Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN Một số biện pháp giả toán có lời văn cho học sinh lớp 4 vùng dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.24 KB, 20 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong môn Toán lớp 4 các bài toán có lời văn chiếm vị trí quan trọng. Nó xuất
hiện ở các khâu trong quá trình dạy học toán, một phần lớn thời gian học toán của học
sinh dành cho việc giải các bài toán ấy. Kết quả học toán của học sinh được đánh giá
trước hết qua khả năng giải toán. Các em biết giải thành thạo các bài toán là tiêu
chuẩn đánh giá mỗi học sinh. Việc giải toán ở lớp 4 không chỉ hệ thống, củng cố việc
giải toán ở các lớp dưới, tạo cơ sở cho việc giải toán ở lớp 5 mà còn giúp các em củng
cố, vận dụng và hiểu sâu sắc thêm tất cả kiến thức về số học, đo lường, về các yếu tố
đại số, các yếu tố hình học đã học trong môn toán ở các lớp dưới và lớp 4. Hơn nữa,
phần lớn các biểu tượng, các khái niệm, các quy tắc, tính chất toán học ở lớp 4 đều
được tiếp thu qua con đường giải toán. Trong việc giải toán có lời văn đối với các em
vô cùng khó khăn. Các em thường đặt dấu của phép tính theo cảm tính, không cộng
thì trừ, không trừ thì nhân hoặc chia, may ra thì đúng, khi giáo viên đặt câu hỏi để
kiểm tra việc hiểu bài thì các em không trả lời được. Phần lớn đặt lời giải cho từng
phép tính thì đa số các em rất sợ và muốn lẩn tránh nó. Vì sao vậy ? Tôi cố gắng tìm
hiểu và thấy được vốn từ của các em rất nghèo nàn, khả năng hiểu nghĩa của từ hạn
chế, khả năng tư duy thiếu linh hoạt, sự chú ý, quan sát tưởng tượng kém, nhiều em
việc lĩnh hội kiến thức ở các lớp dưới không đầy đủ, thiếu vững chắc, thái độ thờ ơ với
việc giải toán, thiếu cố gắng.
Địa bàn nơi công tác 100% dân tộc thiểu số là người Banah, Jơrai nên gặp nhiều
khó khăn, các em sinh sống ở địa bàn xa xôi, tách biệt người Kinh. Trong sinh hoạt và
giao tiếp hằng ngày các cử chỉ sử dụng tiếng địa phương. Do đó vốn ngôn ngữ phổ
thông ở các em rất hạn chế, dẫn đến việc tiếp thu rất chậm (trong đó có cả môn toán
có lời văn). Các em là con em của gia đình nông dân nên đời sống kinh tế của gia đình
khó khăn, hầu hết số dân đông đều mù chữ nên họ không thể dạy dỗ thêm cho con em
ở nhà .
Từ thực tế trên tôi tìm nhiều biện pháp giúp các em tự mình giải được bài toán có
lời văn. Trong đó một số biện pháp mà tôi thử nghiệm hơn một năm qua cho học sinh
lớp 4 năm học trước, kết quả cho thấy việc giải toán có lời văn của học sinh trong lớp
có bước chuyển biến vượt bậc. Do vậy năm học 2013 - 2014 tôi áp dụng biện pháp
đó mà cải biến theo tình hình của lớp, giúp các em giải toán có lời văn trong năm học


này. Cho nên tôi quyết định chọn đề tài này: “Một số biện pháp giải toán có lời văn
của lớp 4 cho học sinh dân tộc ”. Sau đây là các việc tôi đã làm .


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ THỰC TIỂN
Đầu năm học 2013 - 2014 tôi được Ban Giám hiệu nhà trường tiếp tục phân
công dạy lớp 4. Tôi thấy có nhiều em giải toán có lời văn chưa tốt, các em làm bài
chậm và sai nhiều, cũng từ đó tôi tiến hành điều tra khảo sát chất lượng của học sinh.
1.1 Kết quả khảo sát :
Tổng số
học
sinh
20
Giỏi Khá Trung bình Yếu
Số
lượng
Tỉ lệ Số
lượng
Tỉ lệ Số
lượng
Tỉ lệ Số
lượng
Tỉ lệ
0 4 20% 7 35% 9 45%
Xác nhận của Ban giám hiệu
1.2 Nguyên nhân:
1.2.1 Nguyên nhân chủ quan :
* Giáo viên
- Giáo viên chưa nghiên cứu kỹ bài dạy, chưa quan tâm đúng mức đến việc dạy

