Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN PHƯƠNG PHÁP DẠY TẠO LẬP VĂN BẢN CHO HỌC SINH THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.72 KB, 18 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
PHƯƠNG PHÁP DẠY TẠO LẬP VĂN BẢN
CHO HỌC SINH T.H.C.S
I- ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ ngàn xưa ông cha ta đã có những câu thành ngữ, tục ngữ rất hay như:
“Trước khi nói uốn lưỡi bảy lần”
“Nói ra đầu ra đũa”
“Nói có sách, mách có chứng”
Để khuyên ta trong giao tiếp nên cân nhắc, nói rõ ràng, có căn cứ. Đó là một
cách ngẫu nhiên ông cha ta đã dạy ta tạo lập văn bản bằng ngôn ngữ nói qua
chuyện trò trong sinh hoạt sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Còn ngày nay khi
mà nền kinh tế tri thức ngày càng phát triển thì không chỉ dừng lại ở ngôn
ngữ nói như ông cha ta đã dạy mà ta còn phải biết dùng ngôn ngữ văn bản để
trình bày một câu chuyện, một vấn đề nào đó theo suy nghĩ, quan điểm, lập
trường của mình đểà thuyết phục người đọc, người nghe đồng tình với mình,
dần dần dẫn đến sự thành đạt trên từng chặng đường của cuộc đời một con
người. Là một giáo viên Ngữ văn, ta phải làm thế nào để học sinh làm được
điều đó trong chặng đường học bậc THCS?
Tôi xin mạn phép lần lượt trình bày cách thức làm được điều đó qua
“Phương pháp dạy tạo lập văn bản”cho học sinh THCS mà tôi đã thực hiện
trong hai năm nay.Khiêm nhường mà nói thì hiệu quả cũng khả quan .

Trang 1
Sáng kiến kinh nghiệm
II-GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

A/ VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT, YÊU CẦU CỦA PHÂN MÔN TẬP
LÀM VĂN
1/ Vị trí, tính chất


Tập làm văn một phân môn của môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt quan trọng
trong chương trình Ngữ văn vì :
a/ Môn Tập làm văn là môn học mang tính chất thực hành tổng hợp của các
giờ Văn-Tiếng. Nó được coi là bộ phận thực hành quan trọng nhất vì đó là bộ
phận thực hành có tính chất tổng hợp và sáng tạo.
Khi làm một bài Tập làm văn, HS phải vận dụng những kiến thức cơ
bản về văn học, về ngôn ngữ và hiểu biết về đời sống.
Người HS phải huy động năng lực suy nghĩ, tìm tòi để sắp xếp, chọn
lọc các kiến thức và giải quyết một cách sáng tạo một vấn đề cụ thể.
Người HS phải biết vận dụng kĩ năng như dàn ý, lập luận, dùng từ,
đặt câu để diễn đạt nội dung đó dưới hình thức trong sáng, sinh động và hấp
dẫn .
Những kiến thức về Văn-Tiếng, về những kĩ năng viết đều được
giảng dạy trên lớp. Cho nên kết quả môn Tập làm văn của HS thể hiện khá
đầy đủ trình độ Ngữ văn của HS và là thước đo chính xác kết quả dạy Ngữ văn
của GV.

b/ Thông qua môn Tập làm văn, GV có thể tiến hành giáo dục HS toàn
diện.
Trang 2
Sáng kiến kinh nghiệm
Tác dụng chủ yếu của Tập làm văn là thông qua quá trình tự
quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp để có nhận thức đúng, lập luận rõ ràng
chính xác, có khả năng tự thuyết phục mình và thuyết phục người khác, bên
cạnh đo ùcòn có sự khen chê trực tiếp của GV quyết định.
Bài tập làm văn của HS phản ánh khá rõ nhận thức, tình cảm của
các em vềâ các vấn đề văn học và đời sống. Tâp làm văn còn giáo dục cho HS
tác phong và thái độ lao động cần cù, tư duy sáng tạo, sự say mê, tính thận
trọng biết xây dựng kế hoạch và cố gắng thực hiện được kế hoạch đó sao cho
chính xác và trung thực.

Mỗi bài tập làm văn đối với HS là một tác phảm nhỏ. Qúa trình xây
dựng tác phảm nhỏ là quá trình học sinh sáng tạo cái đẹp .
Bên cạnh việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, thẩm mĩ như đã nêu . Tập
làm văn còn có khả năng phát triển tư duy cho học sinh : Mỗi lần làm bài tập
làm văn học sinh phải huy động năng lực quan sát, so sánh, phân tích, tổng
hợp…Và qua nhiều bài tập làm văn, các thao tác tư duy cơ bản đó dần dần sẽ
được hình thành.
2/ Yêu cầu:
Yêu cầu chủ yếu là luyện tập cho HS nắm được và viết được các bài
văn theo các thể loại. Ngoài ra chương trình còn coi trọng việc tập luyện cho
HS biết sử dụng một số loại văn - công cụ cần thiết trong đời sống hàng
ngày.
Việc rèn luyện kĩ năng được coi là trọng tâm của chương trình tập
làm văn ở cấp II, chú trọng cân đối cả hai khả năng nói và viết, lập ý và diễn
đạt, cân đối bài tập viết, bài tập nói ngắn trong một tiết và tập viết hoàn chỉnh
một văn bản trong hai tiết. Việc rèn luyện kĩ năng phải đạt được kết quả vững
chắc, đồng thời phát huy được khả năng sáng tạo của từng cá nhân, tránh lối
dạy rập khuôn, công thức máy móc nhất nhất theo SGK.
Trang 3
Sáng kiến kinh nghiệm
3/ Quan hệ giữa Tập làm văn với các phân môn Văn học và
Tiếng Việt .
Làm văn là vận dụng kết quả tổng hợp của việc học tập các môn
Văn-Tiếng để sáng tạo ra văn bản. Những bài văn được học trong môn Ngữ
văn cung cấp cho HS vốn sống một cách gián tiếp, nâng cao năng lực cảm thụ
cái đẹp trong cuộc sống cho các em, đồng thời tạo cơ sở cho các em tập xác
định chủ đề của một bài văn – phát hiện ra cách sắp xếp ý phục vụ cho từng
loại văn khác nhau. Các giờ học Văn học còn giúp cho HS biết cách diễn đạt
khi làm văn.
- Môn Tiếng Việt cũng thông qua khâu thực hành của bộ môn mà

