Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN_Ứng dụng CNTT trong dạy học ở nhà trường phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (965.13 KB, 26 trang )

ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC
1. Vai trò của CNTT&TT (ICT)
a) Máy tính, mạng Internet và thế giới ảo trên Internet
Máy vi tính với các phần mềm phong phú đã trở thành một công cụ đa
năng ứng dụng trong mọi lĩnh vực của nghiên cứu, sản xuất và đời sống. Tuy
nhiên nếu như công dụng của máy là tính là có thể đo đếm được thì sự ra đời
của mạng máy tính toàn cầu (Internet) đem lại những hiệu quả vô cùng lớn,
không thể đo đếm được. Chính vì vậy, ngày nay chúng ta thường nghe nói đến
thuật ngữ CNTT&Truyền thông (ICT) thay vì CNTT (IT).
Một máy tính nối mạng không phải chỉ giúp chúng ta đọc báo điện tử, gửi
email mà nó là kênh kết nối chúng ta với tất cả thế giới. Chúng ta có thể tiếp
cận toàn bộ tri thức nhân loại, có thể làm quen giao tiếp với nhau hoặc tham gia
những tổ chức ở xa nửa vòng trái đất. Mạng máy tính toàn cầu thực sự đã tạo ra
một thế giới mới trong đó cũng có gần như các hoạt động của thế giới thực:
thương mại điện tử (ecommerce), giáo dục điện tử (elearning), trò chơi trực
tuyến (game online), các diễn đàn (forum), các mạng xã hội (social network),
các công dân điện tử (blogger),…
b) Lợi ích mà thể giới ảo trên Internet mang lại
Tuy gọi là thế giới ảo nhưng nó đem lại lợi ích thực sự cho những người
tham gia, thậm chí những lợi ích đem lại còn nhiều hơn so với trong thế giới
thật. Ví dụ những cá nhân tham gia thương mại điện tử có thể ngồi ở nhà, thông
qua máy tính nối mạng để buôn bán trao đổi và có thể thu được rất nhiều lợi
nhuận. Học sinh có thể tham gia các hệ thống học trực tuyến trên mạng mà
không phải tốn một đồng học phí, mà kiến thức thu được còn nhiều hơn là theo
lớp học thật. Một học sinh ở Hà Nội có thể thông qua một hệ thống học trực
tuyến để theo học một thầy giáo ở tận TP HCM. Một thầy giáo có thể dạy cùng
một lúc hàng vạn học sinh.
1
Thông qua các diễn đàn và mạng xã hội, tất cả mọi người có thể trao đổi,
chia sẻ với nhau các tài nguyên số, cũng như các kinh nghiệm trong công việc
trong đời sống và công việc. Ví dụ mọi người có thể chia sẻ các đoạn phim hoặc


các bài hát, có thể chia sẽ các bài viết về những kiến thức khoa học, xã hội,
v.v… Ví dụ các bậc phụ huynh trên cả nước có thể chia sẻ kinh nghiệm về cách
chăm sóc con cái. Các giáo viên có thể chia sẻ các tư liệu ảnh, phim, các bài
giảng và giáo án với nhau, để xây dựng một kho tài nguyên khổng lồ phục vụ
cho việc giảng dạy của mỗi người. Học sinh cũng có thể thông qua các mạng xã
hội để trao đổi những kiến thức về học tập và thi cử.
c) Những thế mạnh của thế giới ảo so với thế giới thật
Trong nhiều lĩnh vực, các hoạt động của thế giới ảo trên mạng Internet tỏ
ra có nhiều ưu điểm vượt trội so với ở thế giới thực. Bởi vì đó là một “Thế giới
phẳng” (tên một cuốn sách nổi tiếng của Thomas L.Friedman đã được dịch sang
tiếng Việt) nơi mà tất cả mọi người tham gia sẽ ở cùng một điểm xuất phát,
không phân biệt vị trí địa lý, nghề nghiệp, tuổi tác, địa vị xã hội. Trong thế giới
này, các hoạt động có thể diễn ra vô cùng lớn mạnh với hàng triệu người tham
gia. Các kết quả mà thế giới ảo đạt được có thể không bao giờ làm được trong
thế giới thật (ví dụ xây dựng thư viện trực tuyến khổng lồ hoặc các công cụ tìm
kiếm tri thức toàn cầu).
Chi phí để vận hành thế giới ảo này hầu như không đáng kể so với thế giới
thật, ví dụ thương mại điện tử sẽ không cần phải có cửa hàng, kho bãi, không
cần nhân viên tiếp thị phải đi khắp nơi, học trực tuyến không cần trường học,
lớp học, đồ dùng dạy học, v.v hay các diễn đàn hội thảo không cần hội
trường, chi phí đi lại ăn ở cho các đại biểu v.v
Mặc dù ở nhiều lĩnh vực thì hoạt động của thế giới ảo trên Internet không
thể thay thế, mà chỉ có thể hỗ trợ cho các hoạt động thật, tuy nhiên thực tế nó
đang phát triển mạnh mẽ và ở nhiều lĩnh vực đã lấn át các hoạt động thật (ví dụ
đọc báo điện tử, nghe nhạc trực tuyến ). Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, mỗi
chúng ta đều phải nhanh chóng thích nghi với những thay đổi mới của thế giới
nếu như không muốn tụt hậu.
2
2. Ứng dụng CNTT&TT trong việc dạy và học
2.1. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường phổ thông hiện nay

