MỘT VÀI KINH NGHIỆM TRONG
DẠY-HỌC CÁC LOẠI THỂ
VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI Ở TRUNG HỌC CƠ SỞ
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Văn chương nước ngoài là một bộ phận quan trọng trong chương trình Ngữ
văn trung học cơ sở gồm những sáng tác dân gian, văn thơ cổ điển, văn thơ hiện đại
được chọn và bố trí song song với chương trình văn học dân tộc. Cùng với văn học
dân tộc, văn chương nước ngoài đã góp phần tạo điều kiện cho học sinh mở rộng
tầm nhìn và khả năng cảm thụ tinh hoa văn hoá nhân loại, hiểu biết thêm về cuộc
sống và tài năng sáng tạo của các dân tộc từ đó hiểu rõ hơn đất nước, dân tộc và văn
hoá dân tộc đồng thời phát triển tinh thần quốc tế và ý thức về cộng đồng văn hoá
nhân loại.
Đó là những sáng tác được chọn lọc trong kho tàng văn học của các dân tộc.
Nói rộng ra đó là tinh hoa văn hoá nhân loại đủ sức vượt qua sự thử thách khắc
nghiệt của thời gian, của không gian đến với chúng ta hôm nay. Ta bắt gặp ở đây
những tác phẩm đã thành mẫu mực của văn học thế giới từ các chuyện cổ tích như
“Cây bút thần” (Trung Quốc), “Ông lão đánh cá và con cá vàng” (Nga)… cho đến
các tác phẩm văn chương nổi tiếng của các nhà văn lớn của các dân tộc cũng là của
thế giới như “Đôn- ki-hô-tê” của (Xéc-van-tét), “Cô bé bán diêm” của (An-đéc-
xen), “Chiếc lá cuối cùng” của (OHen-ry), thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ; Truyện của
Lỗ Tấn, A. Tôn-xtôi, Mô-pa-xăng, Giắc Lơn-đơn, Ai-ma-tốp, các trích đoạn kịch cổ
điển Pháp, Anh của Mô-li-e, Sếc-xpia.
Nhìn chung đó là những tác phẩm rất giàu giá trị nhân bản, giàu tinh thần dân
tộc có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục tình cảm cao đẹp, bồi dưỡng tâm hồn
trong sáng và ý thức vươn tới điều thiện để phát triển và hoàn thiện nhân cách cho
4
học sinh. Đó còn là những tác phẩm có giá trị nghệ thuật lớn, đạt trình độ mẫu mực
được viết ra bởi tài nghệ bậc thầy của các nhà văn xuất sắc.
Tuy nhiên trong thực tế dạy và học tác phẩm văn chương nước ngoài ở trung
học cơ sở hiện nay gặp rất nhiều khó khăn mà trước hết khó khăn lớn nhất là khoảng
cách khá lớn về không gian và thời gian, về lịch sử và tâm lý. Đứng trước nhiều tác
phẩm văn chương nước ngoài, nhiều giáo viên nhất là học sinh cảm thấy vô cùng xa
lạ. Nếu không được giải thích, hướng dẫn thì trong tiếp cận khó mà hiểu, cảm nổi.
Ví dụ: “Đánh nhau với cối xay gió” ( Trích “Đôn-ki-hô-tê” của Xéc- van-tét)
dẫu là tác phẩm rất hay nhưng được viết ra cách đây hàng bốn trăm năm, từ thời
trung cổ về tầng lớp hiệp sĩ giang hồ đã lỗi thời, về phong cách sinh hoạt của quí tộc
thời trung cổ Châu Âu với những tập tục lề thói cách cảm, cách nghĩ hoàn toàn xa lạ
với chúng ta.
Khó khăn lớn thứ hai là chúng ta dạy và học văn chương nước ngoài trong
điều kiện tài liệu, sách vở phục vụ cho tham khảo còn khan hiếm. Nhiều tác phẩm
anh chị em giáo viên mới được nghe lần đầu tiên. Nhiều tác phẩm anh chị em nghe
tên nhưng chưa được một lần được nhìn tận mắt. Hầu hết tác phẩm được đưa vào
chương trình anh chị em chỉ biết được qua sách giáo khoa, qua tóm tắt, qua trích
đoạn. khó khăn này không phải một sớm một chiều mà khắc phục được.
Trước những thực trạng khó khăn trong việc tiếp cận, việc dạy và học các tác
phẩm văn chương nước ngoài như vậy, với tấm lòng yêu nghề, yêu bộ môn và trong
thực tế giảng dạy nhiều năm tôi đã cùng nhiều đồng nghiệp tìm ra những hướng dạy,
bàn cách khắc phục những khó khăn trên để góp phần nâng cao hiệu quả của các giờ
học văn. Trong khuôn khổ của đề tài này, tôi xin mạnh dạn góp thêm “ Một vài kinh
nghiệm trong dạy-học các loại thể văn học nước ngoài ở THCS”.
5
PHẦN II
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I, ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI NGHIÊN CỨU:
Trước khi nghiên cứu và thực nghiệm đề tài này tôi đã cùng với các đồng
nghiệp trong nhóm Ngữ văn của nhà trường tiến hành khảo sát các tiết dạy và học
phần văn học nước ngoài trong chương trình đối với các khối lớp 6, 7, 8,9 trong các
năm học: 2002-2003; 2003-2004; 2004-2005; 2005-2006.
1. Hình thức và nội dung khảo sát:
Tập trung vào mảng kiến thức thuộc phần văn học nước ngoài đã dạy thực tế
trong chương trình ở các khối 6, 7, 8, 9 của 4 năm học: 2002-2003, 2003-2004,2004-
2005; 2005-2006.
+ Thông qua các buổi sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn, qua dự giờ đồng nghiệp,
thăm lớp rút kinh nghiệm và đánh giá chất lượng, kết quả của các tiết dạy và học từ
đó rút ra những phương pháp và biện pháp chung trong dạy và học các loại thể văn
học nước ngoài.
+ Sử dụng phiếu học tập với những câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra việc nắm kiến
thức bài học, sự hiểu biết của học sinh về các tác giả, tác phẩm văn học nước ngoài.
+ Tiến hành cho học sinh làm các bài kiểm tra viết để đánh giá tổng quát khả năng
cảm thụ, phân tích những giá trị nghệ thuật và nội dung của các tác phẩm văn học
nước ngoài.
