Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Cơ sở lý luận về bao thanh toán.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.95 KB, 39 trang )

Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BAO THANH TOÁN:
2.1.1 Lịch sử hình thành sản phẩm bao thanh tốn (BTT)
Nghiệp vụ BTT có lịch sử phát triển lâu dài, xuất phát từ hoạt động đại lý
hưởng hoa hồng khoảng 2000 năm trước dưới thời đế chế La Mã, phát triển ở Anh
vào thế kỷ 15 dưới hình thức ứng trả trước một phần cho người ủy nhiệm (nhà cung
ứng sản phẩm), và phát triển mạnh từ thế kỷ 19 thông qua các nhà đại lý thanh toán
ngành dệt may của Mỹ, ngành cơng nghiệp điện, hóa chất, sợi tổng hợp…Với lịch
sử lâu đời nên định nghĩa nghiệp vụ BTT cũng hết sức đa dạng.
Theo công ước về BTT quốc tế của UNIDROIT 1988, nghiệp vụ BTT được
định nghĩa như là một dạng tài trợ bằng việc mua bán các khoản nợ ngắn hạn trong
giao dịch thương mại giữa tổ chức tài trợ và bên cung ứng. Theo đó, tổ chức tài trợ
thực hiện tối thiểu hai trong số các chức năng sau: Tài trợ bên cung ứng (gồm cho
vay và ứng trước tiền), quản lý sổ sách liên quan đến các khoản phải thu, thu nợ các
khoản phải thu, bảo đảm rủi ro khơng thanh tốn của bên mua hàng.
Cịn hiệp hội BTT thế giới FCI thì định nghĩa BTT là một loại hình dịch vụ
tài chính trọn gói bao gồm sự kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt động, bảo hiểm rủi ro tín
dụng, theo dõi các khoản phải thu và dịch vụ thu hộ. Đó là một sự thỏa thuận giữa
người cung cấp dịch vụ BTT (factor) với người cung ứng hàng hóa dịch vụ hay cịn
gọi là người bán hàng trong quan hệ mua bán hàng hóa (seller). Theo như thỏa
thuận factor sẽ mua lại các khoản phải thu của người bán dựa trên khả năng trả nợ
của người mua trong quan hệ mua bán hàng hóa (buyer) hay cịn gọi là con nợ trong
quan hệ tín dụng (debtor).
Ngoài ra, đối với một số tổ chức cung cấp dịch vụ BTT khác thì nghiệp vụ
BTT được định nghĩa là việc mua lại các khoản phải thu, hay việc cung cấp tài trợ
tài chính ngắn hạn thơng qua việc trả các khoản phải thu ngay lập tức bằng tiền mặt
để cải thiện dòng ngân lưu của khách hàng (clients) đồng thời nhận lấy rủi ro tín
dụng. Các dịch vụ đi kèm gồm có quản lý nợ, quản lý sổ cái bán hàng, xếp hạng hạn
mức tín dụng và thu hộ.


SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-21-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

Trong một nghiệp vụ BTT thơng thường sẽ có sự xuất hiện của ít nhất ba bên: tổ
chức BTT (factor), khách hàng của tổ chức BTT (client hay seller) và con nợ của tổ
chức BTT (debtors hay buyers). Đối với các loại BTT xuất nhập khẩu thì sẽ có hai
đơn vị BTT, một đơn vị ở nước của nhà xuất khẩu và một đơn vị ở nước của nhà
nhập khẩu. Ngoài ra, khi một khách hàng ký kết hợp đồng thực hiện nghiệp vụ BTT
đối với factor, họ sẽ bán không phải là một mà một số các khoản phải thu từ nhiều
khách hàng khác nhau, cho nên trong một nghiệp vụ BTT có thể có rất nhiều con nợ
của factor.
2.1.2 Khái niệm và chức năng của nghiệp vụ bao thanh toán
2.1.2.1 Khái niệm:
Theo Hiệp hội BTT quốc tế (FCI), BTT là một dịch vụ tài chính trọn gói, kết
hợp việc tài trợ vốn lưu động, phòng ngừa rủi ro tín dụng, theo dõi cơng nợ và thu
hồi nợ. Đó là sự thỏa thuận giữa đơn vị BTT và người bán, trong đó đơn vị BTT sẽ
mua lại khoản phải thu của người bán, thường là khơng truy địi, đồng thời có trách
nhiệm đảm bảo khả năng chi trả của người mua. Nếu người mua phá sản hay mất
khả năng chi trả vì những lý do tín dụng thì đơn vị BTT sẽ thay người mua trả tiền
cho người bán. Khi người mua và người bán ở hai nước khác nhau thì dịch vụ này
được gọi là BTT quốc tế.
Theo Điều 1 Những quy định chung về hoạt động BTT quốc tế ấn bản tháng
06/2004 của FCI (General Rules for International Factoring Verion FCI June 2004),
hợp đồng BTT là một hợp đồng, theo đó nhà cung cấp sẽ chuyển nhượng các khoản
phải thu (hay một phần của các khoản phải thu) cho một đơn vị BTT, có thể vì hoặc
khơng vì mục đích tài trợ, để thực hiện ít nhất một trong các chức năng sau đây:

- Kế toán sổ sách các khoản phải thu;
- Thu nợ các khoản phải thu;
- Phòng ngừa rủi ro nợ xấu.
Theo điều 2 Chương I Công ước UNIDROIT về BTT quốc tế (UNIDROIT
Convention on International Factoring) định nghĩa: BTT là một dạng tài trợ bằng

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-22-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

việc mua bán các khoản nợ ngắn hạn trong giao dịch thương mại giữa tổ chức tài trợ
và bên cung ứng, theo đó tổ chức tài trợ thực hiện tối thiểu hai trong số các chức
năng sau: tài trợ bên cung ứng gồm cho vay và ứng trước tiền, quản lý sổ sách liên
quan đến các khoản phải thu, thu nợ của các khoản phải thu, bảo đảm rủi ro khơng
thanh tốn của bên mua hàng.
Đối với một số tổ chức cung cấp dịch vụ BTT khác thì nghiệp vụ này được
định nghĩa là việc mua lại các khoản phải thu hay việc cung cấp tài trợ tài chính
ngắn hạn thông qua việc trả các khooản phải thu ngay lập tức bằng tiền mặt để cải
thiện dòng ngân lưu của khách hàng (client) đồng thời nhận lấy rủi ro tín dụng (rủi
ro khi người mua khơng thanh tốn, người mua khơng nhận hàng…). Các dịch vụ đi
kèm gồm có: quản lý nợ, quản lý sổ cái bán hàng, xếp hạng hạn mức tín dụng và
thu hộ.
Theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành ngày 06/09/2004 của
Thống đốc NHNN, BTT là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên
bán hàng thông qua việc mua bán các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán
hàng hóa giữa bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán.
BTT là sự tổng hợp tính chất của các hoạt động tài trợ cho người bán, tài trợ

dựa trên hóa đơn, tài trợ thương mại hay chiết khấu hóa đơn.
Về cơ bản, BTT là hình thức cho vay ngắn hạn, trong đó người cho vay được
đảm bảo bằng cách nắm giữ quyền được đòi khoản phải thu của người đi vay.
Nói tóm lại, BTT được hiểu là sự chuyển nhượng nợ của người mua
hàng (con nợ) từ người bán hay cung ứng dịch vụ (chủ nợ cũ) sang đơn vị
BTT (chủ nợ mới). Đơn vị BTT đảm bảo việc thu nợ, tránh các rủi ro không
trả nợ hoặc khơng có khả năng trả nợ của người mua. Đơn vị BTT có thể trả
trước tồn bộ hay một phần các khoản nợ của người mua cùng với một
khoản hoa hồng tài trợ và phí thu nợ. Mọi rủi ro không thu được tiền hàng
đều do người tài trợ gánh chịu.