Từ khá sớm, các trường học trên nhiều tỉnh thành đã bắt đầu đưa công nghệ
thông tin vào giảng dạy. Hầu hết các trường đều có phòng máy tính riêng. Tuy
nhiên, những trang thiết bị này thường chỉ nhằm mục đích cho học sinh thực
hành môn Tin học (chỉ là một môn trong rất nhiều môn học), hoặc ứng dụng
trong công tác lưu trữ, quản lý hồ sơ nhân sự hay trợ giúp việc thi cử. Như vậy,
có thể thấy chúng ta đã bỏ phí rất nhiều tiềm năng của máy tính, chưa khai thác
hết những ứng dụng to lớn của công nghệ thông tin, mà một trong những ứng
dụng đó là việc sử dụng các phần mềm hỗ trợ giảng dạy cho các tiết học trên lớp
đối với các môn văn hoá khác như: Toán, Vật lý, Hoá học, Sinh học, Lịch sử, Địa
lý, Ngoại ngữ v.v
Chính vì vậy, nhu cầu sử dụng phần mềm trong giảng dạy hiện nay là rất
lớn. Hầu hết các giáo viên đều nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết cần thực hiện
ngay. Các sinh viên sư phạm cũng đều coi khả năng thiết kế bài giảng bằng máy
tính như một tiêu chuẩn nâng cao giá trị của mình khi xin việc vào các trường tốt.
Các lãnh đạo trường cũng như các cơ quan giáo dục đều khuyến khích và coi khả
năng sử dụng giáo án điện tử, bài giảng điện tử là ưu điểm của giáo viên. Do đó,
các lớp tập huấn Tin học sử dụng Powerpoint, Violet, thường được các giáo
viên tham gia rất đông. Trong các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, gần như 100% là
các bài giảng là dùng phần mềm. Ở các tỉnh thành lớn, đa số các trường học đều
đã trang bị máy chiếu để phục vụ việc giảng dạy bằng máy tính.
Trên thực tế thì các phần mềm giáo dục của Việt Nam cũng đã xuất hiện rất
nhiều, phong phú về nội dung và hình thức như: sách giáo khoa điện tử, các
website đào tạo trực tuyến, các phần mềm multimedia dạy học, Trên thị trường
có thể dễ dàng lựa chọn và mua một phần mềm dạy học cho bất cứ môn học nào
từ lớp một cho đến luyện thi đại học. Tuy nhiên, các "Sách giáo khoa điện tử"
không tỏ ra nổi trội hơn SGK truyền thống, Website đào tạo từ xa khó triển khai
rộng được vì Internet ở VN còn là một vấn đề lớn. Các phần mềm dạy học cho
3
học sinh, dù đã có rất nhiều cố gắng về mặt hình thức và nội dung, tuy nhiên sự
giao tiếp giữa máy với người chắc chắn không thể bằng sự giao tiếp giữa thầy với

trò
Hiện nay, các công ty thiết bị giáo dục cũng thường xây dựng các video
quay các tiết giảng mẫu để đưa về các trường. Tuy nhiên định hướng này khó
phát huy được hiệu quả, vì sản phẩm cũng chỉ như một giáo án tham khảo trong
khi chi phí để xây dựng rất lớn (vài chục triệu đồng/tiết dạy) mà hầu như không
thể chỉnh sửa về sau được. Nó thậm chí còn có thể gây phản tác dụng khi tạo ra
sự áp đặt cho giáo viên, tạo ra tư duy lười suy nghĩ vì chỉ cần dạy theo giáo án
mẫu, làm giảm đi sự sáng tạo của giáo viên trong việc giảng dạy
2.2. Một số giải pháp và đề xuất trong việc sử dụng CNTT trong dạy và học
2.2.1. Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học
Hiện nay, trên thế giới người ta phân biệt rõ ràng 2 hình thức ứng dụng
CNTT trong dạy và học, đó là Computer Base Training, gọi tắt là CBT (dạy dựa
vào máy tính), và e-learning (học dựa vào máy tính). Trong đó:
- CBT là hình thức giáo viên sử dụng máy vi tính trên lớp, kèm theo các
trang thiết bị như máy chiếu (hoặc màn hình cỡ lớn) và các thiết bị multimedia
để hỗ trợ truyền tải kiến thức đến học sinh, kết hợp với phát huy những thế
mạnh của các phần mềm máy tính như hình ảnh, âm thanh sinh động, các tư
liệu phim, ảnh, sự tương tác người và máy.
- E-learning là hình thức học sinh sử dụng máy tính để tự học các bài giảng
mà giáo viên đã soạn sẵn, hoặc xem các đoạn phim về các tiết dạy của giáo
viên, hoặc có thể trao đổi trực tuyến với giáo viên thông mạng Internet. Điểm
khác cơ bản của hình thức E-learning là lấy người học làm trung tâm, học viên
sẽ tự làm chủ quá trình học tập của mình, giáo viên chỉ đóng vai trò hỗ trợ việc
học tập cho học viên.
Như vậy, có thể thấy CBT và e-learning là hai hình thức ứng dụng CNTT
vào dạy và học khác nhau về mặt bản chất. Một bên là hình thức hỗ trợ cho giáo
viên, lấy người dạy làm trung tâm và cơ bản vẫn dựa trên mô hình lớp học cũ.
Còn một bên là hình thức học hoàn toàn mới, lấy người học làm trung tâm,
4
trong khi giáo viên chỉ là người hỗ trợ. Tuy nhiên, ở Việt Nam nhiều người vẫn

bị nhầm lẫn 2 khái niệm này, trong đó có không ít các chuyên giá giáo dục, nên
nhiều khi dẫn đến những sai lầm trong đường hướng chỉ đạo. Vì vậy, trong tài
liệu này, chúng tôi sẽ phân tích kỹ hơn nhưng mặt mạnh mặt yếu của CBT và e-
learning để có thể hiểu rõ hơn chúng ta đã làm gì, cần làm gì và nên làm gì
trong giai đoạn hiện nay.
CBT E-learning
Có thể phát triển, cải tiến từ phương
pháp dạy học truyền thống. Vẫn dựa
trên những hình thức cơ bản của một
lớp học thông thường
Thay đồi hoàn toàn cách dạy và học.
Người học có thể học riêng rẽ, học ở
nhà hoặc ở nơi làm việc. E-learning
khai thác được tối đa sức mạnh của
thế giới Internet: khả năng phổ biến
rất cao (có thể 1 bài giảng hàng triệu
người học), hay có khả năng cập nhật
các thông tin mới ngay lập tức.
Chi phí đầu tư ban đầu thấp. Chỉ cần
trang bị cho lớp học máy tính, máy
chiếu và các thiết bị multimedia.
Chi phí đầu tư ban đầu rất cao. Mỗi
lớp học phải là một phòng máy tính
nối mạng Internet, mỗi học sinh và
giáo viên phải có máy tính riêng và
những phần mềm chuyên dụng.
CBT là phương pháp kết hợp được cả
những thế mạnh của phương pháp
dạy học truyền thống (dựa trên giao
tiếp thầy-trò) và khai thác được

những ưu thế của các công nghệ hiện
đại (ví dụ những bài giảng điện tử).
Chỉ dựa trên thế mạnh của các bài
giảng điện tử, hầu như không có giao
tiếp thầy trò.
Phù hợp hơn với giáo dục phổ thông,
vì là ở giáo dục phổ thông, giáo viên
không chỉ dạy kiến thức mà còn phải
theo dõi hướng dẫn cách tư duy. Vả
lại học sinh nhỏ tuổi chưa đủ khả
Phù hợp hơn với giáo dục Đại học,
Sau đại học và những người đã đi
làm.
5
năng để làm chủ được quá trình học
tập của mình.
Đây là phương pháp mà các giáo
viên ở Việt Nam hay dùng phổ biến
hiện nay như dùng Powerpoint,
Violet để thiết kế bài giảng và dạy
học dùng máy chiếu. Những kết quả
thu được là rất đáng kể.
Chưa phải là hình thức phổ biến lắm
ở Việt Nam. Mới chỉ có một số
trường ĐH có hệ thống e-learning
riêng như ĐH Sư phạm HN, ĐH Xây
dựng HN, ĐH Cần Thơ,
Các công cụ tạo bài giảng cho CBT
gọi là các Authoring Tools như là
Powerpoint, Violet, Impress, Author-