2, Kết quả khảo sát:
Khối Lớp Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu
SL (%) SL (%) SL (%) SL (%)
6
6A 39 0 0 13 33,3 22 56,4 4 10,3
6B 40 0 0 11 27,5 24 60,0 5 12,5
7
7A 39 0 0 15 38,4 21 54,0 3 7,6
7B 41 0 0 12 29,2 22 54,0 6 16,8
6
8
8A 39 1 2,6 14 36,0 22 56,4 2 5,0
8B 38 0 0 10 26,3 24 63,0 4 10,7
9
9A 42 1 2,4 20 48 21 49,6 0 0
9C 32 0 0 10 31,3 16 50 6 18,7
Qua thực tế và kết quả khảo sát tôi nhận thấy rằng:
+ Sự hiểu biết của học sinh về các tác giả cũng như các tác phẩm văn học nước
ngoài được học trong chương trình còn rất hạn chế.
+ Khả năng tiếp thu và cảm nhận những tác phẩm văn chương nước ngoài chưa
cao.
+ Kỹ năng phân tích và cảm thụ những giá trị đặc sắc về nghệ thuật và nội dung
các tác phẩm văn chương nước ngoài còn hời hợt và chưa sâu sắc. Vì vậy số bài đạt
điểm khá chưa cao.
+ Kỹ năng phân tích các yếu tố ngôn ngữ, các biện pháp nghệ thuật, chi tiết, hình
ảnh, nhân vật … trong các tác phẩm văn học nước ngoài của học sinh còn lúng túng.
+ Ở một vài giáo viên sự hiểu biết về phong tục, tập quán sinh hoạt, quan niệm
thẩm mĩ của dân tộc đó sản sinh ra tác phẩm chưa thật sâu sắc, chưa có điều kiện
đọc trọn vẹn các tác phẩm có đoạn trích được dạy.
II, PHƯƠNG PHÁP VÀ BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH.
Nhìn một cách tổng thể toàn bộ phần văn học nước ngoài trong chương trình
ngữ văn THCS, ta có thể phân loại các tác phẩm văn học nước ngoài theo đặc trưng
loại thể thành những mảng sau:
1, Truyện cổ dân gian:
Bao gồm 2 tác phẩm chính đó là “Cây bút thần” sáng tác dân gian của Trung
Quốc; “Ông lão đánh cá và con cá vàng” của A-lếch - xan-đrơ Xéc-ghê-ê-vích Pu-
skin, đại thi hào Nga kể lại bằng 205 câu thơ trên cơ sở của truyện dân gian Nga,
Đức.
7
2, Thơ Đường:
Một số bài thơ Đường có nội dung trữ tình xã hội, về tình cảm quê hương, về
thiên nhiên của các tác giả: Lí Bạch, Hạ Tri Chương, Đỗ Phủ…
3, Truyện ngắn:
Bao gồm một số đoạn trích của các tác phẩm: “Đánh nhau với cối xay gió”
của Xéc-van-tét, “Cô bé bán diêm” của An-đéc-xen, “Chiếc lá cuối cùng” của Ơ.
Hen-ry, “Hai cây phong” của Ai-Ma-Tốp, “Cố hương” của Lỗ Tấn, “Con chó bấc”
của Giắc-lơn-đơn, “Những đứa trẻ” của Gor-ki, “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” của
Đi-phô, “Bố của Xi-mông” của Mô-pa-xăng…
4, Kí:
“Lòng yêu nước” của Ê-ren-bua…
5, Kịch:
Trích đoạn kịch cổ điển Pháp “ Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục” của Mô-li-e.
6, Thơ trữ tình hiện đại:
Bao gồm một số bài thơ trữ tình của Nga, Ấn Độ….
Qua việc phân loại như vậy để có cái nhìn tổng quát toàn bộ chương trình phần
văn học nước ngoài, từ đó đề ra những phương pháp, biện pháp dạy cụ thể cho từng
loại thể một cách hợp lý cũng như việc vận dụng nguyên tắc tích hợp trong dạy và
học một cách phù hợp hơn.
III, NHỮNG CÔNG VIỆC THỰC TẾ ĐÃ LÀM VÀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
1. Những nguyên tắc chung:
1a. Muốn dạy tốt các tác phẩm văn chương nước ngoài phải trực tiếp tiếp xúc với
tác phẩm:
Có thể coi đây là một yêu cầu nghiêm ngặt đối với giáo viên và học sinh khi
dạy học tác phẩm văn chương. Nhưng với các tác phẩm văn chương nước ngoài thì
đây là một yêu cầu khá cao song phải tìm mọi cách mà thực hiện cho được. Có thể tổ
chức cho tổ, nhóm chuyên môn chia nhau tìm đọc, trao đổi với nhau. Cũng có thể tổ
chức báo cáo trong sinh hoạt chuyên môn hoặc có thể tổ chức ngoại khoá cho học
8
sinh. Nếu không đọc được tác phẩm thì cũng phải được nghe, được kể, được thảo
luận về tác phẩm mà mình phải dạy và học.
1b. Tìm hiểu những vấn đề liên quan đến tác phẩm:
Sự hiểu biết về tác giả, về thời đại, về đất nước đó sản sinh ra tác phẩm,
những đặc sắc về thiên nhiên, về tập tục xã hội nhất là về tâm lý dân tộc sẽ giúp ta
hiểu và cảm tác phẩm văn chương nước ngoài rất nhiều. Những điều đó không dễ gì
có đươc nếu chúng ta không tìm tòi học hỏi.
Chúng ta sẽ không cảm và hiểu tốt đoạn trích “ Đánh nhau với cối xay
gió”trong “Đôn-ki hô tê” của Xéc-van-tét nếu ta không hiểu biết gì về đất nước Tây
Ban Nha thời trung cổ, sự tan giã của ý thức hệ phong kiến và sự hình thành của ý
thức hệ tư sản.
Vì vậy việc tìm đọc các tài liệu có liên quan trên các tạp chí, các sách báo rất
cần thiết đối với giáo viên và học sinh nhất là giáo viên trong việc dạy học tác phẩm
văn chương, nhất là tác phẩm văn chương nước ngoài.
1c. Muốn dạy tốt tác phẩm cần hiểu đúng tác phẩm:
Muốn dạy tốt văn bản thì phải hiểu đúng nó, tìm hiểu nó đúng trong vị trí tác
phẩm, hiểu được toàn bộ tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của tác giả từ đó mới lựa
chọn được vấn đề và cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu, khám phá và lĩnh hội cho
phù hợp với trình độ học sinh. Đây là một yêu cầu cao song với tác phẩm văn
chương nước ngoài thì việc hiểu đúng tác phẩm là một yêu cầu quan trọng. “Con
chó Bấc”(trong sách văn 7 cũ, và là tác phẩm được dạy trong ngữ văn 9 hiện nay) là
một văn bản hay nhưng rất xa lạ đối với giáo viên và học sinh THCS.