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-23-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

Ngồi ra, nghiệp vụ BTT cịn bao gồm một số dịch vụ như quản lý tài khoản
phải thu của khách hàng, cung cấp các thông tin kinh tế, tiền tệ, tín dụng và thương
mại nhằm tăng thu và giữ tốt quan hệ với khách hàng lâu dài.
2.1.2.2 Chức năng:
Nghiệp vụ BTT có 3 chức năng cơ bản là chức năng dịch vụ thanh tốn, chức năng
tài chính và chức năng bảo hiểm rủi ro tín dụng.
a/ Chức năng dịch vụ thanh toán
Tổ chức BTT sẽ đảm bảo mọi nhiệm vụ BTT cho người mua về những
khoản thanh toán chuyển nhượng, đảm nhiệm nghiệp vụ nhờ thu hoặc thông báo
cho người mua giải quyết những vướng mắc trong hoạt động BTT. Như vậy tổ chức
BTT phải thực hiện tất cà những nghiệp vụ ngân hang phục vụ cho khách hang
(người bán). Tổ chức BTT còn thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát khả năng

thanh toán của người mua, thống kê kế hoạch sản xuất và doanh thu cho người bán,
xác định thuế suất và thuế doanh thu. Qua đó chúng ta có thể coi BTT như là một
nhà tài chính, NH phục vụ đắc lực cho người bán.
b/ Chức năng tài chính
Tổ chức BTT đảm nhiệm chức năng tài chính tín dụng cung ứng cho người
mua. Cụ thể là tổ chức BTT sẽ thực hiện 2 nghiệp vụ tài chính ứng trước và chiết
khấu.
• Nghiệp vụ ứng trước: cho dù hợp đồng BTT được ký kết từ trước, nhưng

ngày có hiệu lực là ngày thanh tốn theo định kỳ thanh tốn của người mua. Do đó
muốn sử dụng vốn trước ngày này, người bán có thể vay tín dụng của tổ chức BTT.
Tổng mức tín dụng này khơng phụ thuộc vào khả năng thanh tốn của người mua,
trung bình từ 70 – 90% giá trị khoản phải thu. Đây cũng là điều khác với các loại tín
dụng ứng trước thong thường. Hình thức tín dụng này được thực hiện như tín dụng
luân chuyển và người bán trả lãi suất cho khoản tín dụng này như lãi suất ln
chuyển thơng thường và hạn mức từ 70 – 90% khoản thanh tốn. Nhưng vì đây là
hợp đồng mua bán các khoản thanh tốn, nếu xét về lý thì sau khi xuất hang ngưới
bán có quyền bán các khoản phải thu này theo giá thỏa thuận nhưng làm như vậy

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-24-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

người bán sẽ phải trả một cái giá quá đắt. Thông thường để tạo diều kiện cho người
bán đồng thời khuyến khích người bán sử dụng dịch vụ BTT, các tổ chức BTT đưa
số lượng thanh tốn cịn lại tử 10 – 30% của các khoản phải thu vào tài khoản tiền
gửi của người bán. Người bán cũng được hưởng lãi suát từ khoản tiền gửi này cho

đến khi người mua thanh toán. Khi người mua thanh toán và tổ chức BTT nhận
được khoản thanh tốn này thì khi đó tổ chức BTT sẽ thu hồi khoản tín dụng ứng
trước cộng với lệ phí BTT (bao gồm lệ phí hợp đồng, lệ phí dịch vụ, lệ phí rủi ro)
và lãi suất tín dụng ứng trước nếu có. Số cịn lại cộng với lãi suất từ các khoản tiền
gửi sẽ được trả cho người bán.
Qua đó cho thấy, BTT thể hiện ưu thế của nó hơn các khoản tín dụng khác. Nó
tạo điều kiện thuận lợi cho người bán trong vấn đề vốn kinh doanh. Phần lãi từ tài
khoản tiền gửi đã giảm bớt lãi suất vốn vay – một khoản tiền gửi thực chất là chưa
có nguồn. Đó là điều vơ lý. Nhưng khơng có nó thì khơng xảy ra hành vi mua bán
các khoản thanh toán nữa, phải chăng đây là một nghệ thuật NH. Hơn thế nữa, tài
khoản tiền gửi là cơ sở bảo đảm an toàn cho NH (tổ chức BTT) một khi sự cung
ứng không bảo đảm đủ điều kiện của hợp đồng thương mại.


Nghiệp vụ chiết khấu: Với hình thức này, người bán có thể bán tất cả các

chứng từ thanh toán và vận chuyển cho tổ chức BTT và nhận tiền ngay tức khắc.
Nhưng tỷ lệ chiết khấu khá cao (từ 10 – 30%) và phụ thuộc vào khả năng thanh toán
của người mua. Hay nói cách khác tỷ lệ này bao hàm cả lệ phí rủi ro và lãi tín dụng
kể từ ngày mua cho tới ngày định kỳ thanh toán.
Để được chiết khấu các khoản thanh toán, người bán phải thực hiện các biện
pháp cần thiết để chống lại các rủi ro có thể xảy ra và phải nộp lệ phí cho dịch cụ
này. Do đó nghiệp vụ chiết khấu khơng ưu việt như nghiệp vụ ứng trước tài chính
và khơng phải thong dụng trong hoạt động BTT. Tuy vậy nó cũng có ưu thế hơn
nghiệp vụ chiết khấu của tín dụng chứng từ, vì đây là nghiệp vụ chiết khấu khơng
bảo lưu, trong khi chiết khấu hối phiếu trong hoạt động tín dụng thư được phép truy
địi người phát hành hối phiếu.
c/ Bảo hiểm rủi ro tín dụng