ware
Các công cụ tạo bài giảng cho e-
learning thì tuân theo một chuẩn
chung để đưa lên mạng, trong đó nổi
tiếng nhất là chuẩn SCORM.
2.2.2. Tích cực sử dụng các bài giảng điện tử trong giảng dạy
Từ nhiều năm nay, ở các trường phổ thông cũng đã tương đối phổ biến mô
hình giảng dạy sử dụng bài giảng điện tử cùng với các trang thiết bị khác như
máy tính, máy chiếu (projector), Bài giảng điện tử và các trang thiết bị này có
thể coi là những công cụ dạy học đa năng vì nó có thể thay thế cho hầu hết các
công cụ dạy học khác từ truyền thống (tranh vẽ, bản đồ, mô hình, ) đến hiện đại
(cassette, ti vi, đầu video ). Hơn nữa, nếu các bài giảng điện tử được đầu tư xây
dựng cẩn thận thì sẽ đem lại hiệu quả hơn hẳn. Chẳng hạn khi mô phỏng một trận
đánh lịch sử, trên bản đồ giấy chỉ có thể diễn tả được bằng các mũi tên chỉ hướng
tấn công, còn trên phần mềm có thể diễn tả được hình ảnh của các đoàn quân di
chuyển, nên tạo được sự hấp dẫn và học sinh có thể tiếp thu bài giảng dễ dàng
hơn.
Khác với các phần mềm giáo dục khác, bài giảng điện tử không phải là phần
mềm dạy học, nó chỉ trợ giúp cho việc giảng dạy của giáo viên (đối tượng sử
dụng là giáo viên, không phải là học sinh). Chính vì vậy, việc truyền đạt kiến
thức vẫn dựa trên giao tiếp thầy-trò, chứ không phải giao tiếp máy-người. Mặt
khác, vì giáo viên là người trực tiếp điều hành việc sử dụng phần mềm nên có thể
6
khai thác tối đa được những kiến thức cần chuyển tải trong phần mềm, tuỳ thuộc
vào trình độ của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên.
Rõ ràng việc sử dụng các bài giảng điện tử sẽ tăng hiệu quả đáng kể đối với
các tiết dạy của giáo viên. Có thể nói đó là sự kết hợp những ưu điểm của
phương pháp dạy học truyền thống và của các công nghệ hiện đại.
Tuy nhiên, nếu đầu tư xây dựng các bài giảng đóng gói đơn lẻ như sau thì
dễ thấy những mặt hạn chết như sau:

- Tính cứng nhắc trong nội dung bài giảng: Các bài giảng điện tử xây dựng
theo mô hình trên thường không thể ứng dụng trên quy mô rộng được. Một bài
giảng do giáo viên này thiết kế khó có thể áp dụng cho một giáo viên khác vì
mỗi người sẽ có một phương pháp giảng dạy khác nhau. Thậm chí với cùng một
giáo viên nhưng với những trình độ học sinh khác nhau thì cũng phải có những
bài giảng khác nhau.
- Giá thành cao: Để có được những sản phẩm có chất lượng phù hợp với
yêu cầu của các giáo viên thì đòi hỏi phải có một đội ngũ kỹ thuật viên có đủ
chuyên môn và kinh nghiệm làm việc, phải đầu tư không ít thời gian cho các
việc thiết kế, sản xuất và bảo trì phần mềm. Do vậy, nếu tính theo giá thị trường
thì giáo viên khó có thể đáp ứng được, thậm chí đối với một trường học thì giá
thành cũng là một vấn đề lớn.
- Sự áp đặt máy móc: Hiện nay, nhiều cơ quan trong ngành Giáo dục hay
các Sở Giáo dục địa phương cũng thường đầu tư xây dựng hoặc mua phần mềm
hỗ trợ giảng dạy, sau đó đưa về các trường để sử dụng. Tuy nhiên, giáo viên
phải tâm đắc với phần mềm nào thì quá trình giảng dạy mới đạt hiệu quả. Mọi
sự áp đặt từ cấp trên đưa xuống sẽ trở nên vô nghĩa. Phương pháp giảng dạy tốt
nhất là do giáo viên trực tiếp đứng lớp quyết định, không phải một người khác
sáng tác ra để áp đặt cho họ. Thậm chí việc áp đặt còn có thể gây ra hiệu quả
xấu khi tạo cho người giáo viên tính lười soạn bài, không phát huy tính sáng tạo
trong giảng dạy và cũng không nắm rõ được những ý đồ sư phạm trong một bài
giảng.
Chỉ có một cách duy nhất là phải hướng dẫn, tập huấn các giáo viên để có
thể tự xây dựng các bài giảng cho riêng mình. Tuy nhiên, việc tập huấn cũng
7
chỉ dừng lại ở mức độ sử dụng thành thạo một vài công cụ thiết kế bài giảng
như Powerpoint hay Violet, cách tìm kiếm các tư liệu qua mạng Internet, sử
dụng máy quay phim, máy ảnh số, máy quét
Ở mức độ này, giáo viên mới chỉ có thể tạo được bài giảng ở mức cơ bản, chất
lượng trung bình. Chẳng hạn như họ không thể tự vẽ thêm một bức tranh, tự xây