Hầu như anh chị em chỉ mới biết được nhà văn Giắc-lơn-đơn và “Tiếng gọi
nơi hoang dã” qua một đoạn trích không trọn vẹn trong sách giáo khoa. Cũng vì vậy
mà chưa hiểu được tinh thần của văn bản cũng như chưa hiểu sâu sắc tác giả và nội
dung toàn bộ tác phẩm. Thực ra, đây chỉ là một đoạn trích trong tác phẩm “ Tiếng
gọi nơi hoang dã” của Giắc-lơn-đơn một nhà văn Mỹ nổi tiếng thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX. “Tiếng gọi nơi hoang dã” là một kiệt tác của nhà văn nhằm chứng minh:
9
mâu thuẫn giữa sự tạn bạo dã man của cái gọi là văn minh và sự tự do của loài vật
sống hoang dã trong thiên nhiên. Kiệt tác này được nhà văn viết từ 1903.
Truyện kể về số phận của con chó Bấc bị bắt cóc mang đi khỏi trang trại của một
người chủ giàu có ở Ca-li-phoóc-ni-a, và bị ném vào vùng Bắc cực hoang dã trong
cuộc săn vàng của con người. Thiên nhiên nguyên thuỷ, sự nghiệt ngã tàn bạo của
môi trường đã đánh thức và làm phát triển mạnh mẽ trong đáy sâu thẳm của nó
những bản năng thú dữ của tổ tiên nó. Nó đã sống với đủ hạng người phần lớn họ là
những kẻ độc ác, tàn bạo đối với thú vật. Chỉ có một người là chiếm được thiện cảm
của nó bằng lòng nhân đạo và tình thương yêu rộng lớn. Đó là Giôn Thoóc Tơn.
Truyện toát lên một nhân sinh quan rõ rệt: Lòng thương yêu loài vật, ông cho
rằng chỉ có trên cơ sở một tình thương yêu vô hạn đối với loài vật mới chiến thắng
được những con vật, thậm chí là những con vật dữ tợn.
Tình yêu thương thực sự và nồng nàn đến mức cuồng nhiệt dấy lên trong lòng
con chó Bấc thì đến Giôn Thoóc Tơn mới khơi dậy được những điều đáng tìm hiểu
là vì sao mà Bấc yêu thương Giôn Thoóc Tơn đến mức có những hành động đep đẽ
thế? Bởi vì con người này đã cứu sống nó. Nhưng hơn thế nữa, con người này là một
ông chủ lý tưởng. Anh chăm sóc chó của mình như thể chính nó là con cái của anh
vậy.
Có đọc toàn bộ tác phẩm ta mới thấy hết tình thương yêu thực sự của Giôn
Thoóc Tơn đối với loài vật mà cụ thể là đối với con chó Bấc trong sự so sánh với
bao nhiêu ông chủ trước đó, trong bối cảnh khốc liệt của cuộc hành trình dai dẳng
dài dặc trên những con đường ngập tuyết, trong cơn tuyệt mệnh của đàn chó…
Chính đây mới là phần cốt yếu của tác phẩm, mới là dụng ý nghệ thuật của tác giả.
Chỉ có trên cơ sở tình yêu vô hạn đối với loài vật mới chiến thắng được những con
vật. Nội dung của tác phẩm là thế, tư tưởng của tác phẩm cũng là thế nhưng nếu chỉ
dựa vào tên của văn bản, qua hai chiến công của con chó, nhiều người chỉ thấy nổi
lên hình ảnh “Con chó Bấc” mà thôi.
2, Những công việc thức tế đã làm:
10
Dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài cũng là dạy-học tác phẩm văn
chương nói chung. Đó cũng là tác phẩm văn chương dân gian, văn chương cổ điển
và văn chương hiện đại… Đó cũng là tác phẩm trữ tình và tự sự. Dạy học tác phẩm
văn chương nước ngoài cũng đến phải vận dụng các phương pháp và biện pháp dạy
học tác phẩm văn chương nói chung nhưng với tác phẩm văn chương nước ngoài, do
những đặc điểm, những khó khăn như đã nói ở trên nên ta cần vận dụng những hình
thức, biện pháp sao cho hợp lý và đạt được hiệu quả giờ dạy.
2a. Tìm hiểu bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh sáng tác tác phẩm:
Tác phẩm văn chương bao giờ cũng mang trên mình dấu ấn của một thời lịch
sử nhất định. Vì vậy việc tìm hiểu bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh sáng tác bao giờ
cũng là một yêu cầu có tính nguyên tắc. Dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài
thì việc tìm hiểu bối cảnh lịch sử và việc sáng tác thật là việc vô cùng quan trọng. Vì
đây là những điều rất xa lạ đối với học sinh. Sự phụ thuộc của tác phẩm văn chương
vào hoàn cảnh lịch sử sẽ rất khó giải thích cho học sinh nếu như không gắn liền với
những điểm phân tích, đánh giá chung với hoàn cảnh cuộc sống và hoạt động sáng
tác của nhà văn. Có như thế mới giúp học sinh có điều kiện tìm hiểu sâu tác phẩm.
Ví dụ: Dạy học bài: “Thạch Hào lại”( Kẻ lại ở thạch hào) của Đỗ Phủ mà không
đả động gì đến hoàn cảnh xã hội, đến sự biến An Lộc Sơn và Sử Tư Minh (755-763)
và sự phức tạp của các mâu thuẫn trong xã hội đương thời của Trung Quốc thì cũng
khó mà hiểu được một cách đúng đắn bài thơ này.
Hoặc có hiểu sâu sắc bối cảnh lịch sử của nông thôn Trung Quốc sau cách
mạng Tân Hợi ta mới thấm thía nỗi hiu quạnh của Lỗ Tấn ,trong khi dạy “ Cố
hương” (Ngữ văn 9), mới thấy rõ ràng nhà văn đã thông qua việc tường thuật
chuyến về quê lần cuối cùng của nhân vật “Tôi” để lên án tội ác của chế độ phong
kiến đối với nông dân, từ đó đặt ra vấ đề con đường đi của nông dân và của toàn xã
hội để mọi người suy nghĩ.
2b. Tìm hiểu phong tục, tập quán sinh hoạt, quan niệm đạo đức, thẩm mĩ của dân
tộc đã sản sinh ra tác phẩm trong mối tương quan với văn hoá dân tộc.
11
Để hiểu cảm đúng tác phẩm văn chương nước ngoài, giáo viên cần giúp học
sinh hiểu được phong tục, tập quán sinh hoạt cũng như quan niệm đạo đức, thẩm mĩ
của dân tộc mà tác phẩm phản ánh trong mối tương quan với nền văn hoá dân tộc
mình.
Đặt tác phẩm văn học vào mối tương quan văn học của hai dân tộc là để khai
thác đến cạn kiệt những tư tưởng hữu dụng cho đời sống tinh thần công dân tương
lai, kích thích những truyền thống tốt đẹp hiện tại, để hiểu sâu sắc hơn nhân loại.