chuẩn bị cho HS các cơ sở để diễn đạt đúng và hay trong khi làm văn.
B/ PHƯƠNG PHÁP DẠY H.S. TẠO LẬP VĂN BẢN
1/ Các yêu cầu cụ thể về phương pháp:
Ở phân môn Tập làm văn cái đích cuối cùng cần đạt được của một
GV Ngữ văn là phải dạy HS tạo lập được loại văn bản theo yêu cầu của từng
khối lớp. Để một chừng mực nào đó, các đối tượng HS trong lớp có thể cùng
đạt được cái đích đó cao nhất, Bộ Gíao dục-Đào tạo sau nhiều lần sửa đổi
chỉnh lý đã tạo điều kiện cho HS không những đạt được điều đó mà còn giúp
HS bộc lộ và phát huy được năng khiếu của mình. Sau khi học lí thuyết cách
làm một kiểu văn bản nào đó thì khâu ra đề cũng rất quan trọng. Nắm được
điều đó, Bộ đã gợi ý ra đề theo hai dạng: dạng đề đóng và dạng đề mở để HS
lựa chọn, qua đó thể hiện năng lực học văn của mình, đặc biệt là năng khiếu.
Sau 5 năm giảng dạy theo phương pháp mới, đúc rút kinh nghiệm từ giảng
dạy, từ nghiên cứu mày mò, tôi tạm phân ra 2 cách dạy HS tạo lập văn bản
như sau:
a/ Phương pháp chung dạy học sinh tạo lập văn bản cho
các dạng đề đóng và mở
Trang 4
Sáng kiến kinh nghiệm
*DẠY LÍ THUYẾT:
a1/ Khi dạy lí thuyết về các kiểu văn bản theo tôi chỉ nên trình bày
vừa đủ để HS nắm được các thao tác thực hành. Việc tái hiện lại kiến thức
ấy(tức khả năng nhớ có thể đọc thuộc lòng lại lí thuyết) tôi nghĩ không quan
trọng bằng khả năng tái nhận và thực hành.
a2/ Bố cục các bài học trong Sách giáo khoa THCS là từ thấp đến
cao, theo hướng từ khái quát đến cụ thể, từ “tĩnh”đến “động”. GV cần nắm
vững dụng ý đó để khi dạy những bài chung thì chưa vội nói đến những kiến
thức thuộc các lĩnh vực cụ thể , bộ phận, khi dạy các bài có tính chất “tĩnh”
thì cũng phải lưu ý rằng sẽ có những bài nói về khả năng “động”.
V.D: Dạy văn tự sự lớp 6 thì chưa cần, chưa được nói gì nhiều

đến các yếu tố nghị luận sẽ học ở lớp 9.
a3/ Nội dung và hình thức của văn bản gắn bó chặt chẽ với nhau,
qui định lẫn nhau. Điều ấy được cảm nhận khác nhau giữa người tạo và người
tiếp nhận văn bản. Đối với người tạo văn bản thì nội dung tìm đến một hình
thức phù hợp nhất để biểu đạt. Ngược lại người tiếp nhận văn bản lại phải từ
hình thức cụ thể của văn bản mà tìm đến nội dung được biểu đạt.Vì vậy khi
dạy văn bản phải xuất phát từ nội dung rồi yêu cầu HS biểu đạt. Có nhiều yêu
cầu khác nhau trong việc tạo văn bản, từ trong nhà trường đến thực tế đời
sống, từ thấp đến cao đối với HS như từ trả lời câu hỏi, kiểm tra miệng , đến
viết 15 phút, rồi làm bài tập làm văn từ một đến hai tiết; hoặc viết báo tường,
viết nhật kí, làm kiểm điểm, viết biên bản, làm đơn, làm báo cáo, làm thơ,
viết thư…
Trong khâu dạy lí thuyết tạo văn bản, GV nên dồn sức vào việc
hướng dẫn tỉ mỉ cho HS ở hai khâu: Định hướng cho văn bản và lập đề
cương.Trong hai khâu ấy, yêu cầu quan trọng nhất cần chú ý là phải luôn
bám sát đề.
Trang 5
Sáng kiến kinh nghiệm
Tiêu chuẩn đánh giá đề cương và một văn bản hoàn chỉnh thực ra
là không có sự phân biệt giữa đúng và không đúng, giữa hay và không
hay.Tiêu chuẩn đúng tức là sát đề, giải quyết đúng, đủ các yêu cầu của đề.Đó
vẫn là tiêu chuẩn chung khi GV đánh giá bài làm của HS. Đối với bậc học
THCS tiêu chuẩn hay và không hay chỉ là tiêu chuẩn nâng cao. Nếu quá chú
ý đến tiêu chuẩn hay thì sẽ thất vọng vì rất ít học sinh THCS có thể viết hay
được một văn bản. Tuy nhiên tiêu chuẩn đánh giá hay và không hay cũng vẫn
có tác dụng khuyến khích HS, cho nên GV cần lạc quan vận dụng linh hoạt
tạo đà cho HS cố gắng, cho HS thể hiện.
*DẠY THỰC HÀNH
Sau khi học lí thuyết về văn bản, HS sẽ thực hành tạo lập văn
bản.Ngay từ lớp 1, mỗi bài tập viết một câu hoàn chỉnh, theo tôi đã là một bài