dựng một hình ảnh động hoặc lập trình tạo ra một thí nghiệm mô phỏng, hoặc cũng
không thể tự chỉnh sửa được các tư liệu hình ảnh sau khi quét ảnh hoặc lấy về từ
Internet cho đẹp hơn, biên tập lại các đoạn phim, dịch thuyết minh các tư liệu của
nước ngoài thành tiếng Việt, v.v đặc biệt rất khó có thể tìm kiếm thu thập được
những phim ảnh tư liệu quý hiếm. Tất cả những việc này đòi hỏi phải có một đội
ngũ cán bộ, họa sĩ, kỹ thuật viên tin học chuyên nghiệp thì mới đảm nhiệm tốt được.
Hiện nay, nhiều chuyên gia giáo dục đã cảnh báo tình trạng “lạm dụng
CNTT” khi các giáo viên tự xây dựng bài giảng. Do hạn chế về định hướng,
công nghệ nên giáo viên thường hay xây dựng những bài giảng mang nặng tính
trình chiếu, ví dụ như sử dụng Powerpoint “bắn” rất nhiều chữ ra màn hình và
khi giảng bài thì gần như đọc lại nội dung đó. Phương pháp này thậm chí sẽ làm
cho học sinh giảm hiệu quả tiếp thu khi phải đồng thời nghe giảng, vừa đọc
chữ, chưa kể là còn bị cuốn hút vào những hiệu ứng chữ chạy nhảy và âm thanh
kèm theo. (xem thêm bài báo ở phần Phụ lục “Thuyết trình bằng Powerpoint là
một thảm họa” và ý kiến của một giáo viên về Giáo án điện tử).
Một trong những lý do của tình trạng trên là do các giáo viên chưa hiểu
được rằng: cách sử dụng hiệu quả của ứng dụng phần mềm dạy học là phải khai
thác triệt để các nội dung tư liệu, đặc biệt là các tư liệu multimedia (âm thanh,
hình ảnh, phim, Flash, ). Một lý do quan trọng nữa là kể cả khi hiểu được như
vậy thì cũng khó có thể thực hiện, vì việc giáo viên đưa một đoạn văn bản vào
phần mềm thì dễ, chứ nếu tự vẽ hình, tự tạo ảnh động hay tìm kiếm tư liệu bên
ngoài thì sẽ rất khó khăn.
Chính vì vậy, giáo viên nên sử dụng các công cụ tìm kiếm trên Internet tư
liệu như Google hay Yahoo, hoặc các truy cập các nguồn tư liệu phong phú như
Wikipedia, YouTube, đặc biệt là các nguồn tài nguyên phục vụ cho giáo dục
và đào tạo như Thư viện tư liệu giáo dục tại (cung cấp các
8
tư liệu giúp giáo viên sử dụng vào bài giảng) và Thư viện bài giảng điện tử tại
(cung cấp các bài giảng tham khảo có chất lượng để giáo
viên học tập và chia sẻ kinh nghiệm trong giảng dạy).

2.3. Sử dụng các phần mềm tiêu biểu phục vụ cho công tác giảng dạy
Học sử dụng máy vi tính thực chất là học cách sử dụng các phần mềm vi
tính. Có thể phân ra 2 loại là các phần mềm phổ thông (như soạn thảo văn bản,
xử lý ảnh, bảng tính, gõ tiếng Việt, các phần mềm gửi thư điện tử ) và các
phần mềm chuyên dụng, cụ thể đối với giáo viên đó là những phần mềm tạo bài
giảng như Powerpoint, Violet, tạo các hình ảnh mô phỏng để dạy học như
Macromedia Flash, Swish, v.v
2.3.1. Các phần mềm phổ thông
Các phần mềm phổ thông là bắt buộc phải sử dụng thành thạo đối với cả
mọi người, từ cấp quản lý đến giáo viên trong nhà trường. Trong đó một số
phần mềm quan trọng có thể kể ra (chủ yếu nằm trong bộ phần mềm văn phòng
Microsoft Office)
Microsoft Word: Phần mềm soạn thảo văn bản, dùng để soạn công văn,
báo cáo, kế hoạch và tất cả các giấy tờ tài liệu khác. Các giáo viên có thể dùng
để soạn giáo án vừa có thể in ra để sử dụng, lưu trữ trên máy tính hoặc chia sẻ
trên mạng Internet.
Microsoft Excel: Phần mềm tạo bảng tính để xây dựng các kế hoạch, các
chi phí tài chính, hoặc lưu trữ và tính điểm của học sinh. Excel mạnh ở điểm là
có thể đưa vào những phương pháp tính toán, thống kê tùy ý một cách rất dễ
dàng.
Microsoft Outlook: Phần mềm gửi nhận thư điện tử. Đã qua rồi thời kỳ
mà các đơn vị hoặc cá nhân trao đổi với nhau với nhau hoàn toàn bằng công
văn giấy tờ hoặc gọi điện thoại (thậm chí điện thoại đường dài) trong những
công việc thường ngày. Ngày nay thư điện tử đã được sử dụng chủ yếu, với
những ưu điểm vượt trội như rẻ tiền, thông tin nhanh chóng và đơn giản. Mỗi cá
nhân sẽ có một địa chỉ thư điện tử riêng. Microsoft Outlook là phần mềm hỗ trợ
việc quản lý và gửi nhận thư điện tử rất dễ dàng.
9
UniKey: Cài đặt phần mềm này, ta mới có thể gõ được tiếng Việt trong
các văn bản, thư tín, Ta có thể chọn kiểu gõ Telex hay VNI, có thể chọn mã

chữ là Unicode hay TCVN, Đặc biệt phần mềm có chức năng chuyển mã chữ
rất tiện lợi, giúp có thể đọc được những văn bản không dùng Unicode mà máy
tính không có font chữ tương ứng. Ví dụ trước đây các văn bản từ miền Bắc vào
miền Nam hoặc ngược lại thì đều không thể đọc được, vì miền Bắc dùng mã
TCVN, còn miền Nam thì dùng mã VNI.
Adobe Photoshop: Là phần mềm xử lý ảnh thông dụng nhất, với rất nhiều
tính năng từ nghiệp dư đến chuyên nghiệp đều có thể sử dụng được. Với những
chức năng cơ bản thì giáo viên và cán bộ quản lý cũng nên sử dụng được, vì nó
hiện nay dù làm bài giảng hay báo cáo, kế hoạch cũng ít nhiều sử dụng các tư
liệu ảnh (ảnh chụp hoặc hình vẽ).
2.3.2. Các phần mềm phục vụ cho giáo dục
Đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, chúng tôi khuyến khích học và
sử dụng các phần mềm sau vì sẽ rất có ích trong việc xây dựng các bài giảng hỗ trợ
cho việc giảng dạy.
Microsoft Powerpoint: Phần mềm cho phép soạn các bài trình chiếu hấp
dẫn để làm bài giảng điện tử. Powerpoint có thể sử dụng được các tư liệu ảnh
phim, cho phép tạo được các hiệu ứng chuyển động khá hấp dẫn và chọn các
mẫu giao diện đẹp.
Hiện nay, phần lớn các bài giảng điện của giáo viên ở Việt Nam đều sử
dụng phần mềm Powerpoint, tuy nhiên, xu hướng đang chuyển dần sang các
phần mềm khác hiện đại hơn, dễ dùng hơn và không gặp phải vấn đề bản
quyền.
Phần mềm Violet: Dùng cho giáo viên có thể tự thiết kế và xây dựng
được những bài giảng điện tử sinh động, hấp dẫn, để trợ giúp cho các giờ dạy
học trên lớp (sử dụng với máy chiếu projector hoặc ti vi), hoặc để đưa lên mạng
Internet. Tương tự như Powerpoint nhưng Violet có nhiều điểm mạnh hơn như
giao diện tiếng Việt, dễ dùng, có những năng chuyên dụng cho bài giảng như
10
tạo các loại bài tập, chức năng thiết kế chuyên cho mỗi môn học, và đặc biệt là
khả năng gắn kết được với các phần mềm công cụ khác.

