Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

SKKN Để học tốt tiết luyện nói trong môn ngữ văn lớp 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.22 KB, 12 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm: Để học tốt tiết luyện nói trong môn ngữ văn lớp 6
Chương 1:Lí do chọn đề tài
a/ Cơ sở lý luận :
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là một trong những tư tưởng quan trọng
của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở trường phổ thông. Hiện nay các nước
trên thế giới rất coi trọng quan điểm này, lấy hoạt động giao giao tiếp là một trong
những căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng
lực nghe, nói, đọc, viết cho người học.
Nếu như nghe và đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận
thông tin, thì nói và viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt
thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường .
Luyện nói trong nhà trường là giúp học sinh có thói quen nói trong những
môi trường giao tiếp khác nhau. Nó được thực hiện một cách hệ thống, theo những
chủ đề nhất định , gắn với những vấn đề quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày,
đảm bảo những yêu cầu cơ bản về ngôn ngữ và phi ngôn ngữ ( lời, mạch lạc, liên
kết, các nghi thức lời nói, quy tắc hội thoại, cử chỉ, nét mặt, âm lượng, sức hấp
dẫn, ). Luyện nói tốt sẽ giúp người học có được một công cụ giao tiếp hiệu quả
trong cuộc sống xã hội.
b/ Cơ sở thực tiễn :
Ông bà ta từng dạy : “ Học ăn, học nói, học gói, học mở “. Không phải
ngẫu nhiên mà “ học nói” được xếp vào vị trí thứ hai của câu nói. Điều này cho
thấy noi cũng là một kỹ năng rất quan trọng trong giao tiếp hàng ngày. Trên thưcï
tế, việc dạy học môn Ngữ Văn hiện nay không phải khi nào cả bốn kỹ năng nghe,
nói, đọc, viết đều được chú trọng rèn luyện và phát triển đồng thời. Thông thường,
cả người biên soạn sách lẫn người dạy thường quá chú trọng vào việc dạy các tri
thức Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn hay đọc diễn cảm, đọc hiểu mà bỏ qua nghe
,nói,. Và có một thưc tế nữa là nhiều thế hệ học sinh khi ra đời nhiều khi không biết
lắng nghe, thấu hiểu, không biết nói ra những điều mình nghĩ, không truyền đạt
chính xác thông tin hoặc không nói đúng theo quy tắc giao tiếp, không biết cách
đọc hiểu chính xác một văn bản
2/ Mục đích đề tài :


Ở chương tình Ngữ Văn lớp 6 bố trí tất cả là bốn tiết luyện nói. Mặc dù số
giờ luyện nói là khá ít nhưng nếu giáo viên bỏ qua hoặc lơ là những tiết học này thì
chắc chắn những em học sinh đầu cấp này sẽ không phát huy được năng lực nói của
mình. Chính vì thế, với mục đích nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của những
tiết luyện nói đối với học sinh lớp 6, trong phạm vi hạn hẹp cuả đề tài nghiên cứu
này, tôi xin mạnh dạn chia sẻ những điều bản thân đã lĩnh hội được trong quá trình
giảng dạy những tiết luyện nói trong chương trình Ngữ Văn lớp 6 theo sách giáo
khoa mới đang hiện hành.
3/ Lịch sử đề tài :
Từ trước đến nay có rất nhiều công trình, tài liệu nghiên cứu việc giúp học
sinh học tốt các phân môncủa Ngữ Văn như học tốt Văn, Tiếng Việt, hay Tập làm
văn ở tất cả các khối lớp. Thế nhưng lại chưa có một tài liệu nào đề cập đến vấn đề
nâng cao kỹ năng nghe nói cho học sinh. Do đó, đây là đề tài khá mới mà bản thân
tôi muốn tìm hiể để tìm ra một giải pháp có thể giúp việc luyện nói của học sinh,
nhất là học sinh lớp 6 được hiệu quả hơn, đồng thời góp phần trang bị cho đối
tượng học sinh này những kỹ năng liên quan đền việc tạo lập bài văn miêu tả, kể
chuyện mà các em được học trong chương trình Ngữ Văn lớp 6.