thực hành tạo lập văn bản ở mức thấp nhất rồi.So với lớp dưới, yêu cầu tạo
văn bản ở lớp 9 khác ở chỗ HS phải hoàn toàn làm chủ được việc hình thành
cấu trúc một văn bản, có thể rút ngắn, kéo dài văn bản, sắp xếp lại bố cục chi
tiết, sắp xếp lại (tách, nhập, đổi trật tự) các đoạn văn để thực hiện một dụng ý
thay đổi về nội dung(về trọng tâm, về số lượng đề tài, về hướng trình bày-
diễn dịch hay qui nạp).
Tôi phân khâu thực hành ấy làm hai loại:
 Thực hành tái nhận văn bản
-Các bài tập tái nhận dùng để củng cố lí thuyết đã học. Ở các bài tập
loại này, GV nên chuẩn bịù một văn bản hay đoạn văn cho trước hoặc yêu
cầu HS tự tìm lấy để phân tích. Khi yêu cầu HS tự tìm lấy thì GV yêu cầu HS
tái nhận cả hai bước: bước tổng quát (nhận ra đúng loại văn bản) và bước
phân tích (nhận biết những đặc trưng cấu trúc của văn bản).Và nên cho HS
làm trước loại bài tập này ở nhà.Trong quá trình luyện tập này, HS sẽ có thời
gian cảm nhận được khái quát những đặc trưng tổng hợp của từng loại hình
văn bản. Hơn nữa qui trình ấy trực tiếp giúp cho thao tác tạo văn bản của HS
thêm thuần thục. HS sẽ hiểu văn bản được tạo ra từ những câu, những đoạn
Trang 6
Sáng kiến kinh nghiệm
văn cụ thể, từ đó giúp HS có thể dự kiến cho cấu trúc toàn văn bản trước khi
bắt tay vào viết.
-Đối với các bài tập quá dài, khi chưa có máy chiếu GV phải tận dụng
SGK làm phương tiện trực quan. Đối với một bài tập không dài lắm, GV nên
trình bày hướng dẫn trên bảng phụ có sử dụng phấn (mực) màu sẽ có tác dụng
trực quan rất lớn.

Thực hành tạo lập văn bản
Có hai mức độ rèn kĩ năng tạo văn bản: sửa chữa một văn bản
bán thành phẩm thành một văn bản hoàn chỉnh và viết một văn bản hoàn
chỉnh.

-Bài tập sửa chữa một văn bản bán thành phẩm thành một văn bản
hoàn chỉnh có thể là: viết thêm đầu đề, thay từ sửa câu, tách nhập đoạn, liên
kết đoạn, chuyển vị trí câu…Và sẽ dễ dàng hơn khi cho HS khôi phục lại
nguyên trạng một văn bản đãõ bị phá vỡ vì cắt xén hoặc xáo trộn các câu, các
đoạn trong đó. Theo tôi nên cho HS làm nhiều bài tập khôi phục như thế, thao
tác tái tạo sẽ có định hướng và đáp án rõ ràng, khả thi nhất, thuyết phục nhất.
Đây là một văn bản tôi đã cố ý xáo trộn các đoạn (trong đó mỗi đoạn
được kí hiệu bằng thứ tự các chữ số La Mã )và các câu trong đoạn (từng câu
được kí hiệu bằng thứ tự các chữ số tự nhiên) để HS khôi phục lại , từng bước
rèn HS có ý thức, có thói quen sắp xếp ý hợp lí, diễn đạt ý sáng rõ, mạch lạc .
Văn bản xáo trộn đó, tôi viết vào giấy rô-ki dán lên bảng. Văn bản đó
như sau:

