Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

thời hiệu trong dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.66 KB, 31 trang )

Đề tài: thời hiệu trong dân sự
Phần mở đầu: Tính cấp thiết của đề tài.
Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự là thời hạn mà khi kết thúc
thời hạn đó thì người có nghĩa vụ dân sự được miễn thực hiện nghĩa vụ.
Thời hiệu trong dân sự là một vấn đề rất phức tạp và còn
nhiều vướng mắc. Trên thực tế nhiều vụ việc dân sự không
giải quyết được là do vấn đề nhầm lẫn về thời hiệu trong dân
sự. Nhiều vụ việc giải quyết sai là do Tòa án ở các địa
phương áp dụng sai thời hiệu. Vì có nhiều văn bản qui định
khác nhau về việc áp dụng thời hiệu đã làm cho việc áp dụng
thời hiệu đối với các vụ việc dân sự gặp nhiều khó khăn, gây
ra hiện tượng chồng chéo giữa các cơ quan với nhau. Thời
hiệu là yếu tố để định người đó có quyền hay không có quyền,
phải thực hiện nghĩa vụ hay không thực hiện nghĩa vụ do đó
thời hiệun là yếu tố quan trọng trong giải quyết vụ việc dân
sự.
Chính vì tầm quan trọng đó nên qua đề tài này tôi muốn
làm rõ hơn về thời hiệu trong các văn bản pháp luật hiện hành
thực tiễn với thực tiễn áp dụng ở tòa án địa phương để từ đó
rút ra điểm khác nhau và tìn ra nguyên nhân, giải pháp để
khắc phục.
Phần một: Lý luận về thời hiệu trong dân sự.
1. Khái niệm về thời hiệu.
Thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời
hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ
dân sự hoặc mất quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyền yêu cầu giải quyết
việc dân sự.
- Các loại thời hiệu và cách tính thời hiệu.
1.1. Các loại thời hiệu.
Có bốn loại thời hiệu được quy định tại điều 155 BLDS 2005:
- Thời hiệu hưởng quyền dân sự là thời hạn mà khi kết thúc


thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự
- Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi
kiện để yêu cầu tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi
kiện.
- Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là thời hạn mà chủ
thể được quyền yêu cầu tòa án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích
của Nhà nước, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu.
1.2. Cách tính thời hiệu.
Thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu tiên của thời
hiệu và chấm dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu.
2. Bắt đầu thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu
giải quyết việc dân sự.
Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày quyền, lợi ích
hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được tính từ ngày phát
sinh quyền yêu cầu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (theo
điều 159 BLDS 2005).
Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 quy định nếu phâp luật
không có quy định khác thời hiệu giải quyết vụ án dân sự bao gồm vụ án
dân sự, vụ án kinh doanh thương mại, vụ án lao động là 2 năm kể từ
ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan tổ chức bị xâm
phạm.
3. Hiệu lực của thời hiệu hưởng quyền dân sự, miễn trừ nghĩa
vụ dân sự.
Trong trường hợp pháp luật quy định cho các chủ thể được hưởng
quyền dân sự hoặc được miễn trừ nghĩa vụ dân sự theo thời hiệu thì chỉ
sau khi thời hiệu đó kết thúc, việc hưởng quyền dân sự và miễn trừ nghĩa
vụ dân sự thì mới có hiệu lực.

- thời hiệu hưởng quyền dân sự không áp dụng trong các
trường hợp sau đây:
+ Chiếm hữu tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước không có
căn cứ pháp luật.
+ Việc hưởng quyền nhân thân không gắn với tài sản
- Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự không áp dụng trong việc
thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với Nhà nước, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác (theo điều 157).
4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự.
Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự không áp dụng trong những
trường hợp sau đây:
- Yêu cầu hoàn trả tài sản thuộc hình thức sở hữu Nhà nước.
- Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân bị xâm phạm, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
- Các trường hợp khác do pháp luật quy định (theo điều 160).
5. Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự,
thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự.
Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời
hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong
các sự kiện sau đây:
- Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ
thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu
trong phạm vi thời hiệu.
Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan
không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp
dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
- Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền
khởi kiện, người có quyền yêu cầu chưa thành niên, mất năng lực hành
vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
- Chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì lí do chính