trên lớp .
- Một số giáo viên tiến hành dạy môn toán với xu hướng song song, các bước trên
lớp rồi buông xuôi kết quả, về chất lượng tiếp thu bài của học sinh thì không quan tâm
đến .
- Chưa gây hứng thú học tập trong tiết học cho học sinh .
- Hệ thống các câu hỏi chưa rõ ràng .
* Học sinh
- Đa số học sinh không nhớ các dạng bài toán giải, không xác định được trọng
tâm của bài, không tìm ra cách giải của bài toán, còn lúng túng khi thực hiện các phép
tính, sai cách viết lời giải, và ghi tên đơn vị .
- Không nhớ bảng cửu chương, công thức, khái niệm, quy tắc, biểu tượng.
- Học sinh đọc chậm, nhận biết nội dung bài toán không đúng.
- Không biết áp dụng công thức vào giải toán .
- Chưa có ý thức tự học ở nhà .
1.2.2 Nguyên nhân khách quan :
- Trong thời gian ba tháng nghỉ hè, học sinh không ôn lại bài cũ nên chóng quên
hết kiến thức đã học ở năm qua .
- Các em là con em của gia đình nông dân, phần nhiều phụ huynh các em trình độ
văn hoá còn thấp hầu hết số dân đông đều mù chữ, không thể kèm cặp các em ở nhà.
- Do vốn ngôn ngữ phổ thông ở các em rất hạn chế, dẫn đến việc tiếp thu rất chậm.

CHƯƠNG 2 :
BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
2.1 Mục tiêu.
Nội dung giải toán có lời văn ở lớp 4 đã kế thừa bổ sung và phát triển nội dung
dạy học giải toán có lời văn ở các lớp 1, 2, 3. Chẳng hạn học sinh được giải tiếp các
bài toán bằng một phép tính liên quan đến ý nghĩa của các phép tính: cộng, trừ, nhân,
chia với các số tự nhiên có nhiều chữ số hoặc với các phân số (mới học ở lớp 4). Tiếp
tục giải các bài toán chủ yếu có lời văn không quá 3 phép tính, làm quen với các bài
toán giải theo các bước hoặc công thức, công thức giải được tiếp cận các bài toán đa

dạng đòi hỏi cách giải linh hoạt .
Trong toán lớp 4 nội dung và phương pháp dạy học giải toán có lời văn tiếp tục
phát triển theo định hướng tăng cường rèn luyện phương pháp giải bài toán, phân tích
bài toán, tìm cách giải quyết vấn đề trong bài toán và cách trình bày bài toán. Qua đó
giúp học sinh rèn luyện khả năng diễn đạt lời nói và viết phát triển tư duy, khả năng
phân tích tổng hợp …Nội dung các bài toán có lời văn toán 4 có chất liệu phong phú,
cập nhật với thực tiễn và có hình thức thể hiện đa dạng phù hợp với học sinh tiểu học .
2.2 Một số biện pháp tiến hành :
Trước tiên tôi nghiên cứu thật kỹ để nắm bắt nội dung, chương trình toán có lời
văn ở lớp 4 và lớp dưới, cụ thể nắm vững tất cả các dạng toán đơn, toán hợp, toán
điển hình, toán có nội dung hình học ở lớp 4 và các lớp dưới, cách giải các loại toán
đó.
Cho học sinh ôn để nhớ lại các bảng cửu chương, các quy tắc: cộng, trừ, nhân,
chia, các khái niệm, các công thức, các quy tắc về toán học đã học ở các lớp dưới để
vận dụng vào từng bài học.
Nên tìm hiểu kỹ sách giáo khoa Toán 4, tham khảo sách giáo viên và một số tài
liệu liên quan khác để tự xác định được:
+ Mục tiêu từng bài học ( từng tiết học )
+ Nội dung trọng tâm và mức độ dạy học nội dung trọng tâm của tiết dạy.
+ Các hoạt động chủ yếu của học sinh và các phương pháp, phương tiện, hình
thức tổ chức dạy học để giúp học sinh đạt được mục tiêu của bài học theo từng năng
lực từng đối tượng của học sinh.
Tự lập kế hoạch dạy học môn Toán trong cả năm học, trong từng tuần lễ, từng
tiết học.
Dạy học trên cơ sở tổ chức và hướng dẫn các hoạt động học tập tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh, khuyến khích học sinh tự phát hiện, giải quyết vấn đề
của bài học để tự chiếm lĩnh kiến thức mới, dành thời lượng thích đáng cho thực hành,
luyện tập, ôn tập hoặc kiểm tra kiến thức có liên quan, phát triển năng lực tự học của
từng đối tượng học sinh .
Trong quá trình dạy học, giáo viên nên :