[I]Hai em bé gái phải đi ngang đường tàu mới về được nhà (1). Tưởng
tàu hỏa còn xa , chúng băng ngang qua đường ray (2). Không ngờ tàu hỏa
xuất hiện (3). Tàu hỏa đã đến quá gần(4). Em gái lớn nhảy lùi lại, còn em nhỏ
đánh đổ giỏ nấm, cúi xuống nhặt(5). Em lớn kêu lên:
-Bỏ hết nấm, chạy đi !
Trang 7
Sáng kiến kinh nghiệm
[II]Nhưng em nhỏ không nghe thấy vẫn tiếp tục nhặt nấm(1). Em lớn
gào khóc sướt mướt(2). Người lái tàu không thể dừng lại được và tàu chẹt em
gái nhỏ(3). Hành khách đổ xô đến cửa sổ các toa tàu(4). Khi tàu chạy qua,
người ta thấy em gái nhỏ nằm bất động giữa các thanh ray, mặt úp xuống(5).
[III]Một lúc sau, em gái nhỏ nhổm dậy, đứng lên, nhặt hết nấm cho vào
giỏ và chạy đến chỗ chị.
[IV]Bấy giờ hai em mới trở về nhà, mang theo một giỏ đầy nấm vừa
hái trong rừng.
Sau đó GV yêu cầu HS đọc, suy nghĩ rồi hướng dẫn các em chữa từng
bước như sau:

Bước 1: Yêu cầu HS nhận xét.
Bước 2: Yêu cầu HS sắp xếp lại trật tự các câu trong các đoạn (đoạn
I và đoạn II) cho hợp lí .
+ Trật tự câu của đoạn I là chuyển câu 4 xuống sau câu 5.
+Trật tự câu của đoạn II là chuyển câu 2 xuống sau câu 3.
Bước 3:Yêu cầu HS sắp xếp lại trật tự các đoạn, nhập đoạn, sửa chữa
từ ngữ cho thông thoáng, mạch lạc.
+Đoạn IV ch…uyển lên trước đoạn I .Theo đó chữa cụm từ “Bấy giờ
hai em mới trở về nhà” trong đoạn ấy thành “Hai em bé gái trên đường về
nhà”
+Nhập đoạn IV vào đoạn I(thành đoạn I).Theo đó thay cụm từ “Hai
em bé gái” ở đoạn I thành từ “ Chúng” và bỏ cụm từ”mới về được nhà”
Bước 4:Yêu cầu HS đặt đầu đề và hình thành nguyên trạng văn bản.
Sau khi Hs có đáp án, GV dán đáp án của mình (đã viết sẵn ở giấy rô-
ki ) lên bảng rồi yêu cầu HS đối chiếu, nhận xét với văn bản bị xáo trộn. Đáp
án đó như sau:

CÔ BÉ HÁI NẤM
Trang 8
Sáng kiến kinh nghiệm
[I]Hai em bé gái trên dường về nhà, mang theo một giỏ đầy nấm vừa
hái trong rừng. Chúng phải đi ngang đường tàu mới về được nhà.Tưởng tàu
hỏa còn xa, chúng băng ngang dường ray. Không ngờ tàu hỏa xuất hiệ
n.Em gái lớn nhảy lùi lại, còn em nhỏ đánh đổ giỏ nấm, cúi xuống nhặt.
Tàu hỏa đã đến quá gần. Em lớn kêu lên:
Bỏ hết nấm, chạy đi!
[II] Nhưng em nhỏ không nghe thấy vẫn tiếp tục nhặt nấm. Người lái
tàu không thể dừng lại được và tàu chẹt em gái nhỏ. Em lớn khóc sướt mướt.
Hành khách đổ xô đến cửa sổ các toa tàu. Khi tàu chạy qua, người ta thấy em
gái nhỏ nằm bất động giữa các thanh ray, mặt úp xuống.

[III] Một lát sau, em gái nhỏ nhổm dậy, đứng lên, nhặt hết nấm cho vào
giỏ và chạy đến chỗ chị.
Lep Tôn-xtôi
(Truyện cho trẻ em)
Bước 5: So sánh văn bản nguyên bản với văn bản bị xáo trộn

Khi trình bày đáp án văn bản đã sửa chữa(văn bản nguyên bản) trên
bảng ï, GV nên dán văn bản bị xáo trộn song song với nó để HS dễ nhận ra
cái sai , cái đúng; cái hay, cái chưa hay. Kĩ xảo thủ công của một GV khéo
tay có thể biến cái bảng phụ (tờ giấy rô-ki) thành cái màn hình phóng đại của
máy vi tính, trên đó các thao tác sửa chữa, sắp xếp, tách nhập đoạn được thực
hiện rõ ràng, sinh động, hấp dẫn để cuối cùng HS thấy được một văn bản
hoàn chỉnh, hoàn thiện mà chính mình có một phần công sức tạo ra .
-Còn viết một văn bản hoàn chỉnh thực ra là một loại bài tập đã rất
quen thuộc với HS. Đó là những bài tập làm văn với các kiểu loại khác nhau
trải dài từ lớp 6 đến lớp 9: từ miêu tả , tự sự, phát biểu cảm nghĩ, thuyết minh,
Trang 9
Sáng kiến kinh nghiệm
hành chính công vụ đến nghị luận. Đối với một văn bản hoàn chỉnh phải tạo
lập thì yêu cầu HS phải thực hiện được hai bước chủ yếu không thể thiếu: Đó
là lập đề cương và viết hoàn chỉnh.
Việc lập đề cương và viết theo đề cương đã lập là một yêu cầu quan
trọng, GV cương quyết phải rèn được cho HS. Thực tế dạy học, tôi thấy HS
thường không lập được đề cương hoặc có lập thì cũng lập cho có rồi khi viết
thì chẳng chú ý gì đến nó, hoàn toàn viết ‘BUÔNG’!Nghĩa là nghĩ đến đâu
viết đến đấy không theo một trình tự, qui tắc nào cả!
Qúa trình tiến hành hai bước này như sau: Có thể yêu cầu HS hoàn
thành đề cương ở lớp rồi về nhà viết văn bản hoàn chỉnh. Nếu cho HS viết
văn bản hoàn chỉnh ở nhà thì có thể yêu cầu HS nộp cả đề cương. Trong
trường hợp này, HS có thể làm ngược lại qui trình: viết văn bản trước rồi dựa