4/ Phạm vi đề tài :
Đề tài này được thực hiện trong phạm vi tìm hiểu các tiết luyện nói của sách
giáo khoa Ngữ Văn 6, và áp dụng cho các em học sinh lớp 6/4, 6/5, 6/6 của trường
THCS Mỹ An- huyện Thủ Thừa đầu năm học 2005- 2006.
CHƯƠNG HAI
NỘI DUNG CÔNG VIỆC ĐÃ LÀM
1/ Thực trạng đề tài :
Sách giáo khoa Ngữ Văn 6 được áp dụng cho đến thời điểm này đã bước sang năm
thứ 4. Chương trình nới của sách đặc biệt chú trọng , nhấn mạnh : “ trọng tâm của
việc rèn luyện kỹ năng Ngữ Văn cho học sinh là làm cho học sinh có kỹ năng
nghe, nói, đọc, viết Tiếng Việt khá thành thạo theo các kiểu văn bản và có kỹ năng
sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu có năng lực cảm nhận và bình giá
văn học”. Nhưng trên thực tế thì thời gian 4 năm chưa đủ để giáo viên Ngữ Văn có

thể thực hiện trọng tâm đó một cách hoàn chỉnh, nhất là khi dạy những học sinh
vùng sâu, vùng xa, vùng mà học sinh ít có điều kiện phát triển kỹ năng giao tiếp
như học sinh ở vùng thành thị.
Ở ba lớp 6/4, 6/5 và 6/6 trường THCS Mỹ An, với tổng số học sinh là 120
nhưng đều nằm trong trường hợp đó. Phần lớn các em đều xuất thân và sinh sống ở
vùng nông thôn, có tâm lý e dè, ngại nói hoặc không tự tin khi nói trước đông
người. Các em lại ở nhiều trường tiểu học, cùng về học dưới ngôi trường THCS,
chính vì thế việc bộc lộ của các em tưởng chừng đơn giản nhưng thật ra là một điều
tương đối khó, mặc dù trong cuộc sống các em ăn nói khá lưu loát. Một lớp học 34
em thì chỉ có khoảng từ 5 – 6 học sinh là có thể tương đối tực tin bộc lộ với giáo
viên và học sinh khác. Và 5-6 em đó lại là những cán bộ lớp với học lực khá giỏi.
Chắc chắn với điều kiện như trên sẽ gây rất nhiều khó khăn cho giáo viên khi tổ
chức cho học sinh học những tiết luyện nói.
2/ Nội dung cần giải quyết :
a/ Cơ sở thực tế :
Trong sinh hoạt học đường , chúng ta không có tham vọng đào tạo những
nhà hùng biện, nhưng ít ra cũng luyện cho các em học sinh diễn đạt được ý mình
một cách gãy gọn và trôi chảy, có thể truyền đạt một cách hoàn hảo ý tưởng của
mình là chì khoá để thành công trong cuộc sống. Vấn đề quan trọng cần phải giải
quyết khi hướng dẫn các giờ luyện nói cho các em học sinh lớp 6 là tiếp tục rèn
luyện cho các em kỹ năng nói trước tập thể về kiểu bài văn vừa được học và thể
hiện suy nghĩ cá nhân về những vấn đề gần gũi, thiết thực với cuộc sống hàng
ngày. Cụ thể giúp các em :
- Biết cách phát biểu miệng, quan điểm, ý kiến cá nhân.