+ Linh hoạt áp dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Ở lớp 4 nên
khuyến khích học sinh phối hợp giữa học cá nhân, học theo nhóm nhỏ, học theo tổ,
và độc lập suy nghĩ trong học và làm bài.
+ Chỉ sử dụng thiết bị dạy học khi thực sự cần thiết: tạo điều kiện cho học sinh tự
huy động các kiến thức và kinh nghiệm đã có để phát hiện và giải quyết các vấn đề
của bài học, bài tập, hướng dẫn học sinh tập nêu nhận xét hoặc kết luận ở trọng tâm
khái quát hơn .
+ Trang trí phòng học để có môi trường học tập hấp dẫn, tạo tâm thế sẵn sàng
học tập của học sinh .
+ Luôn tạo bầu không khí thân thiện, hợp tác giữa giáo viên và học sinh, học sinh
và học sinh, giúp học sinh tự tin và có niềm tin trong học tập.
+ Tôn trọng khuyến khích sự tham gia của mọi đối tượng học sinh trong các hoạt
động học tập toán. Động viên và hướng dẫn học sinh tự đánh giá kết quả học tập của
bản thân, của bạn một cách khách quan, trung thực.
Để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy
học là một trong những trọng tâm của đổi mới phương pháp dạy học toán ở tiểu học.
Đây là việc làm đòi hỏi người giáo viên phải có quyết tâm cao và kiên trì trong nhiều
năm. Trong dạy học học Toán 4 có thể phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh như sau :
@ Khi dạy bài mới giáo viên nên :
- Tổ chức, hướng dẫn học sinh tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề của bài học
bằng cách :
+ Hướng dẫn học sinh tự phát hiện vấn đề của bài học rồi tổ chức cho học sinh
huy động những hiểu biết của bản thân (hoặc của một nhóm) để lập mối quan hệ giữa
vấn đề mới phát hiện với các kiến thức thích hợp đã biết, từ đó tự tìm cách giải quyết
vấn đề.
+ Trân trọng, khuyến khích mọi cách giải quyết vấn đề của học sinh và giúp đỡ
học sinh lựa chọn cách giải quyết hợp lý nhất .
- Từ đó tổ chức thực hành, vận dụng kiến thức mới học ngay trong tiết dạy học
bài mới để học sinh thực hành làm các bài tập ngay tại lớp, góp phần giúp học sinh tự

chiếm lĩnh kiến thức mới, bằng cách: Sử dụng các bài toán 4 để tổ chức cho học sinh
tự làm theo năng lực của mình. Sau mỗi bài tập (đặc biệt các bài tập 1,2) giáo viên nên
nêu một số câu hỏi để khi trả lời học sinh được ôn tập, củng cố lại kiến thức mới học.
- Ví dụ: Mảnh vải xanh dài 270 m. Mảnh vải trắng dài gấp 7 lần mảnh vải xanh.
Hỏi cả hai mảnh vải dài bao nhiêu mét ?
* Hướng dẫn học sinh phân tích đề toán:
+ Thông thường để phân tích một đề toán giáo viên thường hỏi:
- Bài toán cho biết gì ?
- Bài toán hỏi gì ?
- Bây giờ giáo viên không hỏi để học sinh trả lời mà nêu câu hỏi dưới một lệnh
làm việc:
+ Gạch 1 gạch dưới cái đã cho .
+ Gạch 2 gạch dưới câu hỏi của bài toán.
Nếu hỏi: Bài toán cho biết gì ? Bài toán hỏi gì ? Thì chỉ có một số em học sinh
giơ tay và giáo viên chỉ có thể chỉ định 1- 2 em đứng dậy trả lời. Với cách này không
phát huy được được tính tích cực của học sinh. Như nếu nêu câu hỏi dưới một lệnh
làm việc thì mọi học sinh của lớp đều phải:
- Mắt phải tập trung vào để đọc đề toán .
- Óc suy nghĩ xem đâu là cái phải cho, đâu là câu hỏi.
- Tay cầm bút gạch chân chúng .
+ Thế là, học sinh tất cả đều làm việc.
Hướng dẫn học sinh suy nghĩ để tìm cách giải bài toán:
Thường thì giáo viên hỏi học sinh để học sinh trả lời :
- Bài toán hỏi gì ? (cả hai mảnh vải dài mấy mét vải).
- Muốn biết cả hai mảnh vải dài bao nhiêu mét ta làm như thế nào ?(lấy vải xanh
+ vải trắng )
- Mảnh vải xanh biết chưa ( chưa biết).
- Muốn biết mảnh vải trắng dài bao nhiêu mét ta làm như thế nào?( lấy vải xanh
x 7 ).
- Bây giờ giáo viên có thể chuyển hệ thống câu hỏi trên thành một lệnh làm việc