Cho đến nay, dạy học văn học phục hưng Anh hay Tây Ban Nha trong nhà
trường vẫn là vấn đề khó với thầy và trò. Thời đại phục hưng ở Châu Âu, từ Ý qua
Pháp rồi đến nhiều nước. Ở mỗi nước lại có màu sắc riêng. Vì sao chàng Đôn- ki-hô-
tê lại nói nhiều lời có cánh? Nhưng chính chàng lại là một hiệp sĩ đạo không hợp
thời, hình ảnh hiệp sĩ đạo ở Việt Nam học sinh khó hình dung ra. Đôn Kihôtê yêu tự
do, công bằng, nhân đạo, Xan-trô-pan-xa thì thực tế, lạc quan, lành mạnh, yêu đời.
Cả hai nhân vật chung đúc lại đã làm nổi bật truyền thống đạo đức của nhân dân Tây
Ban Nha.
Cái mê sảng và cả cái tỉnh táo đến siêu việt của Đôn-ki-hô-tê chứng tỏ Xéc-
van-tex tán thành lý tưởng nhân đạo là tuyệt vời nhưng khó thực hiện được trong
thời đại mà tầng lớp quý tộc lại toan làm cái đó là mơ hồ ảo tưởng. Tác phẩm có
nhạo báng sách hiệp sĩ nhưng cơ bản vẫn là khẳng định khát vọng, lý tưởng nhân
văn cao cả của những con người khổng lồ trong một xã hội đầy đen tối xấu xa. Nếu
không cảnh giác, đấy chỉ là một ảo tưởng, một trò cười lịch sử.
Hoặc cái lối “vẽ trăng thấy mây”, “ý ở ngoài lời”, “ý đến mà bút chẳng cần
đến”, hay việc sử dụng vần (nhất, tam, ngũ bất luận; nhị , tứ, lục phân minh), những
kiểu đối: Đối thanh, đối ý (24 loại), những bút pháp lấy“động” tả “tĩnh”; “cao” tả
“thấp”; “quá khứ” tả “hiện tại”… trong thơ Đường cũng cần được học sinh hiểu biết
trước khi đi sâu vào tìm hiểu những bài thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Hạ Tri Chương.
Đặt tác phẩm trong mối tương quan văn hoá của hai dân tộc sẽ giúp cho việc
nghiên cứu tác phẩm cụ thể nhận ra và làm phong phú hơn đời sống tâm hồn và tình
cảm dân tộc của mỗi người khi tiếp xúc với tác phẩm. Trên thực tế trong quá trình
12
tiếp xúc với tác phẩm dù thế nào cũng vẫn gợi ra sự liên tưởng so sánh nhất định
nhưng trong chương trình văn học nước ngoài ở Trung học cơ sở, có rất nhiều điểm
khác nhau, thậm trí trái ngược nhau trong cách cảm, cách nghĩ và cách diễn đạt bởi
thế, để học sinh hiểu cảm đúng tác phẩm, cần phải giúp học sinh rút ngắn khoảng
cách này lại.
2c. Tìm hiểu mối quan hệ giữa văn bản ngôn từ và văn bản hình tượng.
Văn chương nước ngoài đến với giáo viên và học sinh đều qua lời dịch của
các dịch giả. Văn bản tác phẩm mà giáo viên và học sinh được dạy-học là văn bản
dịch chứ không phải là nguyên tác. Như thế người dịch đã phải thực thi một hoạt
động rất phức tạp là:
- Chuyển dịch một tác phẩm từ một ngôn ngữ khác.
- Chuyển dịch một tác phẩm từ một thời gian này (thời gian lich sử xuật hiện
nguyên bản) sang một thời gian khác (thời gian lịch sử của bản dịch) và,
- Chuyển dịch một tác phẩm từ một không gian văn hoá này sang một không
gian văn hoá khác.
Như vậy, dịch bản là văn bản hình tượng. Dạy học tác phẩm văn chương nước
ngoài chủ yếu là dạy học trên văn bản hình tượng gặp phải những bài thơ nước ngoài
từ nguyên bản đến bản dịch nghĩa, sang đến bản dịch thơ thì về mặt ngôn từ đã có sự
khác nhau rất xa những bài thơ của Đỗ Phủ, Lý Bạch trong thơ Đường đều nằm
trong trường hợp đó. Thế là việc bám lấy ngôn từ để khai thác như với trường hợp
thơ nói chung là không thể được. Nhưng các đặc điểm khác của thi pháp bài thơ lại
có thể giúp ta hiểu cảm bài thơ thì lại phải khai thác. Tuỳ từng bài mà có cách vận
dụng linh hoạt, sáng tạo để đạt hiệu quả cao trong các tiết dạy và học tác phẩm. Đó
là điều cần được quán triệt trong dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài. Ta có
thể thấy, biện pháp so sánh, đối chiếu là biện pháp đặc trưng, đắc dụng trong quá
trình dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài. Biện pháp đó được thực hiện trong
việc đối chiếu bản dịch với nguyên tác, so sánh các chi tiết, các hình ảnh cùng một
phong cách, một giọng điệu… để giúp học sinh hiểu cảm tác phẩm sâu sắc hơn.
13
VD: Khi dạy văn bản “Tình dạ tứ” (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh) của Lý
Bạch, qua biện pháp đối chiếu, so sánh bản dịch thơ với nguyên tác ta thấy:
Trong nguyên tác ta thấy nhà thơ viết là “minh nguyệt quang”, bản dịch thơ
dịch là “ánh trăng rọi”, dùng từ “rọi” (động từ), thay cho “sáng” (tính từ) đã làm
nhạt mối liên tưởng trong bài thơ vì trăng phải sáng nhà thơ mới nhầm là sương, hơn
nữa, trăng rọi và sương phủ làm cho bài thơ tăng thêm hai chủ thể, làm mờ đi cái
chủ thể cô độc, nhớ quê. Trong nguyên tác chỉ có một chủ thể là Lý Bạch. Trong bản
dịch việc thêm hai chủ thể nữa đang hoạt động làm giảm đi cái thanh tĩnh, yên ắng
của đêm khuya.
Do đó để học sinh cảm nhận được sâu sắc hơn hai câu thơ đầu:
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Dịch:
Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Giáo viên cần đặt câu hỏi có tính chất gợi mở để dẫn dắt học sinh khi tìm
hiểu:
Bản dịch nghĩa theo nguyên tác là dịch “quang” là “sáng”. Nhưng câu thơ
dịch đổi thành “rọi”. Em thấy “sáng” và “rọi” cũng như “chiếu” khác nhau như
thế nào?
Em có thích từ “rọi” trong bản dịch này không? tại sao?
Tại sao nhà thơ lại xúc cảm từ một ánh trăng đầu giường?
Trong hai câu, câu nào là miêu tả, câu nào là biểu cảm? Quan hệ giữa tả và
cảm có hợp lý không?