vào văn bản đã viết mà trình bày đề cương để cho có.Tất nhiên như vậy là
chưa đạt yêu cầu nhưng cũng không đến nỗi vô tác dụng: bằng cách đối phó
đó, vô hình trung HS được rèn luyện kĩ năng tóm tắt văn bản.Và tóm tắt văn
bản hoàn chỉnh cũng là một yêu cầu cần rèn luyện ở lớp 9.
Tóm lại, qui trình tạo lập một văn bản về cơ bản cũng giống qui trình
hướng dẫn của SGK, nhưng trong đó lập đề cương và viết theo đề cương là
rất cần thiết(mà không ít GV đã làm qua loa). Theo tôi đó là kĩ năng HS cần
có và GV cần phải rèn luyện kĩ lưỡng cho HS. Việc ấy sẽ góp phần không
nhỏ trong những thành công sau này của các em, không chỉ trong lĩnh vực tạo
văn bản khi ngồi trên ghế nhà trường.
b/ Phương pháp riêng tạo văn bản cho dạng đề mở
Đề mở là đề có tính chất tự do và sáng tạo, do đó cách làm cũng tự do và
sáng tạo. Tuy nhiên ta có thể tiến hành theo 2 bước sau:
b1/Tìm nguồn cảm hứng
Đối với việc làm văn, dù bất cứ loại văn nào thì cảm hứng vẫn là động
lực mạnh mẽ của sự sáng tạo. Cảm hứng là trạng thái hưng phấn về tâm lí của
Trang 10
Sáng kiến kinh nghiệm
con người khi có nhiều điều chất chứa bên trong đòi hỏi được giải bày, được
bộc lộ ra, đồng thời đó cũng là ước mong tha thiết, nồng nàn muốn giải bày,
muốn bộc lộ những điều chất chứa đó. Sáng tạo có thể nói đó là điều mà con
người luôn vươn tới, đối với mọi lứa tuổi, trên mọi hoạt động, trong đó có
hoạt động học tập, có hoạt động làm văn của HS. Cảm hứng không tự đến.
Nhiều khi phải đi tìm, phải khơi nguồn cảm hứng. Nhất là đối với kiểu bài
văn đặc biệt tự do và sáng tạo này thì việc đi tìm nguồn cảm hứng là rất quan
trọng.
Thông thường, văn chương gợi cảm hứng cho văn chương. Bác Hồ trong
bài viết: “Tôi là người học trò nhỏ của Lep Tôn-xtôi” có kể rằng khi Người
còn trẻ, đang lao động và học tập cách mạng ở Pháp, có một lần Người đọc
được một thiên truyện ngắn của Lep Tôn-xtôi. Đọc xong, Người nhảy từ trên

giường xuống và kêu lên: “Viết như thế này thì mình cũng viết được”. Qủa
thực, sau đó, Người đã phỏng theo cách viết trong sáng, giản dị của Tôn-xtôi
để viết một số bài văn, truyện ngắn có nội dung đấu tranh yêu nước và cách
mạng. Kể lại chuyện này, Người hài hước tự nhận xét mình về ngày ấy:
“Như người ta nói : Điếc không sợ súng”. Tuy vậy, rõ ràng là tác phẩm của
đại văn hào Nga đã gây cảm hứng mạnh mẽ, làm cho Bác tự tin và phấn chấn
để viết các bài văn của mình.
Học sinh chúng ta cũng vậy, muốn có cảm hứng để viết văn, cần phải đọc
các bài văn của các nhà văn, rồi tự đối chiếu, tự suy nghĩ xem trong chừng
mực nào mình có thể viết được những điều tương tự như nhà văn đã viết. Ai
cũng đã sống qua thời thơ ấu của mình, ít nhiều cũng có những kỉ niệm vui
buồn đáng kể lại, đáng viết ra. Khi đọc một đoạn hồi kí của Tô Hoài hay một
bài phê bình của Nguyễn Đình Thi, mỗi HS có thể như Bác Hồ lúc còn nhỏ
đối với Lep Tôn-xtôi “Điếc không sợ súng”, có thể hào hứng và tự tin thốt lên
: “Viết như thế này thì mình cũng viết được”. Dĩ nhiên còn lâu ta và HS ta
mới được như nhà văn và cũng có thể chẳng bao giờ được thế, song cái tâm
trạng phấn chấn, hứng khởi như vậy chính là cảm hứng của HS đang được
khơi nguồn, HS sẽ cảm thấy viết văn là viết những điều có sẵn trong chính
Trang 11
Sáng kiến kinh nghiệm
các em từ bao giờ, không phải là lặp lại những điều người khác đã nói, đã
viết, mà giải bày những điều tự mình cảm được, nghĩ được. Lúc bấy giờ cầm
bút viết văn là cả một niềm vui sướng lẫn với một sự phấn đấu để cho dòng
chữ, trang văn được hình thành. Như người điếc, người câm bẩm sinh vì họ
chưa bao giờ nghe cho nên họ không thể nào nói được, cho nên ai chưa hề
đọc văn thì không bao giờ có thể viết văn được. Những bài văn được học
trong lớp học, được học ngoài giờ học là những kích thích, khêu gợi đầu tiên
để từ chỗ thích đọc văn tiến tới chỗ thích viết văn. GV Ngữ văn chúng ta cần
chú ý điều này mà đầu tư , sáng tạo trong quá trình đọc, giảng bình, giới thiệu
những tác phẩm hay, đặc biệt những tác phẩm gần gũi với tâm sinh lý lứa tuổi