bằng tay:
Hãy lập sơ đồ để phân tích bài toán .
Sau lệnh này mọi học sinh đều phải cố gắng suy nghĩ để lập nên một sơ đồ:
Cả hai mảnh vải
Xanh + Trắng
Xanh x 7
Giáo viên dễ phát hiện được những học sinh không chịu suy nghĩ để nhắc nhở,
học sinh nào còn lúng túng giáo viên kịp thời giúp đỡ có thể biết (chỉ cần đi lướt qua
một lượt để quan sát học sinh ).
Như vậy dạy theo cách đưa ra hệ thống lệnh làm việc, đã phát huy tính tích cực
học tập đối với học sinh, làm cho học sinh thích thú và tự hào khi tự mình đã thiết lập
được cách giải của bài toán
@Khi dạy học các tiết học luyện tập, luyện tập chung, thực hành, ôn tập nên:
+ Giúp học sinh tự phát hiện ra mối quan hệ giữa bài tập và các kiến thức đã học,
từ đó học sinh biết lựa chọn sử dụng những kiến thức thích hợp để giải bài tập.
+ Giúp học sinh tự luyện tập, thực hành theo từng khả năng của từng học sinh,
tránh cách dạy học “đồng loạt”, “bình quân”. Giáo viên cần quan tâm đúng mức đến
từng đối tượng học sinh khi tổ chức cho học sinh làm bài, chữa bài .
+ Khuyến khích sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh bằng cách phối hợp
giữa làm bài tập của từng cá nhân với trao đổi ý kiến trong nhóm về cách giải của bạn
để tự rút kinh nghiệm và hoàn chỉnh cách giải của bản thân. Không khuyến khích hiện
tượng làm hộ. Thiếu tự lực hoặc thiếu trung thực khi làm bài.
* Về phía học sinh giáo viên nên :
+ Ôn nhớ bảng cửu chương, công thức, khái niệm, quy tắc, biểu tượng, … đã
học.
+ Tập cho học sinh có thói quen tự kiểm tra, tự đánh giá, tự rút kinh nghiệm khi
làm bài và chữa bài.
+ Trước khi làm bài tập giáo viên nên cho học sinh đọc thật kỹ đề toán, xác định
rõ đâu là cái đã cho, đâu là cái cần tìm, rồi hướng học sinh tập trung suy nghĩ vào tìm
từ quan trọng của đề toán, nếu từ quan trọng nào học sinh chưa hiểu nghĩa thì giáo

viên nên gợi ý để học sinh hiểu rõ nghĩa của từ đó. Vì các từ đó chi phối cho việc
chọn dấu phép tính giải. Chỗ nào học sinh chưa hiểu giáo viên giải thích tỉ mỉ hoặc
dùng tranh, vật thật, sơ đồ đoạn thẳng để minh hoạ, dẫn chứng…. Sau đó giáo viên
hướng dẫn cách giải.
Đây là một trong những bước trọng tâm trong quá trình giải toán, đòi hỏi người
giáo viên là người dạy cần phải hoạt động sử dụng nhiều tình huống thông qua
phương pháp gợi mở, vấn đáp, với những câu hỏi đơn giản, đi từ dễ đến khó, có thể
chia thành nhiều ý nhỏ để giúp người học dễ tiếp nhận và thu thập được kiến thức một
cách dễ dàng, hơn nữa người học sẽ dễ nắm được kiến thức cũ có liên quan đến với
các kiến thức mới đang học để học sinh dễ hình thành kiến thức mới, dễ hình thành
cách giải bài toán một cách dễ dàng. Trong lúc hướng dẫn cách giải thì giáo viên phải
lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên hướng dẫn, khơi dậy, tư duy, sáng tạo của học
sinh qua các câu hỏi ngắn gọn, xúc tích, dễ hiểu hay sử dụng những đồ dùng trực quan
cho học sinh quan sát, nhận xét đi đến cách giải một cách dễ dàng hơn. Sau đó giáo
viên rèn cho học sinh hình thành bài giải. Phần này là phần quan trọng là cần rèn cho
học sinh một cách trình bày các câu trả lời, các phép tính đã hướng dẫn thành những
câu lời giải và các phép tính có kết quả đúng, rèn cho học sinh tính cẩn thận trong khi
làm toán. Trong lúc này người giáo viên cần phải theo dõi học sinh chỉnh sửa, bổ sung
giúp các em để hình thành kỹ năng giải toán có lời văn ngày một càng tiến bộ hơn.
Ví dụ: Chu vi một khu đất hình vuông là 208 m. Tính diện tích hình vuông ấy ?
Trước tiên người giáo viên phải định hướng cho học sinh nhớ lại các kiến thức cũ
đã học là : Tính diện tích hình vuông
- Học sinh suy nghĩ : Đây là loại bài toán"Tính diện tích hình vuông"có cách giải là
:
"Muốn tính diện tích hình vuông, ta lấy cạnh nhân với cạnh"
Rồi học sinh dựa vào hệ thống câu hỏi định hướng của giáo viên để tìm cách giải:
+ Bài toán cho biết gì? (Biết chu vi khu đất hình vuông là 208m).
+ Bài toán hỏi gì ? ( Tính diện tích khu đất )
+ Muốn tính diện tích hình vuông ta làm thế nào? (lấy cạnh nhân với cạnh)
+ Cạnh khu đất biết chưa? (chưa biết ).