Cũng như khi học sinh cảm nhận hai câu thơ cuối:
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch:
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
14
Cúi đầu nhớ cố hương.
Sau khi đọc lại toàn bộ bài thơ, cần dẫn dắt qua các câu hỏi sau:
Em có nhận xét gì về 3 từ trong 3 văn bản (phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ):
“vọng”, “ngắm”, nhìn về mặt đồng nghĩa em thích từ nhìn hay ngắm hơn? tại sao?
Phân tích hai từ trái nghĩa: “ngẩng” (ngẩng đầu) và “cúi” (cúi đầu) để thấy
hai từ ngữ đó thể hiện cảm xúc gì của nhà thơ?
Tại sao từ vầng trăng sáng mà lại nhớ cố hương? sự liên tưởng cảm xúc đó
có tự nhiên không?
Với thể loại tác phẩm tự sự thì hình tượng nhân vật trong các bản dịch cần
được tìm hiểu, khai thác đúng mức. Nếu không sẽ khó lòng đạt được hiệu quả như
mong muốn.
Trường hợp “Người thầy đầu tiên” với đoạn trích “Hai cây phong” của Tsin-
ghiz Ai-ma-tốp là một thí dụ: “người thầy đầu tiên” hiện lên trên trang giấy không
phải qua việc quan sát, miêu tả, so sánh mà lại hiện lên qua việc tái hiện hình ảnh,
qua những kỷ niệm sâu sắc với một tình cảm trân trọng, kính yêu, pha chút hối hận,
áy náy của An- tư -nai, người học sinh bất hạnh nay đã trở thành viện sỹ. Câu
chuyện trải dài trên một quãng thời gian mấy chục năm. Song, ở đây sách giáo khoa
ngữ văn 8 chỉ là những đoạn ở phần đầu cuốn truyện. Dẫu là phần đầu nhưng tất cả
dều góp phần khắc hoạ hình ảnh thầy giáo Đuy-sen, trong đó những mẩu ký ức sau
bao nhiêu năm tháng đã được thời gian khoác màu thi vị, buộc người đọc phải dùng
cả tưởng tượng, liên tưởng và đắm mình trong hoài niệm để cùng sống với nhân vật.
Chúng ta phải làm sao để học sinh đừng ngập vào sự kiện, đừng bị những suy ngẫm
miên man làm loá đi hình ảnh người thầy đã gọi là hồi ức thì không phải tất cả đều
sáng rõ như bức chân dung được đặc tả nên không thể dùng cách khai thác phân tích
một nhân vật từ ngoại hình đến nội tâm mà ở đây, ngoài hình ảnh của người thầy còn
có tấm lòng của người kể, người học trò từng được thầy yêu quí, chăm sóc, bảo vệ
và giáo dục.
Toàn bộ đoạn trích đề nói về hai cây phong trên đồi cao, những vẻ đẹp kỳ diệu
của chúng và vị trí quan trọng trong những kỷ niệm ấu thơ, khơi dậy niềm yêu quê
15
hương với khát vọng khám phá của tuổi trẻ. Chỉ đến cuối cùng, người kể chuyện
mới đặt vấn đề mà thuở trước “chưa hề nghĩ đến”. Đó là người trồng cây phong là ai,
và có những ước mơ, hy vọng gì khi trồng hai cây phong đó?
Cuối đoạn trích, người kể chuyện nói không rõ vì sao mà quả đồi có hai cây
phong được gọi là “Trường Đuy-sen”. Như vậy hai cây phong còn là biểu tượng cho
trường học, nơi khai tâm và nuôi dưỡng những tình yêu lớn của con người gắn liền
với tên một “Người thầy đầu tiên”, thầy Đuy-sen. Ở đây, hình ảnh tự sự đã thấm
đượm chất trữ tình. Do đó, hình ảnh thầy vừa gợi lên trong ta niềm cảm phục kính
yêu vừa gợi lên một sự cảm thông bởi nỗi luyến tiếc, ngậm ngùi có phần áy náy, bứt
rứt của người học sinh nay đã về già. Cho nên chúng ta phải lần theo kỷ niệm, những
hồi ức để phục hiện hình ảnh người thầy mong gieo vào lòng học sinh niềm yêu
thương, ấm áp đó bằng cách dẫn dắt các em (câu hỏi được sử dụng trong bài dạy):
Làng Ku-ku-rêu được giới thiệu là một làng quê như thế nào? tại sao hình
ảnh cây phong lại chưa được nhắc đến trong những dòng đầu tiên?
Hai cây phong được giới thiệu khái quát như thế nào? Hình ảnh so sánh
“như những ngọn hải đăng đặt trên núi” có ý nghĩa gì?
Tại sao người kể lại có thể “bao giờ cũng cảm biết được chúng, lúc nào
cũng nhìn rõ”?
Tác giả đã miêu tả vẻ đẹp của hai cây phong từ góc độ nào, thời điểm nào?
Hãy chỉ ra các vẻ đẹp đó?
Tại sao hai cây phong lại có vẻ đẹp khác nhau như thế? Ta có thể biết được
điều gì về tình yêu của người kể chuyện với hai cây phong?
Tại sao trước khi bắt đầu nghỉ hè của năm học cuối cùng, hai cây phong lại
gây ấn tượng mạnh mẽ cho người kể chuyện và lũ trẻ?
Điều gì đã hiện ra trước mắt lũ trẻ? Phản ứng của chúng được miêu tả như
thế nào? Qua đó chúng ta đánh giá vị trí của hai cây phong ra sao?
Qua việc ca ngợi vẻ đẹp của hai cây phong người kể chuyện hướng tới người
vô danh đã trồng và vun xới chúng. Hãy chỉ ra sự ca ngợi tinh tế đó?
16
Với một tự sự khác lại phải có cách khai thác khác, chẳng hạn với “chiếc lá
cuối cùng” của O.Henry trong ngữ văn 8 lại khác. Hình tượng “chiếc lá cuối cùng”
không chỉ gợi lại ở đó mà còn gợi ta đến tấm lòng của người nghệ sĩ nghèo của nước
Mĩ mà đặc biệt là tấm lòng của bác Bơ- men đã tạo lên kiệt tác “chiếc lá cuối cùng”.
Câu chuyện ngợi ca tình cảm trong sáng, cao đẹp của những nghệ sĩ chân chính, ca
ngợi sự hy sinh quên mình của cụ Bơ- men để vẽ chiếc lá, cứu sống Giôn- xy.
Những chiếc lá trường xuân , theo qui luật sinh tồn của tạo hoá, từng chiếc lá
một theo mùa đông rét mướt qua đi. chiếc lá cuối cùng sót lại không phải bởi cây ấy
là cây trường xuân, không phải bởi lá cây là lá trường xuân mà bởi nét vẽ tài hoa của
ông lão Bơ-men làm trường xuân lá ấy. Cây tuy là trường xuân cũng không giữ được
lá của mình. Người tuy hữu hạn nhưng lại giữ được lá.