- Biết trình bày trước tập thể ý kiến cá nhân theo đề cương đã chuẩn bị trước
một vấn đề nào đó. Ví dụ như tạo cơ hội cho học sinh trình bày trước tập thể bài
văn kể chuyện đời thường, về cách vận dụng quan sát, tưởng tượng, so sánh và
nhận xét trong văn miêu tả và về bài văn miêu tả có chủ đề gắn với những sinh hoạt
gần gũi. Các nội dung luyện nói này đều tập trung vào trọng tâm chương trình Tập
làm văn là hai kiểu bài kể chuyện và miêu tả, nhằm tăng cường rèn luyện cho các

em các kỹ năng liên quan đến việc tạo lập bài văn miêu tả, kể chuyện.
b/ Cơ sở lý luận :
Trọng tâm của việc rèn luyện kỹ năng nói trong chương trình Ngữ Văn
THCS là giúp cho học sinh có được kỹ năng nghe, nói, đọc Tiếng Việt tương đối
thành thạo. Đây cũng là sự cụ thể hoá tư tưởng dạy học theo lý thuyết vào thực tiễn
dạy học môn Ngữ Văn ở trường phổ thông. Thực hiện tốt trọng tâm đưa ra cũng
chính là thay đổi cách dạy theo xu hướng quốc tế, góp phần làm cho chất lượng
giáo dục ngày càng được nâng cao.
3/ Biện pháp giải quyết :
Để hoàn thành những định hướng đã đặt ra, dựa trên thực tế đã đã lamø, tôi
xin trình bày những biện pháp chính đã áp dụng như sau :
a/ Chú trọng việc luyện nói của học sinh ngay từ đầu năm học, trong tất cả
các giờ Ngữ Văn, kết hợp với rèn luyện các kỹ năng khác.
Giáo viên Ngữ Văn khó có thể phát triển kỹ năng nói cho học sinh nếu chỉ
trông chờ vào số tiết luyện nói trong chương trình sách giáo khoa. Mặc dù sách
giáo khoa đã đổi mới theo khuynh hướng quan tâm tới việc rèn luyên kỹ năng nói
cho học sinh, phân phối mỗi khối lớp đề có tiết luyện nói ở cả hai học kỳ. Tuy
nhiên với số lượng 4 tiết là rất khiêm tốn. Cụ thể ở lớp 6, các tiết luyện nói được
phân bố :
- Luyện nói kể chuyện ( bài 7, bài 10 ).
- Luyện nói về quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn bản
miêu tả ( bài 20 ).
- Luyện nói về văn miêu tả ( bài 23 ).
Nếu không có sự chuẩn bị ngay từ đầu năm học thì chắc chắn giáo viên sẽ
gặp không ít trở ngại khi tổ chưa các giờ học. Vậy nên chú trọng việc luyện nói cho
học sinh mọi lúc, mọi nơi có thể thực hiện được vì việc này không quá khó nhất là
khi giáo viên Ngữ Văn thực sự muốn đạt hiệu quả trong những giờ luyện nói. Chú
trọng đến việc tập nói cho học sinh có thể thực hiện theo những cách như :
 Tạo cho các em có nhu cầu muốn nói, muốn được bộc lộ.
Khi tiếp xúc với các em lần đầu tiên, giáo viên Ngữ Văn cần thiết lập tốt mối

quan hệ, giúp học sinh thấy được sự gần gũi, thân tình nơi giáo viên Ngữ Văn, điều
này là cơ sở giúp học sinh dễ dàng bộc lộ với giáo viên hơn trong những giờ học
sau. Giáo viên có thể làm quen với các em bằng cách giới thiệu về mình, cũng là cơ
sở để các em theo đó mà tự giới thiệu bản thân về những điều đơn giản như họ tên,
tuổi, sở thích Điều này không kém phần quan trọng, vì nếu làm được như vay thì
giáo viên Ngữ Văn đã phần nào giúp học sinh bắt đầu tập làm quen với việc phát
biểu miệng.