Macromedia Flash: Đây là phần mềm cho phép vẽ hình, tạo ra hình ảnh
động, các hiệu ứng chuyển động và biến đổi, lập trình tạo ra các hoạt động mô
phỏng và tương tác sinh động, hấp dẫn. Để sử dụng tốt Flash đòi trình độ người
sử dụng cũng phải ở mức khá và phải thực hành nhiều. Thông thường không
dùng Flash để tạo cả một bài giảng vì nó sẽ tốn khá nhiều công sức, mà chỉ
dùng để tạo ra các tư liệu rồi kết hợp với Violet hoặc Powerpoint để tạo thành
một bài giảng hoàn chỉnh.
2.4. Sử dụng Internet trong việc tìm kiếm các thông tin trực tuyến
Chúng ta có thể tự xây dựng một kho tài nguyên dạy học với vài nghìn tư
liệu, nhưng như vậy liệu đã đủ chưa. Thực ra, việc đó giờ không còn là vấn đề
cần lo lắng vì Internet đã chính là một thư viện không lồ, là nơi lưu chứa tri
thức của toàn nhân loại với hàng tỷ tư liệu và các bài viết của mọi lĩnh vực, đặc
biệt các thông tin trên đó luôn được cập nhật từng ngày, từng giờ. Như vậy một
vấn đề quan trọng và bắt buộc đối với giáo viên trong việc ứng dụng CNTT
trong dạy học là phải biết khai thác nguồn tài nguyên phong phú trên Internet.
Có 2 phương pháp để khai thác các thông tin phục vụ cho việc giảng dạy
như sau:
a) Truy cập các thư viện tài nguyên trực tuyến
Thông thường hiện nay, các thư viện lớn đều được phát triển theo mô hình
xã hội, nội dung sẽ do chính người sử dụng cùng xây dựng lên với số lượng
người tham gia xây dựng lên đến hàng triệu người. Trên thế giới đã xuất hiện
các thư viện nổi tiếng như:
- Wikipedia.org (trang tiếng Việt là vi.wikipedia.org) là hệ thống bách
khoa toàn thư khổng lồ với đầy đủ tri thức nhân loại từ xưa đến nay, do hàng
chục triệu tình nguyện viên trên thế giới đóng góp xây dựng. Có thể tìm ở đây
từ các kiến thức khoa học phổ thông đến các nghiên cứu khoa học chuyên
ngành, tìm hiểu về tiểu sử những người nổi tiếng cho đến những vấn đề thời sự
được cập nhật hàng ngày v.v
11
- Youtube.com, là trang web chia sẻ video lớn nhất thế giới, ở đây chúng ta

có thể dễ dàng tìm được những tư liệu phim phù hợp với mục đích dạy học. Ở
Việt Nam cũng có trang chia sẻ video riêng ở địa chỉ Clip.vn
- Thư viện tư liệu giáo dục là trang web chia sẻ các tư
liệu phim, ảnh, flash phục vụ cho giáo dục và đào tạo của người Việt Nam, hiện
là trang web chia sẻ tư liệu dạy học duy nhất ở Việt Nam với gần 60.000 mục tư
liệu.
- Thư viện bài giảng điện tử: địa chỉ trang web là .
Đây là trang web cho phép giáo viên chia sẻ các bài giảng và giáo án của mình,
đồng thời tham khảo các bài giảng và giáo án của rất nhiều giáo viên khác trên
cả nước. Hiện tại trang web đã có trên 200.000 thành viên tham gia, với hàng
triệu lượt truy cập mỗi tháng, số lượng tài nguyên lên đến 50.000 bài giảng và
giáo án.
- Thư viện giáo trình điện tử: địa chỉ . Đây là trang
web tập hợp các giáo trình bậc đại học và chuyên ngành từ các dự án của Bộ
GD&ĐT với các trường Đại học lớn trên cả nước như Đại học Bách Khoa HN,
ĐH Sư phạm HN, Đại học Cần Thơ, Tuy nhiên đây không phải là trang web
cộng đồng nên lượng thông tin không lớn và không được cập nhật thường
xuyên.
b) Sử dụng các dịch vụ tìm kiếm như Google, Yahoo, Baamboo.
Có thể truy cập vào các trang web này qua các địa chỉ trang web tương ứng



Công cụ tìm kiếm trực tuyến là một trong những sản phẩm tuyệt vời nhất
của nền khoa học kỹ thuật hiện đại, nó quy tụ được tri thức nhân loại về một
nơi. Có thể nói chúng ta cần bất cứ thông tin gì thì các máy tìm kiếm này có
cung cấp cho chúng ta gần như ngay lập tức, từ hàng chục tỷ trang web và
nguồn tài nguyên khác nhau trên mạng Internet.
12
Ví dụ: một người nước ngoài muốn tìm hiểu về phở Hà Nội, họ chỉ cần lên

mạng, vào công cụ tìm kiếm, gõ chữ “phở Hà Nội” là có thể hiện ra hàng trăm
trang web về chủ đề này. Một người Hà Nội muốn có hình ảnh về chợ Bến Thành
thì chẳng cần phải vào tận HCM để chụp ảnh mà chỉ cần vào mạng, sau vài thao
tác đơn giản là có thể tìm được hàng chục bức ảnh.
Công cụ tìm kiếm thu nhỏ kho kiến thức khổng lồ của nhân loại thành
cuốn cẩm nang đầu giường đối với mỗi con người hiện đại. Ngay cả đối với
giáo viên thì cũng nên coi như việc ngồi máy tính để soạn bài giảng, giáo án là
phải kết nối Internet và sử dụng công cụ tìm kiếm Internet thì mới có thể tạo ra
những sản phẩm có chất lượng được.
Các công cụ tìm kiếm thực chất đã làm thay đổi một phần của thế giới, con
người không cần phải nhồi nhét những kiến thức khoa học và đời sống để trở
thành những học giả uyên thâm, mà chỉ cần là người có tư duy tốt, nhạy bén,
sáng tạo thì mới phát huy được hiệu quả trong công việc và nâng cao chất lượng
cuộc sống. Hiểu được điều này, chúng ta sẽ thấy rõ hơn những vấn đề cần làm
trong giáo dục hiện nay, nhất là giáo dục phổ thông.
2.5. Trao đổi chuyên môn, chia sẻ tài nguyên trên các mạng xã hội
Kết nối mạng Internet, giáo viên không chỉ có thể tìm thấy ngay những
kiến thức, nhưng tài nguyên mình cần mà còn có thể chia sẻ, trao đổi thông tin
với nhau. Hình thức trao đổi, chia sẻ thông tin với nhau đơn giản nhất là phổ
biến nhất hiện nay là thông qua các diễn đàn (forum) trên mạng.
Diễn đàn lớn nhất Việt Nam về giáo dục là trang diễn đàn Mạng giáo dục
của Bộ GD&ĐT, địa chỉ trong đó trao đổi về mọi vấn
đề liên quan đến giáo dục như giảng dạy, quản lý giáo dục, chống tiêu cực trong
giáo dục, các chính sách mới của Bộ GD&ĐT.
Diễn đàn giáo viên: địa chỉ , là diễn đàn chuyên cho
giáo viên trao đổi với nhau về những kinh nghiệm dạy học, các kiến thức về ứng
dụng CNTT trong dạy học.
Một hình thức trao đổi, chia sẻ thông tin khác nữa trên Internet là tham gia
các mạng xã hội. Ở các mạng này, mỗi người có thể xây dựng các blog (có thể
13

