu thụ tập trung gần nhất và thuận lợi nhất về giao thông.
Các vị trí tiếp sau đó theo thứ tự từ thứ 2 trở đi có khoảng cách xa hơn và

giao thông ít thuận lợi hơn.( Khoản 7, điểm b, Điều 1, Nghị đinh 123/2007/
NĐ – CP về sửa đổi bổ sung nghị đinh 188 )
b. Đối với đất làm muối được chia theo vị trí. Vị trí của đất làm muối
được xác định căn cứ vào khoảng cách từ đồng muối đến kho muối tập trung
tại khu sản xuất hoặc gần đường giao thông, theo nguyên tắc: vị trí số 1 áp
dụng đối với đồng muối gần kho muối nhất hoặc gần đường giao thông nhất;
các vị trí tiếp sau đó theo thứ tự từ thứ 2 trở đi có khoảng cách xa kho muối
hơn và xa đường giao thông hơn (Điều 9, Nghị định 188/2004/NĐ-CP).
2. Nhóm đất phi nông nghiệp tại nông thôn.
Đối với đất ở; đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp tại
nông thôn: Căn cứ vào điều kiện cụ thể tại địa phương, Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh tiến hành xác định khu vực đất cần định giá; phân vị trí đất và quyết
định số lượng vị trí đất của từng khu vực đất để định giá.
Quy định các tiêu chí cụ thể về vị trí đất để xếp loại vị trí đất và quyết
định số lượng vị trí đất trong từng loại đường phố; phân loại đường
phố và quyết định số lượng đường phố theo thứ tự từ số 1 trởđi đến số
cuối cùng phù hợp với điều kiện của địa phương trong từng loại đô thị để
định giá theo các tiêu thức chung quy định tại Điều 10, Nghị định số
188/2004/NĐ - CP.
Căn cứđiều kiện cụ thể tại địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có
thể không xếp loại đường phố, mà phân loại vị trí đất và quy định số lượng
vị trí đất cho từng đoạn phố, từng đường phố cụ thểđể tiến hành định giá đất.
Việc phân loại vị trí đất, phân chia từng đoạn phố, từng đường phố của từng
loại đô thịđểđịnh giá cũng phải thực hiện theo các nguyên tắc chung quy
định tại Điều 10 Nghịđịnh số 188/2004/NĐ-CP. Cụ thể như sau:
Đối với đất ở tại nông thôn, đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp
tại nông thôn và các loại đất phi nông nghiệp khác ở nông thôn như: đất xây
dựng trụ sở cơ quan, xây dựng công trỡnh sự nghiệp; đất sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh; đất sử dụng vào mục đích công cộng gồm đất giao
thông, thủy lợi; đất xây dựng các công trỡnh văn hoá, y tế, giáo dục và đào

tạo, thể dục thể thao phục vụ lợi ích công cộng; đất có di tích lịch sử văn
hóa, danh lam thắng cảnh; đất xây dựng các công trỡnh cụng cộng khỏc theo
quy định của Chính phủ; đất do các cơ sở tôn giáo sử dụng; đất có công trình
là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ; đất làm nghĩa trang, nghĩa địa
và đất phi nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ được xếp theo vị
trí của từng loại đất, chia thành ba loại xã theo địa giới hành chính: đồng
bằng, trung du, miền núi để định giá.
Vị trí của từng loại đất trong mỗi loại xã được chia theo 3 khu vực
thuộc địa giới hành chính cấp xã:
- Khu vực 1: đất có mặt tiền tiếp giáp với trục đường giao thông chính nằm
tại trung tâm xã hoặc cụm xã (gần ủy ban nhân dân xã, trường học, chợ, trạm
y tế); gần khu thương mại và dịch vụ, khu du lịch, khu công nghiệp, khu chế
xuất; hoặc không nằm tại khu vực trung tâm xã nhưng gần đầu mối giao
thông hoặc gần chợ nông thôn.
- Khu vực 2: nằm ven các trục đường giao thông liên thôn, tiếp giáp với khu
vực trung tâm xã, cụm xã, khu thương mại và dịch vụ, khu du lịch, khu chế
xuất.
- Khu vực 3: là những vị trí còn lại trên địa bàn xã.
Việc phân loại khu vực để xác định giá đất thực hiện theo nguyên tắc: khu
vực 1 có khả năng sinh lợi cao nhất, có điều kiện kết cấu hạ tầng thuận lợi
nhất; khu vực 2 và khu vực 3 có khả năng sinh lợi và kết cấu hạ tầng kém
thuận lợi hơn.
Vị trí của từng loại đất trong từng khu vực được xác định căn cứ và khả
năng sinh lợi, khoảng cách tới mặt tiền của các trục đường giao thông và
điều kiện kết cấu hạ tầng thuận lợi cho sinh hoạt, kinh doanh và cung cấp
dịch vụ theo nguyên tắc vị trí số 1 có mức sinh lợi cao nhất, có điều kiện kết
cấu hạ tầng thuận lợi nhất, gần trục đường giao thông chính nhất, các vị trí
tiếp sau đó theo thứ tự từ thứ 2 trở đi có mức sinh lợi và điều kiện kết cấu hạ
tầng kém thuận lợi hơn.
2.4 Xác định loại đường phố, vị trí để định giá đất đô thị