Phát huy kỹ năng nói trong các giờ học, kết hợp với việc rèn luyện các kỹ
năng khác :
Trong các tiết học, giáo viên nên chú trọng kỹ năng nói cho học sinh thông
qua những lần phát biểu đóng góp xây dựng bài. Đặt những câu hỏi kích thích óc tư
duy và sự phản xạ. Những câu hỏi có ích lợi nhiều nhất là những câu hỏi mà học
sinh không thể trả lời một cách ngắn gọn là “ có” hay “ không” được, giáo viên nên
dùng 6 loại vấn ngữ : AI ? TẠI SAO ? NHƯ THẾ NÀO ? Ở ĐÂU ? LÚC NÀO?
CÁI GÌ ?. Thực tế , nếu giáo viên đặt những câu hỏi quá khó thì học sinh khó trình
bày ý kiến của mình một cách trọn vẹn được. Câu hỏi nên đi từ đơn giản đến phức
tạp để tập cho các em biết suy nghĩ trước khi nói, nói đúng vấn đề cần trao đổi, khi
nói cần bình tĩnh, tự tin Giáo viên cần khuyến khích, động viên học sinh phát
biểu suy nghĩ trong khi phát biểu và cả trong thảo luận, ngay cả khi ý kiến đó là sai
hoặc chưa hoàn toàn chính xác. Bên cạnh đánh giá việc trình bày của học sinh, giáo
viên cũng nên lưu ý cho học sinh những lỗi cần tránh trong nói tiếng Việt về chính
âm và hướng dẫn các em nói diễn cảm, ngắn gọn, súc tích, hấp dẫn người nghe.
Theo kinh nghiệm của các GVNV, hiệu quả của việc luyện nói cho học sinh
cao hơn hẳn khi giáo viên quan tâm và tạo điều kiện cho các em được tập nói trong
các giờ học như trên.
Phát huy kỹ năng nói trong sinh hoạt hàng ngày:
Ngoài việc chú trọng cho học sinh tập làm quen với việc trình bày miệng
trong những giờ học, theo ý kiến của bản thân tôi, giáo viên cũng nên tiếp xúc với
học sinh trong những lúc ngoài giờ lên lớp. Đó là những trao đổi để tìm hiểu tâm
tư, nguyện vọng của các em, ngoài ra còn nhằm mục đích khác là tạo cho các em

thaí độ tự tin, mạnh dạn. Trên thực tế, khi giáo viên làm được việc đó thì các em
vốn rất nhút nhát và không dám trao đổi với thầy cô trong cuộc sống đã có sự thay
đổi, các em dần dần bớt e ngại, rụt rè và trở nên dạn dĩ hơn, tiếp xúc với giáo viên
một cách tự nhiên hơn. Thiết nghĩ, mục đích của các tiết luyện nói nhằm giúp cho
các em có thể tự tin trình bày ý kiến của mình, và chúng ta tập cho học sinh sự tự
tin để các em khỏi ngỡ ngàng khi bắt đầu vào tìm hiểu các giờ luyện nói.
b/ Cho học sinh ý thức được vai trò của các giờ luyện nói:
Tiết luyện nói đầu tiên ở bài 7 mang tên luyện nói kể chuyện và tiết thứ 2
cũng cùng chủ đề này nằm ở bài 10. Giáo viên Ngữ văn nên cho học sinh ý thức
được vai trò của những giờ luyện nói ngay trong tiết đầu tiên, vì các học sinh còn
rất lạ lẫm với giờ học này nên giáo viên làm cho các em thấy được bên cạnh việc
học những tri thức văn, tiết Việt, tập làm văn… Nhằm nâng cao kỹ năng đọc, viết
tiếng Việt được thành thạo, thì việc nói cũng không kém phần quan trọng, là công
cụ giao tiếp và là chìa khóa cho sự thành công của cuộc sống. Cũng nên làm cho
học sinh ý thức được đây là những giờ học quan trọng bằng cách đưa ra những yêu
cầu cụ thể mà các em cần phải đạt được như phải nói được theo một đề tài soạn
sẵn, có sự đánh giá của giáo viên… Từ việc giáo dục đó khiến các em học sinh có
động lực để phấn đấu hơn trong những lần luyện nói, tạo điều kiện cho giáo viên tổ
chức giờ luyện nói đạt hiệu quả.