của các em.
Để có cảm hứng viết văn HS có thể trao đổi với cha mẹ, với thầy cô chủ
nhiệm, với bạn bè hoặc với người khác. Đặc biệt là với chúng ta –những GV
dạy Ngữ văn-, chúng ta có thể gợi cho các em những đề tài đa dạng phổ biến
thuộc nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Bên cạnh đó, HS có thể lắng nghe, tham
khảo ý kiến của bạn, của cha me,ï của người khác trong thực tế đời thường
hoặc trên thông tin đại chúng khi họ nhận xét, bình phẩm cách đối xử, cách
sống, cách viết, nội dung viết, chủ đề viết của một ai đó mà mình có hứng
thú, có ý tưởng muốm viết để từ đó rút kinh nghiệm xem nên viết về ai, cái
gì, kỉ niệm nào, tác phẩm nào. Cũng có thể ta cho HS suy nghĩ trước nên viết
về cái gì, sau đó hỏi ý kiến ta, bạn bè, người thân có nên viết điều đó không,
và nên viết như thế nào. Nên nhớ HS của chúng ta chỉ mới là học sinh THCS,
các em chưa phải là nhà văn nên những điều viết ra chắc chắn còn vụng về,
non nớt, song điều quan trọng nhất là các em đang tập viết về những điều của
chính các em có được, chính các em nghĩ ra. Chắc chắn là các em sẽ tự tin,
hào hứng khi viết bài văn kiểu này. Và thái độ của chúng ta là nên động viên,
khuyến khích, tán thưởng.
b2/ Xác định chủ đề, sắp xếp ý tứ
Trang 12
Sáng kiến kinh nghiệm
Tìm nguồn cảm hứng để viết cũng là dần dần xác định chủ đề và nội
dung để viết. Khác với các dạng đề đóng, dạng đề mở tự do, sáng tạo này
không có đầu đề cụ thể được nêu ra đểâ làm chuẩn đích cho bài làm của HS.
Ví dụ đề ra là: “Kể lại một kỉ niệm sâu sắc trong đời mình và nêu
những suy nghĩ về kỉ niệm đó”.
Hoặc: “Tóm tắt một tác phẩm văn học đã được đọc mà mình yêu
thích và nói cảm tưởng của mình về tác phẩm đó”
Thì cái đích đó là gì? HS phải tự nêu ra. HS phải suy nghĩ, phải hồi
tưởng, phải chọn lựa…


+Nếu viết về kỉ niệm thì đó nên là kỉ niệm gì ? Về một ngôi nhà mình đã
sống trong thời thơ ấu mà hiện nay đang ở xa chăng? Hay là một chuyến theo
mẹ ba về thăm nội, thăm ngoại ? Hoặc viết về một tình bạn đặc biệt thời thơ
dại đến bây giờ vẫn còn tưởng nhớ? Hay hình ảnh một thầy, cô giáo cũ đã
cách xa song vẫn còn nhiều tác động đối với tâm hồn mình hôm nay?
+ Nếu viết về một tác phẩm văn chương hay nghệ thuật thì đó là tác
phẩm nào? Bài thơ Quê hương của Giang Nam chăng? Hay về truyện ngắn
Chiếc lá cuối cùng của nhà văn Mĩ Ô-Hen-ri, hay truyện ngắn Lão Hạc của
Nam Cao, tiểu thuyết Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, hay tác phẩm nào đó của một
nhà văn hiện đại đang được nhiều người ưa thích ? Hay là về một cuốn phim
vừa mới được xem?
Hiện nay học sinh THCS, đặc biệt là HS lớp 9 dù ở thành thị hay thôn
quê ngay cả vùng sâu, vùng xa có em nào mà không một lần xem một quyển
truyện hay xem một cuốn phim? Nếu HS vùng sâu, vùng xa chưa có dịp nào
thì GV văn nhất định phải tạo điều kiện để các em được một lần xem một
cuốn phim và đọc một quyển sách một cách nghiêm túc. Ít nhất là một truyện
ngắn trên một tờ báo hàng ngày, ở thư viện trường hoặc một tờ báo địa
phương nơi mình ở . Hoặc một cuốn phim ngắn có tác dụng giáo dục mà GV
đã ra công tìm kiếm, rồi tổ chức mở video cho các em xem vào một buổi
chiều nào đó.
Trang 13
Sáng kiến kinh nghiệm
Tóm lại, xác định chủ đề hiểu đơn giản nhất là xác định :Viết về cái gì?
Về vấn đề gì?
Xác định viết về cái gì , vấn đề gì xong rồi, lại phải giúp HS tìm cách
viết về cái đó, vấn đề đó như thế nào?
Trước hết phải tìm cách sắp xếp ý tứ, nội dungù. Nếu viết về một kỉ
niệm thì HS phải miêu tả và tự sự về kỉ niệm đó, sau đó nói cảm tưởng, suy
nghĩ của mình. Nếu viết về một tác phẩm thì trước hết phải giới thiệu và tóm
tắt tác phẩm đó, sau đó nói cảm tưởng, ý kiến.Trong cả hai hướng đề tài này,