a. Phân loại đường phố
Loại đường phố trong từng loại đô thị được xác định căn cứ chủ yếu
vào khả năng sinh lợi, điều kiện kết cấu hạ tầng thuận lợi cho sinh hoạt, sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch, khoảng cách tới khu trung tâm đô thị,
trung tâm thương mại, dịch vụ, du lịch.
Căn cứ thông tư số 145/2007/TT-BTC ngày 6/12/2007 của liên Bộ Tài
chính hướng dẫn thi hành Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 và
Nghị định 123/2007/NĐ – CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định
188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định giá đất và
khung giá các loại đất do bộ tài chính ban hành.
Ðường phố trong từng loại đô thị được phân thành các loại đường phố
có số thứ tự từ 1 trở đi. Ðường phố loại 1 áp dụng đối với đất tại trung tâm
đô thị, trung tâm thương mại, dịch vụ, du lịch; có mức sinh lợi cao nhất, có
điều kiện kết cấu hạ tầng thuận lợi nhất; các loại đường phố tiếp sau đó theo
thứ tự từ loại 2 trở đi áp dụng đối với đất không ở trung tâm đô thị, trung
tâm thương mại, dịch vụ, du lịch có mức sinh lợi và kết cấu hạ tầng kém
thuận lợi hơn.
Trường hợp một đường phố gồm nhiều đoạn đường phố có khả năng
sinh lợi khác nhau, có kết cấu hạ tầng khác nhau thì từng đoạn đường phố đó
được xếp vào loại đường phố tương ứng.
Tiêu chuẩn phân loại đường phố.
- Ðường phố loại I: là nơi có điều kiện đặc biệt thuận lợi đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh, buôn bán, du lịch, sinh hoạt, có cơ sở hạ tầng đồng bộ,
có giá đất thực tế cao nhất.
- Ðường phố loại II: là nơi có điều kiện thuận lợi đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh, buôn bán, du lịch, sinh hoạt, có cơ sở hạ tầng tương đối đồng
bộ, có giá đất thực tế trung bình thấp hơn giá đất thực tế trung bình đường
phố loại I.
- Ðường phố loại III: là nơi có điều kiện tương đối thuận lợi đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh, buôn bán, du lịch, sinh hoạt, có cơ sở hạ tầng chủ