Vậy ra điều duy nhất để giữ được lá kia lại trên dương thế này là tấm lòng.
Tấm lòng đã thăng hoa thành nghệ thuật. Và nghệ thuật đã mang thiên chức cứu
người. Với O.Henry nghệ thuật phải phụng sự cái đẹp, phải phụng sự cuộc sống. Mà
cuộc sống, tồn tại trong ý nghĩ cao đẹp nhất, là phải biết hi sinh. Có thể nói, nhân
loại tồn tại trong ý thức cao đẹp nhất, là phải biết hi sinh.Và có thể nói, nhân loại tồn
tại và phát triển là nhờ sự hi sinh kế tục của các thế hệ tiếp nối. Xét ở góc độ này,
O.Henry đặt vấn đề về ý nghĩa tồn tại và khả năng duy trì sự sống của con người.
Cuộc sống là đáng quí, nhưng theo Bơ-men, nếu cần, lão sẵn sàng hi sinh tính
mạng của mình vì những điều cao quí hơn. đến đây ta thấy rõ hơn dụng ý nghệ thuật
tạo độ căng của O.Henry: sử dụng thủ pháp tăng cấp nhưng khi truyện phát triển lên
đến đỉnh điểm thì khéo léo đan cài tư tưởng, chủ đề khác vào, đây mới là chủ đề
chính của tác phẩm. Vậy ra, cả hai cô gái, bác sĩ, bức tường gạch, dây trường xuân
kia và cả cách tự sự duyên dáng từ đầu tác phẩm đến đây tất cả đều là nền để ông lão
Bơ-men xuất hiện. Với kĩ thuật tự sự này, tác giả tạo dựng được độ hẫng thẩm mĩ
trong tâm lí tiếp nhận. Đây là nét độc đáo của “Chiếc là cuối cùng” bởi độ hẫng
thẩm mĩ thì dễ được thực hiện ở thi ca chứ văn xuôi thì quả là rất khó. Vậy nên ta có
thể ví “Chiếc lá cuối cùng” như một bài thơ- tranh đặc biệt.
17
Xét ở góc độ khác, “Chiếc lá cuối cùng” được xem như là một truyện ngắn có
kết cấu mẫu mực vào hạng bậc nhất. Cốt truyện, nhân vật, giọng điệu, trần thuật, đối
thoại… Đều có thể được xem như là một trong những khuôn mẫu của thể loại này ở
thế kỉ XIX.
Chẳng hạn như cốt truyện của tác phẩm khá phức tạp. Ngoài cốt truyện bề nổi,
ta còn gặp cả cốt truyện ngầm nữa.
Ở tuyến thứ nhất có thể tóm lược theo năm bước sau: Trình bày : tại một “khu
họa sĩ” nọ, có một cô gái bị ốm tên là Giôn-xy đang nằm đợi chết. Thắt nút : tâm
trạng chờ chết liên quan đến những chiếc là trường xuân đã rụng. Phát triển : lá cứ
rụng, sức khoẻ Giôn-xy dần tàn. Đỉnh điểm : chỉ còn mỗi một chiếc lá, nếu lá ấy rơi
thì sự sống của Giôn-xy cũng rơi theo. Kết thúc: lá không rơi, Giôn-xy không chết.
Ngoài cốt truyện ở bề nổi trên ta còn có một tuyến truyện song hành, chìm ẩn
nữa: có một hoạ sĩ già nuôi tham vọng vẽ bức kiệt tác. Có một hoạ sĩ trẻ muốn chết
vì những chiếc là rơi. Ông lão muốn cứu cô gái bằng dự định vẽ chiếc lá (điều này
không được phát biểu trực tiếp trong tác phẩm) và ông lão quyết định vẽ chiếc lá vào
đêm mùa đông giá rét thay thế chiếc lá trường xuân cuối cùng đã rụng. Truyện kết
thúc khi cô bé hồi phục bởi chiếc lá (được vẽ ) vẫn còn nhưng hoạ sĩ già thì vẫn qua
đời.
Hiện tượng đan cài nhuần nhuyễn các tuyến cốt truyện trên đã cho thấy
O.Henry xứng đáng là một cây bút truyện ngắn lỗi lạc bậc thầy.
Cho nên với bài dạy này, giáo viên cần gợi dẫn học sinh hướng vào sự tìm
hiểu: Cảnh ngộ và tâm trạng của Giôn- xi, và sức mạnh của nghệ thuật chân chính
cũng như nghệ thuật xây dựng cốt truyện và các tình huống truyện…với hệ thống
câu hỏi sau:
Qua đoạn trích em hình dung được những gì về cảnh ngộ của Giôn- xy và
tấm lòng của mọi người đối với cô?
Vì sao cụ Bơ-men và Xiu sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ nhìn cây thường xuân?
Sau hai lần ra lệnh kéo màn để nhìn ra cửa sổ, tâm trạng của Giôn xy biến
đổi như thế nào? Điều gì là nguyên nhân gây lên sự biến đổi đó?
18
Giôn xy nói “có một cái gì đó đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đấy để
em thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muốn chết là một tội?
Em thử hình dung diễn biến tình cảm trong tâm trạng của Giôn xy khi thấy
chiếc lá “dũng cảm”, “đơn độc” bám vào cành?
Theo em, Giôn xy được cứu sống chủ yếu nhờ vào những điều gì?
Tại sao có thể nói chiếc lá của cụ Bơ-men vẽ mới là yếu tố quan trọng cứu
sống Giôn xy?
Để cho Gôn xy thoát khỏi cái chết nhờ chiếc lá, ngoài việc ca ngợi những
tình cảm tốt đẹp của các nghệ sĩ, tác giả còn muốn ca ngợi điều gì khác?
Xiu coi chiếc lá của cụ Bơ-men là một kiệt tác. Em có đồng ý như vậy
không? hãy giải thích theo cách hiểu của em?
Những đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, xây dựng các tình tiết
và tình huống truyện của O.Hen ry trong “Chiếc lá cuối cùng”?
2d. Tìm hiểu những dấu hiệu thi pháp của tác phẩm theo đặc trưng loại thể.
Mỗi tác phẩm văn học xuất hiện bên cạnh động lực lớn, cảm hứng chủ quan
của nhà văn còn bị chi phối trực tiếp bởi trào lưu văn hoá trong khu vực ảnh hưởng
cụ thể đến dân tộc. Vì vậy, chúng ta đặt yêu cầu này ra là để tìm kiếm những điều
kiện lý tưởng khi dạy và học cũng như nghiên cứu tác phẩm.