đáng khác mà không thể tiếp tục đại diện được trong trường hợp người
đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chết.
II. Thời hiệu áp dụng trong luật dân sự.
1. Việc áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế.
1.1. Quyền thừa kế.
Quyền thừa kế quy định tại khoản 1 điều 36 Pháp lệnh Thừa kế
năm 1990, Điều 648 của Bộ luật dân sự bao gồm quyền yêu cầu chia di
sản thừa kế, quyền yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc
quyền yêu cầu bác bỏ quyền thừa kế của người khác.
1.2. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế.
 Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 1/7/1996, thì thời
hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều
36 của pháp lệnh thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại nghị quyết
02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối
cao “ hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế”.
Khi xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà thời điểm
mở thừa kế trước ngày 1/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày
1/7/1996 đến ngày 1/1/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện.
 Đối với trường hợp thừa kế mở từ ngày 1/7/1996 thì thời
hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều
648 của Bộ luật Dân sự.
1.3. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện
nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di
sản.
 Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 01/7/1996 thì
thời hiệu khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản
do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản được thực hiện
theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế và hướng dẫn tại nghị
quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của hội đồng Thẩm phán Tòa án

nhân dân tối cao “ hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh
Thừa kế”. Nếu nghĩ vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các
khoản chi từ di sản được phát sinh trước ngày 1/7/1991 có liên quan đến
nhà ở thì thời gian từ ngày 1/7/1996 đến ngày 1/1/1999 không tính vào
thời hiệu khởi kiện.
 Đối với trường hợp thừa kế mở từ ngày 1/7/1996 thì thời
hiệu khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do
người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản được thực hiện theo
quy định của Bộ luật dân sự. Việc xác định thời hiệu khởi kiện phải căn
cứ vào quy định tại các điều 639, 640 và 418 của Bộ luật Dân sự và
hướng dẫn tại các tiểu mục 1.2, 1.3, 1.4 mục một phần một cuả Nghị
quyết này.
1.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế.
 Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở
thừa kế mà cá đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà
các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản
cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm
mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa
nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài
sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải
quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp
dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và
cần phân biệt như sau:
 Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có
tranh chấp và thỏa thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc
khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện
theo di chúc.
 Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế về
phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài
sản chung đó được thực hiện theo thỏa thuận của họ.

 Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không
có thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài
sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của
pháp luật về chia tai sản chung.
 Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng
các thừa kế không trực tiếp quản lí, sử dụng mà di sản đó đang do người
khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo ủy quyền…
thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.
2. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu đối với
các giao dịch dân sự.
2.1. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày 1/7/1996
(ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực) mà các văn bản pháp luật trước đây có
quy định về thời hiệu (thời hiệu hưởng quyền dân sự, thời hiệu miễn trừ
nghĩa vụ dân sự và thời hiệu khởi kiện) thì phải áp dụng các quy định về
thời hiệu của các văn bản pháp luật đó để xác định thời hiệu còn hay hết,
không phân biệt giao dịch đó được thực hiện xong trước ngày 1/7/1996
hay từ ngày 1/7/1996. Trong trường hợp từ ngày 1/7/1996 các bên tham
gia giao dịch dân sự có thỏa thuận bổ sung thì cần phân biệt như sau:
 Trường hợp các bên đang tiếp tục thực hiện hợp đồng dân sự
hoặc khi hết thời hạn thực hiện hợp đồng, có thỏa thuận kéo dài thời hạn
thực hiện hợp đồng đó thì việc xác định thời hiệu căn cứ vào thỏa thuận
của các bên và được thực hiện theo quy định của các văn bản pháp luật
có hiệu kực tại thời điểm giao kết hợp đồng.
 Trường hợp các bên đang tiếp tục thực hiện hợp đồng dân
sự, có thỏa thuận bổ sung mà thỏa thuận đó là một phần không tách rời
của hợp đồng dân sự đó thì việc xác định thời hiệu đối với hợp đồng nói
chung (bao gồm cả thỏa thuận mới) được thực hiện theo quy định của
các văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm giao kết hợp đồng.
 Trường hợp các bên đang tiếp tục thực hiện hợp đồng dân
sự, có thỏa thuận bổ sung mà thỏa thuận đó như một hợp đồng mới thay