yếu đồng bộ: cấp điện, cấp nước và thoát nước, có giá đất thực tế trung bình
thấp hơn giá đất thực tế trung bình đường phố loại II.
- Ðường phố loại IV: làcác đường phố còn lại, có giá đất thực tế trung bình
thấp nhất và thấp hơn giá đất thực tế trung bình đường phố loại III.
Một đường phố có nhiều đoạn đường có khả năng sinh lợi, giá đất và cơ sở
hạ tầng và các tiêu chuẩn khác nhau thì từng đoạn đường được xếp loại
đường phố tương ứng do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định.
Ðối với những đô thị có các tiểu vùng khác nhau về điều kiện sinh lợi
và giá đất thì mỗi tiểu vùng đều có hệ thống các loại đường phố theo cách
phân loại như trên.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào quyết định thành lập đô thị và
xếp loại đô thị do cấp có thẩm quyền phê duyệt đối với các đô thị thuộc địa
bàn trong tỉnh để áp khung giá các loại đất ở và đất sản xuất, kinh doanh phi
nông nghiệp tại đô thị do Chính phủ qui định.
b. Phân loại vị trí đường phố
Vị trí đất trong từng loại đường phố của từng loại đô thị được xác
định căn cứ vào khả năng sinh lợi, điều kiện kết cấu hạ tầng thuận lợi cho
sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, khoảng cách so với trục đường giao
thông. Vị trí đất trong từng loại đường phố của từng loại đô thị được phân
thành các loại vị trí có số thứ tự từ 1 trở đi. Vị trí số 1 áp dụng đối với đất
liền cạnh đường phố (mặt tiền) có mức sinh lợi cao nhất, có điều kiện kết
cấu hạ tầng thuận lợi nhất, các vị trí tiếp sau đó theo thứ tự từ thứ 2 trở đi áp
dụng đối với đất không ở liền cạnh đường phố có mức sinh lợi và điều kiện
kết cấu hạ tầng kém thuận lợi hơn.
Trong mỗi loại đường phố không nhất thiết phải xếp đủ 4 vị trí đất,
mà căn cứ vào từng đường phố để xếp, có thể xếp ít vị trí hơn, nhưng phải
xếp từ vị trí 1 tương ứng với mức giá cao nhất trở xuống.
2.5 Thẩm quyền phân vùng, phân loại đường phố và phân vị trí đất
để định giá đất"
Căn cứ vào các quy định chung tại Điều 8, Điều 9, Điều 10 Nghị định

số 188/2004/NĐ-CP và khoản 6, khoản 7 Điều 1 Nghị định 123/2007/NĐ -
CP; căn cứ vào tình hình thực tế của từng địa phương, Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh quy định cụ thể tiêu thức và việc phân vùng, phân loại, phân vị trí đất
làm căn cứ định giá. Hàng năm Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc
điều chỉnh lại việc phân loại đất, loại đường phố và vị trí đất khi có những
thay đổi về quy hoạch, đầu tư nâng cấp hoặc xây dựng mới kết cấu hạ tầng
làm ảnh hưởng đến việc phân loại đất, loại đường phố và vị trí đất đã thực
hiện trước đó.
III. KẾT LUẬN
Giá đất được hình thành do tác động của nhiều yếu tố như vị trí của
thửa đất trong địa phương và vị trí của địa phương trong cả nước, diên tích,
kích thước, hình dạng thửa đất, mục đích sử dụng của thửa đất và khả năng
sinh lời của thửa đất. Với nhiều yếu tố tác động như vậy, việc định giá đối
với mỗi thửa đất cụ thể là rất quan trọng nó thể hiện quyền định đoạt của nhà
nước với đất đai. Để định giá các loại đất một cách chính xác và đúng với
giá trị thực của thửa đất nhất chính phủ đã ban hành Nghị định
188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 và Nghị định 123/2007/NĐ –CP ngày
6/12/2007 sửa đổi một số điều của Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày
16/11/2004 về Phương pháp xác định giá đất và Khung giá các loại đất khác
nhau. Bên cạnh đó chính phủ cũng ban hành thông 114/2004/TT-BTC, ban
hành ngày 26/11/2004 về hướng dẫn thực hiện Nghị định số 188/2004/NĐ-
CP ngày 16/11/2004 và thông tư 145/2007/TT-BTC ngày 6/12/2007 của liên
Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày
16/11/2004 và Nghị định 123/2007/NĐ – CP sửa đổi bổ sung một số điều
của Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương
pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất. Từ đó các địa phương căn
cứ để xác định giá đất tại địa phương mình làm cơ sở để đấu giá đất, thu
thuế đất và các nghĩa vụ khác kiên quan đến đất của các chủ sử dụng đất.

×