đề tài thứ nhất của đề chủ yếu yêu cầu HS dùng kiểu văn miêu tả và tự sự, đề
tài thứ hai của đề chủ yếu yêu cầu HS dùng kiểu văn phát biểu cảm tưởng và
nghị luận. Cả hai kiểu bài tự do, sáng tạo này cần lưu ý HS phải phối hợp cả
tư duy hình tượng lẫn tư duy logic trong cách viết.
Trên những nét lớn , do yêu cầu của loại văn tự do và sáng tạo tôi chỉ có
thể tóm tắt một cách khái quát trình tự viết một bài văn loại này như sau (Còn
chi tiết, cụ thể thì mỗi HS phải tự mình triển khai, mở rộng…)
Với đề “Kể lại một kỉ niệm sâu sắc trong đời mình và nêu lên
những suy nghĩ về kỉ niệm đó” có thể là:
*Mở bài:
Hoàn cảnh nào đã dẫn mình hồi tưởng lại kỉ niệm sắp được viết ra?
Kỉ niệm đó là kỉ niệm về điều gì? Về người nào?
*Thân bài:
a.Nội dung kỉ niệm: sự việc và con người.
b.Ý nghĩa kỉ niệm đó: cảm tưởng và suy nghĩ.
*Kết bài:
Kỉ niệm đó sẽ lưu lại mãi trong đời làm cho đời thêm ý nghĩa.
Với đề: “Tóm tắt một tác phẩm văn học đã được học hoặc đọc mà
mình yêu thích và nói lên cảm tưởng của mình về tác phẩm đó” có thể theo
trình tự sau:
**Mở bài:
Trong hoàn cảnh nào mình đã đọc tác phẩm sắp được giới thiệu?
Trang 14
Sáng kiến kinh nghiệm
Tác phẩm đó là gì? Của ai?
**Thân bài:
a/Tóm tắt tác phẩm: câu chuyện và nhân vật.
b/Bình luận tác phẩm: cảm tưởng và ý kiến.
**Kết bài
Tác phẩm đó có ý nghĩa gì trong đời sống tinh thần và tình cảm của

mình?.
Từ trình tự đó, ta hướng dẫn HS triển khai, từng bước hoàn chỉnh một
văn bản.Và sản phẩm của một đề mở sẽ là một văn bản tư do và sáng tạo. Gọi
như vậy là vì nó được viết ra từ chính cảm xúc và suy nghĩ riêng của mỗi HS
và vì vậy không nhất thiết phải đồng loạt giống nhau về nội dung và hình
thức. Tuy vậy, với tính cách là một bài văn, nó cũng phải bao gồm các câu
văn kết lại thành các đoạn văn (đoạn mở bài, các đoạn tạo thành thân bài,
đoạn kết bài ), tất cả hợp thành một bài văn hoàn chỉnh mang một nội dung
nhất định trong một hình thức nhất định mà một GV Văn phải rèn luyện cho
HS mình làm được. Đó là chuẩn mực phải đạt được của một GV khi dạy HS
tạo lập văn bản ở bậc học THCS.
2/Kết luận:
Như con chim non tập bay theo chim mẹ, lúc ban đầu HS dang đôi cánh
tâm hồn và trí tuệ của mình theo sự hướng dẫn và qui định về đề tài, về nội
dung và về hình thức do thầy cô giáo nêu ra, nhưng dần dần HS phải tự mình
cất cánh bay lên theo phương hướng do chính mình lựa chọn. Một GV Văn có
trách nhiệm, có nhiệt huyết, có tâm hồn , có lí tưởng nhân văn chắc chắn sẽ
làm được điều đó, sẽ nâng đỡ, dìu dắt, khơi gợi hướng đi, bồi đắp kĩ năng kĩ
xảo để chim non sẽ bay xa, bay cao hơn cả chim mẹ, bay đến những chân trời
tự do và sáng tạo vô tận.
C/NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Trang 15
Sáng kiến kinh nghiệm
Qua hai năm thực hiện ,bản thân tôi đã thấy HS có nhiều tiến bộ .
HS đã tiến bộ rõ nét trong quá trình tạo lập văn bản, trong viết bài hoàn chỉnh.
Và các GV bộ môn khác cũng nhận ra HS đã biết viết câu, lập luận có cơ sở
trong lúc làm bài.
_Đầu năm học 2007-2008 trong 62 HS lớp 8 có: 46 HS- đa số dân tộc
thiểu số- chưa diễn đạt được ý mình bằng ngôn ngữ viết (mức đô thấp nhất
của tạo lập văn bản), do vốn từ quá nghèo nàn và khả năng chấm câu thì rất