+ Muốn tính cạnh của khu đất hình vuông ta làm thế nào? (Lấy chu vi chia cho 4)
Từ suy nghĩ trên đi ngược từ dưới lên ta có trình tự giải toán:
Cạnh khu đất hình vuông là:
208 : 4 = 52 (m)
Diện tích hình vuông là:
52 x 52 = 2704 (m
2
)
Đáp số : 2704 m
2
Ví dụ: Một trại gà có 234 con gà đẻ và có số gà con gấp 4 lần gà đẻ. Hỏi trại gà đó
có bao nhiêu con gà con?
Giáo viên hướng dẫn cho học sinh tập trung suy nghĩ vào:
+ Các sự kiện: Có 234 con gà đẻ
Số gà con gấp 4 lần gà đẻ
+ Từ quan trọng : gấp 4 lần
+ Câu hỏi: Có bao nhiêu con gà con?
Vẫn hướng dẫn học sinh dựa vào từ “Gấp” để chọn dấu phép tính và dựa vào các
dữ kiện để viết các thành phần trong các phép tính giải có để cách một dòng
……………………………………………………………………………………
234 x 4 = 936 (con)
Sau đó học sinh dựa vào câu hỏi của bài toán để đặt lời giải , chỉ sửa lại một chút
là được câu lời giải là :
Số con gà con của trại đó có là :
rồi viết vào dòng đã để cách ở trên .
Sau đó giáo viên đặt câu hỏi để học sinh nhớ lại loại toán đã học ở lớp 3 là "Gấp
một số lên nhiều lần" và chốt lại cách giải loại toán đó là :
" Lấy số đó nhân với số lần "
Mỗi khi gặp loại toán này giáo viên giúp học sinh củng cố lại kiến thức đã học
ở lớp 3 để khắc sâu cách giải toán có lời văn cho học sinh.

2.2.1 Phần giải toán điển hình :
Các bài toán điển hình là các bài toán hợp có cùng một cấu trúc toán học và
cùng một cách giải nhất định. Vì thế việc giải toán điển hình cũng tuân theo các bước
cần thiết khi giải một bài toán có lời văn ở trên. Song khi các em đã nắm vững quy tắc
chung của việc giải từng loại toán điển hình thì việc giải toán có cùng cấu trúc, các em
chỉ việc nhận dạng rồi áp dụng quy tắc để giải. Do vậy việc hình thành kiến thức mới
cho học sinh, giáo viên phải chuẩn bị kế hoạch dạy học thật chu đáo. Kế hoạch càng
chi tiết, tỉ mỉ bao nhiêu thì các em càng dễ dàng lĩnh hội và nắm chắc chắn kiến thức
bấy nhiêu. Khi gặp bài toán tương tự các em sẽ nhận ra ngay loại toán đó và có cách
giải nhanh chóng. Với các loại toán khó có ít học sinh có thể giải được, giáo viên có
thể chuẩn bị kế hoạch dạy học sao cho tất cả học sinh đều làm việc và nắm được một
số kiến thức cơ bản cho bài học.
Ví dụ: Dạy phần lý thuyết tiết: "Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của chúng”
- Giáo viên nêu bài toán :
Mẹ cho hai chị em tất cả 10 cây kẹo. Em được nhiều hơn chị 2 cái. Hỏi em được
mấy cái kẹo, chị được mấy cái kẹo?
+ Cho học sinh đọc kỹ đề, xác định cái đã cho và cái cần tìm trong bài toán.
+ Tổ chức làm việc trên đồ dùng học tập .
- Mỗi em lấy ra 10 chấm tròn bằng bìa (tượng trưng cho 10 cái kẹo ).
- Dùng phấn vẽ lên mặt bìa hai vòng tròn:1 vòng tròn lớn chứa kẹo của em, 1 vòng
tròn nhỏ chứa kẹo của chị.
- Giáo viên hỏi: Em được nhiều hơn chị mấy cái (2cái). Vậy ta lấy 2 kẹo cho em
trước rồi chia đôi phần còn lại .
- Học sinh lấy 2 cái kẹo bỏ vào vòng tròn lớn, còn lại:
10 - 2 = 8 cái kẹo
- Chia đều số còn lại cho 2 chị em mỗi phần được mấy cái ?
- Học sinh bỏ vào mỗi vòng tròn 4 chấm tròn: (8 : 2 = 4 cái )
- Vậy chị mấy cái kẹo? (4cái)
Em được mấy cái kẹo? (4 + 2 cái )
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh nhận dạng trên sơ đồ tóm tắt.