coi là trang web riêng) cho mình. Tại các blog, giáo viên có thể chia sẻ các kinh
nghiệm trong dạy học và trong cuộc sống. Bạn bè đồng nghiệp có thể vào xem
các blog của nhau và gửi lên ý kiến của mình. Ở các nước châu Âu, các giáo
viên sử dụng rất nhiều blog phục vụ cho công việc của mình.
Blog hiện nay đang được giới trẻ ưa chuộng, thực tế thì cũng có nhiều
điểm chưa tốt, chưa kiểm soát được. Tuy nhiên, tùy từng mục đích sử dụng, các
blog có thể phát huy tính tích cực rất cao, mà đặc biệt nếu các giáo viên biết sử
dụng để làm tốt hơn cho công việc giảng dạy của mình.
Các địa chỉ mạng xã hội để tạo blog được dùng nhiều nhất ở Việt Nam là:
: Là mạng xã hội phổ biến nhất hiện nay vì tính dễ
dùng và nó gắn liền với chương trình chat Yahoo Messager.
: Đây là mạng xã hội mà giáo viên và trí thức sử dụng
nhiều hơn do có giao diện đẹp và nhiều tính năng hấp dẫn.
2.6. Sử dụng các phần mềm nguồn mở thay cho các phần mềm bản quyền
Ngày nay, trong xu hướng hội nhập, việc tôn trọng bản quyền đang trở nên
một vấn đề không thể không quan tâm. Hầu hết ở Việt Nam hiện nay chúng ta
đang sử dụng các phần mềm vi phạm bản quyền, thậm chí vi phạm mà cũng
không biết rằng mình đang vi phạm. Giá thành của một phần mềm là không
nhỏ, thậm chí còn cao hơn cả giá thành của chiếc máy tính. Vì vậy với một
chiếc máy tính, tổng giá trị các phần mềm trong đó có khi lớn gấp hàng chục
lần giá trị của máy tính.
Trong vài năm gần đây, Chính phủ và các Bộ ngành cũng đã ra nhiều chỉ
thị về việc mua bản quyền các phần mềm trong các cơ quan hành chính Nhà
nước, tuy nhiên kết quả đạt được cũng chưa đáng kể là bao. Hiện nay, mới chỉ
có một số doanh nghiệp lớn của Việt Nam là có đủ tiềm năng để trang bị bản
quyền phần mềm cho đơn vị mình.
14
Vì vậy, do điều kiện kinh tế còn khó khăn, vả lại chúng ta đã quá quen với
việc dùng phần mềm mà không trả tiền nên việc mua bản quyền các phần mềm,
nhất là phần mềm của nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là không dễ thực

hiện. Một trong những giải pháp đơn giản cho vấn đề này là chúng ta tìm và sử
dụng các phần mềm miễn phí có tính năng gần tương tự như các phần mềm bản
quyền kia. Ví dụ: Hệ điều hành Linux thay cho Windows, bộ phần mềm Open
Office của hãng Sun là miễn phí và có thể sử dụng thay cho Microsoft Office,
v.v
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ban hành công văn số 12966/BGDĐT-
CNTT ngày 10/12/2007 về việc đẩy mạnh triển khai một số hoạt động về
CNTT trong đó có đề cập đến việc sử dụng các phần mềm mã nguồn mở, .cụ
thể 4 phần mềm cần thiết là OpenOffice, FireFox, Thunderbird và UniKey.
Dưới đây là một chương trình đào tạo các phần mềm mã nguồn mở của
công ty Bạch Kim. Qua đó chúng ta có thể thấy rất nhiều các phần mềm miễn
phí có thể hoàn toàn thay thế cho những phần mềm bản quyền đang sử dụng
hiện nay.
Buổi thứ 1
(sử dụng
OpenOffice
)
- Tập huấn sử dụng Open Office
o Soạn thảo văn phòng (Writer),
o Bảng tính điện tử (Spreasheet)
Buổi thứ 2
(sử dụng
OpenOffice
)
- Tập huấn sử dụng Open Office
o Trình chiếu (Presentation)
o Đồ hoạ (Draw)
o Cơ sở dữ liệu (Base)
Buổi thứ 3
(Các phần

mềm tiện
ích)
- Bộ gõ tiếng Việt UniKey
- Phần mềm duyệt web Mozilla FireFox
- Phần mềm xem phim VLC
- Phần mềm xem ảnh XnView và chỉnh sửa ảnh Gimp
Buổi thứ 4
(khai thác
Internet)
- Một số ứng dụng trên Internet:
o Thư điện tử trực tuyến (yahoo.com.vn, gmail.com)
o Phần mềm gửi nhận thư điện tử Thunderbird
15
o Công cụ tìm kiếm Google (kết hợp tra từ điển trực
tuyến)
o Bản đồ Trái Đất trực tuyến Google Earth
Buổi thứ 5
(khai thác
Internet)
- Khai thác kiến thức trên Internet:
o Khai thác kiến thức bách khoa (vi.wikipedia.org)
o Khai thác tư liệu và bài giảng (tulieu.edu.vn,
baigiang.edu.vn)
o Tham gia các diễn đàn (edu.net.vn, diễn đàn giáo
viên)
Buổi thứ 6
(trao đổi
trực tuyến)
- Trao đổi trực tuyến qua Yahoo Messenger
- Nói chuyện trực tuyến bằng Skype