khiêm tốn. Khi chấm bài viết tập làm văn của các em, tôi mất rất nhiều thời
gian , phải đọc đi đọc lại nhiều lần, vắt óc suy nghĩ đến khờ người thì họa
may mới hiểu được ý của vài ba em . (Đó là những bài viết dài một đôi giấy
mà dòng nào cũng sai chính tả, cộng thêm các em viết theo phát âm của dân
tộc Khơ-me, Stiêng : một từ không dấu thanh thì các em cho dấu thanh
(?,~,/,.)vào, còn những từ có dấu thanh thì các em lại bỏ đi, cả đôi giấy đầy
chữ mà không có lấy một dấu chấm câu nào!)
_Nhưng đến năm học này, năm 2008-2009 số HS lên lớp 9 là 56 em,
trong 46 HS đó, nay còn 42 em (4 em đã bỏ học) đã có 30 HS – có thể mạnh
dạn nói – đã tạo lập được một văn bản có 3 phần, viết câu hiểu được, lỗi
chính tả đã giảm.Có thể tính liên kết còn vụng về, mạch văn chưa được suôn
nhưng những chuyển biến đó là một tín hiệu đáng mừng, đáng khích lệ cho
cả thầy và trò trường tôi, khi áp dụng phương pháp dạy tạo lập văn bản theo
kiểu này! Những điểm 2,3 của năm trước đã thay vào nhũng điểm số từ 4
đến 6 rất nhiều ở năm nay.Tuy sự tiến bộ chưa cao nhưng đã có phần nhanh.
Nếu kiên trì theo lớp, dạy theo phương pháp này thì biết đâu đấy tới lớp 12
một trong 30 HS đó sẽ có HS giỏi văn!
D/NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1/ GV phải nắm chắc chương trình giảng dạy không những ở khối
lớp mình dạy mà còn phải nắm vững chương trình cả bậc THCS để xây dựng
kế hoạch giảng dạy cho khoa học (không chồng chéo)
Trang 16
Sáng kiến kinh nghiệm
2/ Luôn luôn tự học, tự rèn, tự sáng tạo để có kiến thức phong phú,
tư liệu dạy học đa dạng để tạo hứng thú cho các em , đặc biệt sưu tầm những
bài văn hay , gần gũi với đời sống địa phương, phù hợp với tâm sinh lí của
các em để đọc cho các em nghe, gợi, mở hướng để các em muốn bày tỏ,
muốn trao đổi, muốn đọc, muốn viết.
3/ Phải có vốn sống phong phú, tâm hồn nhạy cảm, ứng xử linh
hoạt, trầm tĩnh trong mọi tình huống –đặc biệt là những tình huống bất

thường.
4/ Phải gần gũi, hòa đồng với HS , hiểu HS, sẵn sàng chia sẻ kịp
thời, biết khích lệ khi HS có tiến bộ dù sự tiến bộ chỉ mới manh nha, còn phê
bình thì nên nhẹ nhàng, tế nhị…
III.KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Với đà phát triển của xã hội về mọi mặt như hiện nay, với xu thế hội
nhập, với xu hướng nhìn ra thế giới và với “mong ước sánh vai với các
cường quốc năm châu” của các nước nghèo đang dần trở thành hiện thực thì
phương pháp dạy tạo lập văn bản cho học sinh THCS như trên, tuy đơn giản
nhưng mang tính truyền thống(kế thừa nền tảng của cái cũ) là cơ sở khơi
nguồn cảm hứng rất thiết thực và hữu hiệu cho HS. Thực hiện phương pháp
này, GV sẽ từng bước giúp các em thành đạt trong tương lai tuy chưa phải là
phương pháp tối ưu nhưng khả thi , chỉ cần GV thương quí HS, yêu nghề,
thêm một chút đam mê thì sẽ làm được, mọi khó khăn trở ngại sẽ được đẩy
lùi, mở ra con đường khởi đầu chông gai là điều không tránh khỏi nhưng chắc
Trang 17
Sáng kiến kinh nghiệm
chắn cái đích sẽ là thảm đỏ, vòng nguyệt quế của vinh quang. Thực hiện
phương pháp dạy tạo lập văn bản cho học sinh THCS sẽ nâng cao chất lượng
dạy và học không những môn Ngữ văn mà còn nâng cao chất lượng dạy và
học các môn học khác nữa. Như vậy có thể nói ý tưởng xây dựng phương
pháp dạy tạo lập văn bản cho HS của tôi sẽ góp phần đáp ứng tích cực mục
đích cuối cùng của mỗi GV, của Phòng, của Sở, của Bộ, của Ngành. Vậy tại
sao các bạn không sử dụng phương pháp tạo lập văn bản này-dạy thử nghiệm-
cho HS dù chỉ một lần nhỉ?
Mong quí đồng nghiệp nghiên cứu, áp dung, và đóng góp để phương
pháp dạy tạo lập văn bản cho học sinh THCS đã hiệu quả càng hiệu quả hơn,
không chỉ cho riêng tôi, cho HS trường tôi mà có thể được nhân rộng ra, nếu
tư tưởng lớn của các bạn gặp tư tưởng này của tôi.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


Lộc Khánh ngày 25/2/2009
Người viết

Lung Thị Bích Nga
Trang 18

×