Ví dụ: Với thơ Đường thì dù bút pháp hiện thực như Đỗ Phủ, lãng mạn như
Lý Bạch đều bị chi phối bởi triết học Đạo giáo và Phật giáo không đơn thuần chỉ là
Nho giáo. Màu sắc của Đạo giáo trong thơ Lý Bạch rất rõ, ở Vương Duy chất phật rõ
hơn còn Đỗ Phủ thì chất nhân văn từ hiện theo đời sống là chủ đề chính.
Ta thấy thơ đường có màu sắc rất riêng, có lẽ khó gặp ở một trào lưu văn học
Phương tây nào có một loại thơ như thế. Cái tôi với tính chất “phi cá thể”, ước lệ
trong thơ đường khá phổ biến. Tuy vậy, ta vẫn không loại trừ những ngoại lệ. Dù
như vậy ta cũng vẫn phải gọi ra mấy nét có tính chất thi pháp của Đường thi:
- Đề tài thường trang trọng, thi ý thường nhiều tầng nghĩa gợi một màu sắc trí
tuệ.
19
- Ngôn ngữ Đường thi thường mang tính khái quát cao chứ rất ít đi vào miêu tả
chi tiết.
- Trong quá trình thể hiện, thơ Đường thường thể hiện những nguyên tắc rất chặt
chẽ tạo sự hài hoà kì thú. Mặt khác, nó lại sử dụng vần (nhất, tam, ngũ bất luận; nhị,
tứ, lục phân minh), trên cơ sở những tiểu đối: Đối thanh, đối ý.
- Thể cách luật trong thơ Đường là qui tắc kết hợp luật bằng trắc để tạo ra một sự
hài âm, “niêm” là sự kết dính hàng dọc tạo được sư êm ái, chất trí tuệ và “nỗi buồn
thiên cổ” trong thơ Đường.
Vì vậy, khi dạy và học thơ Đường nếu chúng ta đặt được tác phẩm vào những nét
tiêu biểu của thi pháp thơ Đường thì rất có thuận lợi khi khai thác giúp học sinh
tiếp nhận, cảm và hiểu nó một cách sâu sắc hơn.
Một trong những vấn đề đáng quan tâm nhất của dạy và học phát triển hiện nay là
đi “từ khái quát đến cụ thể”. Trước đến nay dạy và học thơ Đường chúng ta thường
chủ yếu khám phá cấu trúc: đề, thực, luận, kết (đối với thể thất ngôn bát cú) hoặc:
khai, thừa, chuyển, hợp (đối với thể thất ngôn tứ tuyệt). Nhưng trên thực tế của khối
lượng đồ sộ những bài thơ đường, nó thể hiện cả một trào lưu thơ ca độc đáo: ý tứ,
đề tài của trào lưu này thể hiện cả một ý chí sáng tạo. Thi ý thường nhiều tầng nghĩa.
Luật bằng trắc: 1-8, 2-3, 4-5, 6-7. Sự đối ngẫu thường diễn ra ở các câu 3-4, 5-6
ngoài đối thanh “bằng”, “trắc”, còn có tới 24 loại đối thuận, nghịch, tương thành,
tương phản… mà người giáo viên dạy văn cần quan tâm khai thác trong dạy và học,
giúp học sinh hiểu đến cạn kiệt những tầng ý nghĩa trong thi tứ và thi ý của từng câu
thơ Đường theo đặc trưng thi pháp, thể loại.
Chẳng hạn khi khai thác, phân tích hai câu thơ cuối của bài “Tĩnh dạ tứ” của
Lí Bạch học sinh có thể hiểu và cảm đươc sự tuyệt hay của hai câu thơ. Hay về lời
và ý: về lời là ngôn ngữ trong sáng, giản đơn, dễ hiểu, từ ngữ đối nghịch trong (từ
cử-đê; vọng-tư; minh nguyệt-cố hương). Về ý diễn tả được tư thế và tâm trạng của
tác giả. Tư thế của Lý Bạch ở đây hoàn toàn trái ngược (khi ngẩng đầu nhìn trăng thì
phấn khởi vui vẻ, thoải mái - khi cúi đầu là buồn rầu tưởng nhớ đến quê hương).
3, Kết quả đạt đươc:
20
Sau khi vận dụng những kinh nghiệm này vào thực tế giảng dạy, tôi đã mạnh
dạn thực nghiệm đối với khối 7 (ở lớp 7A và 7C), khối 8 (lớp 8A và 8D), còn ở khối
6 và khội 9 tôi chưa có điều kiện áp dụng. Để biết được kết quả của việc vận dụng
“kinh nghiệm trong dạy-học các thể loại văn học nước ngoài”. Tôi đã tiến hành khảo
sát ở các tiết văn học của khối 7 (trong các tuần 9, 10, 11), khối 8 (trong các tuần 6,
7, 8, 9). Cách khảo sát được tiến hành như ở phần: Điều tra thưc trạng trước khi
nghiên cứu.
Kết quả khảo sát như sau:
Khối Lớp Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu
SL (%) SL (%) SL (%) SL (%)
7
7A 39 9 23 19 48 10 26,0 01 3,0
7C 41 7 17 21 51 11 27 02 5,0
8
8A 39 12 30,0 21 54,0 5 13 01 3,0
8D 38 5 14 17 45,0 13 34 03 7,0
Với kết quả khảo sát như trên, qua việc đối chiếu, so sánh kết quả ở hai khối
lớp 7 (7A và 7C); khối 8 (8A và 8D). Tôi nhận thấy rằng những biện pháp và hình
thức dạy-học các tác phẩm văn học nước ngoài đã góp phần phục vụ hữu ích và góp
phần nâng cao hiệu quả, chất lượng của các giờ dạy-học tác phẩm văn học nước
ngoài.
Phần lớn học sinh nắm chắc và nắm sâu kiến thức bài hoc, hiểu và cảm thụ
sâu sắc những giá trị đặc sắc về nghệ thuật, nội dung của các tác phẩm văn, thơ nước
ngoài.
Có kỹ năng tìm hiểu, khám phá, phân tích những tác phẩm văn chương nước
ngoài theo đặc trưng, thể loại.
21
IV, BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
Qua thời gian nghiên cứu cùng các đồng nghiệp của mình áp dụng đề tài này
vào giảng dạy phần văn học nước ngoài trong chương trình ngữ văn 7 và 8, tôi thấy
đây là những kinh nghiệm tốt để giúp người giáo viên dạy văn khi đứng trước những
tác phẩm văn học nước ngoài có thể tự tin và chủ động trong khai thác, phân tích và
tiếp cận các tác phẩm văn chương đó để ngày càng nâng cao chất lượng, hiệu quả
của các tiết dạy-học văn. Để có được kết quả cao khi thực hiện đề tài này, bản thân
tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
+ Với giáo viên:
- Giáo viên phải thực sự là người yêu nghề, yêu văn chương, có kiến thức sâu sắc
về lịch sử, văn hoá, phong tục tập quán, quan niệm thẩm mỹ của các dân tộc đã sản
sinh ra những tác phẩm mà mình sẽ trực tiếp giảng dạy.