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


-25-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

Với chức năng này, các tổ chức BTT đảm nhiệm những rủi ro do khả năng
khơng thanh tốn của người mua. Nhưng rủi ro này xảy ra một khi người mua
khơng có đủ khả năng thanh tốn trong một thời hạn quy định và khi đó tổ chức
BTT khơng có quyền truy đòi đối với người bán.
Khác với bảo hiểm hàng hóa khác, các nhà BTT phải gánh chịu mọi rủi ro (ví
dụ rủi ro phá sản…) mà khơng được địi hỏi người bán phải gánh chịu một phần. Do
đó chúng ta có thể coi đây là sự bảo đảm tuyệt đối. Nhưng tổ chức BTT chỉ gánh
chịu những rủi ro do người mừ a gây ra mà không gánh chịu những rủi ro về chính
trị cũng như những rủi ro chủ quan về người bán.
2.1.3 Các loại hình bao thanh toán
2.1.3.1 Theo phạm vi thực hiện
a/ Bao thanh toán nội địa: là hình thức cấp tín dụng của các ngân hàng
thương mại hay cơng ty tài chính chun nghiệp cho bên bán hàng thông qua việc
mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hoá, trong đó bên bán
hàng và bên mua hàng là người cư trú trong phạm vi một quốc gia.

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-26-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

• Quy trình thực hiện:


1. Hợp đồng bán
hàng
6. Giao

Người bán
(Khách hàng)

hàng

Người mua
(Con nợ)
10. Thanh toán

9. Thu nợ khi đến hạn

3. Thẩm định tín dụng

11Thanh toán ứngtrước

8. Thanh toán
trước

7. Chuyển nhượng hóa đơn
BTT

5. .Kí HĐ BTT

4. Trả lời tín dụng


2. Yêu cầu tín dụng

Đơn vị bao thanh toán
(1) Người bán và người mua tiến hành thương lượng trên hợp đồng mua bán
hàng hoá.
(2) Người bán đề nghị đơn vị BTT tài trợ với tài sản đảm bảo chính là khoản
phải thu trong tương lai từ hợp đồng mua bán hàng hoá.
(3) Đơn vị BTT tiến hành thẩm định khả năng thanh tốn tiền hàng của người
mua.
(4) Nếu xét thấy có thể thu được tiền hàng từ người mua theo đúng hạn hợp
đồng mua bán, đơn vị BTT sẽ thông báo đồng ý tài trợ cho người bán.
(5) Đơn vị BTT và người bán thoả thuận và ký kết hợp đồng BTT.
(6) Người bán giao hàng cho người mua theo đúng thoả thuận trong hợp đồng

mua bán hàng hoá.

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-27-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

(7) Người bán chuyển nhượng hoá đơn, chứng từ bán hàng và các chứng từ

khác liên quan đến các khoản phải thu cho đơn vị BTT.
(8) Đơn vị BTT ứng trước một phần tiền hàng cho hợp đồng BTT.
(9) Khi đến hạn thanh toán, đơn vị BTT tiền hành thu hồi nợ từ người mua.
(10)Người mua thanh toán tiền hàng cho đơn vị BTT.
(11)Sau khi đã thu hồi tiền hàng từ phía người mua, đơn vị BTT thanh tốn nốt

tiền chuyển nhượng khoản phải thu cho người bán.
b/ Bao thanh toán xuất nhập khẩu: là nghiệp vụ BTT dựa trên hợp đồng
xuất nhập khẩu hàng hoá, các khách hàng và con nợ là những doanh nghiệp ở các
nước khác nhau. Đơn vị bao thanh tán cấp tín dụng cho bên bán hàng thông qua
việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hố, trong đó bên
bán hàng và bên mua hàng vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia.
• Quy trình thực hiện:
1. HĐ bán
hàng

Nhà XK
(Người bán)

Nhà NK
(Ngườimu
a)

7. Giao
hàng

11Thanh toán

8.Chuyển nhượng

10Thu nợ khi đến hạn

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

4Thẩm định HĐ


13.Thanh toán ứng trước

9.Thanh toán
trước
8.Chuyển nhượng HĐ BTT

6.Kí HĐ BTT

5.Trả lời tín dụng

2.Yêu cấu tín dụng

Đơn vị BTT XK

3.Yêu cầu tín
dụng
5.Trả lời tín
dụng

Đơn vị BTT NK

12.Thanh toán, báo cáo chuyển
tiền

-28-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

(1)


Người bán và người mua tiến hành thương lượng trên hợp đồng mua bán
hàng hoá.

(2)

Người bán đề nghị đơn vị bao thanh toán xuất khẩu tài trợ với tài sản đảm
bảo chính là khoản phải thu trong tương lai từ hợp đồng mua bán hàng
hoá.

(3)

Đơn vị BTT xuất khẩu đề nghị đơn vị BTT nhập khẩu cùng thực hiện hợp
đồng BTT.

(4)

Đơn vị BTT nhập khẩu thực hiện phân tích các khoản phải thu, tình hình
hoạt động và khả năng tài chính của bên mua hàng.

(5)

Đơn vị BTT nhập khẩu đồng ý tham gia giao dịch BTT với đơn vị BTT
xuất khẩu. Đơn vị BTT chấp thuận tài trợ cho người bán.

(6)

Đơn vị BTT xuất khẩu và người bán thoả thuận và ký hợp đồng BTT.

(7)


Người bán giao hàng cho người mua theo đúng thoả thuận trong hợp đồng
mua bán hàng hoá.

(8)

Đơn vị xuất khẩu chuyển nhượng hoá đơn cho đơn vị BTT xuất khẩu và
đơn vị BTT xuất khẩu chuyển nhượng hoá đơn cho đơn vị BTT nhập
khẩu.

(9)

Đơn vị BTT xuất khẩu chuyển tiền ứng trước cho người bán theo thoả
thuận trong hợp đồng BTT.

(10) Khi đến hạn thanh toán, đơn vị BTT nhập khẩu tiến hành thu hồi nợ từ
người mua.
(11) Người mua thanh toán tiền hàng cho đơn vị BTT nhập khẩu.
(12) Đơn vị BTT nhập khẩu trích từ phí và lãi (nếu có) rồi chuyển số tiền cón
lại cho đơn vị BTT xuất khẩu.
(13) Đơn vị BTT xuất khẩu trích trừ phí rồi chuyển số tiền cịn lại cho người
bán.