- Làm bài kiểm tra trắc nghiệm đánh giá về khóa học.
3. Một số phần mềm tiêu biểu phục vụ dạy và học
3.1. Giới thiệu phần mềm Violet
Violet là phần mềm công cụ giúp cho giáo viên có thể tự xây dựng được
các bài giảng trên máy tính một cách nhanh chóng và hiệu quả. So với các công
cụ khác, Violet chú trọng hơn trong việc tạo ra các bài giảng có âm thanh, hình
ảnh, chuyển động và tương tác rất phù hợp với học sinh từ tiểu học đến
THPT.
Violet được viết tắt từ cụm từ tiếng Anh: Visual & Online Lesson Editor
for Teachers (công cụ soạn thảo bài giảng trực tuyến dành cho giáo viên).
Tương tự phần mềm Powerpoint, Violet có đầy đủ các chức năng dùng để
tạo các trang nội dung bài giảng như: cho phép nhập các dữ liệu văn bản, công
thức, các file dữ liệu multimedia (hình ảnh, âm thanh, phim, hoạt hình Flash ),
sau đó lắp ghép các dữ liệu, sắp xếp thứ tự, căn chỉnh hình ảnh, tạo các hiệu
ứng chuyển động và biến đổi, thực hiện các tương tác với người dùng Riêng
đối với việc xử lý những dữ liệu multimedia, Violet tỏ ra mạnh hơn so với
Powerpoint, ví dụ như cho phép thể hiện và điều khiển các file Flash hoặc cho
phép thao tác quá trình chạy của các đoạn phim v.v
16
Violet cũng có các module công cụ dùng cho vẽ hình cơ bản và soạn thảo
văn bản nhiều định dạng (Rich Text Format). Ngoài ra, Violet còn cung cấp sẵn
nhiều mẫu bài tập chuẩn thường được sử dụng trong các SGK và sách bài tập
như:
- Bài tập trắc nghiệm, gồm có các loại: một đáp án đúng, nhiều đáp án
đúng, ghép đôi, chọn đúng sai, v.v
- Bài tập ô chữ: học sinh phải trả lời các ô chữ ngang để suy ra ô chữ dọc.
- Bài tập kéo thả chữ / kéo thả hình ảnh: học sinh phải kéo thả các đối
tượng này vào đúng những vị trí được quy định trước trên một hình ảnh
hoặc một đoạn văn bản. Bài tập này còn có thể thể hiện dưới dạng bài
tập điền khuyết hoặc ẩn/hiện.

Ngoài các module dùng chung và mẫu bài tập như trên, Violet còn hỗ trợ
sử dụng rất nhiều các module chuyên dụng cho từng môn học, giúp người dùng
có thể tạo được những trang bài giảng chuyên nghiệp một cách dễ dàng:
- Vẽ đồ thị hàm số: Cho phép vẽ được đồ thị của bất kỳ hàm số nào, đặc
biệt còn thể hiện được sự chuyển động biến đổi hình dạng của đồ thị khi
thay đổi các tham số của biểu thức.
- Vẽ hình hình học: Chức năng này tương tự như phần mềm Geometer
SketchPad, cho phép vẽ các đối tượng hình học, tạo liên kết và chuyển
động. Đặc biệt, người dùng có thể nhập được các mẫu mô phỏng đã làm
bằng SketchPad vào Violet.
- Ngôn ngữ lập trình mô phỏng: Một ngôn ngữ lập trình đơn giản, có độ
linh hoạt cao, giúp người dùng có thể tự tạo ra được các mẫu mô phỏng
vô cùng sinh động.
Violet còn cho phép chọn nhiều kiểu giao diện (skin) khác nhau cho bài
giảng, tùy thuộc vào bài học, môn học và ý thích của giáo viên.
Sau khi soạn thảo xong bài giảng, Violet sẽ cho phép xuất bài giảng ra
thành một thư mục chứa file EXE hoặc file HTML chạy độc lập, tức là không
cần Violet vẫn có thể chạy được trên mọi máy tính, hoặc đưa lên máy chủ thành
các bài giảng trực tuyến để sử dụng qua mạng Internet.
17
Violet có giao diện được thiết kế trực quan và dễ dùng, ngôn ngữ giao tiếp
và phần trợ giúp đều hoàn toàn bằng tiếng Việt, nên phù hợp với cả những giáo
viên không giỏi Tin học và Ngoại ngữ. Mặt khác, do sử dụng Unicode nên font
chữ trong Violet và trong các sản phẩm bài giảng đều đẹp, dễ nhìn và có thể thể
hiện được mọi thứ tiếng trên thế giới. Thêm nữa, Unicode là bảng mã chuẩn quốc
tế nên font tiếng Việt luôn đảm bảo tính ổn định trên mọi máy tính, mọi hệ điều
hành và mọi trình duyệt Internet.
3.2. Cài đặt và chạy chương trình
Có thể download và cài đặt phần mềm Violet từ đĩa CD hoặc theo địa chỉ
website của công ty Bạch Kim: .

Chạy chương trình Violet, giao diện chính của chương trình sẽ hiện ra như
hình dưới đây. Lưu ý khi gõ tiếng Việt, bạn phải tắt các bộ gõ như ABC,
VietKey, UniKey, để sử dụng chế độ gõ tiếng Việt của Violet.
18
4. Giới thiệu một số website phục vụ công tác giảng dạy.
4.1. Trang web đào tạo kỹ năng vi tính trực tuyến trực tuyến cho giáo viên
Địa chỉ website:
19
Cấu trúc bài giảng
Giao diện bài giảng
Danh sách file dữ liệu
Hình 1: Giao diện chương trình Violet
Menu và các nút chức năng
Figure 4-1. Giao diện của trang web đào tạo trực tuyến
Đến với trang web, các thầy cô sẽ có điều kiện nâng cao trình độ Tin học
của mình chỉ trong thời gian ngắn mà không phải trả bất kì chi phí gì. Đây là
nơi tập hợp rất nhiều những đoạn video hướng dẫn sử dụng các phần mềm và
các dịch vụ trực tuyến, bao gồm: công cụ soạn thảo bài giảng Violet, sử dụng
Thư viện giáo dục, sử dụng Macromedia Flash, tìm kiếm tư liệu trên Internet,
đăng kí và sử dụng hòm thư điện tử Yahoo, Gmail và sử dụng các phần mềm
nguồn mở… Các thầy cô có thể theo dõi cách thực hành và nghe hướng dẫn
thông qua các đoạn video được biên tập công phu và chu đáo, rất trực quan và
có thể dễ dàng làm theo, ngay cả đối với những người lần đầu sử dụng máy vi
tính. Hơn nữa website còn kèm theo các tài liệu hướng dẫn thực hành được
trình bày ngắn gọn, dễ hiểu để giáo viên có thể tải về, in ra và sử dụng như một
cuốn cẩm nang vi tính cho mình.
Website sẽ là nơi tạo ra bước ngoặt cho các thầy cô trong việc sử dụng vi
tính để áp dụng vào giảng dạy nói riêng và cuộc sống nói chung. Với website
này, Công ty Bạch Kim mong muốn đóng góp nhiều hơn nữa vào sự phát triển
giáo dục của nước nhà đồng thời giúp các thầy cô bước vào năm học 2008-