c/ Hình thành những chuẩn mực nói cần phải đạt đến:
Công việc này cũng được thực hiện ngay trong tiết “luyện nói kể chuyện” ở
bài 7 và được nhắc lại nhiều lần chẳng những trong giờ luyện nói sau mà cũng cần
tích hợp ngay khi có điều kiện. Mục đích của việc làm này là để các em có thể thấm
nhuần, thuộc lòng những tiêu chuẩn và thực hiện theo. Những chuẩn mực cần cụ
thể, rõ ràng để các em dễ tiếp thu, được ghi vào vở:
- Phải có sự chuẩn bị thật kỹ trước khi nói.
Thông thường, giáo viên ngữ văn yêu cầu học sinh phải chuẩn bị dàn bài,
dàn bài nên ngắn gọn, nêu được các ý chính và học sinh sẽ dựa vào dàn bài để nói.
Tuy nhiên, theo ý kiến cá nhân tôi, mặc dù việc lập dàn bài sẽ làm cho học sinh
phải nói theo những ý chính chứ không thể nhìn theo đó mà đọc được, nhưng các

em học sinh lớp 6 thì khó có thể nói tốt nếu thực hiện theo cách đó. Vì với trình độ
của các em, các em sẽ khó diễn đạt thành nhiều ý khác nhau từ một ý chính, có
chăng thì các em sẽ nói theo ý chính đó chứ không phát triển ý thêm được. Do đó,
thiết nghĩ nên chăng phương pháp lập dàn bài ta nên áp dụng cho đối tượng học
sinh lớn hơn như lớp 8, lớp 9, còn đối với các em lớp 6 và lớp 7, ta cho phép các
em được chuẩn bị bài nói theo khả năng, sau đó các em sẽ tập nói thành thạo và khi
lên lớp các em sẽ nói theo sự chuẩn bị. Chắc chắn giáo viên sẽ nhận được những
bài nói tương đối hơn thay vì những lời ấp úng, ngập ngừng vì không tìm được ý.
Trong những quyển sách giới thiệu kỹ năng hoạt động của thanh thiếu niên, nhà
biên soạn Tôân Thất Sam và Nguyễn Thị Khiết cũng đồng ý với đề xuất này trong
quyển “Học sinh với kỹ năng thuyết trình và diễn đạt ý tưởng” (NXB Trẻ). Còn nếu
có những học sinh kỹ năng tốt hơn, ta có thể cho các em chuẩn bị bằng cách lập
dàn bài và cũng động viên các em còn lại chuẩn bị theo hướng này thì sẽ rất tốt.
Vấn đề còn phụ thuộc vào đặc thù của mỗi lớp, giáo viên cũng nên linh động để
học sinh có thể tự tin hơn khi bắt đầu bài nói.
Trở lại yêu cầu thứ nhất, giáo viên phải giúp học sinh chuẩn bị tốt nội dung
bài nói, bao gồm các vấn đề:
+ Nói cái gì? (xác định đề tài).
+ Nói với ai? (xác định giao tiếp).
+ Nói trong hoàn cảnh nào? (xác định hoàn cảnh giao tiếp).
+ Nói như thế nào? (cách thức giao tiếp để thuyết phục người nghe).
- Có lời chào khi bắt đầu nói, giới thiệu đề tài sắp nói.
- Tránh đọc lại hoặc thuộc lòng để đọc lại bài văn chi tiết đã chuẩn bị.
- Giọng nói rõ ràng, cao độ vừa phải, đúng chuẩn ngữ âm, truyền cảm và
thuyết phục người nghe (biết lên trầm xuống bổng hoặc thể hiện cảm xúc chân
thành, tự nhiên, không gò bó, áp đặt).
- Tác phong tự nhiên tự chủ, phản xạ ngôn ngữ nhanh nhạy, mắt nhìn thẳng
mọi người.