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-29-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank


2.1.3.2 Theo ý nghĩa bảo hiểm rủi ro:
a/ Bao thanh tốn truy địi: là hình thức BTT, trong đó đơn vị BTT có quyền
truy địi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng khi bên mua hàng không có khả
năng hồn thành nghĩa vụ thanh tốn khoản phải thu.
Vì vậy, trong BTT truy địi, tổn thất chỉ thực sự xảy ra trong trường hợp khoản
phải thu không được thanh tốn và người bán khơng thể bù đắp khoản thiếu hụt.
b/ Bao thanh tốn miễn truy địi: là hình thức BTT, trong đó đơn vị BTT chịu
tồn bộ rủi ro khi bên mua hàng khơng có khả năng hồn thành nghĩa vụ thanh toán
khoản phải thu.
Đơn vị BTT chỉ có quyền địi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng trong
trường hợp bên mua từ chối thanh tốn khoản phải thu do bên bán giao hàng khơng
đúng hợp đồng hoặc vì lý do khác khơng liên quan đến khả năng thanh toán của bên
mua hàng.
2.1.3.3 Theo thời hạn:
a/ Bao thanh toán ứng trước (BTT chiết khấu): là loại hình BTT trong đó
đơn vị BTT chiết khấu các khoản phải thu trước ngày đáo hạn và ứng trước tiền cho
đơn vị bán hàng (có thể đến 80% trị giá hoá đơn).
b/ Bao thanh toán khi đến hạn: là loại BTT theo đó đơn vị BTT sẽ trả cho các
khách hàng của mình (người bán hàng) số tiền bằng giá mua của các khoản bao
thanh toán khi đáo hạn.
2.1.3.4 Theo phương thức bao thanh toán:
a/ Bao thanh toán từng lần: đơn vị BTT và ben bán hàng thực hiện các thủ
tục cần thiết và ký hợp đồng BTT đối với các khoản phải thu của bên bán hàng.
b/ Bao thanh toán theo hạn mức: đơn vị BTT và bên bán hàng thoả thuận và
xác định một hạn mức BTT duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
c/ Đồng bao thanh toán: hai hay nhiều đơn vị BTT cùng thực hiện hoạt động
BTT cho một hợp đồng mua bán hàng, trong đó một đơn vị BTT làm đầu mối thực
hiện việc tổ chức đồng BTT.
2.1.4 Lợi ích khi sử dụng dịch vụ bao thanh toán


SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-30-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

2.1.4.1 Đối với người bán:
Thứ nhất, cải thiện dòng lưu chuyển tiền tệ nhờ thu được tiền hàng nhanh hơn.
Lượng tiền mặt sẵn có tại doanh nghiệp tăng lên, góp phần thúc đẩy hoạt động sản
xuất kinh doanh phát triển.
BTT là một q trình chuyển hóa các khoản phải thu thành tiền mặt. Đối với
bất kỳ một người bán nào, tiền mặt là quyền lực và sức mạnh. Khơng có tiền mặt,
người bán không thể tồn trữ nhiều hàng hơn, cũng khơng có tiền để trả lương cho
cơng nhân viên. BTT khơng phân biệt khách hàng là ai, đó có thể là một công ty in
ấn, một cửa hàng bán cơng cụ máy móc, một nhà máy dệt may, một doanh nghiệp
kinh doanh trong lĩnh vực thương mại dịch vụ hay bất cứ một chủ thể nào của nền
kinh tế. Mỗi một đơn vị BTT, với kinh nghiệm dày dạn trong rất nhiều lĩnh vực, sẽ
là một cộng tác đắc lực hỗ trợ cho công việc làm ăn của khách hàng ngày càng
thuận lợi và phát triển hơn.
Người bán có thể n tâm vì các đơn vị BTT hồn tồn có đủ năng lực chun
mơn, hệ thống mạng lưới rộng khắp cũng như là sự hiểu biết thông thái về từng lĩnh
vực chun mơn để có thể thực hiện tốt cơng việc của mình ở một số tổ chức BTT
chun nghiệp, người bán thậm chí có thể nhận được tiền ngay trong ngày đề nghị
BTT. Nói một cách ngắn gọn, các tổ chức BTT giúp người bán lấp được lỗ hỗng
thiếu hụt tiền mặt trong khoảng thời gian từ khi giao hàng đến khi được người mua
thanh toán.
Thứ hai, điều kiện cấp tín dụng thương mại dễ dàng, hấp dẫn làm mãi lực tăng
mạnh, từ đó nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào càng sẵn sàng hỗ trợ nhiều hơn.
Là một đối tác tài chính, các tổ chức BTT sẽ đem lại cho người bán nguồn lực

tài chính để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tồn trữ thêm nhiều hàng tồn
kho, cung ứng nhiều đơn hàng hay chỉ đơn giản là tìm kiếm các cơ hội làm ăn mới.

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-31-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

Các tổ chức BTT ln khẳng định mình sẽ ln sát cánh với khách hàng, thấu hiểu
mọi nhu cầu của họ, và thiết lập một chương trình hỗ trợ tài chính để giúp đỡ họ.
Rất nhiều chủ thể kinh tế rơi vào tình trạng càng phát triển kinh doanh lại càng
thiếu tiền. Khi đó, BTT sẽ là phương tiện rất hiệu quả giúp họ vượt qua khó khăn.
Người mua nào cũng mong muốn mua hàng từ một người bán đưa ra giá thấp nhất
mà lại có nguồn hàng dồi dào nhất. Nhưng chính điều đó lại đẩy người bán vào tình
thế khó xử, càng phát triển lại càng phải bán chịu nhiều hơn. Thật không may là
phần lớn người bán không thể nào xoay xở được với tất cả các khoản bán chịu này.
Dù việc bn bán có phát đạt đến thế nào thì tới một lúc người bán cũng nhận thấy
rằng mình đang rơi vào một tình thế rất nguy hiểm.
Các tổ chức BTT sẽ giảm thiểu rủi ro này bằng cách chuyển các hóa đơn chưa
thu được tiền thành tiền mặt, nhờ đó mà người bán có thể tiếp tục cấp tín dụng
thương mại cho người mua mà không cần phải lo rủi ro thanh khoản nữa. Hệ quả
trực tiếp của việc này là người bán nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình
nhờ sẵn sàng chấp nhận khoảng thời gian bán chịu hấp dẫn người mua hơn.
Các tổ chức BTT cam kết tận dụng sự thông thạo trong lĩnh vực tín dụng, thu
hồi nợ, cung ứng nguồn tiền mặt hay tài trợ giúp cho người bán nâng cao được hiệu
quả hoạt động, vừa tăng doanh số vừa giảm được mất mát do không thu hồi được
nợ, đồng thời cải thiện rõ rệt dòng lưu chuyển tiền tệ. Nhờ mọi rắc rối kể trên đã
được chuyển sang cho tổ chức BTT nên người bán có thể tồn tâm toàn ý tập trung

vào việc sản xuất hay cung ứng hàng hóa.
Nói tóm lại, người bán càng thêm có nhiều cơ hội làm ăn nhờ:
- Sẵn sàng bán chịu cho người mua mà khơng sợ ảnh hưởng đến dịng lưu chuyển
tiền tệ;
- Tăng doanh số;
- Tăng tồn trữ hàng tồn kho;
- Cải thiện hiệu quả hoạt động nội bộ;
- Tận dụng thế mạnh của chiết khấu thương mại;
- Nâng hạng tín nhiệm;