2009, năm học công nghệ thông tin do Bộ GD&ĐT phát động, một cách chủ
động nhất.
20
4.2. Các hệ thống Thư viện trực tuyến của công ty Bạch Kim
4.2.1. Hệ thống Thư viện tư liệu giáo dục ()
Figure 4-2. Giao diện trang Thư viện tư liệu giáo dục
Bài giảng điện tử phải sử dụng nhiều tư liệu multimedia thì mới có thể phát
huy được hiệu quả của ứng dụng CNTT trong dạy học: sinh động, hấp dẫn, thể
hiện được nhiều kiến thức của bài học, giúp học sinh thích học, học nhanh, nhớ
lâu, v.v… Hiện nay, các bài giảng điện tử còn ít, chưa hay, thậm chí có thể phản
tác dụng trong dạy học, mà nguyên nhân chính là do việc tìm tư liệu còn rất
nhiều khó khăn.
Giải pháp cho vấn đề này chính là Thư viện tư liệu giáo dục. Đây là một hệ
thống các tư liệu multimedia bao gồm: các mô phỏng, hình ảnh, đoạn phim, âm
thanh với nội dung thể hiện những phần kiến thức trong các bài học. Các tư
liệu này sẽ được lắp vào một bộ khung chương trình cùng với các lý thuyết,
hướng dẫn và bài tập để tạo thành một bài giảng điện tử có chất lượng cao.
21
22
Giáo viên
Công cụ tạo
bài giảng
Thư viện
tư liệu
Bài giảng
điện tử
Học sinh
Giáo viên
4.2.2. Hệ thống Thư viện bài giảng điện tử ()
Figure 4-3. Giao diện trang Thư viện Bài giảng điện tử

Đây là hệ thống tập hợp rất nhiều các bài giảng mẫu do giáo viên các nơi
đóng góp. Các bài giảng được xây dựng bằng 4 định dạng phổ biến hiện nay là:
• Microsoft Powerpoint, Microsoft Word
• Công cụ soạn thảo bài giảng trực tuyến Violet
• Các bài giảng e-learning đưa lên theo chuẩn SCORM
• Các bài giảng soạn bằng công cụ chuyên dụng như SketchPad, Cabri,
• Các tiết giảng quay video và bài giảng mô phỏng Flash
Các bài giảng mẫu sẽ là những tài liệu tham khảo vô cùng hữu ích, để từ
đó giáo viên có thể thu nhặt, học tập được các ý tưởng hay và áp dụng nâng cao
chất lượng bài giảng của riêng mình. Với một bài giảng được đưa lên thư viện
thì cũng sẽ nhận được rất nhiều góp ý từ cộng đồng để tác giả chỉnh sửa lại cho
ngày một tốt hơn, đồng thời việc một bài giảng được tham khảo nhiều lần cũng
là một thước đo đánh giá chất lượng bài giảng, qua đó khẳng định được trình độ
của tác giả.
23
4.2.3. Những lợi ích và xu hướng phát triển của các hệ thống mở
Thư viện tư liệu giáo dục và Thư viện bài giảng điện tử là các hệ thống
mở, không những giúp giáo viên có thể download các tư liệu dạy học và các bài
giảng mẫu mà còn cho phép giáo viên có thể đưa các tư liệu và bài giảng của
mình lên để chia sẻ với mọi người. Việc sử dụng các hệ thống mở như trên hiện
nay đang là xu hướng tất yếu của ngành CNTT, với những ưu điểm vượt trội là:
• Hoàn toàn miễn phí.
• Có hệ thống dữ liệu khổng lồ vì là do cộng đồng cùng xây dựng.
• Luôn được cập nhật thường xuyên, từng ngày, từng giờ.
• Các tư liệu cũng như bài giảng có chất lượng cao vì được chọn lọc và
tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau. Ngoài ra công ty Bạch Kim cũng luôn có
một đội ngũ kỹ thuật thường xuyên xây dựng các tư liệu mới và bài giảng mới
theo yêu cầu của giáo viên các nơi để đưa lên Thư viện.
• Thư viện cũng là kênh kết nối các giáo viên trên cả nước, giúp mọi
người học hỏi và chia sẻ với nhau nhiều vấn đề trong công việc của mình.

Đây cũng là tư tưởng chủ đạo trong công văn số 9584/BGDĐT-CNTT của
Bộ GD&ĐT về việc Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2007-2008 về
CNTT và phát động năm học 2008-2009 là năm CNTT. Vì vậy, mặc dù mới
triển khai 2 hệ thống này từ tháng 9/2007, tuy nhiên chúng tôi đã nhận được sự
hưởng ứng của rất đông giáo viên trên cả nước (gần 40.000 người). Hiện hai hệ
thống thư viện đã có hơn 40.000 mục tư liệu và gần 8.000 bài giảng mẫu.
Trên thế giới cũng đã có những thư viện trực tuyến do cộng đồng phát triển
đã rất nổi tiếng như thư viện Bách khoa toàn thư Wikipedia.org, thư viện chia sẻ
video trực tuyến YouTube.com, thư viện mã nguồn CodeProject.com v.v Chính
vì vậy, mô hình “mở” chính là xu thế phát triển của tất cả các hệ thống công nghệ
thông tin trong hiện tại và tương lai gần.
24
4.3. Trường học thời đại số:
- Đơn vị chủ quản Hội khuyến học Việt Nam, giám đốc hocmai.vn là ông
Phạm Thanh Lâm. Hocmai.vn là đối tác của IDGVV, một quỹ đầu tư
nước ngoài rất lớn ở VN.
- Hocmai hướng đến đối tượng học sinh, có các bài giảng cho học sinh vào
tự học, đồng thời có ngân hàng câu hỏi lớn, có chức năng tạo ra các đề thi
và tổ chức thi. Hiện hocmai tổ chức các cuộc thi Tú tài số thu hút được
nhiều học sinh tham gia.
- Hiện hocmai đã thu tiền thành viên vào học và vào kiểm tra.
- Hocmai có đội ngũ thu thập tin tức giáo dục đầy đủ, xây dựng một trang
tin điện tử cho giáo dục một cách chuyên nghiệp.
Figure 4-4. Giao diện trang chủ hocmai.vn
Tiếp nối truyền thống hiếu học quý báu của cha ông từ ngàn xưa, các thế
hệ học trò Việt thời nay vẫn đang ngày đêm miệt mài học tập, tích lũy tri thức
để chuẩn bị vững chắc cho tương lai lâu dài của bản thân, để góp công học tập
25

×