- Bài toán hỏi gì ? (Tìm kẹo của em, kẹo của chị )
Giáo viên nêu: Số kẹo của em, số kẹo của chị (chính là 2 số phải tìm )
- Số lớn là kẹo của ai (kẹo của em )
- Số bé là kẹo của ai ( kẹo của chị )
Giáo viên ghi : Số lớn
Số bé
- Ta biểu diễn số lớn bằng đoạn thẳng như thế nào? (dài )
- Ta biểu diễn số bé bằng đoạn thẳng như thế nào? (ngắn )
Ngắn hơn mấy ?(ngắn hơn 2)
Giáo viên kẻ tiếp 2 đoạn thẳng bên cạnh từ : "Số lớn" "Số bé "
- Bài toán cho biết gì ? (có tất cả 10 cái kẹo, em hơn chị 2 cái )
- Giáo viên hướng dẫn học sinh ghi 10 và 2 lên sơ đồ ;
Số lớn :
Số bé :
- Nhìn trên sơ đồ tóm tắt em và chị được mấy cái kẹo ?( 10 )
- Vậy số kẹo của hai chị em được gọi là gì ? (tổng)
Tức là: kẹo chị + kẹo em = 10
Em nhiều hơn chị mấy kẹo ? (2 )
- Vậy số kẹo của em nhiều hơn chị được gọi là gì ? (hiệu )
- Giáo viên chỉ vào 2 :
"2" gọi là hiệu : Tức là số kẹo của em - số kẹo của chị = 2
2
?
?
2
10
- Gi áo viên biểu diễn tiếp tiếp câu hỏi trên sơ đồ và nêu :
Ta có bài toán :"Tìm hai số biết tổng của chúng là 10 và hiệu của chúng là 2 "
Học sinh tóm tắt và nhắc lại bài toán .
+ Giáo viên hướng dẫn giải trên sơ đồ :

-Giáo viên chỉ "đoạn 2" rồi hỏi : Nếu bớt 2 ở số lớn hơn thì hai số như thế nào với
nhau ? (bằng nhau )
- Vậy 2 lần số bé là bao nhiêu ?
(10 - 2 = 8 )
Tổng - hiệu
- Tìm số bé bằng cách nào ?

8 : 2 = 4
Tổng trừ hiệu
- Tìm số lớn bằng cách nào ?
( 4 + 2 = 6 )
Số bé + Hiệu
Giáo viên kết hợp hỏi học sinh để ghi vào các thành phần trong phép tính như trên
và ghi lời giải để có bài giải .
- Hướng dẫn học sinh rút ra quy tắc giải :
? Cách giải bài toán gồm mấy bước ? ( 3 bước )
Bước 1 : Tìm ý gì ? Cách làm như thế nào ?
( Tìm hai lần số bé bằng cách lấy tổng trừ hiệu )
Bước 2 : Tìm gì ? Cách làm như thế nào ?
( Tìm số bé bằng cách : chia đôi kết quả trên )
Bước 3 : Tìm gì ? Cách làm như thế nào ?
( Tìm số lớn bằng cách lấy số bé cộng với hiệu )
Vậy muốn tìm bé ta làm thế nào ? ( lấy tổng - hiệu : 2 )
Giáo viên ghi : Số bé = ( tổng - hiệu ) : 2
Tìm tiếp số lớn ta làm thế nào ? ( lấy số bé cộng với hiệu)
Giáo viên ghi : Số lớn = số bé + hiệu
- Học sinh nhắc lại cách giải trên .
- Giáo viên làm tương tự để hướng dẫn học sinh cách giải thứ hai là tìm số lớn
trước ( nhưng nhanh hơn). Khi tổ chức cho học sinh làm việc để tìm cách giải thứ 2
thì cần lưu ý bỏ thêm 2 chấm tròn màu khác vào số kẹo của chị rồi chia đều cho hai