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-32-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

- Tìm kiếm nhiều cơ hội mới.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt động nhờ chun mơn hóa sản xuất.
Bên cạnh việc sản xuất kinh doanh mặt hàng chính yếu, người bán còn phải
mất thời gian quản lý các khoản phải thu từ người mua. Nếu người bán sử dụng
BTT, công việc này sẽ được chuyển cho đơn vị BTT. Người bán khơng cịn phải tốn
chi phí để duy trì và điều hành một bộ phận chuyên trách việc xem xét khách hàng
có đủ điều kiện mua chịu hay khơng, cũng như phải kiểm tra và thu hồi các khoản
nợ này nữa. Với kinh nghiệm, nguồn lực vật chất và nguồn nhân lực được đào tạo
bài bản của mình, các tổ chức BTT sẽ giải quyết nhanh chóng, chuyên nghiệp và
hiệu quả mọi vấn đề liên quan đến các hóa đơn và việc thu hồi nợ. Châm ngôn của
các tổ chức BTT lúc này là “Hãy để chúng tôi làm những việc mà chúng tơi làm tốt
nhất, cịn bạn, hãy làm những việc mà bạn làm tốt nhất ! Chúng ta hãy cùng là đối
tác tốt của nhau.”

2.1.4.2 Đối với người mua:
Cho tới thời điểm hiện tại, L/C vẫn là biện pháp kiểm soát thương mại quốc tế
được chấp nhận phổ biến nhất trên toàn cầu, bảo đảm rằng nhà xuất khẩu sẽ cung
cấp hàng đúng như quy định trong hợp đồng hay đơn đặt hàng và nhà nhập khẩu sẽ
thực hiện nghĩa vụ thanh tốn của mình. Nhưng nếu hàng đến chậm hay ghé vào nơi
không định trước, không theo lệ thường thì L/C sẽ gây khó khăn rất lớn cho nhà
nhập khẩu. Nói tóm lại, sử dụng BTT quốc tế, nhà nhập khẩu có những lợi ích sau
đây:
- Được mua chịu hàng dễ dàng;
- Không cần phải mở L/C;
- Tăng sức mua hàng mà vẫn không vượt quá hạn mức tín dụng cho phép;
- Có thể nhanh chóng đặt hàng mà khơng bị trì hỗn, khơng tốn phí mở L/C, hay phí
thương lượng...

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-33-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

2.1.4.3 Đối với đơn vị bao thanh toán:
Thực hiện nghiệp vụ BTT, các đơn vị BTT cũng có được một thuận lợi là được
hưởng lợi ích kinh tế theo quy mô:
- Các đơn vị BTT cung cấp dịch vụ này cùng lúc cho nhiều khách hàng nên xét
về quy mô sẽ giảm được chi phí cố định liên quan đến các khách hàng đó;
- Đơn vị BTT lớn nhất và nhiều kinh nghiệm nhất sẽ đứng ra làm đơn vị cung
cấp thơng tin về tín dụng quy mơ nhất, bổ sung vào các dịch vụ tương tự hiện có
của các trung tâm dữ liệu tín dụng thương mại tư nhân và quốc doanh. Đơn vị này
cũng sẽ hưởng được lợi ích kinh tế theo quy mô nhờ trao đổi thông tin với các trung

tâm trên;
- Trong trường hợp BTT chỉ là một nghiệp vụ của ngân hàng thì ngân hàng
cũng đã đa dạng hóa được danh mục dịch vụ cung ứng, đem lại tiện ích mới cho
khách hàng và nguồn thu không nhỏ cho ngân hàng.
2.1.4.4 Đối với quốc gia sử dụng dịch vụ bao thanh toán
- Tạo sức cạnh tranh và thu hút giao thương quốc tế trong điều kiện quốc gia

đó cịn hạn chế về luật và tài chính, tạo tâm lý yên tâm cho nhà sản xuất, đẩy mạnh
hoạt động sản xuất đặc biệt là xuất nhập khẩu của quốc gia.
- Đối với hệ thống tài chính tiền tệ, BTT là điều kiện tốt nhất để điều tiết sự
lưu thơng tiền tệ, ổn định tình hình tài chính thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Từ đó
kiểm soát được các khoản phải thu trong tương lai và hạn chế được các khoản nợ
xấu, nâng cao uy tín cho quốc gia.
- Ngồi ra BTT cịn mang lại một khoản phải thu nhất định chonền kinh tế
quốc gia.
- Chính phủ các nước có thể tham gia tài trợ thơng qua các liên minh BTT
quốc tế nhằm tăng cường các quan hệ giao thương quốc tế và củng cố vị thế trong
hoạt động ngoại thương.
2.2 SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN BAO THANH TOÁN Ở VIỆT NAM

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-34-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

2.2.1 Sự phát triển của bao thanh toán trên thế giới
Trên thế giới đến nay đã có hơn 1.147 đơn vị BTT và hoạt động đạt doanh số
hơn 1030 tỷ EUR BTT trong nước, 104 tỷ EUR BTT xuất – nhập khẩu, và đã có

khoảng 60 quốc gia tham gia vào hiệp hội BTT thế giới với tổng số thành viên là
196 thành viên. Theo số liệu vừa được cập nhật của FCI (Factors Chain
International), năm 2006 doanh số BTT trên thế giới đạt 1.134.288 triệu Euro.
Bảng 1: Doanh số BTT trên thế giới
Đơn vị tính: Triệu Euro
Năm

Nội địa

Quốc tế

Tổng số

2001

41.023

644.659

685.682

2002

42.916

681.281

724.197

2003


47.735

712.657

760.392

2004

68.265

791.950

860.215

2005

79.840

857.098

936.938

2006

1.030.598

103.690

1.134.288


Nguồn: www.factors-chain.com

Biểu đồ 6: Biểu đồ doanh số BTT thế giới giai đoạn 2001 - 2006

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-35-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

Doanh số BTT thế giới
1200000
1000000
800000

Nội địa

600000

Quốc tế
Tổng số

400000
200000
0
2001

2002


2003

2004

2005

2006

Các thị trường BTT lớn nhất gồm có thị trường Anh (doanh số 249 tỷ EUR), thứ
hai là thị trường Ý (120 tỷ EUR), thị trường Pháp xếp thứ 3 (100 tỷ EUR), tiếp theo
là Mỹ (96 tỷ EUR) và Nhật (75 tỷ EUR).
Bảng 2: 5 thị trường đứng đầu trong lĩnh vực BTT
Đơn vị tính: Triệu Euro
Năm
Thị trường