thế hợp đồng cũ hoặc hoàn toàn độc lập với hợp đồng cũ, thì việc xác
định thời hiệu đối với thỏa thuận mới được thực hiện theo quy định của
Bộ luật dân sự.
2.2. Đối với giao dịch dân sự được xác lập từ ngày 1/7/1996 đến
trước ngày 1/1/2005.
mà Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật khác không có quy định
thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu, thì kể từ ngày 1/1/2005 (ngày bộ
luật tố tụng dân sự được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 có hiệu
lực) việc xác định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được thực hiện
theo quy định tại điều 159 của bộ luật tố tụng dân sự; cụ thể như sau:
 Thời hiệu yêu cầu để tòa án giải quyết vụ án dân sự là hai
năm, kể từ ngày 1/1/2005, nếu tranh chấp phát sinh trước ngày 1/1/2005
hoăcj kể từ ngày phát sinh tranh chấp, nếu tranh chấp phát sinh từ ngày
1/1/2005.
 Thời hiệu yêu cầu để Tòa án giải quyết việc dân sự là 1 năm,
kể từ ngày 1/1/2005, nếu quyền yêu cầu phát sinh trước ngày 1/1/2005
hoặc kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, nếu yêu cầu phát sinh từ ngày
1/1/2005.
2.3. Đối với giao dịch dân sự được xác lập từ ngày 1/1/2005 mà
Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật khác không có quy định thời
hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu, thì thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu
cầu được thực hiện theo quy định tạiđiều 159 Bộ luật tố tụng Dân sự.
2.4. Về thời hạn yêu cầu tòa tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
 Đối với giao dịch dân sự được giao kết trước ngày 1/7/1996
thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 15 của pháp lệnh Hợp đồng
dân sự năm 1991 bao gồm: nội dung hợp đồng vi phạm điều cấm của
pháp luật hoặc trái với đạo đức của xã hội; một hoặc các bên không có
quyền giao kết hợp đồng (chủ thể giao kết hợp đồng không thuộc một
trong các trường hợp quy định tại Điều 3 Pháp lệnh hợp đồng năm
1991), thì thời gian yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu

không bị hạn chế. Trong mọi thời điểm một bên hoặc các bên đều có
quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Trong trường hợp các bên vẫn thực hiện hợp đồng và phát sinh
tranh chấp, cho nên một bên hoặc các bên khởi kiện yêu cầu Tòa án giải
quyết, nếu trong quá trình giải quyết Tòa án xác định giao dịch dân sự đó
là vô hiệu thuộc trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 15 của Pháp
lệnh Hợp đồng dân sự, thì Tòa án có quyền tuyên bố giao dịch dân sự đó
vô hiệu và xử lí hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định của văn
bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm giao dịch được xác lập.
 Đối với giao dịch dân sự được giao kết trước ngày 1/7/1996
thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 15 của Pháp
lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 bao gồm: hợp đồng dân sự vô hiệu do
người chưa thành niên xác lập, thực hiện ( do có vi phạm quy định tại
khoản 2 và khoản 3 Điều 3 Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991); do
một bên bị nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng; bị đe dọa hoặc
bị lừa dối, thì thời hạn yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
theo quy định tại Điều 56 của Pháp lệnh hợp đồng dân sự là 3 năm, kể từ
ngày giao dịch dân sự được xác lập. Hết thời hạn 3 năm mà không có
yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, thì giao dịch dân sự
đó được coi là có hiệu lực.
Trong trường hợp các bên vẫn thực hiện hợp đồng và phát sinh
tranh chấp, cho nên một bên hoặc các bên khởi kiện yêu cầu Tòa án giải
quyết, nếu đã hết thời hạn 3 năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác
lập, thì họ không có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó
vô hiệu vì lí do vi phạm quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 15 của
Pháp lệnh hợp đồng dân sự.Trong trường hợp này Tòa án tiến hành giải
quyết tranh chấp giao dịch dân sự theo thủ tục chung.
 Đối với giao dịch dân sự được giao kết từ ngày 1/7/1996 mà
có yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dânc sự vô hiệu, thì áp dụng các
quy định tại Điều 145 của Bộ luật dân sự về thời hạn yêu cầu Tòa án

tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
2.5. Đối với giao dịch dân sự về nhà ở thuộc đối tượng điều chỉnh
của Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước
ngày 1/7/1991 và theo hướng dẫn tại Thông tư Liên tịch số
01/1999/TTLT ngày 25/1/1999 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao “hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Nghị quyết
về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội” thì thời gian từ ngày 1/7/1996 đến ngày
1/1/1999 không tính vào thời điểm khởi kiện.
 Ngày 20/10/1995, Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua BLDS 1995 (có hiệu lực từ ngày 1/7/1996), Điều 4
Nghị quyết Quốc hội khóa 9, kì họp thứ 8 về việc thi hành BLDS này có
quy định: “Đối với giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày
1/7/1991 thì sẽ thực hiện theo quy định của Quốc hội”. Do đó, sau khi
Nghị quyết nói trên có hiệu lực, Tòa án không thụ lí giải quyết các giao
dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991, nếu đã thụ lí thì
tạm đình chỉ giải quyết, chờ quy định mới của Quốc hội.
Ngày 20/8/1998, Ủy ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số
58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch dân sựu về nhà ở xác lập trước
ngày 1/7/1991 (viết tắt là Nghị quyết số 58/1998) đã có quy định cụ thể
về hướng giải quyết các tranh chấp này. Theo quy định tại khoản 2 Điều
17 của Nghị quyết số 58/1998 nói trên thì “thời gian từ 1-7-1996 đến
ngay Nghị quyết này có hiệu lực (ngày 1-1-1999) không tính vào thời
hiệu trong thủ tục giải quyết các vụ án dân sự đối với giao dịch dân sự về
nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991”. Như vậy đối với các giao dịch
dân sự về nhà ở xác lập trước ngày 1-7-1991 thì thời gian không tính vào
thời hiệu khởi kiện là 2 năm 6 tháng. Do đó, đối với các vụ án tranh chấp
di sản thừa kế có di sản là nhà ở mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 10-
9-1990, thì thời điểm để kết thúc thời hiệu của các tranh chấp về di sản

thừa kế được kéo dài hơn, (đến ngày 10-3-2003 mới hết thời hiệu khởi
kiện chia thừa kế).
Đối với các trường hợp mở thừa kế từ ngày 10-9-1990 thì thời
hiệu khởi kiện 10 năm được tính từ ngày mở thừa kế. Vì vậy, thời điểm
hết thời hiệu khởi kiện dài nhất theo quy dịnh của Nghị quyết số 58/1998
đối với các trường hợp mở thừa kế trước ngày 1-7-1991 mà có di sản là
nhà ở (chưa có tình huống có trở ngại khách quan hoặc trường hợp bắt
đầu lại thời hiệu khởi kiện) sẽ là ngày 30-12-2003 (vì thời gian từ ngày
1-7-1996 đén ngày 1-1-1999 là 2 năm 6 tháng không tính vào thời hiệu
khởi kiện).
2.6. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo quy định của Nghị quyết
1037/2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
 Tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 58/1998 đã quy định
“Nghị quyết này không áp dụng đối với giao dịch được xác lập trước
nVgày 1-7-1991 mà có người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân,
tổ chức nước ngoài tham gia”. Do đó, đối với các giao dịch dân sự về
nhà thuộc sỏ hữu tư nhân, được xác lập trước ngày 1-7-1991 mà có
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×