chị em (chị nhận phần thưởng có 2 dấu chấm tròn ) màu khác .
Sau khi hình thành xong cách giải loại toán điển hình, giáo viên cho học sinh giải
một số bài tương tự với bài mẫu. Song thay đổi số liệu, văn cảnh để rèn kỹ năng nhận
dạng loại toán và giải bài toán. Sau giải các bài phức tạp dần .
2.2 .2 Phần giải toán có nội dung hình học :
So với lớp 1, 2, 3; số tiết về hình học ở lớp 4 tăng lên khá nhiều, song về phương
pháp giảng dạy thì chủ yếu vẫn là thông qua các hoạt động thực hành hình học( đo, vẽ,
cắt, gấp, xếp… hình ) để giúp học sinh nắm được một số tính chất đơn giản của các
hình các quan hệ hình học. Vì thế cần cố gắng tổ chức các hoạt động thực hành trong
tất cả các tiết học và dành riêng một số giờ học hoàn toàn cho công tác thực hành
đúng như chương trình quy định.
Thông qua so sánh, đối chiếu các “ khái niệm”, các công thức hình học để giúp
học sinh nắm vững các kiến thức .
Ví dụ : So sánh cách tính diện tích hai hình; hình bình hành và hình chữ nhật để
thấy : Diện tích của hình bình hành thì bằng diện tích hình chữ nhật có độ dài đáy
bằng chiều dài, chiều cao bằng chiều rộng .
Cần kết hợp chặt chẽ việc giảng dạy hình học với Số học, Đo lường, Giải toán
chẳng hạn :
- Kết hợp việc dạy giải các bài toán điển hình: Tìm hai số biết tổng và hiệu của
chúng ( hoặc tổng và tỉ số của chúng ); so với các bài toán về chu vi, diện tích hình
chữ nhật như: “Tính diện tích hình chữ nhật có chu vi là 120 m biết chiều dài hơn
chiều rộng 30 m ( hoặc chiều dài gấp 3 lần chiều rộng )
- Kết hợp việc dạy về diện tích hình vuông với quan hệ giữa các đơn vị diện tích
như : vì 1 dm = 10 cm nên diện tích hình vuông có cạnh dài 1 dm là: 10 x 10 = 100
(cm
2
). Suy ra 1 dm
2
= 100 cm
2

- Khi dạy loại toán này, giáo viên giải thích cho học sinh hiểu loại toán có nội
dung hình học, ngoài việc nâng cao sự hiểu biết phát triển tư duy, còn giúp cho các em
biết đo đạc và tính chu vi, diện tích khu vườn nhà mình hoặc chu vi, diện tích… nền
nhà mình. Việc giải thích nhằm làm cho học sinh thấy được loại toán này cũng rất gần
gũi với cuộc sống hằng ngày.
Phần hình thành kiến thức mới giáo viên giúp học sinh hiểu sâu sắc :
" Tổng độ dài các cạnh của một hình là chu vi hình đó "và" Phần bề mặt của một
hình là diện tích hình đó".
Biết dùng tay chỉ đâu là chu vi, đâu là phần diện tích trên bất kỳ hình gì. Tổ chức
cho học sinh trực tiếp vẽ, đo đạc, tính toán với số liệu đo được trên hình vẽ của mình
để hướng các em hình thành nêu quy tắc công thức vào việc giải toán .
Bởi vì các quy tắc công thức toán học với các từ ngữ và ký hiệu a, b, c … đối với
học sinh dân tộc rất trừu tượng, khó hiểu. Nhiều em thuộc công thức, quy tắc nhưng
không biết áp dụng khi giải toán. Bởi vậy khi dạy lý thuyết loại toán này giáo viên
chuyển bài học thành một hệ thống các công việc và câu hỏi gợi mở để các em làm
việc theo hiệu lệnh của giáo viên .
Khi các em đã nắm vững các loại bài toán, các cách giải về toán đơn, toán điển
hình và tính chu vi, diện tích các hình thì việc giải toán phức tạp giáo viên tập cho học
sinh thói quen suy nghĩ tìm cách giải bằng cách tách bài toán đó thành nhiều bài toán
đơn hoặc các dạng toán hợp điển hình, dạng toán tính chu vi, diện tích các hình mà
các em đã biết cách giải rồi vận dụng cách giải đối với từng loại toán để lần lượt giải
quyết từng vấn đề trong bài toán để tìm ra đáp số .