2002

2003

2004

2005

2006

Anh

156,706


160,770

184,520

237,205

248,769

Ý

134,804

132,510

121,000

111,175

120,435

Pháp

67,398

73,200

81,600

89,020


100,009

Mỹ

91,143

80,696

81,860

94,160

96,000

Nhật

50,380

60,550

72,535

77,220

74,530

Nguồn: www.factors-chain.com

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


-36-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

Bảng 3: Doanh thu về BTT của các châu lục trên thế giới
Đơn vị tính: Triệu Euro
Năm
Thị trường

2002

2003

2004

Châu Âu

522,851

546,935

Châu Á

69,850

Châu Mỹ

2005


2006

612,504

715,486

806,983

89,096

111,614

135,814

149,995

115,301

104,542

110,094

135,630

140,944

Châu Úc

9,992


13,979

18,417

23,380

27,853

Châu Phi

6,203

5,840

7,586

6,237

8,513

724,197

760,392

860,215

1,016,547

1,134,288


Tổng
cộngthếgiới

Nguồn: www.factors-chain.com
Từ những số liệu trên có thể thấy khu vực châu Âu là thị trường hoạt động
mạnh nhất về lĩnh vực này với doanh số gấp 5,38 lần khu vực đứng thứ 2 (châu Á)
và có 3 đại diện là Anh, Ý, Pháp trong số 5 thị trường có doanh số cao nhất thế giới,
2 vị trí còn lại giành cho châu Á và châu Mỹ. Điều này thực ra cũng dễ hiểu bởi vì
mặc dù nguồn gốc sử dụng nghiệp vụ BTT theo một số tài liệu là bắt đầu từ châu
Mỹ, cụ thể là ở Mỹ, nhưng những thương nhân đầu tiên nghĩ ra và sử dụng nghiệp
vụ này chính là các thương nhân châu Âu trong q trình họ thực hiện các giao dịch
bn bán từ châu Âu sang Mỹ sau khi C. Columbus tìm ra vùng lục địa mới này. Vì
một số khó khăn nhất định khi buôn bán như khoảng cách địa lý quá xa, phương
tiện di chuyển bằng đường biển lại mất nhiều thời gian nên một số thương nhân
châu Âu đã đứng ra nhận nhiệm vụ của một người môi giới (mà sau này được gọi là
Factors) để đi thu giúp các khoản nợ cho các thương nhân khác và được hưởng hoa
hồng. Khi những khó khăn nhất định trong việc giao thương được giải quyết thì họ

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-37-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

phát triển nghiệp vụ này theo một hướng mới và gần với hình thức hiện đại của
nghiệp vụ BTT ngày nay hơn.
Cũng theo bảng số liệu trên có thể thấy mặc dù trong từ năm 2003 trở về
trước, doanh số BTT của châu Á chỉ đứng vị trí thứ 3, xếp sau châu Âu và châu Mỹ,

nhưng với nhu cầu mạnh mẽ cộng với các tiềm lực cần thiết đã làm cho châu lục
này phát triển khá mạnh về dịch vụ và doanh số tăng cao, vươn lên đứng hàng thứ 2
trong số 5 châu lục.
Không chỉ ở các nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Ý, Nhật mới phát triển
loại hình dịch vụ BTT mà ở các nước đang phát triển như Đài Loan, Braxin, Thổ
Nhĩ Kỳ dịch vụ này cũng được sử dụng rất thành công và mang lại những kết quả
đáng kể cho nền kinh tế đất nước. Doanh số BTT ở các nước này được thống kê
như sau:
Bảng 4: Doanh số BTT ở một số nước đang phát triển
Đơn vị tính: Triệu Euro
Năm
Thị trường

2002

2003

2004

2005

2006

Đài Loan

7.919

16.000

23.000


36,000

40,000

Braxin

11.030

12.040

15.500

20,050

20,054

Turkey

4.263

5.330

7.950

11,830

14,925

China


2,077

2,640

4,315

5,830

14,300

Việt Nam

0

0

0

2

16

Nguồn: www.factors-chain.com
2.2.2 Sự cần thiết phát triển BTT ở Việt Nam
Giai đoạn 2001 – 2005 tình hình kinh tế thế giới và khu vực cơ bản là thuận
lợi, kinh tế phục hồi sau khủng hoảng tiền tệ Đông Nam Á. Xu thế hội nhập và phát

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


-38-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

triển mở rộng đầu tư giữa các quốc gia tạo cơ hội tốt cho các nền kinh tế trong đó
có Việt Nam.
Trong những năm qua, tình hình chính trị xã hội đất nước ổn định, nền kinh tế
đạt tốc độ tăng trưởng cao bình quân giai đoạn 2001 – 2005 đạt 7,51%, trong năm
2006 GDP đạt mức tăng trưởng 8,17% (nguồn: Tổng Cục thống kê). Tình hình kinh
tế xã hội đầu năm 2007 tiếp tục ổn định, tốc độ tăng trưởng khá cao.
Tài chính ngân hàng là một trong những lĩnh vực xếp ở vị trí đầu trong nhóm
dịch vụ có tính đột phá nhằm phát triển kinh tế. Các ngân hàng thương mại tiếp tục
phát triển và ngày càng khẳng định vai trò, vị thế trên thị trường tài chính tiền tệ.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam thực hiện mạnh việc cơ cấu lại để nâng cao
năng lực cạnh tranh chuẩn bị các điều kiện cho hội nhập theo tiến trình Hiệp định
thương mại Việt Mỹ và Việt Nam gia nhập WTO.
Phát triển các dịch vụ ngân hàng thành lĩnh vực mũi nhọn trong hoạt động
kinh doanh ngân hàng luôn là mục tiêu hàng đầu của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Phát triển dịch vụ ngân hàng phải vừa đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng của kinh
tế, đồng thời đảm bảo ngân hàng hoạt động hiệu quả và an toàn, nâng cao sức
mạnh cạnh tranh để hội nhập.
Theo hiệp định thương mại Việt Mỹ, các rào cản trung gian giữa các định chế
tài chính của Mỹ và Việt Nam đang dần được dỡ bỏ. Đến năm 2010 có những điều
mà các tổ chức tín dụng phải chú ý: không hạn chế số lượng nhà cung cấp dịch vụ
ngân hàng; không hạn chế tổng giao dịch các giao dịch giá trị về dịch vụ ngân hàng;
không hạn chế việc tham gia góp vốn của bên nước ngồi dưới hình thức tỷ lệ phần
trăm tối đa số cổ phiếu nước ngồi được nắm giữ. Do chúng ta đã chính thức gia
nhập vào WTO nên có khả năng việc thực hiện các điều khoản “khơng” này cịn
được đẩy lên sớm hơn có thể là 2008-2009.

Các ngân hàng Việt Nam hiện nay, ngoài việc hoàn thiện các dịch vụ truyền
thống như: huy động vốn, cho vay, kinh doanh ngoại tệ…còn phải ứng dụng triển
khai các loại hình dịch vụ, các sản phẩm mới. BTT là một trong những nghiệp vụ
mới mà các ngân hàng cần chú ý phát triển.