- Không nói ra ngoài những gì mà đề bài yêu cầu.
- Có lời chào khi kết thúc bài nói.

d/ Tạo cho học sinh hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi trong giờ luyện nói:
- Trước mỗi tiết luyện nói, giáo viên cần cho học sinh chuẩn bị đề tài trước
khoảng nửa tháng hoặc một tuần. Có thể giao cho các em cùng một đề tài hay chia
lớp từ 4 đến 6 nhóm, mỗi nhóm một đề tài (nếu tiết học đó có đề tài phong phú).
- Vào giờ học, giáo viên cần cho thời gian để các em có thể chuẩn bị tư thế
trước khi lên nói. Có thể là cá nhân tự chuẩn bị, có thể là cho nhóm thảo luận để
chọn đại diện lên nói. Giáo viên Ngữ văn nên hướng học sinh có thái độ cùng nhau
hợp tác. Thời gian để thảo luận là 5 phút.
- Không khí của giờ luyện nói nên tạo được sự hào hứng cho lớp học, cho
từng em học sinh, làm cho các em phấn khởi, mong muốn được lên trình bày bài
nói của mình. Để kích thích học sinh, giáo viên nên đánh giá khen ngợi, khuyến
khích bằng cách cho điểm, tặng những tràng pháo tay động viên sau mỗi bài nói
tốt.
Trọng tâm của những giờ học này là luyện nói, giáo viên nên danh nhiều thời
gian cho học sinh lên nói (30 phút), và số lượng học sinh lên trình bày phải từ 8 đến
10 học sinh, số còn lại sẽ được nói ở những tiết sau.
e/ Tổ chức những buổi thuyết trình ngoài giờ theo chủ đề cáctiết luyện nói
đã học:
Nếu có điều kiện, giáo viên Ngữ văn nên tổ chức các buổi sinh hoạt ngoài
giờ cho học sinh (khoảng 2 buổi trên năm). Mục đích của công việc nầy là giúp học
sinh có thêm thời gian để cọ xát với việc tập nói.
- Nội dung buổi sinh hoạt có thể lấy những đề tài từ gần gũi như: “Hình ảnh
người thầy trong ca dao, tục ngữ” nhân ngày 20/11, “Trao đổi kinh nghiệm học
tập” hay đến những đề tài gắn với chủ đề của giờ luyện nóiđã học trên lớp như:
+ Kể về bản thân em (gia đình em, người em yêu quý) trong 2 tiết “Luyện
nói - kể chuyện”.
+ Tả lại cánh đồng quê em đang mùa lúa chín trong tiết “Luyện nói về quan
sát, tưởng tượng, so sánhvà nhận xét trong văn miêu tả” và tiết “Luyện nói văn
miêu tả”.
- Hình thức: giống như buổi thuyết trình.

+ Giáo viên chia từng nhóm chuẩn bị đề tài để trình bày.
+ Khi kết thúc nên có sự tổng kết, nhận xét, động viên, khen ngợi.
Ý nghĩa của việc làm này sẽ tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm, tạo tiền đề cho
các em vững vàng hơn trong khi học tiết luyện nói trong những năm tới.
4. Kết quả, chuyển biến của đối tượng:
Sau khi áp dụng những phương pháp như đã nêu, cho đến thời điểm nầy thì
học sinh đã có sự chuyển biết tương đối khá tốt. Cụ thể:
- Các em không còn rụt rè,e ngại, thiếu tự tin khi đứng trước đám đông để
luyện nói mà theo vào đó là sự dạn dĩ, tự tin, thái độ cởi mở hơn.
- Không khí lớp học có sự hào hứng, sôi nổi, các em thích được học những
tiết luyện nói hơn.
- Bìa nói do có sự chuẩn bị chu đáo nên khi trình bày các em không có sự
ngập ngừng, ấp úng, nội dung cũng trọn vẹn, đầy đủ hơn. Do đó, đa số bài nói đều
hoàn chỉnh hơn lúc trước.