- Có ý thức tìm đọc và hiểu đúng, hiểu trọn vẹn các tác phẩm văn chương nước
ngoài phải dạy.
- Nắm chắc hệ thống phương pháp dạy-học tác phẩm văn chương theo loại thể,
đặc biệt là các tác phẩm văn chương nước ngoài.
+ Với học sinh:
- Các em phải là những bạn đọc thưc sự say mê, yêu thích văn học đặc biệt là các
tác phẩm văn chương nước ngoài.
- Mỗi học sinh luôn có ý thức đọc trước tác phẩm, tự tìm hiểu hệ thống câu hỏi
qua phần đọc hiểu văn bản.
- Mỗi học sinh luôn có ý thức tự rèn luyện các kỹ năng phân tích, tìm hiểu các
yếu tố ngôn ngữ, nhân vật trong các tác phẩm văn chương nước ngoài.
Vận dụng tốt những kinh nghiệm trên, theo tôi kết quả các giờ học văn phần văn
học nước ngoài mới có kết quả cao. Đồng thời khắc phục được tình trạng lười học,
chán học và ngại học bộ môn do quan niệm phần văn học này là khó của học sinh.
V. PHẠM VI ÁP DỤNG ĐỀ TÀI.
22
- “Những kinh nghiệm trong dạy và học các loại thể văn học nước ngoài ở
THCS” trên thể áp dụng cho tất cả các thầy cô giáo được phân công giảng dạy môn
văn học ở THCS. Đặc biệt có thể vận dụng và sử dụng có hiệu quả trong công tác
bồi dưỡng học sinh giỏi và năng khiếu văn ở THCS.
- Có thể áp dụng ở tất cả các đối tượng học sinh: Giỏi, khá, trung bình, yếu ở tất
cả các khối lớp và ở tất cả các trường học khi tìm hiểu phần văn học nước ngoài.
VI. NHỮNG VẤN ĐỀ KIẾN NGHỊ.
Hiện nay chất lượng dạy và học văn đang thu hút sư chú ý quan tâm của dư
luận xã hội và các bậc phụ huynh học sinh. Trong chương trình văn học được giảng
dạy ở tất cả các trường THCS, phần văn học nước ngoài chiếm một khối lượng
không nhỏ bao gồm các tác giả tác phẩm của nhiều nền văn học khác nhau trên thế
giới. Việc giảng dạy phần văn học nước ngoài thường gặp khó khăn về nguồn tư
liệu, về cách tiếp nhận và việc khai thác tìm hiểu các giá trị thẩm mĩ của các tác
phẩm văn học. Vì vậy để nâng cao chất lượng các giờ dạy và học văn, đặc biệt là
phần văn học nước ngoài. Tôi mạnh dạn nêu một số kiến nghị sau:
+Tăng cường bồi dưỡng kiến thức lịch sử văn hoá, văn học, ngoại ngữ… cho giáo
viên dạy văn.
+ Khẩn trương bổ sung nguồn tư liệu mới có liên quan đến tác phẩm (cho đến nay
rất ít thầy cô được đọc tác phẩm trọn vẹn, nhưng đã dạy đoạn trích mấy năm nay).
+ Nên giới thiêu các tác phẩm trọn vẹn để minh hoạ bằng đoạn trích chứ không
nên trích giảng. Từ đó tiến tới phân tích minh hoạ tiêu biểu.
+ Với các giáo viên đứng lớp cần tạo cho việc chiếm lĩnh thơ, văn nước ngoài
bằng những biện pháp khác nhau với từng loại cụ thể của từng tác giả khác nhau
tránh sự áp đặt.
23
PHẦN III
KẾT LUẬN
Tác phẩm văn chương nước ngoài là tiếng nói tâm tình, là cuộc đời của những
con người sống rất xa ta về không gian và thời gian nhưng lai có cùng một nhịp đập
trái tim với chúng ta. Ta phải vận dụng cả những tình cảm và hiểu biết nhiều khi
tưởng như không dính dáng đến tác phẩm một cách linh hoạt, sáng tạo để đưa các
em đến những bến bờ xa lạ của thế giới văn học nhân loại, để nâng cao tầm nhìn,
tầm suy nghĩ của các em. Có như thế, việc dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài
mới có hiệu quả và góp phần nâng cao chất lượng bộ môn.
Để dạy – học tốt phần văn học này, giáo viên cần phải có một vốn hiểu biết
rộng rãi, vốn sống, vốn ngoại ngữ, sự am hiểu các nền văn minh, văn hoá thế giới và
đặc biệt là tấm lòng say mê văn chương để có thể khám phá những tinh hoa văn hoá
thế giới.
24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lí luận văn học: Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam tập 2, Nxb
Giáo dục, Hà Nội 1986.
2. Mấy vấn đề lí luận tiếp nhận văn học: Trần Đình Sử; tiếp nhận văn học: Trần
Văn Dân (chủ biên), Nxb Khoa học kĩ thuật Hà Nội1991.
3. Phương pháp dạy học văn Tập I, Phan Trọng Luận, Nxb Giáo dục Hà Nội
1993.
4. Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo loại thể) Nguyễn Viết Chữ,
Nxb Đại học sư phạm Hà Nội 2004.
5. Thơ văn nước ngoài trên trang sách PTTH. Tạ Đức Hiền, Nxb Hải Phòng
1996.
6. Phân tích – bình giảng tác phẩm văn học nước ngoài (THCS) Lê Nguyên Cẩn,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội 2001.
7. Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông. Tập I, II, Phan
Trọng Luân Nxb giáo dục Hà Nội 2000.
8. Sách giáo khoa ngữ văn 6, 7, 8, 9. Nhiều tác giả, Nxb Giáo dục 2002.
25
MỤC LỤC
PHẦN I:
ĐẶT VẤN ĐỀ
PHẦN II:
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI NGHIÊN CỨU.
1. Hình thức và nội dung khảo sát .
2. kết quả khảo sát.
II. PHƯƠNG PHÁP VÀ BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH.
III. NHỮNG CÔNG VIỆC THỨC TẾ ĐÃ LÀM VÀ KẾT QUẢ
ĐẠT ĐƯỢC.
1. Những nguyên tắc chung.
2. Những công việc thực tế đã làm.
3. Kết quả đạt được.
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
V. PHẠM VI ÁP DỤNG ĐỀ TÀI.
VI. NHỮNG VẤN ĐỀ KIẾN NGHỊ.
PHẦN III
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
6
8
8
8
8
9
10
10
12
22
24
24
25
26
27
26