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-39-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

Do đó sự cần thiết áp dụng BTT tại Việt Nam xuất phát từ những lý do sau:
Thứ nhất: BTT phát triển rất lâu trên thế giới và đã được áp dụng rộng rãi ở
khắp các châu lục thông qua các cơng ty tài chính và đặc biệt là hệ thống ngân hàng.
Là một cơng cụ tài chính thể hiện những ưu điểm nổi bật, đặc biệt trong nền kinh tế
hội nhập đặt ra những yêu cầu về gia tăng vốn lưu động, các dịch vụ nhờ thu và
quản lý rủi ro. Dịch vụ này không chỉ được áp dụng ở các quốc gia có nền kinh tế
phát triển mà cả những quốc gia đang phát triển cũng sử dụng loại hình này. Ở khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương như các nước: Singapore, Đài Loan, Trung Quốc…
Dịch vụ này khơng chỉ mang lại lợi ích cho các cơng ty lớn mà còn cả các
doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu kinh doanh dựa trên ghi sổ, những doanh nghiệp
muốn tạo điều kiện thuận lợi để phát triển mạng lưới cung cấp hàng hố của mình.
Những lợi ích này rất thích hợp cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ hai: Nền kinh tế Việt Nam đang trên đường hội nhập và phát triển, các
doanh nghiệp tại Việt Nam còn nhiều hạn chế về tiềm lực vốn, nhân lực, thông tin
thị trường, trình độ quản lý rủi ro… Theo Bộ kế hoạch và đầu tư, hiện nay số doanh
nghiệp vừa và nhỏ chiếm hơn 90% trong tổng số 200.000 doanh nghiệp được thành
lập trên tồn quốc. Mặc dù quy mơ khơng lớn, nhưng các doanh nghiệp này đã huy
động được gần 30 tỷ USD, sử dụng gần 3 triệu lao động, tạo 49% việc làm phi nông

nghiệp ở nông thôn và sử dụng 26% lao động cả nước, đóng góp hơn 40% GDP và
29% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tuy vậy, khó khăn lớn nhất hiện nay
của DNNVV là đói vốn, thiếu thơng tin, khó tiếp cận vốn ngân hàng…, đặc biệt là
các ngân hàng quốc doanh. Với những đặc điểm về tình hình tài chính doanh nghiệp
yếu, hệ thống kế tốn khơng đầy đủ và thiếu minh bạch, tâm lý lo sợ thủ tục rườm
rà kó khăn, khơng có tài sản đảm bảo… đã cản trở rất nhiều cho các doanh nghiệp
này tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng. BTT sẽ giúp cho cả phía ngân hàng và
doanh nghiệp giải quyết được những vướng mắc, khó khăn mà hình thức cho vay
truyền thống khơng thể thực hiện được. Khi sử dụng dịch cụ này nguồn vốn của
doanh nghiệp sẽ được cải thiện và ngân hàng sẽ đa dạng hố được sản phẩm của
mình.

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-40-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

Thứ ba: Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, việc thiếu thông tin về
thị trường và bên mua, đặc biệt là khả năng thu hồi nợ nhanh là những trở ngại rất
lớn khi phải quyết định bán hàng theo điều kiện trả chậm cho khách hàng nước
ngoài. Đồng thời hiện nay, trước áp lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế, bên mua
hàng ngày càng đòi hỏi các phương thức thanh toán thuận lợi hơn so với phương
thức thanh toán truyền thống (L/C, nhờ thu). Do vậy BTT trở thành một công cụ rất
hiệu quả giúp doanh nghiệp xuất khẩu có thể áp dụng phương thức bán hàng trả
chậm mà vẫn an toàn. Ngoài ra, vốn lưu động hạn chế cũng là một khó khăn lớn đối
với các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước, đặc biệt khi họ bán hàng trả chậm. Vì
vậy khi sử dụng dịch vụ BTT, các doanh nghiệp sẽ được ứng trước một số tiền của
khoản phải thu để tiếp tục quay vòng vốn lưu động và kinh doanh hiệu quả hơn. Số

còn lại sẽ được thanh tốn sau khi các ngân hàng hồn tất khoản thu với bên mua
hàng. Tại các ngân hàng đang thực hiện nghiệp vụ BTT, mức ứng trước có thể lên
tới 80% nếu các hợp đồng mua bán được đánh giá cao.
Thứ tư: Khi gia nhập WTO, các ngân hàng nước ngồi sẽ hoạt động bình đẳng
như các ngân hàng trong nước, hàng loạt các sản phẩm, dịch vụ, công nghệ tiên
tiến…sẽ vào Việt Nam. Với thực trạng sản phẩm của các ngân hàng trong nước cịn
khiêm tốn, ít ỏi để có thể đứng vững và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày
càng gay gắt, các ngân hàng phải khơng ngừng đa dạng hố sản phẩm để đáp ứng
nhu cầu tài chính cho khách hàng. Do đó, việc ứng dụng triển khai sản phẩm BTT
tại Việt Nam là điều rất cần thiết.
2.2.3 Các quy định về bao thanh toán tại Việt Nam
2.2.3.1 Các văn bản pháp lý hiện hành:
Theo định nghĩa của Ngân hàng nhà nước, BTT là hình thức cấp tín dụng nên
sản phẩm này chịu sự chi phối của luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội ban hành
và các quy định, quy chế của Ngân hàng nhà nước.
Một số văn bản pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp hướng dẫn thực hiện và chế
tài đến nghiệp vụ BTT hiện nay:

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-41-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

1. Luật các tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12/12/1997; Luật sửa đổi
bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng số 20/2004/QH11 NGÀY
15/06/2004.
2. Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Ngân hàng nhà


nước về việc ban hành quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng; Quyết định
sửa đổi bổ sung quy chế cho vay số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005.
3. Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004 của Ngân hàng nhà
nước ban hành quy chế hoạt động BTT của các tổ chức tín dụng.
4. Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005 của Ngân hàng nhà
nước ban hành Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ
chức tín dụng.
5. Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Ngân hàng nhà
nước về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phịng để xử lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.
6. Cơng văn số 676/NHNN-CSTT ngày 28/06/2005 của Ngân hàng nhà nước
về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, chuyển nợ quá hạn đối với hoạt động BTT của
tổ chức tín dụng….
Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004của Ngân hàng nhà
nước ban hành quy chế hoạt động BTT của các tổ chức tín dụng là cơ sở pháp lý rõ
ràng và riêng biệt cho hoạt động BTT hiện nay. Tất cả các đơn vị BTT trong và
ngoài nước đều phải dựa vào quy định này để thực hiện.
Trong quy chế hoạt động BTT quy định các khoản phải thu không được BTT
như sau:
-

Các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá bị pháp luật
cấm;

-

Các khoản phải thu phát sinh từ các giao dịch, thoả thuận bất hợp pháp;