- Kỹ năng nói của các em đã có sự tiến bộ: các em biết chào khi mở đầu và
khi kết thúc, biết giới thiệu đề tài, cách nói cũng trôi chảy, gãy gọn, đúng chính âm,
có kết hợp những yếu tố phi ngôn ngữ (cử chỉ, nét mặt, thái độ…).
- Đáng mừng hơn, số lượng học sinh có thể tự tin lên lớp trình bày đã không
còn dừng lại ở con số 5/34 nữa mà đã tăng lên rõ rệt.
+ Lớp 6
4
: 30/34 (chiếm 88,2%)
+ Lớp 6
5
: 25/34 (chiếm 73,5%)
+ Lớp 6
6
: 45/52 (chiếm 86,5%)
Số còn lại cũng đã tương đối dạn dĩ hơn khi trình bày nhưng bài nói của các
em chưa hoàn chỉnh do khả năng chuẩn bị còn hạn chế.

CHƯƠNG III
KẾT LUẬN
1. Tóm lược giải pháp:
Muốn giờ luyện nói đạt hiệu quả cần chú ý những biện pháp như:
a) Chú trọng việc luyệnnói của học sinh ngay từ đầu năm học, trong tất cả
các giờ Ngữ vănt rên lớp, kết hợp với rèn luyệncác kỹ năng khác như nghe, đọc,
viết.
b) Cho học sinh ý thức vai trò của giờ luyện nói là không kém phần quan
trọng vì là chìa khóa để thành công trong cuộc sống.
c) Hình thành những chuẩn mực nói mà học sinh phải đạt tới để các em lấy
đó làm cơ sở để phấn đấu. Giáo viên nên tích hợp các chuẩn mực này trong những
giờ học khi có điều kiện và phải được nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
d) Tạo cho học sinh hoàncảnh giao tiếp thuận lợi khi nói:
- Thời gian chuẩn bị ở nhà và trên lớp.
- Thái độ của những người cùng tham gia.
- Sự động viên, khuyến khích của giáo viên.
- Dành nhiều thời gian để học sinh được nói trên lớp.
e) Tổ chức những buổi thuyết trình ngoài giờ theo chủ đề các tiết luyện nói.
Có thể lấy đề tài gần gũi hay những đề tài gắn với chủ đề các tiết luyện nói các em
được học.
2. Phạm vi và đối tượng áp dụng:
Đề tài này có thể thực hiện trong phạm vi lớp 6 theo SGK cải cách hiện
hành. Có thể áp dụng cho tất cả đối tượng học sinh lớp 6, nhất là đối với học sinh ở
vùng ít có điều kiện phát triển giao tiếp.
3. Kiến nghị:
Dạy học những tiết luyện nói cho học sinh lớp 6 bên cạnh thuận lợi như: Các
em đã có vốn từ ngữ phong phú thì giáo viên vẫn gặp không ít khó khăn như:
- Số lượng bài luyện nói quá ít.
- Sách giáo viên chưa có định hướng rõ ràng trong việc giúp người dạy dễ
dàng khi tổ chức các tiết luyện nói.

- Thời gian 45 phút cho 1 giờ luyện nói không đủ để giáo viên có thể cho số
lượng học sinh lên nói được nhiều, vì lớp học có sỉ số đông, không phù hợp khi tổ
chức luyện nói.
- Thiết kế lớp học chưa phù hợp cho những giờ luyện nói.
Trên đây là những khó khăn mà giáo viên Ngữ văn thường gặp, nếu được
quan tâm giải quyết kịp thời sẽ góp phần nâng cao hiệu quả cho những giờ luyện
nói.
Với những điều bản thân đã lĩnh hội được, hy vọng đóng góp phần nào để có
thể nâng cao chất lượng và hiệu quả khi giảng dạy theo tinh thần đổi mới là chú
trọng hoạt động giao tiếp, góp phần nâng cao kỹ năng nói cho học sinh.

×