KẾT LUẬN
Trong quá trình giảng dạy để nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục cho toàn
ngành đang thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục dạy học, lấy kết quả học tập của
học sinh là thước đo để đánh giá quá trình dạy học của giáo viên. Tôi đã mạnh dạn
vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học đã nêu trên phù hợp với các đối tượng
của học sinh ở địa phương nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của học sinh trong lớp
nói riêng và chất lượng giáo dục địa phương nói chung. Các mục tiêu trên đã được các

đồng nghiệp trong trường hưởng ứng rất sôi nổi, mạnh mẽ. Là một giáo viên giảng
dạy tại trường thuộc địa bàn khó khăn tôi nhận thấy rất rõ những điều này và tôi đã áp
dụng vào thực tiễn, kết quả đạt được như mong muốn trong năm học vừa qua.
3.1 Kết quả đạt được :
Những việc làm trên được tiến hành trong suốt học kỳ I. Chất lượng khảo sát chất
lượng môn toán học kỳ I đạt như sau :
Tổng
số học
sinh
20
Giỏi Khá Trung bình Yếu
Số
lượng
Tỷ lệ Số
lượng
Tỷ lệ Số
lượng
Tỷ lệ Số
lượng
Tỷ lệ
3 15 % 7 35 % 8 40 % 2 10%
Xác nhận của Ban giám hiệu.

3.2 Bài học kinh nghiệm :
Để các em học sinh dân tộc tự biết giải toán có lời văn, không phải giáo viên cứ
đặt một số câu hỏi thông thường để hướng dẫn, rồi bắt các em tự làm mà các em tự
làm được bài, hiểu sâu sắc cách giải bài toán và chất lượng môn học sẽ đem lại theo ý
muốn mà người giáo viên phải hiểu đặc điểm của các em, nắm bắt được các em thiếu
gì, cần bù đắp gì và làm thế nào các em mới hiểu được và tìm mọi cách giúp đỡ các
em .

- Muốn làm được điều đó, người giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu, tìm tòi
qua các tài liệu. Theo dõi sát việc tiếp thu bài của từng em để có kế hoạch, giúp đỡ
nhằm nâng cao chất lượng môn Toán .
- Vận động học sinh đến lớp đầy đủ, không nghỉ học, không bỏ học .
- Thường xuyên đến nhà các em hay nghỉ học và những học sinh yếu kém để tìm
hiểu hoàn cảnh gia đình và có biện pháp giúp đỡ các em .
- Phải tâm huyết với nghề, yêu học sinh như con của mình .
- Tạo không khí lớp học vui vẻ sôi nổi, nhịp nhàng, thoải mái, và hứng thú trong
các tiết học .
- Hệ thống câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu .
- Kết hợp với Ban Giám hiệu nhà trường với phụ huynh học sinh và các tổ chức
đoàn thể tạo điều kiện quan tâm giúp đỡ các em .
- Thường xuyên khuyến khích, động viên các em đúng nơi, đúng lúc, thực sự quan
tâm yêu thương các em .
- Thường xuyên phát huy tích cực trong giờ học động viên cổ vũ, khen thưởng kịp
thời cho học sinh trong học tập .
- Giáo viên phải luôn củng cố, bổ sung kiến thức cũ cho học sinh .
- Giáo viên phải có sự đầu tư vào bài giảng để lựa chọn các phương pháp và các
hình thức dạy học phù hợp .
- Giáo viên phải tổ chức giờ học sao cho mọi học sinh đều hoạt động học tập một
cách chủ động, tự lực trong mọi khâu để đạt kết qủa cao .
- Phải tổ chức hoạt động học tập ở nhà cho học sinh là một trong những biện pháp
để nâng cao chất lượng dạy học. Phối hợp với phụ huynh hướng dẫn cho học sinh
phương pháp học ở nhà. Đồng thời giáo viên phải thường xuyên kiểm tra việc học ở
nhà của học sinh.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã rút ra được trong quá trình giảng dạy
đạt kết quả như trên. Tôi rất mong sự góp ý chân thành của đồng nghiệp, của Hội
đồng khoa học, để bản thân có những kinh nghiệm phục vụ tốt cho công tác giảng
dạy trong thời gian sắp tới .
Tôi chân thành cảm ơn !

Đăktơver , ngày 15 tháng 3 năm 2014
Người viết
VÕ TRẤN PHƯƠNG

×