-


Các khoản phải thu phát sinh từ các giao dịch thoả thuận đang có tranh chấp;

-

Các khoản phải thu phát sinh từ các hợp đồng mua bán hàng có thời hạn
thanh tốn cịn lại hơn 180 ngày;

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-42-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

-

Các khoản phải thu đã được gán nợ hoặc cầm cố, thế chấp;

-

Các khoản phải thu đã quá hạn thanh toán theo hơp đồng mua bán hàng.
Quy chế BTT 1096 được xem là cơ sở cho hoạt động BTT của các tổ chức tín

dụng, tuy nhiên trong quy chế này cũng cón nhiều bất cập nên khi áp dụng trong
thực tế cũng đã gây nhiều khó khăn cho các ngân hàng.
2.2.3.2 Các điều kiện để được hoạt động bao thanh toán:
a/ Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện hoạt động BTT trong nước khi các
tổ chức tín dụng có đủ các điều kiện sau:
-


Có nhu cầu hoạt động BTT;

-

Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay tại thời điểm cuối tháng của 3
tháng gần nhất dưới 5%; khơng vi phạm các quy định về an tồn hoạt động
ngân hàng;

-

Không thuộc đối tượng đang bị xem xét xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tài chính, ngân hàng nhưng đã khắc phục được hành vi vi phạm.
b/ Đối với hoạt động BTT xuất - nhập khẩu
Ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1 nêu trên, tổ chức tín dụng xin hoạt

động BTT xuất - nhập khẩu phải là tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối.
2.2.3.3 Đối tượng áp dụng
Tổ chức tín dụng thực hiện nghiệp vụ BTT là các tổ chức tín dụng thành lập và
hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng bao gồm:
-

Ngân hàng thương mại nhà nước;

-

Ngân hàng thương mại cổ phần;

-

Ngân hàng liên doanh;


-

Ngân hàng 100% vốn nước ngồi;

-

Chi nhánh ngân hàng nước ngồi;

-

Cơng ty tài chính.
Khách hàng được tổ chức tín dụng BTT là các tổ chức kinh tế Việt Nam và

nước ngoài cung ứng hàng hoá và được thụ hưởng các khoản phải thu phát sinh từ

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-43-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank

việc mua bán hàng hoá theo thoả thuận giữa bên bán hàng và bên mua hàng tại hợp
đồng mua, bán hàng.
2.3 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN TẠI SACOMBANK
2.3.1 Giới thiệu về sản phẩm bao thanh toán của Sacombank
Căn cứ theo quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004 của Ngân
hàng nhà nước ban hành quy chế hoạt động BTT của các tổ chức tín dụng và nhu
cầu của các doanh nghiệp trên thị trường về dịch vụ BTT ngày càng gia tăng thì

HĐQT NHTMCP Sài Gịn Thương Tín đã ra quyết định về việc ban hành quy chế
BTT xuất khẩu (01/09/2005) và BTT nội địa (25/11/2005).
2.3.1.1 Bao thanh toán nội địa
A. Giới thiệu chung:
 Loại hình BTT nội địa:

Ngân hàng chỉ áp dụng hình thức BTT nội địa có quyền truy địi: Ngân hàng
có quyền địi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng khi bên mua hàng khơng có
khả năng hồn thành nghĩa vụ thanh tốn khoản phải thu.
 Phương thức bao thanh toán nội địa:

Ngân hàng thực hiện các phương thức BTT sau đây:
a/ BTT từng lần: Ngân hàng và bên bán hàng thực hiện các thủ tục cần thiết và
ký hợp đồng BTT đối với các khoản phải thu của bên bán hàng.
b/ BTT theo hạn mức: Ngân hàng và bên bán hàng thỏa thuận và xác định một
hạn mức BTT duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
c/ Đồng BTT: Ngân hàng và một hoặc nhiều tổ chức tín dụng khác được phép
hoạt động BTT cùng thực hiện hoạt động BTT cho một hợp đồng mua, bán hàng
trong đó Ngân hàng hoặc một trong các tổ chức tín dụng này làm đầu mối thực hiện
việc tổ chức đồng BTT.
 Các khoản phải thu khơng được bao thanh tốn nội địa
Ngân hàng khơng BTT đối với các khoản phải thu:
1. Phát sinh từ hợp đồng mua, bán hàng hóa bị pháp luật cấm.

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-44-


Chương 2: Thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Sacombank


2. Phát sinh từ các giao dịch, thỏa thuận bất hợp pháp.
3. Phát sinh từ các giao dịch, thỏa thuận đang có tranh chấp.
4. Phát sinh từ các hợp đồng bán hàng dưới hình thức ký gửi.
5. Phát sinh từ hợp đồng mua, bán hàng có thời hạn thanh tốn còn lại dài hơn 180
ngày.
6. Các khoản phải thu đã được gán nợ hoặc cầm cố, thế chấp.
7. Các khoản phải thu đã quá hạn thanh toán theo hợp đồng mua, bán hàng.
 Tài sản đảm bảo:

Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ BTT nội địa cho bên bán hàng dưới hình thức
tín chấp hoặc có tài sản đảm bảo theo quy định tại chính sách tín dụng của Ngân
hàng.
 Lãi, mức phí và hoa hồng BTT:

Tiền lãi BTT nội địa được thu một lần khi dơn vị mua hàng và/hoặc đơn vị
bán hàng thanh toán số tiền ứng trứơc cho ngân hang và được tính theo cơng thức
sau: (Số tiền ứng trước x Lãi suất (tháng) x Số ngày BTT)/30
Mức phí BTT cho từng thời hạn thanh tốn như sau: từ 0,4% đến 0,5% trên
giá trị khoản phải thu (mức phí tối thiểu là 400.000 đồng). Phí BTT thu một lần
ngay khingân hàng ứng trước tiền cho đơn vị bán hang và khơng hồn lại trong bất
kỳ trường hợp nào.
Mức hoa hồng phí là từ 0,1% đến 0,2% được tính trên giá trị của khoản phải
thu được thực hiện nghiệp vụ BTT từ Ngân hàng.
 Mức và thời hạn BTT nội địa:

Ngân hàng thực hiện BTT nội địa đối với các khoản phải thu trong thời hạn còn
lại tối đa khơng q 180 ngày (và 90 đối với mơ hình không ký hợp đồng liên kết)
với hạn mức tối đa là 2 tỷ đồng đối với một khách hàng là bên bán hàng. Thời hạn
BTT khoản phải thu được xác dịnh dựa trên thời hạn còn lại của khoản phải thu (+)

với khoảng thời gian hợp lý mà bên mua hàng sẽ hồn tất việc chuyển tiền thanh
tốn cho ngân hàng (tối đa là 30 ngày đối với mơ hình không ký hợp đồng liên kết).
B. Điều kiện đối với khách hàng:

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

-45-


×